You are on page 1of 33

NỘI DUNG ÔN TẬP ĐỊNH KÌ 1 – K47

I. PHẦN ĐỌC HIỂU


1. VẤN ĐỀ 1
Đọc đoạn trích:
Thỉnh thoảng chúng ta vẫn thường gặp người cho mình quyền được phán xét
người khác theo một định kiến có sẵn. Những người không bao giờ chấp nhận sự
khác biệt. Đó không phải là điều tồi tệ nhất. Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận
buông mình vào tấm lưới định kiến đó. Cuộc sống của chúng ta nếu bị chi phối bởi
định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến của
những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều. Sao ta không thôi sợ hãi và thử nghe theo
chính mình?
Thật ra, cuộc đời ai cũng có những lúc không biết nên làm thế nào mới phải.
Khi ấy, ba tôi dạy rằng, ta chỉ cần nhớ nguyên tắc sống cơ bản, cực kì ngắn gọn:
“Trước hết, hãy tôn trọng người khác. Rồi sau đó, nghe theo chính mình”. Hãy tôn
trọng bởi cuộc đời là muôn mặt, và mỗi người có một cách sống riêng biệt. Chẳng
có cách sống nào là cơ sở để đánh giá cách sống kia. John Mason có viết một cuốn
sách với tựa đề “Bạn sinh ra là một nguyên bản, đừng chết như một bản sao”. […]
Nó khiến tôi nhận ra rằng mỗi người đều là một nguyên bản, duy nhất, độc đáo và
đáng tôn trọng.

Thực hiện yêu cầu:


Câu 1: Theo đoạn trích, nguyên tắc sống cơ bản mà được người cha dạy tác giả là gì?
Câu 2: Anh/chị hiểu thế nào là “định kiến có sẵn”?
Câu 3: Theo anh/chị, vì sao tác giả cho rằng: “Cuộc sống của chúng ta nếu bị chi
phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến
của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều.”?
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với ý kiến “mỗi người đều là một nguyên bản, duy
nhất, độc đáo và đáng tôn trọng” hay không, vì sao?
GỢI Ý TRẢ LỜI
Câu 1:
Nguyên tắc sống cơ bản được tác giả nhắc tới: Trước hết, hãy tôn trọng người khác.
Rồi sau đó, nghe theo chính mình
Câu 2:
“Định kiến có sẵn” là những ý nghĩ riêng đã có sẵn, thường là không hay và khó có thể
thay đổi được.
Câu 3:
* Giải thích: Tác giả nhấn mạnh tác hại của định kiến đối với con người
* Lí giải:
- “Cuộc sống của chúng ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ".
Bởi vì, định kiến khiến bản thân thường dẫn đến đánh giá, nhận xét một vấn đề theo
một chiều, khó chấp nhận sự khác biệt dẫn đến khó hòa nhập, dẫn đến lối sống thu
mình, tự ti,…
-“Nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều”. Vì nếu
ta bị điều khiến bởi định kiến của người khác thì khó lòng ta được là chính mình, luôn
phải lựa theo ý muốn của người khác đặt ra.
* Liên hệ: Dù là chi phối bởi định kiến cá nhân hay định kiến của người khác đều đem
đến những cách nghĩ tiêu cực, gây ra lối sống tự ti về chính mình, ngăn cản khả năng
của bản thân, mất đi cơ hội thành công.
Câu 4:
* Giải thích: “mỗi người đều là một nguyên bản, duy nhất, độc đáo và đáng tôn
trọng”: Ý kiến khẳng định giá trị của mỗi cá nhân trong cuộc đời.
* Thể hiện quan điểm: đồng tình/không đồng tình/đồng tình một phần, lí giải.
+ Nếu đồng tình: Tôn trọng sự khác biệt của con người giúp bản thân dễ hòa hợp với
người xung quanh, có tinh thần hợp tác, học hỏi nhiều điều từ người khác. Tôn trọng
người khác cũng là tôn trọng bản thân mình, biết tự tin vào khả năng, sở trường của
bản thân để tìm thấy cơ hội…
+ Nếu không đồng tình: Sự khác biệt đôi khi tạo rào càn, trở ngại trong giao tiếp,
thống nhất ý kiến, mọi người khó có tiếng nói chung , cho nên cần thay đổi theo chuẩn
mực của cộng đồng, tập thể,…
+ Nếu vừa đồng tình vừa không đồng tình: Kết hợp cả 2 cách trả lời trên
2. VẤN ĐỀ 2
Đọc đoạn trích:
“Nhà” chỉ là một từ ngắn ngủi, nhưng hàm nghĩa của nó thì có thể rất mênh
mông. “Nhà” trong nỗi buồn của bạn là căn biệt thự vắng người, và mỗi khi có
người thì đầy tiếng cãi vã.
“Nhà” trong nỗi nhớ của cô bạn thân vừa dọn qua khu phố mới kín cổng cao tường,
chính là cái xóm nhỏ ồn ào mà thân mật, những ngôi nhà cũ có hàng rào thấp và
thưa, nơi người này có thể đứng ngoài đường mà lơ đãng ngó vô phòng khách nhà
người khác.
“Nhà” đối với những người xa quê hương chính là cái dải đất hình chữ S nhỏ nhắn
bên bờ biển Đông, và đối với những phi hành gia làm việc trên trạm không gian,
nhà có thể chính là viên ngọc xanh tuyệt đẹp ngoài vũ trụ kia đang quay rất chậm.
“Nhà” cũng có thể là tình yêu của một ai đó dành cho ta, là trái tim ấm áp của một
ai đó, nơi mà ta luôn ao ước được chạy đến náu mình. Để tìm lại sự bình yên.
“Nhà” chỉ là một từ ngắn ngủi, nó không đồng nghĩa với sự bình yên, nhưng chúng
ta vẫn luôn khao khát rằng nó gắn với sự bình yên. Và khi nào “nhà” trái nghĩa với
bình yên thì đó là khởi đầu của sự bất hạnh. Tôi tin rằng, mái nhà nào cũng từng có
lúc đồng nghĩa với niềm vui và cả sự bình yên. Nhưng bạn của tôi ơi, sự bình yên
của “nhà” không phải là điều có sẵn. “Nhà” là phần cứng, còn sự bình yên, hạnh
phúc, niềm vui là phần mềm. Gia đình là phần cứng, còn tình yêu và sự thấu hiểu là
phần mềm.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Chỉ ra hai hàm nghĩa về từ “nhà” được tác giả nhắc tới trong đoạn trích trên?
Câu 2: Nghĩa từ “nhà”, trong các trường hợp sau được hiểu như thế nào?
(1) “Nhà” trong nỗi buồn của bạn là căn biệt thự vắng người, và mỗi khi có
người thì đầy tiếng cãi vã.
(2) “Nhà” cũng có thể là tình yêu của một ai đó dành cho ta, là trái tim ấm
áp của một ai đó, nơi mà ta luôn ao ước được chạy đến náu mình. Để tìm lại sự bình
yên.
Câu 3: Anh/chị hãy nhận xét về khía cạnh không gian của từ “nhà” được tác giả sử
dụng trong đoạn trích trên?
Câu 4: Anh/chị trình bày suy nghĩ về thông tin sau: “Nhà” là phần cứng, còn sự
bình yên, hạnh phúc, niềm vui là phần mềm.
GỢI Ý TRẢ LỜI
Câu 1:
HS trả lời 2 trong số những định nghĩa sau:
“Nhà” trong nỗi buồn của bạn là căn biệt thự vắng người, và mỗi khi có người thì đầy
tiếng cãi vã.
“Nhà” trong nỗi nhớ của cô bạn thân vừa dọn qua khu phố mới kín cổng cao tường,
chính là cái xóm nhỏ ồn ào mà thân mật, những ngôi nhà cũ có hàng rào thấp và thưa,
nơi người này có thể đứng ngoài đường mà lơ đãng ngó vô phòng khách nhà người
khác.
“Nhà” đối với những người xa quê hương chính là cái dải đất hình chữ S nhỏ nhắn
bên bờ biển Đông, và đối với những phi hành gia làm việc trên trạm không gian,
nhà có thể chính là viên ngọc xanh tuyệt đẹp ngoài vũ trụ kia đang quay rất chậm.
“Nhà” cũng có thể là tình yêu của một ai đó dành cho ta, là trái tim ấm áp của một ai
đó, nơi mà ta luôn ao ước được chạy đến náu mình.
Câu 2:
Nhà (1) : Nghĩa gốc
Nhà (2): nghĩa chuyển
Câu 3:
* Chỉ ra các khía cạnh của “nhà”:
Nhà (1): căn biệt thự vắng người
Nhà (2): Xóm nhỏ thân mật
Nhà (3): Dải đất hình chữ S
Nhà (4): trái đất
Nhà (5): tình yêu thương giữa con người – con người
* Nhận xét:
- Khía cạnh không gian của từ “nhà” được thể hiện từ cụ thể, hữu hình đến khái quát,
trừu tượng, miêu tả từ xa đến gần, từ chung đến riêng (trái tim mỗi con người) kết lại
trong khái niệm thiêng liêng là tình cảm, tình yêu thương giữa con người, con người.
- Nhà không chỉ là nơi sinh hoạt của con người mà hơn hết còn là nơi chứa đựng tình
cảm thiêng liêng, tình yêu, tình thương giữa những con người thân thiết.
Câu 4:
* Giải thích: Gia đình là một tập thể, được xây dựng nên từ các thành viên có mối
quan hệ thân thiết, được xã hội công nhận, là “phần cứng” (thành phần tạo thành)
* Lí giải:
+ Tình yêu và sự thấu hiểu là những yếu tố duy trì sự bền vững của gia đình. Sức sống,
hạnh phúc của mỗi mái nhà được vun đắp từng ngày để tồn tại. Tình yêu và sự thấu
hiểu là yếu tố cần thiết nhất để các thành viên gắn bó, duy trì một gia đình
+ Ý nghĩa: Lời khuyên cần học cách yêu thương và thấu hiểu, biết lắng nghe và chia sẻ
giữa các thành viên trong gia đình để ngôi nhà mãi là nơi bình yên nhất để tìm về. Nơi
đó sẽ luôn là điểm tựa mỗi khi ta vấp ngã, nơi chắp cánh hy vọng mỗi khi ta mơ ước
chinh phục những đỉnh cao,…Khi mọi thành viên yêu thương, thấu hiểu nhau thì vượt
qua mọi khó khăn, giông tố của cuộc đời.
* Liên hệ: Mỗi người cần trân trọng những giây phút bên gia đình, cùng nhau vun đắp
để tạo nên giá trị bền vững cho gia đình.
3. VẤN ĐỀ 3
Đọc đoạn trích:
Hài hước không những khiến tư duy của bản thân trở nên nhạy bén hơn, nụ
cười luôn nở trên môi mà còn khiến người khác trở nên cởi mở hơn, thân thiện với
ta hơn. Ngoài ra, hài hước có thể giúp con người nâng cao khả năng giao tiếp, có
thêm nhiều mối quan hệ tốt đẹp.
Trong sự hài hước có thể biểu lộ sự ôn hòa, thiện ý, cởi mở, nhưng cũng có
thể bộc lộ sự đả kích sắc bén. Chỉ cần thông qua đó có thể thấy được trí tuệ cũng
như thái độ sống tích cực của mỗi người. Giúp con người có thêm sức mạnh từ
những tiếng cười thì hài hước một chút có gì là xấu?
Chỉ khi sống trong tâm lí lạc quan, tích cực thì con người mới có thể sống
tốt và hưởng thụ cuộc sống. Bởi vậy, những người hài hước thường khỏe mạnh hơn
người khác.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Chỉ ra 02 vai trò tích cực của sự hài hước được tác giả nhắc đến trong đoạn
trích?
Câu 2: Tìm 03 từ cùng trường nghĩa với từ “hài hước”?
Câu 3: Đọc bài ca dao và thực hiện nhiệm vụ bên dưới:
Bà già đi chợ Cầu Đông
Xem một quẻ bói lấy chồng
lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng,
Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn. (Ca dao)
Theo anh/chị sự hài hước trong bài ca dao trên thể hiện ý nào trong nôi dung sau
đây: “Trong sự hài hước có thể biểu lộ sự ôn hòa, thiện ý, cởi mở, nhưng cũng có
thể bộc lộ sự đả kích sắc bén”? Lí giải?
Câu 4: Từ thông tin đoạn trích, anh/chị hãy lập luận để bác bỏ quan điểm sau: Sự hài
hước sẽ làm suy giảm trí thông minh của bạn?
GỢI Ý TRẢ LỜI
Câu 1:
Vai trò tích cực của sự hài hước trong đoạn trích:
+ Không những khiến tư duy của bản thân trở nên nhạy bén hơn, nụ cười luôn
nở trên môi mà còn khiến người khác trở nên cởi mở hơn, thân thiện với ta hơn.
+ Hài hước có thể giúp con người nâng cao khả năng giao tiếp, có thêm nhiều
mối quan hệ tốt đẹp.
Câu 2:
Trường nghĩa hài hước: hóm hỉnh, khôi hài, tếu táo, dí dỏm , vui vẻ ,…
Câu 3:
Tiếng cười trong bài ca dao bộc lộ sự đả kích sắc bén , phê phán thói ham vật chất,
vinh hoa một cách mù quáng ở con người, chế giễu thói mê tín dị đoan.
Câu 4: Bác bỏ ý kiến: Sự hài hước sẽ làm suy giảm trí thông minh của bạn
* Giải thích: Tác hại của sự hài hước với trí thông minh của con người
* lập luận bác bỏ:
- Khi hài hước có thể biểu lộ sự ôn hòa, thiện ý, cởi mở, nhưng cũng có thể bộc
lộ sự đả kích sắc bén thì người muốn tạo ra sự hài hước phải có trí tuệ, óc
sáng taọ, sự thông minh, nhạy bén mới có khả năng khơi gợi tiếng cười, đem
đến sự bất ngờ với người khác từ những hành động, hiện tượng bình thường
- Hài hước tạo tiếng cười tích cực, đem đến thái độ sống lạc quan, vui vẻ, yêu
đời, tăng cường sự quan sát, liên tưởng.
- Hài hước tạo cơ hội gắn kết, tăng cường mối quan hệ con người- con người tốt
đẹp hơn, giúp con người vơi đi áp lực cuộc sống.
 Cho nên sự hài hước không làm suy giảm trí thông minh của bạn
 Tuy nhiên sự hài hước có ý nghĩa khi biết thể hiện đúng lúc, đúng vấn đề, tránh
gây đả kích tiêu cực, hài hước đi cùng sự thông minh, khéo léo.
4. NGỮ LIỆU 4
Đọc đoạn trích:
Tất cả chúng ta đều có ước mơ. Từ trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người chúng
ta tin rằng mình có khả năng đặc biệt, rằng mình có khả năng tạo ra sự đổi khác, có
thể ảnh hưởng đến người khác bằng những cách rất riêng và có thể biến thế giới
này thành một nơi tốt đẹp hơn. Mỗi người đều có tầm nhìn về cuộc sống mà mình
hằng ước ao và cảm thấy mình xứng đáng được hưởng.
Tuy nhiên đối với nhiều người, những giấc mơ ấy trở nên quá mờ mịt giữa
những nỗi thất vọng và vòng quay đều đặn đến sự tẻ nhạt của cuộc sống thường
ngày. Vì thế họ chẳng còn thiết gắng sức để biến ước mơ thành sự thật. Mơ ước đã
bị phí hoài, và theo đó lòng quyết tâm lèo lái số phận của chính mình cũng dần
nguội lạnh. Rất nhiều người đã đánh mất cảm giác “chắc chắn”, một trong những
phẩm chất của người chiến thắng.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định từ khác với các từ còn lại: cuộc sống, nguội lạnh, phẩm chất, người,
thế giới;
Câu 2: Anh/chị hãy chỉ ra phép liên kết giữa các câu trong đoạn sau:
Tất cả chúng ta đều có ước mơ (1). Từ trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người
chúng ta tin rằng mình có khả năng đặc biệt, rằng mình có khả năng tạo ra sự đổi
khác, có thể ảnh hưởng đến người khác bằng những cách rất riêng và có thể biến
thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn (2). Mỗi người đều có tầm nhìn về cuộc sống
mà mình hằng ước ao và cảm thấy mình xứng đáng được hưởng (3).
Câu 3: Quan điểm của tác giả Tất cả chúng ta đều có ước mơ? có đúng với trường
hợp của anh/chị không? Lí giải?
Câu 4: Theo anh/ chị những nguyên nhân nào tác động làm cho những giấc mơ trở
nên mờ mịt? Hãy đề xuất 01 giải pháp khắc phục?
Tuy nhiên đối với nhiều người, những giấc mơ ấy trở nên quá mờ mịt giữa
những nỗi thất vọng và vòng quay đều đặn đến sự tẻ nhạt của cuộc sống thường
ngày.

HƯỚNG DẪN
Câu 1. Từ khác với từ còn lại là từ người.
Câu 2. Phép tương đồng. Câu (1) là câu chủ đề. câu (2) (3) giải thích.
Câu 3. Quan điểm của tác giả tất cả chúng ta đều có ước mơ. Dù là ai đi chăng nữa dù
giàu hay nghèo cũng đều có những ước mơ riêng.
- Hs có thể trả lời đúng/ không.
+ Đúng. Bởi vì ước mơ đóng vai trò dẫn quan trọng trong cuộc sống, giống như ngọn
đuốc soi đường giúp chúng ta xác định được mục tiêu đích đến. Động lực phấn đấu và
ý chí vươn lên trong cuộc sống để đạt được mục tiêu mà mình mong muốn. Con người
nếu sống mà không có ước mơ cuộc sống sẽ trở nên vô vị, nhạt nhẽo.
+ Không. HS lí giải hợp lí thuyết phục.
Câu 4.
- Nguyên nhân tác động làm cho giấc mơ trở nên mờ mịt : Sự lười biếng, không kiên
trì, nỗ lực, dễ dàng bỏ cuộc, sợ thất bại. Sống có mục đích chỉ mơ ước viển vông.
- HS đề xuất 1 vài ý kiến
+ Học tập noi gương theo những người thành công đi trước.
+ Luôn lấy động lực từ gia đình, bạn bè người thân.
+ Luôn vững tin, kiên trì với mơ ước mà mình đã lựa chọn.
+ Tìm những điều thú vị ý nghĩa từ mơ ước đó.
5. NGỮ LIỆU 5:
Đọc đoạn trích:
Ngẫm lại cuộc sống của chính mình, ta sẽ nhận thấy rất nhiều điều không
hoàn hảo. Trước hết chỉ nhìn vào bản thân mình thôi ta đã cảm nhận được nhiều
thiếu sót: lời nói và hành động mâu thuẫn với nhau, vụng về trong những mối quan
hệ xã hội, chuyện học hành, công việc không suôn sẻ như ý muốn. Chưa kể đôi khi
ta còn khiến người khác tổn thương, thậm chí còn làm những việc khiến bản thân
cảm thấy tội lỗi và hối hận. Và khi nhìn vào những người thân trong gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp, ta cũng nhận thấy những điều không hoàn hảo tương tự như vậy.
Con cái không nghe lời cha mẹ, cha mẹ không hiểu cho lối sống của con cái,…
Những người anh em nhiều tuổi luôn khiến ta lo lắng từ chuyện tiền bạc đến sức
khỏe, những người bạn thân thiết gặp chuyện khó khăn không nỗ lực vượt qua mà
chỉ than vãn, phàn nàn,…
Nhưng dù đang sống giữa thế gian đầy rẫy những điều không hoàn hảo, ta
vẫn không thể ngừng yêu thương chính những điều không hoàn hảo ấy. Cuộc sống
rất đáng để tôn trọng, ta không thể phí hoài cuộc sống vào việc mỉa mai hay căm
ghét thứ gì đó chỉ vì không thể hiểu được nó hoặc nó không vừa ý ta.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Chỉ ra hai biểu hiện của “những điều không hoàn hảo” được đề cập đến
trong đoạn trích?
Câu 2: Anh/chị hãy lí giải vì sao tác giả cho rằng: dù đang sống giữa thế gian đầy
rẫy những điều không hoàn hảo, ta vẫn không thể ngừng yêu thương chính những
điều không hoàn hảo ấy.?
Câu 3: Theo anh/chị, trong những thông tin dưới đây, thiếu sót nào là quyết
định nhất? Vì sao?
- (1) lời nói và hành động mâu thuẫn với nhau,
- (2) vụng về trong những mối quan hệ xã hội, chuyện học hành,
- (3) công việc không suôn sẻ như ý muốn
Câu 4: Từ thông tin sau: Cuộc sống rất đáng để tôn trọng, ta không thể phí hoài
cuộc sống vào việc mỉa mai hay căm ghét thứ gì đó chỉ vì không thể hiểu được nó
hoặc nó không vừa ý ta. Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ về thông điệp được rút ra?
HƯỚNG DẪN
Câu 1. Hai biểu hiện của “những điều không hoàn hảo” được đề cập đến trong đoạn
trích: (chọn 2 trong số các hành động sau)
- lời nói và hành động mâu thuẫn với nhau
- vụng về trong những mối quan hệ xã hội, chuyện học hành, công việc không suôn
sẻ như ý muốn.
- khiến người khác tổn thương
- còn làm những việc khiến bản thân cảm thấy tội lỗi và hối hận
- Con cái không nghe lời cha mẹ, cha mẹ không hiểu cho lối sống của con cái
Câu 2. Tác giả cho rằng: dù đang sống giữa thế gian đầy rẫy những điều không
hoàn hảo, ta vẫn không thể ngừng yêu thương chính những điều không hoàn hảo ấy
* Giải thích quan điểm: Tác giả khẳng định: Những điều không hoàn hảo cũng có
một vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người.
* Lí giải:
- Cuộc sống rất đáng để tôn trọng, ta không thể phí hoài cuộc sống vào việc mỉa mai
hay căm ghét thứ gì đó chỉ vì không thể hiểu được nó hoặc nó không vừa ý ta.
- Ai cũng có khuyết điểm, không phải cũng là người hoàn hảo. Vậy nên hãy yêu
thương trân trọng những điều bình thường giản dị cả những điều không hoàn hảo để
cuộc sống ý nghĩa và tươi đẹp hơn
- Cuộc sống còn nhiều điều thú vị, mỗi con người cũng vậy họ đều có những ưu điểm
và khuyết điểm nhất định đừng để ý soi mói vào những khuyết điểm đó, ta sẽ thấy
cuộc sống nhẹ nhàng hơn và đáng yêu hơn.
- Tầm nhìn sự nhận thức của chúng ta về một ai đó tại một thời điểm hiện tại, những
điều không hoàn hảo đó có thể sẽ không còn nếu chúng ta không ghét bỏ, chỉ trích
mà góp ý nhẹ nhàng chân thành thì có lẽ mỗi người đều hoàn thiện mình hơn, đều ít
đi những điều không hoàn hảo hơn

* Liên hệ: Hãy biết yêu thương, trân trọng dù là những điều bình dị nhất để cuộc
sống của mỗi người trở nên có ý nghĩa hơn.

Câu 3. HS chọn 1 trong 3 ý và lí giải vì sao?


(1) lời nói và hành động mâu thuẫn với nhau,
- Lời nói phải đồng nhất với hành động. Hành động sẽ đem đến thành quả cho lời
nói.
- Bởi nói một đằng làm một nẻo sẽ chẳng đem đến kết quả tốt mà lại gây khó chịu
cho người xung quanh.
- Nói mà không làm không hành động thì lời nói chỉ là lời nói suông, không đem lại
kết quả công việc, không đem lại niềm tin cho người khác
(2) vụng về trong những mối quan hệ xã hội, chuyện học hành,
- Thiếu sót lớn nhất chắc chắn sẽ đem đến những điều tồi tệ đó là vụng về lúng túng
trong những mối quan hệ xã hội và học hành. Vụng về tức là bất cẩn làm việc gì
cũng không đến nơi đến chốn.
+ Nếu trong các mối quan hệ xã hội sẽ làm ta mất đi những cơ hội khám phá những
điều mới lạ, hay mất đi những tình bạn tốt. có thể bạn sẽ bị cô lập cô đơn. Vụng về
trong các mối quan hệ khiến người khác sẽ nhìn thấy sự không chân thành, thậm chí
là không có niềm tin vào bạn. Hơn nữa là sẽ đưa ta vào những tình huống khó xử
lúng túng không biết ứng xử ra sao.
+ Nếu trong học hành bạn sẽ thấy không đem lại kết quả tốt,
=> Bởi vậy những kĩ năng ứng xử trong các mối quan hệ xã hội, trong học tập sẽ đem
đến cho chúng ta những trải nghiệm, những cơ hội mới trong cuộc sống. Vì vậy hãy
cố gắng hoàn thiện nó đừng để thiếu sót này đem đến những điều hối tiếc.
(3) công việc không suôn sẻ như ý muốn
Câu 4: Từ thông tin sau: Cuộc sống rất đáng để tôn trọng, ta không thể phí hoài cuộc
sống vào việc mỉa mai hay căm ghét thứ gì đó chỉ vì không thể hiểu được nó hoặc nó
không vừa ý ta. Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ về thông điệp được rút ra?
- Cuộc đời ngắn ngủi đừng lãng phí vào những việc không đáng.
- Cuộc đời của mỗi người là khác nhau mỗi người có một tính cách riêng không ai là
hoàn hảo cả đừng mỉa mai chê bai. Hãy dành thời gian làm những việc có ích những
điều tốt đẹp.
- Mỗi người cần sống tích cực, mở rộng lòng mình để có một cuộc sống thực sự có
ích và có ý nghĩa.
6. NGỮ LIỆU 6
Đọc đoạn trích sau
Ba mươi năm tiếng súng đã
lặng yên Đất đã trở về với
khoai với lúa
Miền đất xưa lẫy lừng một thuở;
Những Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam,…
Chiến thắng đã qua, thương nhớ những người anh
hùng: Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót,

Màu ban trắng khắp đèo cao vực
thẳm Cỏ xanh rờn như tiếng hát
lan xa… Con đường nào các anh
đã đi qua Máu thấm đất, mồ hôi
đầm trấn thủ Dân công đi ào ào
như thác lũ
Những câu hò vượt núi vút lên cao,…

Thời gian trôi qua những chiến


hào Qua nỗi khổ, niềm vui ngày
chiến thắng Chỉ còn lại một màu
hoa rất trắng
Như ban đầu miền đất mới khai sinh.
(Màu hoa còn lại, 1984, Xuân Quỳnh, trích “Thơ Xuân Quỳnh”, NXB Văn học,
tr.89)

Thực hiện các yêu cầu sau:


Câu 1: Dựa vào thông tin đoạn trích, anh/chị cho biết câu thơ Ba mươi năm tiếng
súng đã lặng yên gợi nhớ đến sự kiện lịch sử nào?
Câu 2: Những câu thơ sau gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về hình ảnh của những người
anh hùng:
Chiến thắng đã qua, thương nhớ những người anh
hùng: Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót,

Màu ban trắng khắp đèo cao vực
thẳm Cỏ xanh rờn như tiếng hát
lan xa…
Câu 3: Theo anh/chị để làm nên chiến thắng vĩ đại thì vai trò của ai quan trọng hơn?
Vì sao?
- (1) Vai trò của người anh hùng
- (2) Vai trò của người dân công

Câu 4: Anh/chị nhận xét về tình cảm của tác giả trong đoạn thơ sau:
Thời gian trôi qua những chiến
hào Qua nỗi khổ, niềm vui ngày
chiến thắng Chỉ còn lại một màu
hoa rất trắng
Như ban đầu miền đất mới khai sinh.
HƯỚNG DẪN
Câu 1:
Câu thơ “Ba mươi lăm tiếng súng đã lặng yên” nói về sự kiện lịch sử: Chiến thắng
Điện Biên Phủ năm 1954
Câu 2:
Các câu thơ nói về sự hi sinh của những anh hùng lịch sử làm nên chiến thắng ĐIện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu của đất nước ta.
Họ đã hi sinh tuổi xuân, luôn mang trong mình một tình yêu tổ quốc to lớn, sẵn sàng hi
sinh cho sự nghiệp giải phòng dân tộc
Ba mươi năm trở lại với Điện Biên Phủ nhìn hình ảnh hoa ban nở trắng lưng đèo, nhìn
ngon cỏ màu xanh reo vang như nhắc lại chiến công của những người anh hùng ấy.
Những người anh hùng không tiếc thân mình làm nên lịch sử cho đất nước, đem lại
cuộc sống hòa bình cho nhân dân
Câu 3: Để làm nếu chiến thắng vĩ đại của lịch sử dân tộc luôn cần có sự góp sức của
những người anh hùng ra trân, và sự hỗ trợ góp sức của những đoàn dân công mở
đường theo em thấy vai trò của họ:
* Nếu cho rằng vai trò của những người anh hùng lớn hơn:
- Đưa ra những đường lối đúng đắn linh hoạt phù hợp với tình hình chiến tranh.
- Họ là những người cần súng ra chiến trường trực tiếp chiến đấu với quân thù để dành
chiến thắng làm nên độc lập dân tộc cho tổ quốc.
- Họ chấp nhận những hiểm nguy, hi sinh tình cảm cá nhân để bảo vệ tổ quốc.
* Nếu cho rằng vai trò của những người dân công lớn hơn:
- Họ là những người thầm lặng trong cuộc kháng chiến, vận chuyển lương thực thực
phẩm, vũ trang vào chiến trường hỗ trợ cho chiến sĩ.
- Họ thầm lặng ngày đêm mở đường phá đất hanh thông tuyến đường ra trận của bộ
đội ta.
- Họ là những người trẻ đã hi sinh tuổi xuân, tình cảm gia đình cá nhân cùng với bộ
đội làm nên những chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
* Nếu cho rằng vai trò của cả 2 đối tượng bằng nhau thì kết hợp 2 giải thích trên.
Những người anh hùng ra trận và đoàn dân quân có vai trò ý nghĩa như nhau trong
kháng chiến. Họ hỗ trợ đồng lòng với nhau làm nên những chiến thắng vang dội trong
lịch sử dành lại nền độc lập hòa bình cho tổ quốc.
Câu 4:
Sau 30 trở lại với Điên Biên Phủ, tác giả chỉ còn thấy lại những chiến hào đó là những
kỉ niệm ghi lại dấn ấn của những năm kháng chiến gian khổ của quân dân ta ở Điện
Biên Phủ.
Nhìn những hình ảnh bình yên của nơi đầy như càng cảm mến và biết ơn sâu sắc với
những sự hi sinh của những anh hùng xưa. Sự hi sinh đó đã làm nên đất nước hôm
nay.
Điện Biên Phủ vẫn còn đó, vẫn vẹn nguyên như xưa, nhưng chỉ còn người không còn
nữa, họ đã gửi thân mình nơi đây làm nên chiến thắng ngày nào.
Gợi nhắc đến thế hệ trẻ về gìn giữ độc lập tự do cho mai sau. Luôn nhớ về ngày chiến
thắng để nhắc đến tương lai.
7. NGỮ LIỆU 8
Đọc đoạn trích:
Thành công trong cuộc sống phụ thuộc vào thái độ sống. Thành công không
đến với những người có thái độ sống bi quan, tiêu cực, thụ động, buông xuôi, trốn
chạy trước khó khăn hay thất bại trước mắt. Nó cũng không đến với những người
không tích cực xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh, với đồng
nghiệp hay với đối tác kinh doanh… Bạn sẽ không thể có được cuộc sống thanh
thản, hòa hợp, thân tình với thái độ sống ích kỷ, thiếu thiện cảm, tự cao tự đại, đa
nghi, ngạo mạn, không quan tâm đến người khác. Điều khác nhau giữa một người
sống tiêu cực và một người sống tích cực nằm ở chỗ: Trong cùng một hoàn cảnh
khó khăn người có thái độ sống tiêu cực sẽ than thân trách phận, còn người có thái
độ sống tích cực thì tập trung tìm giải pháp và cơ hội tiềm ẩn trong đó.
(…) Thành công luôn gắn liền với thái độ sống tích cực. Bởi thái độ của bạn
ảnh hưởng tới mọi khía cạnh trong cuộc sống và quyết định kết quả của mọi việc
bạn làm. Thomas Jefferson, vị tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ cho rằng: “Không một
quyền lực nào có thể ngăn cản được người có thái độ, tinh thần đúng đạt được mục
đích của mình. Và không gì trên đời có thể giúp người có thái độ, tinh thần không
đúng đạt được thành công”. Sự lựa chọn thái độ sống quyết định tất cả.
Bởi vậy, muốn đạt được thành công, nhất thiết bạn phải nhận thức và rèn
luyện cho mình một thái độ sống tích cực. Việc thay đổi thái độ sống sẽ giúp bạn
thay đổi tương lai, mở ra những chân trời mới cho cuộc đời.
(Trích Thay thái độ đổi tương lai, Lê Văn Thành, NXB Dân Trí, 2016, tr. 44
-45)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Theo đoạn trích, Điều khác nhau giữa một người sống tiêu cực và một người
sống tích cực là gì?
Câu 2. Xác định phép liên kết trong đoạn trích sau:
Thành công trong cuộc sống phụ thuộc vào thái độ sống (1). Thành công
không đến với những người có thái độ sống bi quan, tiêu cực, thụ động, buông xuôi,
trốn chạy trước khó khăn hay thất bại trước mắt (2). Nó cũng không đến với những
người không tích cực xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh,
với đồng nghiệp hay với đối tác kinh doanh (3)…
Câu 3. Anh/chị hiểu thế nào về câu văn: Thái độ của bạn ảnh hưởng tới mọi khía
cạnh trong cuộc sống và quyết định kết quả của mọi việc bạn làm.
Câu 4. Trình bày suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của tác giả: Việc thay đổi thái
độ sống sẽ giúp bạn thay đổi tương lai, mở ra những chân trời mới cho cuộc đời.
HƯỚNG DẪN
Câu 1: Theo đoạn trích, điều khác nhau giữa một người sống tích cực và một người
sống tiêu cực là: Trong cùng một hoàn cảnh khó khăn người có thái độ sống tiêu cực
sẽ than thân trách phận, còn người có thái độ sống tích cực thì tập trung tìm giải pháp
và cơ hội tiềm ẩn trong đó.
Câu 2: Phép liên kết trong đoạn trích:
- Phép lặp: Thành công: Thành công trong cuộc sống phụ thuộc vào thái độ
sống. Thành công không đến với những người có thái độ sống bi quan, tiêu cực,
thụ động, buông xuôi, trốn chạy trước khó khăn hay thất bại trước mắt.
- Phép thế: Nó thay cho Thành công.
Câu 3:
- Giải thích quan điểm: “Thái độ của bạn ảnh hưởng tới mọi khía cạnh trong
cuộc sống và quyết định kết quả của mọi việc bạn làm” nhấn mạnh vai trò của
thái độ sống đối với mỗi người.
- Lí giải:
+ Thái độ là cách chúng ta nhìn nhận và ứng xử mọi vấn đề trong cuộc sống.
Nếu chúng ta có cái nhìn lạc quan, tích cực thì mọi việc sẽ trở nên đơn giản,
nhẹ nhàng hơn, giúp chúng ta có thể dễ dàng vượt qua mọi khó khăn và có được
thành công. Ngược lại, nếu lúc nào ta cũng bi quan, tiêu cực sẽ làm cho cuộc
sống trở nên nặng nề, bế tắc, dễ dẫn đến thất bại.
+ Mỗi người cần rèn luyện bản lĩnh, năng lực của bản thân, có thái độ sống tích
cực, đúng đắn để làm cho cuộc sống của mình ngày càng tốt đẹp hơn.
Câu 4:
- Giải thích quan điểm: “Việc thay đổi thái độ sống sẽ giúp bạn thay đổi tương
lai, mở ra những chân trời mới cho cuộc đời”. Tác giả nhấn mạnh vai trò của
việc thay đổi thái độ sống đối với thành công của mỗi người.
- Lí giải:
+ Mỗi người cần có thái độ sống tích cực, phù hợp với hoàn cảnh, chỉ có vậy
mới giúp ta có động lực khám phá những điều mới lạ, sẵn sàng vượt qua mọi
chông gai, thử thách.
+ Cần phê phán lối sống ích kỉ, tiêu cực, khiến cho con người bị hạn chế, gò bó,
trở nên yếu mềm, dễ bị gục ngã trước những khó khăn.
8. NGỮ LIỆU 9
Đọc đoạn trích:
Hơn 90% việc làm hằng ngày của chúng ta là sự lặp lại của vô vàn thói
quen. Có thể nói, cuộc sống, công việc hiện tại và bộ dạng tương lai của chúng ta ra
sao là do thói quen của bản thân quyết định. Sự việc phản ánh con người, hằng
ngày bạn làm những công việc như thế nào sẽ quyết định bạn trở thành một người
như vậy. Song, người chú ý đến điểm này lại rất ít, người hiểu được sức mạnh của
thói quen, tận dụng sức mạnh của thói quen càng ít hơn. Chúng ta thường ngưỡng
mộ những người giành được thành công to lớn, nhưng nếu chú ý quan sát kĩ một
chút sẽ phát hiện thấy, điểm khác biệt rõ ràng ở đây chính là họ có nhiều thói quen
tốt hơn người bình thường.
Nhà triết học người Anh – Francis Bacon đã từng nói: “Thói quen là chúa tể
của cuộc đời, chúng ta phải cố gắng theo đuổi những thói quen tốt”. Thói quen như
con dao hai lưỡi, thói quen tốt sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta cả đời, thói quen
xấu sẽ đẩy chúng ta vào vũng bùn lầy. Thói quen thực sự là một loại sức mạnh vừa
ngoan cường lại to lớn, nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đời chúng ta. Phát
huy sức mạnh của thói quen tốt, thành công tự nhiên sẽ đến với chúng ta.
Thói quen là phương thức thực hiện hành vi tương đối ổn định được hình
thành qua một thời gian lâu dài trong cuộc sống. Thói quen là kết quả của quá trình
giáo dục, được tích lũy qua nhiều tháng ngày, chứ không phải một sớm một chiều
mà nên. Nó thường bắt đầu từ những sự việc nhỏ không được chú ý, nhưng lại tiềm
tàng năng lượng lớn có thể làm thay đổi vận mệnh con người.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định từ khác với các từ còn lại: Thói quen, quan sát, con người, con
dao, sức mạnh;
Câu 2. Theo đoạn trích “Thói quen” được hiểu là gì?
Câu 3. Anh/ chị hiểu như thế nào về câu văn sau: Thói quen như con dao hai lưỡi,
thói quen tốt sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta cả đời, thói quen xấu sẽ đẩy chúng ta
vào vũng bùn lầy.
Câu 4. Trình bày suy nghĩ của anh/ chị về quan điểm của tác giả: Thói quen thường
bắt đầu từ những sự việc nhỏ không được chú ý, nhưng lại tiềm tàng năng lượng lớn
có thể làm thay đổi vận mệnh con người.
HƯỚNG DẪN
Câu 1:
Từ khác với những từ còn lại là: Con dao
Câu 2:
Theo đoạn trích thói quen là: phương thức thực hiện hành vi tương đối ổn định được
hình thành qua một thời gian lâu dài trong cuộc sống.
Câu 3:
Thói quen như con dao hai lưỡi được hiểu, thói quen tốt sẽ mang lại lợi ích cho chúng
ta cả đời. thói quên xấu sẽ đẩy chúng ta vào những bùn lầy được hiểu là:
- Hành vi lặp đi lặp lại của con người có những hành vi tốt, có những hành vi không
tốt.
- Những thói quen tốt như ngủ và dậy sớm, có kế hoạch và thực hiện đúng theo dự dự
tính….sẽ giúp chúng ta đạt hiệu quả cao trong công việc, cuộc sống trở nên tốt đẹp
hơn, giúp chúng ta thành công. Nhưng có đôi khi vì quá cứng nhắc trong những thói
quen khi không thực hiện đúng quy trình con người sẽ cảm thấy stress và khủng
hoảng.
- Những thói quen xấu như hút thuốc, lười biếng, thức khuya, sử dụng nhiều chất kích
thích, trong công việc không có kế hoạch, mục tiêu rõ ràng, nước đến chân mới
nhảy…sẽ khiến cho cuộc sống trở nên trì trệ, khó có thể thành công trong công việc
cũng như cuộc sống, nhiều khi sẽ khiến chúng ta thất bại thảm hại.
Câu 4: thói quen thường được bắt đầu từ những sự việc nhỏ không được chú ý, nhưng
lại tiềm tàng năng lượng lớn có thể thay đổi vận mệnh con người
- Quan điểm: Khẳng định vận mệnh của con người tốt hay xấu có sự tác động rất lớn
của những hành vi nhỏ nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống của mỗi người.
- Đồng tình:
+ Những hành vi nhỏ nhưng được lặp lại thường xuyên lâu dần trở thành thói quen. +
Những hành vi tốt: tôn trọng những người xung quanh, làm việc chăm chỉ có thể giúp
con người thăng tiến trong công việc…
+ Những hành vi xấu có thể khiến con người sa ngã, bệnh tật, tù tội…
-Vận dụng :
Mỗi người cần nhận thức được vai trò của thói quen có thể thay đổi số phận của mình.
Cần rèn luyện và có ý thức hình thành những thói quen tốt, sống lành mạnh, học tập và
làm việc chăm chỉ, xác định mục tiêu trong cuộc sống.
9. NGỮ LIỆU 10
Đọc đoạn trích:
Hiện nay, cả thế giới đang phải gồng mình đối phó với đại dịch Covid-19,
được coi là đại dịch gây ra khủng hoảng nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh thế
giới thứ II đến nay. Việt Nam chúng ta là một trong số nước phát hiện dịch bệnh
sớm, sau Trung Quốc là nước phát hiện dịch bệnh bùng phát đầu tiên với số người
bị nhiễm bệnh và tử vong đứng hàng đầu thế giới.
Như bao cuộc chiến trong lịch sử đấu tranh vệ quốc oanh liệt, hào hùng của dân tộc
ta, toàn dân cùng một ý chí, đoàn kết một lòng coi "Chống dịch như chống giặc".
Ngành Y với đội ngũ các y bác sĩ, cán bộ nhân viên y tế đang giữ vai trò nòng cốt,
xung kích đi đầu và đối mặt với hiểm nguy, vô cùng gian khó, ngày đêm bảo vệ tính
mạng cho đồng bào. Những chiến sỹ áo trắng đã phải thực hiện cùng một lúc đồng
bộ nhiều nhiệm vụ, nhiều giải pháp, là nòng cốt tham mưu cho Đảng, Chính phủ để
lãnh đạo, chỉ đạo đất nước trước dịch bệnh.
Các y bác sĩ, cán bộ nhân viên y tế gác lại cuộc sống thường nhật. Họ phải tạm rời
xa gia đình, người thân yêu để chiến đấu với đại dịch, nhiều y bác sĩ không thể có
một "nụ hôn" với đứa con thơ hay ở bên cạnh chăm sóc cha mẹ già đang trọng
bệnh. Tất cả vì cuộc chiến với đại dịch vì sự an toàn tính mạng cho hơn 90 triệu
người dân. Nhiều bài thơ, ca khúc, bức thư,… đã viết lên những hoàn cảnh đầy cảm
xúc đó, khiến bao người rơi lệ,... Nguy hiểm là vậy, gian khó là vậy nhưng những
“chiến sĩ mặc áo trắng” của dân tộc Việt Nam anh hùng, những chiến sĩ ở tuyến
đầu của trận chiến chống đại dịch vẫn luôn nêu cao ý chí, bản lĩnh, kiên cường,
ngày đêm động viên, chăm sóc, bảo vệ tính mạng của bệnh nhân và đồng bào cả
nước, có cả những người mang quốc tịch nước ngoài… Với tinh thần trách nhiệm
cao cả, các bác sỹ đều hết lòng chăm sóc, phục vụ, chữa trị, đặt nhiệm vụ chữa bệnh
cứu người lên trên hết.
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định chủ đề của đoạn trích?
Câu 2. Theo đoạn trích, những thông tin nào cho thấy các y bác sĩ, cán bộ nhân viên
y tế gác lại cuộc sống thường nhật?
Câu 3. Những thông tin sau giúp anh/ chị hiểu gì về dịch covid -19?
Như bao cuộc chiến trong lịch sử đấu tranh vệ quốc oanh liệt, hào hùng của
dân tộc ta, toàn dân cùng một ý chí, đoàn kết một lòng coi "Chống dịch như chống
giặc"?
Câu 4. Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về trách nhiệm của những chiến sĩ
mặc áo trắng: Tất cả vì cuộc chiến với đại dịch vì sự an toàn tính mạng cho hơn 90
triệu người dân?

HƯỚNG DẪN
Câu 1
- Chủ đề của đoạn trích là: Tinh thần dũng cảm và sự hy sinh cao cả của các y bác sĩ
trong cuộc chiến chống Đại dịch Covid-19
Câu 2
Những thông tin cho thấy các y bác sĩ, cán bộ nhân viên y tế gác lại cuộc sống thường
nhật là: Họ phải tạm rời xa gia đình, người thân yêu để chiến đấu với đại dịch, nhiều
y bác sĩ không thể có một "nụ hôn" với đứa con thơ hay ở bên cạnh chăm sóc cha mẹ
già đang trọng bệnh.
Câu 3
Những thông tin sau giúp anh/ chị hiểu gì về dịch covid -19?
Như bao cuộc chiến trong lịch sử đấu tranh vệ quốc oanh liệt, hào hùng của dân
tộc ta, toàn dân cùng một ý chí, đoàn kết một lòng coi "Chống dịch như chống giặc"?
- Thông tin của tác giả khẳng định: cuộc chiến chống đại dịch covid - 19 được ví như
những cuộc chiến đấu tranh bảo vệ tổ quốc oanh liệt, hào hùng, mà ở đó thể hiện
được ý chí quyết tâm và tinh thần đoàn kết của cả dân tộc.
- Thông tin trên giúp ta hiểu về dịch covid 19:
+ Là đại dịch nguy hiểm, gây ra nhiều tổn thất nặng nề về người và của cho toàn
nhân loại.
+ Dịch covid đã đặt ra vấn đề: tinh thần đoàn kết chống dịch của cả dân tộc và ý thức
trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cuộc đấu tranh đẩy lùi dịch bệnh.
Câu 4
Suy nghĩ về trách nhiệm của những chiến sĩ mặc áo trắng: Tất cả vì cuộc chiến với đại
dịch vì sự an toàn tính mạng cho hơn 90 triệu người dân?
- Trong cuộc chiến chống đại dịch, các y bác sĩ được ví là những chiến sĩ mặc áo
trắng, chiến sĩ trên tuyến đầu chống dịch bởi họ chính là đội ngũ chữa trị cho người
bệnh và đối mặt trực tiếp với nguy hiểm.
- Đội ngũ y bác sĩ đã hi sinh thời gian, công sức, hạnh phúc cá nhân, thậm chí cả tính
mạng với mục tiêu là đảm bảo an toàn tính mạng cho toàn thể nhân dân VN. Mọi nỗ
lực của họ đã cho thấy tinh thần và ý thức trách nhiệm của những thiên thần áo trắng
trong cuộc chiến đẩy lùi đại dịch.
- Tinh thần dũng cảm, trách nhiệm và sự hi sinh cao cả của đội ngũ ý bác sĩ đã truyền
cảm hứng cho mỗi ng dân VN. Biết ơn, tự hào về họ đồng thời mỗi ng đều nhận thức
về ý thức, trách nhiệm của bản thân trong cuộc chiến chống dịch covid 19.
10. ĐỀ 11
Đọc đoạn trích:
Hiện tại được ươm mầm từ quá khứ. Chúng ta sống không thể không có quá
khứ. Với một số người, quá khứ là chất chồng những đớn đau tủi nhục, là bóng tối
mà họ bất lực không tìm được lối ra. Với tôi, quá khứ đồng nghĩa với cảm giác bị
hắt hủi và xa lánh trong chính tổ ấm của mình. Cũng vì thế, khi gần gũi với một
người nào đó, tôi thường nảy sinh nhiều trạng thái cảm xúc mâu thuẫn nhau. Thậm
chí, chỉ cần nghĩ đến việc làm sao để không gượng gạo khi ở bên người thân cũng
đủ khiến tôi rối trí. Tôi tự tạo cho mình một vỏ bọc khó chịu để tránh tiếp xúc với
người khác. Nhưng rồi, năm tháng giúp tôi hiểu rằng quá khứ khốn khổ tựa như loài
ký sinh cần phải loại bỏ. Tôi cố gắng cởi mở và thân thiện hơn với mọi người.
Thật vậy, dù là quá khứ hay hiện tại, chúng ta cũng đừng ngần ngại đối mặt
với chúng. Nói mình không có quá khứ nghĩa là ta đang tự lừa dối bản thân. Ngược
lại, nếu chỉ biết sống với quá khứ, ta sẽ làm hại chính mình bởi điều đó đồng nghĩa
với việc phủ nhận cuộc sống hiện tại. Tốt nhất, hai mảng cuộc sống đó cần được
cân bằng.
Phán xét quá khứ là một việc làm vô nghĩa và lãng phí thời gian, bởi chẳng
bao giờ ta có thể thay đổi được những chuyện đã qua. Tuy nhiên, nếu ta dám đương
đầu với những nỗi đau, sự xấu hổ, giận dữ như chúng vốn có, ta sẽ tích lũy cho
mình nhiều bài học quý và thanh thản hơn khi nhìn lại chúng. Khi đã sẵn sàng chấp
nhận quá khứ, ta sẽ không bị quá khứ dằn vặt thêm nữa.
(Trích Quên hôm qua sống cho ngày mai - Tian Dayton, Ph. D, biên
dịch: Thu Trang - Minh Tươi, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh, 2014, tr.06)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Theo anh/chị chủ đề nào trở thành liên kết nội dung trong đoạn trích?
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng biện pháp tu từ trong câu: năm tháng giúp tôi hiểu
rằng quá khứ khốn khổ tựa như loài ký sinh cần phải loại bỏ.
Câu 3. Tại sao tác giả nhận định: nếu chỉ biết sống với quá khứ, ta sẽ làm hại chính
mình bởi điều đó đồng nghĩa với việc phủ nhận cuộc sống hiện tại?
Câu 4. Thông điệp mà anh/chị tâm đắc nhất qua văn bản là gì? Vì sao chọn thông
điệp đó?
HƯỚNG DẪN
PHẦN CÂU YÊU CẦU CẦN ĐẠT ĐIỂM
I 1 - Phương thức biểu đạt chính của văn bản: nghị luận.
0.5

Chỉ ra và nêu tác dụng biện pháp tu từ trong câu: năm tháng giúp
tôi hiểu rằng quá khứ khốn khổ tựa như loài ký sinh cần phải loại
bỏ.

2 - Biện pháp tu từ so sánh: quá khứ khốn khổ ( như) ký sinh cần
loại bỏ.

- Tác dụng: là cho cách diễn đạt gợi hình ảnh cụ thể, dễ hiểu. Từ
0,5
đó, ta biết được hậu quả của quá khứ khốn khổ và có hướng khắc
phục phù hợp.

Tác giả nhận định: nếu chỉ biết sống với quá khứ, ta sẽ làm hại
chính mình bởi điều đó đồng nghĩa với việc phủ nhận cuộc sống
hiện tại:

- Quá khứ đã đi qua, không bao giờ trở lại. Vì thế, cần phải thoát
khỏi những quá khứ không đáng nhớ để sống tốt hơn trong hiện
3 tại

- Con người cần phải sống cho hiện tại và hướng về tương lai để
1
tiến xa hơn;

- Nếu chỉ mãi sống quá khứ, ta sẽ quên hiện tại, trở thành người
lạc hậu vì thiếu sự cầu tiến.

4 Học sinh có thể trình bày và lí giải thông điệp tâm đắc nhất theo ý
riêng, không vi phạm chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Sau đây là
vài gợi ý:

- Phải có bản lĩnh sống kiên cường, mạnh mẽ để đương đầu với 1
thử thách, tai ương xảy ra trong cuộc đời.

- Hãy để quá khứ đau buồn ngủ yên…

II. PHẦN LÀM VĂN


1. VẤN ĐỀ 1:
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí
đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của
một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ
ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trên một mũi đỏ.
Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của
một con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng
còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi.
Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông
Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân
chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn
đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe
những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở
chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng
trên”.
(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD 2012)
Phân tích đoạn trích trên.

Hướng dẫn:
c1. Khái quát chung
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau
Cách mạng tháng Tám 1945. 
- Đoạn trích nằm ở gần cuối tác phẩm, miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông
Đà được tác giả cảm nhận khi đi thuyền trên sông Đà, góp phần thể hiện rõ phong cách
tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân.
c2. Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
c.2.1. Về nội dung
- Sông Đà mang vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình, không một bóng người,
như còn lưu lại dấu tích của lịch sử cha ông từ thời Lí, Trần, Lê.
- Sông Đà mang vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
- Cảnh vật hai bên bờ sông Đà mang vẻ đẹp trù phú, tràn đầy sức sống với
những hình ảnh mấy lá ngô non đầu mùa, búp cỏ gianh đẫm sương đêm, con hươu thơ
ngộ, đàn cá dầm xanh..
- Dòng sông như có hồn, có tình cảm da diết đến bâng khuâng, biết nhớ thương
những hòn đá thác xa xôi, biết lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi.
c.2.2. Về nghệ thuật
- Tác giả đã miêu tả Sông Đà trữ tình bằng những ví von, so sánh, liên tưởng,
tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị.
- Từ ngữ trong đoạn trích phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi
cảm cao.
c3. Đánh giá
- Sông Đà hiện lên qua những trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy
là thiên nhiên, mà còn là một  sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đây tác giả cũng kín
đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say  mê, tự hào với thiên nhiên của
quê hương xứ sở mình.  
- Hình tượng sông Đà còn có ý nghĩa là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh
vẻ đẹp của con người - người  lái đò trên dòng sông. 
- Đoạn văn đã góp phần quan trọng trong việc tái hiện vẻ đẹp trữ tình của
Sông Đà, của thiên nhiên đất nước gấm vóc nên thơ đồng thời góp phần khẳng định
tài năng của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật viết tuỳ bút.

2. VẤN ĐỀ 2:
Phân tích đoạn trích sau.
“... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo
to mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn
mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số
hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn
nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như
tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những
hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự
động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy
rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn
ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi
đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn
canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền
đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp
quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được
tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là
phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất
cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối
hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong
lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền
có giỏi thì tiến gần vào.”
c.1. Khái quát chung
- Về tác giả, tác phẩm
+ Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
+ Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng Tám 1945.
+ Vẻ đẹp dòng sông Đà thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân
- Khái quát về tuỳ bút, đoạn trích:
+ Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, hình tượng trung tâm của tác phẩm;
+ Vị trí, nội dung đoạn trích.
c.2. Phân tích các khía cạnh của vấn đề
c.2.1. Về nội dung:
- Nước thác trên Sông Đà: Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà
phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Sự liên tưởng của tác
giả độc đáo ở chỗ: âm thanh của tự nhiên (tiếng thác) được đổi thành tiếng gầm đau
đớn, lồng lộn của hàng ngàn con trâu mộng da cháy bùng bùng; và còn tài tình ở chỗ
tác giả đã đem thủy (thác nước) so sánh với hỏa (rừng lửa) => gây ấn tượng trong
người đọc về sự dữ dội, y như một trận động rừng hay cháy rừng khủng khiếp của
nước thác trên sông Đà.
- Thạch trận trên Sông Đà:
+Đội quân thạch giang trên Sông Đà khá hùng hậu, cả một chân trời đá, ngàn năm vẫn
mai phục hết trong lòng sông.
+Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá như có một gương mặt riêng:
hòn thì ngổ ngáo, hiếu chiến, hòn thì ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm méo mó; mỗi hòn
một dáng (nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé); mỗi hòn
một nhiệm vụ, giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa;…
+Nghệ thuật miêu tả: Sử dụng trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú về hành
động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu
diệt), tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi,
nằm).
- Sự phối hợp rất chặt chẽ giữa nước thác và đá thác trên sông:
+Từ xa, âm thanh tiếng nước thác réo gần mãi lại réo to mãi lên, rồi rống lên vừa như
phô trương sức mạnh vừa như uy hiếp, đe dọa con thuyền sắp qua thác nước Sông Đà.
+Sau đó, đến thác, một chân trời đá hiện hình và bày thạch trận trên sông, chia làm ba
hàng chặn ngang trên sông; với mỗi vị trí là một nhiệm vụ: Đám đá tảng sẽ ăn chết cái
thuyền đơn độc; hai hòn đá canh ở hàng tiền vệ sẽ dụ cái thuyền đi vào sâu nữa; những
boong-ke chìm và pháo đài đá nổi phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải
tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác. Nhiệm vụ nào của đám thạch
giang trên Sông Đà cũng hung hãn, quyết liệt, cũng thể hiện một quyết tâm tiêu diệt
con thuyền đối phương đến cùng để giành chiến thắng.
+ Nhận xét: Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà. Đó
chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục. Đó cũng chính là
niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.
c.2.2. Về nghệ thuật:
+Nguyễn Tuân sử dụng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động
từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập
+Nhà văn sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính
xác, thú vị.
+Nhà văn đã vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địa lý, lịch sử, hội họa,
văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.
c. 3. Nhận xét, đánh giá
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông luôn tìm
kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật
ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh
(Sông Đà là một sinh thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường
liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi
huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông
Đà.
- Ý nghĩa: Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý thức tự
khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê
hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm
huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người
đáng quý này.
3. VẤN ĐỀ 3:
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La.Trên song bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút
nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số
ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ác ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng
hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay
phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào
một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái
hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới
một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim
màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành
giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê
xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim
ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự
thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt
vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
Cảm nhận đoạn trích trên.

HƯỚNG DẪN
c.1. Giải thích, khái quát vấn đề
- Dẫn dắt vấn đề.
- Vị trí của đoạn trích: Phần 1 của tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” viết về tính cách
hung bạo của sông Đà ở quãng Tà Mường Vát.
- HOẶC, HS sử dụng hoàn cảnh sáng tác
c.2. Phân tích các khía cạnh của vấn đề
c.2.1. Nội dung
– Quãng Tà Mường Vát với những cái hút nước:
+ Tác giả so sánh và nhân hóa hút nước để thấy được sự hung bạo: Nước ở đây thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc; có chỗ như những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa
rót dầu sôi vào, "những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc
thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến Sông Đà không
khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy
hiếp con người.
+ Hút nước còn nguy hiểm: Tác giả liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài
bờ vực giúp người đọc hình dung cảm giác hãi hùng khi phải đi thuyền qua những hút
nước đó.
+ Tác giả có một liên tưởng hết sức táo bạo để người đọc tưởng tượng ra vẻ đẹp cũng
như sự nguy hiểm của những cái hút nước: “…một anh bạn quay phim táo tợn nào
muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền
thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà …
Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem
phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá
rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”...
c.2.2. Nghệ thuật
– Hình tượng Sông Đà được khắc họa bằng một số biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, so
sánh, liên tưởng tưởng tượng, …
– Hệ thống từ vựng phong phú, giàu có, vận dụng kiến thức của cá lĩnh vực khác để
miêu tả con Sông Đà.
– Sử dụng nhiều câu văn dài nhịp nhàng, uyển chuyển.
c.3 Đánh giá
- Nguyễn Tuân phát hiện ra cái đẹp trong thiên nhiên và con người của đất nước, từ
chính trong hiện thực cuộc sống.
- Nguyễn Tuân bằng sự tài hoa, uyên bác của mình, luôn quan sát, khám phá và diễn tả
sự vật ở góc độ thẩm mĩ và được soi rọi dưới ánh sáng của nghệ thuật; quan sát, khám
phá con người, thiên nhiên nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ.
– Tô đậm cái phi thường gây cảm giác mãnh liệt dữ dội; tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu
Tổ quốc qua những trang văn; vận dụng thể tùy bút linh hoạt, sáng tạo.
4. VẤN ĐỀ 4:
Có ý kiến nhận xét về ông lái đò như sau: Dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân, ông lái đò không chỉ là con người lao động vô danh, bình thường mà
còn giống như một người anh hùng phi thường cưỡi gió, đạp sóng.
Hãy bình luận ý kiến trên qua đoạn trích:

[…] Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm
cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng
thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái
bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm
bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn
cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì
ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau
thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt
khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt
xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một
trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng
thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác.
Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong
trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá
mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả
thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng
dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ
dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có
gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. […]

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI.


1. Mở bài: Giới thiệu được vấn đề cần nghị luận: Ý kiến trên ca ngợi vẻ đẹp
bình dị, trí dũng, tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò sông Đà.
2. Thân bài:
- Giải thích ý kiến:
+ con người lao động vô danh, bình thường: nhân vật ông lái đò trong đoạn trích
không có tên, không có lai lịch cụ thể, những nét ngoại hình cũng được giới thiệu
rất ít và hiện lên với nét giản dị trong cuộc sống lao động hàng ngày.
+ người anh hùng cưỡi gió, đạp sóng: nhấn mạnh đến vẻ đẹp của sự dũng cảm,
trí tuệ, tài hoa, khéo léo trong cảnh lái đò vượt thác sông Đà của ông lái đò.
 Ý kiến ca ngợi vẻ đẹp của ông lái đò sông Đà – tiêu biểu cho những con người
lao động bình thường ở Tây Bắc giản dị, trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
- Cảm nhận về vẻ đẹp của ông lái đò qua đoạn trích.
+ Ông lái đò là một người lao động vô danh, bình dị:
++ Ông không được giới thiệu tên, tiểu sử cụ thể, tiêu biểu cho tất cả những
người lao động bình thường ở Tây Bắc.
++ Ngoại hình của ông lái đò được giới thiệu mang đặc trưng nghề nghiệp toát
lên vẻ đẹp của một người lao động bình thường, giản dị…
++ Sau những cuộc vượt thác: ông lái đò lại ung dung đốt lửa, nói chuyện đời
thường, không bàn về chiến thắng đã qua mà coi đó là chuyện thường ngày.
Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, ông đã nhìn về những gì đã qua bằng suy
nghĩ giản dị và lãng mạn. Vì cuộc sống của họ ngày nào cũng phải giành lấy cái
sống từ tay những cái thác, chiến đấu với con sông Đà dữ dội ấy. Phong thái ung
dung, lối sống giản dị, khiêm nhường mang vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ giữa
đời thường, góp phần làm nên chất vàng mười quý giá của con người Tây Bắc.
+ Ông lái đò giống như một người anh hùng phi thường, cưỡi gió, đạp sóng thể
hiện vẻ đẹp trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
++ Ông lái đò là người hiểu biết sâu sắc về quy luật sóng thác, sự bày binh bố
trận của đá trên sông Đà.
++ cảnh vượt thác thể hiện tài năng, trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực kĩ
thuật điêu luyện và bản lĩnh của ông lái đò.
 Trùng vi thứ hai: Sông Đà như hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.
Ông lái đò táo bạo, nhanh nhẹn, tỉnh táo, tinh anh, khéo léo: ghì cương lái, bám
chắc lấy luồng nước; tránh mà rảo bơi; đè sấn lên mà chặt đôi;.. ông lái đò
không chỉ hiện lên sức mạnh của thể lực, lòng dũng cảm mà còn là sự trí tuệ,
khéo léo, tài hoa của một người nghệ sĩ vượt thác.
 Trùng vi thạch trận thứ ba: đối phương ít cửa hơn những bên phải bên trái đều
là luồng chết cả. Một cuộc giao tranh đầy kịch tính và nguy hiểm nhưng ông lái
đò hiện lên với tài năng cưỡi sóng, đạp gió: cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng
cửa giữa đó; thuyền vút qua cổng đá; thuyền như một mũi tên tre;… Với đôi
bàn tay trí tuệ, tài hoa của người nghệ sĩ trên soogn nước, ông lái đò đã vượt
qua các trùng vi thạch trận hiểm độc nhất của thác đá sông Đà
 Qua các trùng vi thạch trận, ông lái đò hiện lên với tư thế chủ động, hiên ngang
của một dũng tướng trên sóng thác, với phong thái tự tin, tỉnh táo, mưu trí của
người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá và hành động thành thục, điêu
luyện, tài hoa đạt đến độ phi phàm, kì diệu như một người nghệ sĩ vượt thác thực
thụ.
- Nghệ thuật khắc họa hình tượng ông lái đò
+ Nghệ thuật tương phản: thác dữ của sông Đà – ông lái đò. Vận dụng sáng tạo
thủ pháp so sánh, liên tưởng độc đáo, tài hoa.
+ Vận dụng linh hoạt vốn tri thức uyên bác của nhiều lĩnh vực để tái hiện cuộc
chiến rất sinh động.
+ Ngôn ngữ phong phú, linh hoạt, chuẩn xác.
- Đánh giá:
+ Ý kiến đã khái quát được vẻ đẹo trí dũng, tài hoa cũng như vẻ đẹp rất đời
thường của ông lái đồ sông Đà – tiêu biểu cho những người lao động trên mảnh
đất Tây Bắc hùng vĩ.
+ Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, nhân vật ông lái đò trong cuộc chiến đấu với
sông Đà hiên ngang, đẹp đẽ như một người anh hùng phi thường nhưng lại rất đỗi
bình dị trong cuộc sống đời thường mà ông gọi đó là cái thứ vàng mười.
+ Qua hình tượng ông lái đò trong đoạn trích đã thể hiện tư tưởng chủ đề của tác
phẩm: Nguyễn Tuân ca ngợi con người lao động mới trong công cuộc chinh phục
thiên nhiên, xây dựng đất nước; Thể hiện quan niệm mới về người anh hùng:
người anh hùng không chỉ trong chiến đấu mà còn trong cuộc sống lao động hàng
ngày.
+ Thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả: Tài hoa, uyên bác.
3. Kết bài
Khẳng định ý kiến ngợi ca vẻ đẹp người lái đò với phẩm chất đáng quý:
bình dị - anh hùng - nghệ sĩ. “Trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên
Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng
mười của đất nước ta”.

5. VẤN ĐỀ 5:
Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa
những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực
yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn
thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những
vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một
cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm
hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như
sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa
lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một
đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông
đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ
thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn
lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa
cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy,
cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước,
khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ
là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va
cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt
trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên
một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành
lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung
điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến
đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc
mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim nhỏ đứng co một
chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-
va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn
của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi
Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh,
thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy
lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng
bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua
Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những
vấn vương của một nỗi lòng.
(Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập 1,
NXBGD, tr.180-181)
Phân tích vẻ đẹp sông Hương trong đoạn trích trên?

HƯỚNG DẪN

Gợi ý nội dung Mở rộng


Mở bài Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng 
chỉ có một dòng sông để thương, để  nhớ 
như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc 
tình để  mãi
 mang theo”.  Bài nhạc của Văn Cao gắn với sông Lô
hùng tráng. Nhà thơ Hoàng Cầm mãi vương vấn nỗi nhớ
với con sông Đuống mênh mang, Hoài Vũ mãi thuộc về
con sông Vàm Cỏ đêm ngày tha thiết chở phù sa,… Và
Hoàng Phủ Ngọc Tường với dòng sông Hương thơ mộng
đã đi vào trái tim người đọc với bút kí “Ai đã đặt tên cho
dòng sông”. Với ngòi bút tài hoa, chất trữ tình mê đắm,
nhà văn để thương để nhớ cho bao thế hệ độc giả về
dòng sông dịu dàng, êm đềm chảy trong lòng thành phố,
tiêu biểu qua đoạn trích…
Thân bài 1. Khái quát chung
- Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết tại Huế
tháng 1/1981. Làm nên thành công của bài bút kí trước
hết là bởi ông đã gắn bó sâu nặng với mảnh đất quê
hương xứ Huế. Chính điều này đã giúp ông có hiểu biết
sâu sắc về Huế cũng như sông Hương.
- Sông Hương trong cái nhìn của nhà văn đã hóa thân
thành một sinh thể có tâm hồn phong phú, có dòng đời
trải qua nhiều thăng trầm, gian truân để cuối cùng bộc lộ
vẻ đẹp thơ mộng, đầy cá tính, vừa trí tuệ dịu dàng, vừa
ngọt ngào, duyên dáng, vừa trầm tĩnh bởi chiều sâu văn
hóa.
- Vị trí đoạn trích: Đoạn miêu tả sông Hương khi về đến
thành phố Huế, gợi tả hình ảnh con sông gắn liền với
không gian văn hóa Huế, được cảm nhận dưới nhiều góc
độ.
- Bằng những so sánh và nhân hóa đặc sắc, những liên
tưởng đậm chất trữ tình, đoạn trích khiến sông Hương
hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương,
vừa dịu dàng, mềm mại như một bức tranh lụa huyền ảo,
vừa tha thiết, đắm say như một bản nhạc êm đềm.
2.Nội dung: Sông Hương trong không gian kinh thành
Huế ( khi chảy vào thành phố Huế)
*/ Bắt đầu đi vào thành phố - Sông Hương là người tình
vui tươi và duyên dáng. Trong cái nhìn của hội họa,
dòng sông như một bức tranh lụa huyền ảo với những
đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu
sắc hài hòa và bình dị.
- Đường nét, hình ảnh:
+ Kéo một nét thẳng thực yên tâm khi nhìn thấy chiếc
cầu trắng của thành phố in trên nền trời. Cách miêu tả
đặc sắc gợi cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng
sông đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình
khi về tới thành phố.
+ Đường nét uốn lượn tình tứ: SH uốn một cánh cung
rất nhẹ nhàng sang cồn Hến, đường cong ấy làm dòng
sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu. Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông đã
thực sự trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật
đắm say, lãng mạn của Huế.
+Bức họa dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét
chấm phá với hình ảnh cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng
lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, với ánh lửa
thuyền chài lập loè trong đêm sương. Dòng sông hiện lên
vừa gần gũi, cũng vừa xa xăm trong cõi miên viễn của cổ
thi qua câu thơ của Trương Kế: “Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên” (Phong kiều dạ bạc)
*/Trong lòng thành phố, cảm nhận bằng âm nhạc: sông
Hương như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, du
dương, sâu lắng và ngập tràn tình cảm.
- Nhịp điệu dòng chảy chậm rãi: khi chảy trong lòng
thành phố Huế
+ trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ
yên tĩnh
+ Điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, ngập ngừng
như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những
vấn vương của một nỗi lòng.
+Liên tưởng: dòng chảy của dòng sông Nê-va ở Lê nin
grat và dòng sông đời người, dòng sông thời gian của
triết gia cổ Hê-ra-clit“ không ai tắm hai lần trên một dòng
sông”.
+ Để làm rõ hơn tác giả đã so sánh với sông Nê va băng
lướt qua cung điện Petécbua để đi ra biển Ban- tích. Cách
so sánh thấy được điệu chảy của sông Nê va nhanh đến
mức khiến những chú chim hải âu tinh nghịch co một
chân trên tảng băng trôi không kịp nói một điều gì với
người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo, sự so
sánh bất chợt ấy khiến tác giả càng thấy quý hơn điệu
chảy lặng lờ, điệu chảy “lặng lờ muốn đi muốn ở” . Như
thế có thể thấy những dòng sông trong không gian, trong
thời gian đều trôi đi rất nhanh, chỉ còn dòng sông Hương
cứ dùng dằng, níu kéo, cứ lưu luyến vấn vương không nỡ
xa rời thành phố Huế.)
- Tác giả lí giải điệu chảy chậm của SH từ nhiều góc
nhìn:
+ Do đặc điểm địa lí tự nhiên: xuất hiện 2 hòn đảo nhỏ
trên sông, cùng với những chi lưu->khiến cho dòng chảy
chậm lại
+ Lí lẽ trái tim: tình cảm sâu nặng của SH dành cho Huế
rất sâu nặng, người gái đẹp sau một hành trình vất vả đã
tìm được người yêu của mình và đén đây nó không
muốn chảy nữa , nó cứ muốn giữ lâu hơn nữa giây phút
được ở bên người yêu. SH muốn ngắm nhìn nhiều hơn
nữa kinh thành thân thương trước khi phải rời xa.
2. Nghệ thuật
* Nghệ thuật đoạn trích
- Ngôn từ giàu hình ảnh, nhạc tính
- Khả năng quan sát tinh tế, trí liên tưởng, tưởng tượng
phong phú
- Các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa,…
*Nghệ thuật xây dựng và ý nghĩa của hình tượng
Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
- Từ ngữ phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh
- Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, so sánh…
gắn với liên tưởng bất ngờ, thú vị.
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.
Ý nghĩa của hình tượng sông Hương
- Sông Hương mang vẻ đẹp của thiên nhiên, mang giá trị
lịch sử, văn hoá sâu sắc. Đó cũng là vẻ đẹp của con người
xứ Huế.
- Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả
với dòng sông quê hương.
3. Đánh giá
- Sông Hương trở thành sinh thể có tâm hồn - một cô gái
đẹp duyên dáng, trữ tình. Đó là một sự lột xác khi gặp
tình nhân tri kỉ trong cuộc tìm kiếm có ý thức. Sông
Hương thực sự là mình khi nằm giữa thành phố Huế.
- Sự thay đổi của sông Hương không chỉ do cấu trúc địa
hình mà còn là sự lắng đọng, kết tụ những giá trị văn hóa
Huế. Hình ảnh sông Hương là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm
hồn xứ Huế.
- Đoạn trích thể hiện rõ vẻ đẹp trong thể kí Hoàng Phủ
Ngọc Tường, cái tôi tài hoa cùng tình yêu tha thiết, mãnh
liệt với quê hương xứ sở của nhà văn.
Kết bài “Sao thèm hát một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
(“Vọng Huế” – Nguyễn Trọng Tạo)
Những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo khiến tôi không
khỏi nhớ đến một Huế đầy mộng mơ, yên bình và dịu
dàng phản chiếu qua dòng sông Hương trong văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Một Hương giang đầy mãnh liệt và
phóng khoáng nơi thượng nguồn, lại tình tứ lãng mạn nơi
ngoại vi thành phố Huế; dòng sông ấy trở nên dịu dàng e
ấp khi vào trong lòng kinh thành để rồi thắm thiết chung
tình khi rời xa nơi đây. Chính những nét đẹp ấy đi sâu
vào tâm trí ta, khắc ghi ấn tượng mạnh mẽ, khó phai nhất
để rồi nhắc đến “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là ta ngay
lập tức nghĩ đến Hương giang.

6. VẤN ĐỀ 6
Có ý kiến cho rằng, Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là áng văn lập quốc của một
người yêu nước giàu tình cảm và trí tuệ bậc nhất của thời đại.
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua việc phân tích đoạn văn bản sau.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh
Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân
ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là
cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là
bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong
5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống
Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa.
Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và
Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau
cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy,
lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc
địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính
quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần
100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn
dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp
đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở
các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của
dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc
đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc
đó phải được độc lập!
(trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh, Ngữ văn 12, tập một, NXBGD)
Cấu Gợi ý trình bày
trúc
A. - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
MỞ - Trích dẫn ý kiến: Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là áng văn lập quốc của một người yêu
BÀI nước giàu tình cảm và trí tuệ bậc nhất của thời đại góp phần thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật
của HCM
B. * Khái quát:
THÂ - Đây là quan điểm/ý kiến hay, sâu sắc:
N BÀI + Áng văn lập quốc….: tác phẩm có vị trí đặc biệt, phản ánh vấn đề trọng đại đối với sự phát triển
của lịch sử xã hội, của đất nước, dân tộc/ Tác phẩm văn học phản ánh sự kiện lịch sử đặc biệt đánh
dấu độc lập tự do của dân tộc/ Tác phẩm văn học tuyên ngôn về nền độc lập dân tộc/Tác phẩm vừa
có giá trị lịch sử đặc biệt vừa mang giá trị văn học điển hình/….
+ Người viết áng văn lập quốc ấy có vị trí tương xứng với giá trị tuyên ngôn mang lại/ Người viết
TN thể hiện vẻ đẹp lộng lẫy tận trung với đảng tận hiếu với dân/ ngôn ngữ tác phẩm văn học phản
ánh vẻ đẹp trí tuệ và tình cảm nồng nàn mang tầm vóc thời đại HCM/…
-> Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là áng văn lập quốc của một người yêu nước giàu tình
cảm và trí tuệ bậc nhất của thời đại: TNĐL vừa có giá trị lịch sử, giá trị chính trị và giá trị văn học.
Người viết TNĐL mang vẻ đẹp rực rỡ nhất của người VN yêu nước và có trí tuệ mang tầm vóc thời
đại.
- Đoạn trích thuộc phần nội dung của TNĐL: đỉnh cao nghệ thuật lập luận bác bỏ những luận điệu
phản động của TDP khi kể công bảo hộ và cho rằng VN là thuộc địa để khái quát được cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và niềm tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc VN; tuyên ngôn về vị
thế của dân tộc với chân giá trị: không có gì quý hơn độc lập tự do.

PHÂN TÍCH:
2.1. Đoạn trích xứng đáng là áng văn lập quốc của người mang vẻ đẹp trí tuệ thời đại
* TNĐL bác bỏ những luận điệu phản động của TDP
- Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử khi các nước đồng minh thắng trận,….Pháp muốn quay lại xâm
lược rêu rao với thế giới: Pháp có công bảo hộ, coi VN là thuộc địa… TNĐL phơi bày luận điệu
xảo trá về “công lao bảo hộ Đông Dương” của Pháp:
Mùa thu năm 1940 phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương Để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh
thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật
tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là
chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần
cho Nhật.
+ TNĐL đã phơi bày luận điệu xảo trá về “công lao bảo hộ Đông Dương” của Pháp, bản tuyên ngôn
đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng những không bảo hộ mà trong năm năm
chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật.
+ Những dẫn chứng đưa ra có ngày tháng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Giọng văn vừa hùng hồn vừa
bi thiết lại được diễn đạt bằng hình ảnh nên có sức truyền cảm to lớn. Câu văn giàu hình ảnh đầy sức
tố cáo, các chữ quỳ gối, rước, bỏ chạy, đầu hàng đã vẽ lên bộ mặt hèn nhát và tư thế nô lệ của thực
dân Pháp trước phát xít Nhật. Nêu lên sự thật này trước công luận quốc tế tác giả một lần nữa phủ
nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam khi lợi dụng danh nghĩa Đồng Minh.
- TNĐL bác bỏ danh nghĩa “Đồng minh” với thực dân Pháp, bác bỏ quan điểm “VN là thuộc địa
của Pháp”:
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống
Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm
chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau
cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại
cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa
của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

+ Chống chủ nghĩa phát xít là nhiệm vụ cách mạng của nhân dân tiến bộ trên thế giới, mà các nước
Đồng minh (Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô) là những quốc gia tiên phong. TN đã chỉ rõ bản chất của
Pháp đi ngược lại với xu thế cách mạng, đi ngược lại xu thế tiến bộ của nhân loại. Pháp không còn
tư cách gì là Đồng minh để trở lại đây nữa vì chúng đã không không liên minh với Việt Minh chống
phát xít Nhật,.

+ Những sự thật lịch sử hiển nhiên được thể hiện trong cấu trúc điệp cú pháp làm tăng thêm sự
thuyết phục hùng hồn cho lí lẽ dân ta đã giành độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp,
giành bằng sự nổi dậy của chính mình, giành độc lập khi Đồng minh chưa bén mảng đến đây. Luận
điểm này đứng về ý nghĩa pháp lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng hồn tiếp
theo của bản tuyên ngôn: “Bởi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới,
đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những
hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt
Nam”.
* TNĐL khẳng định chân lí thời đại
- Nói đến chân lí thời đại mà HCM đặt ra trong TNĐL, là nói đến ý chí khát vọng dân tộc được độc
lập, tự do, người dân được hạnh phúc. Trong đoạn trích, HCM đã khái quát được chặng đường đấu
tranh cách mạng của dân tộc VN thông qua những sự kiện lịch sử: mùa thu năm 1940, ngày 9 tháng
3, tổ chức Việt Minh, Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại
thoái vị, nước VN độc lập, chế độ dân chủ cộng hòa,.. Dân tộc cùng lúc phải đấu tranh chống Pháp,
chống Nhật và chống cả giặc đói.

- Cách mạng thắng lợi, chủ quyền dân tộc được khẳng định, nhân dân được làm chủ vận mệnh của
mình, chủ nhân của đất nước. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được
tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Đây là vị thế mới của dân tộc. Lời khẳng định của HCM đã soi sáng chân lí thời đại không có gì
quý hơn độc lập tự do.

2.2. Đoạn trích xứng đáng là áng văn lập quốc của người mang vẻ tư tưởng, tình cảm thời đại

- Hành trình HCM tìm đường cứu nước là hành trình đi tìm chân lí, con đường giải phóng dân tộc
phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với sự vận động của xã hội hiện đại. Vì vậy, khi nhìn lại
chặng đường cách mạng đã qua, TNĐL đã phác họa được con người tư tưởng, tinh thần HCM, một
người chiến sĩ trên tuyến đầu hòa trong những bước đi chung của lịch sử. Mỗi sự kiện là mỗi trạng
thái tinh thần, tâm hồn của Người được bộc lộ:
+ Người đau chung với nỗi đau của dân tộc, nhân dân: Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp
và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ
Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói; Bọn thực dân Pháp đã không đáp
ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm
giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Những câu văn ngấn lệ của người. Chỉ ngắn
gọn ấy thôi mà nỗi đau như được vẽ ra qua các trang văn của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân,..những vần thơ của Văn Cao, Tố Hữu, những nhân vật văn học
như bước ra từ đời sống, như một Chị Dậu một anh Pha, một Chí Phèo,…cho đến một anh Tràng,
một người mẹ nghèo như Bà cụ Tứ,..đều mang nỗi đau của dân tộc như thế.

+ Người tự hào và xúc động trước truyền thống nhân văn, truyền thống yêu nước của dân tộc trong
suốt hành trình: đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày
9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người
Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.,..Pháp chạy, Nhật hàng, vua
Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên
nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ
Dân chủ Cộng hòa. Có lẽ trong TNĐL, đây là những câu văn mang khí phách của một Thánh Gióng
ra trận đánh giặc Ân, hào khí Đông A của thời đại vua tôi nhà Trần 3 lần đánh tan quân Nguyên
Mông; một bản anh hùng ca thời Lê Lợi, khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo,…đó là khí phách
của một dân tộc yêu hòa bình, “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Sức
mạnh của tinh thần yêu nước còn được HCM lí giải từ chính chủ nhân của đất nước: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
+ Người thể hiện niềm vui hân hoan, niềm tin mãnh liệt về chặng đường mới của nước VN mới –
VNDCCH: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan
góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó
phải được độc lập! Độc lập tự do là chân lí của thời đại. Độc lập tự do đã được HCM lí giải từ chính
khát vọng tột bậc của Người: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành".
- Dù giá trị văn học lồng trong các giá trị khác, nhưng người đọc vẫn xúc động và tự hào trước hết
từ sự lan tỏa của nhân cách, tâm hồn của con người mang tầm vóc thời đại – HCM.

- Quan điểm đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là áng văn lập quốc của một người yêu
nước giàu tình cảm và trí tuệ bậc nhất của thời đại là nhận định đúng, mang lại nhiều ý nghĩa cho
người đọc. Nhận định này được thể hiện xuyên suốt trong văn bản, mỗi phần, mỗi đoạn văn trong
TNĐL đều thể hiện nội dung của nhận định. Đoạn trích trong ngữ liệu thuộc phần nội dung của
TNĐL không chỉ phản ánh sự kiện lịch sử trọng đại lập quốc mà còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn tình
cảm của HCM. Nội dung sâu sắc này được thể hiện hài hòa qua nghệ thuật lập luận mẫu mực của
HCM, giọng văn vừa trang nghiêm vừa hùng hồn.
- Phong cách NT HCM: Văn chính luận của Người ngắn gọn, súc tích, bằng chứng đầy thuyết phục
giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. Văn chính luận mà vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình
ảnh, giọng tình đạt lí, như đưa lẽ phải vào lòng người, khi lại rất mạnh mẽ và hùng hồn.
Tác phẩm lôi cuốn người đọc không chỉ bằng những sự việc được miêu tả rất chân thực, cứ liệu
phong phú, chính xác mà còn ở thái độ, tình cảm sâu sắc mãnh liệt của tác giả và nghệ thuật châm
biếm đả kích sắc sảo, giàu chất trí tuệ. Người viết còn rất thành công khi kể lại những câu chuyện
nhỏ nhưng có tác dụng sâu sắc trong việc tố cáo tội ác của bọn chủ nghĩa thực dân.

C. Tuyên ngôn độc lập của HCM xứng đáng là áng văn lập quốc, trong đó nghệ thuật lập luận chính là
KẾT điểm tựa cho sự vận động của sự kiện và tư tưởng. Đằng sau lớp ngôn ngữ chính trị, xã hội, lịch sử
BÀI là con người tinh thần HCM mẫu mực về đạo đức, tư tưởng và phong cách thời đại. Đoạn trích đã
mạnh mẽ bác bỏ những luận điệu sai trái, xảo trá của Pháp, tố cáo tội ác của TDP và phát xít Nhật
đã gây ra cho nhân dân ta; Đồng thời., vẻ đẹp nhân văn, yêu nước của dân tộc được tiếp nối trở
thành sức mạnh tinh thần, mang tầm vóc nhân loại. Hơn 70 năm trôi qua, xã hội hôm nay đang đổi
thay từng ngày, dân tộc đang vươn mình phát triển, con người ngày càng được chăm lo, bồi dưỡng,
…Tương lai tươi sáng đang đón chờ con người VN, dân tộc VN. Vinh quang như thế, chúng ta cần
phải nỗ lực học tập, rèn luyện không ngừng. Vinh quang như vậy, chúng ta không thể nào quên
được học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức phong cách HCM. Mỗi tác phẩm của Người
xứng đáng là ngọn hải đăng chỉ đường cho chúng ta đi…!

Tuyên ngôn độc lập của HCM xứng đáng là áng văn lập quốc, trong đó nghệ thuật lập luận chính là
điểm tựa cho sự vận động của sự kiện và tư tưởng. Dừng lại ở từng chữ, từng câu, mỗi chúng ta thấy
được tầm cao trí tuệ trác việt sáng người; thấy được tận cùng cảm xúc hân hoan hạnh phúc. …..
Hơn 70 năm trôi qua, xã hội hôm nay đang đổi thay từng ngày, dân tộc đang vươn mình phát triển,
con người ngày càng được chăm lo, bồi dưỡng,…Tương lai tươi sáng đang đón chờ con người VN,
dân tộc VN. Vinh quang như thế, chúng ta cần phải nỗ lực học tập, rèn luyện không ngừng. Vinh
quang như vậy, chúng ta không thể nào quên được học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức
phong cách HCM. Mỗi tác phẩm của Người xứng đáng là ngọn hải đăng chỉ đường cho chúng ta
đi…!

You might also like