You are on page 1of 33

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT QUỐC TẾ


TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ ĐẦU TƯ
QUY ĐỊNH TẠI HIỆP ĐỊNH EVIPA

MÔN: PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ QUỐC TẾ


GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN PHƯỢNG AN
LỚP: QUỐC TẾ 44.2

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2021

1
DANH SÁCH SINH VIÊN VÀ PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

GHI
STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ
CHÚ

Phụ trách chung;


Kiểm tra, chỉnh sửa, tổng hợp và chốt nội
Nguyễn Lâm Nhi
1 195.380101.5157 dung; trình bày thể thức
(nhóm trưởng)
Soạn nội dung chương 4
Kiểm tra nội dung bài Như Quỳnh

Nguyễn Gia
2 195.380101.5098 Soạn nội dung mục 2.2,
Khiêm Kiểm tra nội dung bài Ngọc Thà

Nguyễn Soạn nội dung mục 1.3, 1.4, 1.5


3 195.380101.5109 Kiểm tra nội dung bài Phương Quỳnh
Trần Ái Linh
Kiểm tra thể thức

Soạn nội dung của mục 2.1, 2.2, 2.3, 3.1


4 Nguyễn Yến Nhi 195.380101.5158
Kiểm tra bài Gia Khiêm

Phạm Thị Soạn nội dung mục 3.2


5 195.380101.5184 hỗ trợ trình bày thể thức
Như Quỳnh
Kiểm tra nội dung bài Lâm Nhi

Phạm Trần
6 Phương 195.380101.5185 Soạn nội dung: lời nói đầu, 1.1 và tổng kết
Kiểm tra nội dung bài Ái Linh
Quỳnh

Trần Thị Diễm


7 195.380101.5186 Soạn nội dung của mục 1.1, 1.6, 1.7, 5.1
Quỳnh Kiểm tra nội dung bài Ngọc Thà

8 Đặng Ngọc Thà 195.380101.5193 Soạn nội dung của mục 1.8
Kiểm tra nội dung bài Gia Khiêm

2
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN GIỮA VIỆT NAM – EU VÀ
HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – EU (EVIPA)..............................................................7
1.1 Định nghĩa tranh chấp đầu tư và hiệp định bảo hộ đầu tư...................................................................7
1.2. Tình hình thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU..........................................................................8
1.3. Một số vụ việc tranh chấp thực tế giữa Việt Nam và EU...................................................................9
1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp..........................................................................................11
1.5. Nội dung khởi kiện, các lĩnh vực có thể diễn ra tranh chấp chủ yếu................................................12
1.6. Sự cấp thiết của việc ra đời hiệp định...............................................................................................12
1.7. Bối cảnh ra đời EVIPA.....................................................................................................................13
1.8. Các mốc thời gian chính...................................................................................................................16
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHÍNH CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA EVIPA..........16
2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp...................................................................................................16
2.1.1. Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa chính phủ – chính phủ:.......................................16
2.1.2. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư....16
2.2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp....................................................................................................17
2.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal)..........................................................17
2.2.2. Hội đồng xét xử sơ thẩm (instance tribunal)..........................................................................18
2.2.3. Hội đồng xét xử phúc thẩm (appeal tribunal)........................................................................19
2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp...........................................................................................................19
2.3.1. Trình tự giải quyết tranh chấp của phương thức hoà giải và tham vấn.................................19
2.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài.............................20
2.3.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo phương thức toà án..........................................20
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ MẶT LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP.........21
3.1. Đối với EU........................................................................................................................................21
3.2. Đối với Việt Nam..............................................................................................................................23
3.2.1. Những điểm đặc biệt cần lưu ý của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA....................23
3.2.2. So sánh giữa tranh chấp đầu tư EVIPA và truyền thống.......................................................25
3.3.3. Đánh giá tác động của cơ chế đối với Việt Nam....................................................................26
CHƯƠNG 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM.................................................26
CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRƯỚC KHI THỰC THI HIỆP ĐỊNH. .28
TỔNG KẾT............................................................................................................................................31

3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nguyên âm tiếng Việt Nguyên văn tiếng Anh

Vietnam – EU Investment
EVIPA (IPA) Hiệp định Bảo hộ đầu tư
Protection Agreement

Hiệp định thương mại tự do Liên The European Union Vietnam Free
EVFTA
minh châu Âu – Việt Nam Trade Agreement

EP Nghị viện châu Âu European Parliament

EU Liên minh châu Âu European Union

Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu Investor – State dispute
ISDS
tư và nhà nước settlement

Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật United Nations Commission on


UNCITRAL
Thương mại quốc tế International Trade Law

International Investment
IIAs Hiệp định đầu tư quốc tế
Agreements

FTA Hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement

Hội nghị Liên hiệp Quốc về


Thương mại và Phát triển (Diễn United Nations Conference on
UNCTAD
đàn Thương mại và Phát triển Liên Trade and Development
Hiệp Quốc)

Comprehensive and Progressive


Hiệp định Đối tác Toàn diện và
CPTPP Agreement for Trans - Pacific
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Partnership

Trung tâm quốc tế giải quyết tranh International Centre for Settlement
ICSID
chấp và đầu tư of Investment Dispute

4
LỜI NÓI ĐẦU
Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS) nên được thiết
kế như thế nào trong các hiệp định đầu tư đang trở thành đề tài gây tranh luận tại các diễn đàn
đa phương trong khuôn khổ các nhóm công tác của Liên Hợp Quốc hoặc Ngân hàng Thế giới.
Mặc dù còn những quan ngại và quan điểm trái chiều, song ISDS vẫn đang tồn tại và phát triển.
Gần đây nhất, Việt Nam cam kết về cơ chế này trong Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam -
Liên minh châu Âu (EVIPA).
Hiệp định bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam - EU (EVIPA) là sự thỏa thuận giữa Việt Nam
và 27 nước thành viên EU. Đây là một trong hai Hiệp định được tách ra từ Hiệp định thương
mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA). Theo quy định, Hiệp định EVIPA cần phải
được Quốc hội Việt Nam, EP và Nghị viện các nước thành viên EU phê duyệt. Cho đến hiện
nay Hiệp định EVIPA vẫn chưa có hiệu lực. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư
tại Hiệp định đã được Quốc hội Việt Nam tham gia biểu quyết với số phiếu tán thành cao
95,45% bằng việc thông qua Nghị quyết 103/2020/QH14 giữa một bên là nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và một bên là Liên minh châu Âu và các nước thành viên Liên minh
Châu Âu. Hiệp định vẫn đang tiếp tục chờ các Nghị viện quốc gia thành viên EU xem xét, phê
chuẩn EVIPA trong thời gian tới.
Trong khuôn khổ bài viết này, nhóm chúng tôi sẽ phân tích, làm rõ các vấn đề trong cơ
chế giải quyết giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ nước tiếp nhận
đầu tư được quy đinh tại Hiệp định EVIPA, từ đó đưa ra một số khuyến nghị, đề xuất giải pháp
để thực thi hiệu quả các cam kết về ISDS.

5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ THỰC TIỄN GIỮA VIỆT NAM – EU
VÀ HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ VIỆT NAM – EU (EVIPA)
1.1 Định nghĩa tranh chấp đầu tư và hiệp định bảo hộ đầu tư
Về tranh chấp đầu tư:
Cho đến hiện nay vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào đưa ra định nghĩa cụ thể về tranh
chấp đầu tư quốc tế. Nhưng trên thực tế, trong quá trình giải quyết các tranh chấp về đầu tư thì
Hội đồng trọng tài của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã áp dụng khái niệm
tranh chấp tương tự đồng thời cũng dựa vào cách định nghĩa của Toà án Thường trực Công lý
quốc tế và Toà án Công lý quốc tế để giải quyết các vụ việc. Theo Toà án Thường trực Công lý
quốc tế (tiền thân của Toà án Công lý quốc tế) đưa ra định nghĩa về tranh chấp như sau:
“Tranh chấp là sự bất đồng về mặt pháp lý hay trên thực tế, sự xung đột về mặt quan điểm
pháp lý hoặc lợi ích giữa hai hay nhiều người trở lên. Trong một phán quyết khác của Toà án
Công lý quốc tế thì cho rằng “Tranh chấp được hiểu là một tình huống trong đó hai bên có các
quan điểm đối lập liên quan tới câu hỏi về thực hiện hoặc không thực hiện một nghĩa vụ nào
đó trong hiệp ước”. Cùng với đó, Từ điển Luật học Black thì định nghĩa:“Tranh chấp được
hiểu là mâu thuẫn hay bất đồng về các yêu cầu hay quyền lợi giữa các bên; sự đòi hỏi về yêu
cầu hay quyền lợi của một bên bị đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược từ bên kia”. 1
Như vậy ta có thể hiểu, tranh chấp đầu tư quốc tế là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ đầu tư quốc tế, phát sinh từ các Hiệp định có liên
quan tới đầu tư quốc tế, Hiệp định bảo hộ đầu tư hoặc hợp đồng, thoả thuận giữa các bên trong
lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh đó, tranh chấp đầu tư quốc tế còn gọi là tranh chấp giữa các nhà đầu
tư nước ngoài với Chính phủ các nước tiếp nhận đầu tư, tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước
ngoài về những vấn đề liên quan đến việc thực thi các cam kết đầu tư quốc tế, ngoài ra còn có
tranh chấp giữa các Chính phủ thành viên về việc giải thích và áp dụng các Hiệp định đầu tư
quốc tế song phương và đa phương.
Về cơ chế giải quyết tranh chấp:
Có đa cách giải nghĩa từ “cơ chế”. Theo Từ điển phương Tây “Le Petit Larousse” (1999)
giảng nghĩa từ cơ chế là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau",
hay theo từ điển tiếng Việt cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình thực hiện". Đồng thời,
giải quyết tranh chấp là việc đưa ra các vấn đề cần xem xét, xử lí giải quyết những mâu thuẫn
giữa các bên.

1
Tham khảo: ThS. Nguyễn Thị Anh Thơ, Khoa Pháp luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội “Cơ chế giải
quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên” , Page:
Nghiên cứu Lập Pháp (Viện nghiên cứu Lập Pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội) ngày 26/02/2020.

6
Vậy nên cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ là cách thức sắp xếp tổ chức các vấn đề cần
xem xét giải quyết và ra quyết định xử lí các tranh chấp mâu thuẫn về các yêu cầu hoặc quyền
lợi giữa các bên. Cơ chế giải quyết tranh mang tính khách quan, chính xác và sự minh bạch cao
đề ra phương thức giải quyết để làm giảm thiểu sự tranh chấp.
Về hiệp định bảo hộ đầu tư:
Trên cơ sở quy định về điều ước quốc tế trong Công ước viên về Luật điều ước quốc tế
1969 và Luật điều ước quốc tế 2016 của Việt Nam, có thể hiểu hiệp định là thỏa thuận bằng
văn bản được ký kết giữa các quốc gia, được pháp luật quốc tế điều chỉnh. Và hiệp định bảo hộ
đầu tư là một trong số đó. Hiệp định bảo hộ đầu tư mang nội dung như một rào chắn nhằm bảo
vệ và giải quyết các vấn đề tranh chấp đầu tư. Nhằm tạo ra và duy trì những điều kiện thuận lợi,
công bằng và thỏa đáng giữa hai bên ký kết đồng thời, khuyến khích việc đầu tư nguồn vốn,
công nghệ và sự phát triển của các bên ký kết bởi sự an tâm của hiệp định tạo nên.
Theo đó, Hiệp định Bảo hộ đầu tư mà ta ký với Liên minh Châu Âu mang nhiều nội dung rất
mới, tạo nên chế định phòng ngừa và giải quyết tranh chấp đầu tư mang tính tiên phong và giá
trị hơn bao giờ hết.
1.2. Tình hình thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU
Mối quan hệ giữa Việt Nam và EU khẳng định tinh thần đối tác tin cậy, hữu nghị và
cùng chia sẻ tầm nhìn lâu dài của hai bên trong việc nâng cao quan hệ song phương cũng như
cùng nỗ lực đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển ở hai khu vực và trên thế giới. Hiệp
định khung về Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) được ký kết ngày 27 tháng
6 năm 2012 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 2016 với các cam kết mạnh mẽ trên nhiều
lĩnh vực đã thể hiện rõ nét chủ trương, chính sách tăng cường phát triển hợp tác toàn diện và
sâu sắc với EU. Năm 2019, EU có 2.375 dự án (tăng 182 dự án so với năm 2018) từ 27/28 quốc
gia thuộc EU còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 25,49 tỉ USD (tăng 1,19 tỉ
USD) chiếm 7,70% số dự án của cả nước và chiếm 7,03% tổng vốn đầu tư đăng ký của các
nước. Trong đó Hà Lan đứng đầu với 344 dự án và 10,05 tỉ USD, chiếm 39,43% tổng vốn đầu
tư của EU tại Việt Nam (tăng 26 dự án và 692,76 triệu USD vốn đầu tư). Vương quốc Anh
đứng thứ hai với 380 dự án và 3,72 tỉ USD tổng vốn đầu tư, chiếm 14,58% tổng vốn đầu tư
(tăng 29 dự án và 210,10 triệu USD vốn đầu tư). Pháp đứng thứ ba với 563 dự án và 3,60 tỉ
USD tổng vốn đầu tư, chiếm 14,13% tổng vốn đầu tư (tăng 23 dự án nhưng giảm 72,07 triệu
USD vốn đầu tư). Hiện nay, EU là khu vực chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và châu Âu, là đối tác thương mại lớn hàng đầu và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2
của Việt Nam (sau Hoa Kỳ).2

2
Xem: Thời báo kinh tế Sài Gòn (ngày 19/03/2020) Số 12.2020(1.527)

7
1.3. Một số vụ việc tranh chấp thực tế giữa Việt Nam và EU
Tuy nhiên, việc tranh chấp đầu tư là không thể tránh khỏi khi EU là một thị trường với
dung lượng lớn và đa dạng. Một số vụ kiện điển hình về tranh chấp trong đầu tư quốc tế của
Việt Nam với EU phải kể đến:
Vụ kiện Đầu tư quốc tế thứ hai mà Việt Nam thắng kiện vào năm 2015 giữa nhà đầu tư
Pháp (DialAsie) (nguyên đơn) và Chính phủ Việt Nam (bị đơn) trong dự án Bệnh viện Quốc tế
thận và lọc thận tại Tòa án Hà Lan từ năm 2011.
Bệnh viện DialAsie ký hợp đồng thuê tòa nhà của Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại
TP.HCM (Sài Gòn Co.op) với giá 23.000 USD/tháng tọa lạc tại đường Điện Biên Phủ, Quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng sau đó, do không thể chi trả được tiền thuê toà nhà nên
DialAsie bị Sài Gòn Co.op kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Trong vụ kiện này,
DialAsie đã bị xử thua và phải thanh toán số tiền hơn 571.000 USD. Bên cạnh đó, theo công
văn của Bộ Y tế quyết định bệnh viện này phải ngừng tiếp nhận bệnh nhân và chuyển các bệnh
nhân đang điều trị tại đây tới trung tâm y tế khác. Tuy nhiên, sau đó Bệnh viện DialAsie cũng
không thanh toán được khoản tiền hơn 571.000 USD (khoảng 8 tỷ đồng) này cho Sài Gòn
Co.op nên Sài Gòn Co.op đã đưa đơn khởi kiện Bệnh viện DialAsie ra Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam. DialAsie cho rằng mình bị đối xử không công bằng nên đã kiện Chính phủ
Việt Nam tới Toà trọng tài Quốc tế vào năm 2011. Sau một thời gian dài xem xét, thụ lý vụ án
Hội đồng trọng tài tại Tòa trọng tài thường trực tại La Haye đã ban hành phán quyết với nội
dung:
Không có bất cứ một cơ quan Nhà nước nào của Chính phủ Việt Nam vi phạm Hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt - Pháp, vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc thực hiện
bất cứ một hành vi sai trái nào; mọi hành động của Sài Gòn Co.op hoàn toàn tuân theo pháp
luật Việt Nam và không thể quy các hoạt động của Sài Gòn Co.op là hành động của Chính phủ
Việt Nam.
Do đó, Hội đồng trọng tài quốc tế La Haye đã bác bỏ toàn bộ nội dung khởi kiện của
DialAsie đối với Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Việt Nam cũng không phải bồi thường cho
nguyên đơn bất cứ một chi phí nào theo yêu cầu khởi kiện.
Kể từ khi phát sinh vụ tranh chấp đầu tư quốc tế đầu tiên (năm 2010), số lượng các vụ
tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể. Tính đến tháng
9/2019, theo số liệu thống kê sơ bộ của Bộ Tư pháp, có 10 vụ tranh chấp nhà đầu tư nước ngoài
và nhà nước tại trọng tài quốc tế, 22 vụ nhà đầu tư thông báo ý định khởi kiện trong năm 2019,
19 vụ việc khác đang được giải quyết tại các cơ quan tố tụng Việt Nam và 129 vụ việc khác
đang được giải quyết tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

8
Thông qua các vụ tranh chấp, ta có thể thấy, đa phần các quốc gia đang phát triển đều
đang “loay hoay” tìm kiếm mô hình hiệu quả cho việc phòng ngừa và giải quyết tranh chấp,
đặc biệt khi các quốc gia này phải đối phó với những vướng mắc về: tổ chức bộ máy của cơ
quan giải quyết tranh chấp, nguồn nhân lực và tài chính cho việc giải quyết tranh chấp đang
ảnh hưởng lớn đến khả năng tự bảo vệ của họ trong tranh chấp đầu tư quốc tế. Với bối cảnh đó,
một trong những mô hình mà các quốc gia này, trong đó có Việt Nam theo đuổi đó là ký kết và
gia nhập các hiệp định thương mại tự do, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Những cải
tổ đối với cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong Hiệp định
EVIPA có thể là ví dụ cho những nỗ lực nêu trên. Nắm bắt được sự cấp thiết ấy, cơ chế giải
quyết tranh chấp đầu tư giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong Hiệp định EVIPA đã có những
điểm tiến bộ nhất hiện nay.
Vụ kiện tiếp theo từng gây ra nhiều tranh cãi và được dư luận hết sức quan tâm đó là vụ
việc tranh chấp giữa nguyên đơn là nhà đầu tư Hà Lan (Trịnh Vĩnh Bình) và bị đơn là Chính
phủ Việt Nam.
Ông Trịnh Vĩnh Bình - một triệu phú nổi tiếng của Hà Lan vì đã bán sỉ chả giò cho các
siêu thị từng đưa hơn 3 triệu đô la Mỹ về Việt Nam làm ăn và đầu tư trong nước vào cuối năm
1987. Tuy nhiên vào năm 1998, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt giữ ông với cáo buộc hối lộ và vi
phạm quy định về quản lý – bảo vệ đất đai nên ông Bình đã bị giam 18 tháng và 1 năm 6 tháng
quản chế. Sau đó, ông bị tịch thu toàn bộ tài sản và lãnh án 11 năm tù vào năm 1999. Trong
thời gian được tại ngoại ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam.
Vụ kiện lần đầu này được đưa ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Stockholm xét xử vào
tháng 12 năm 2006 nhưng phía nhà nước Việt Nam đã thương lượng với ông Trịnh Vĩnh Bình
ngoài tòa nhằm ký một thỏa thuận vào năm 2006. Hai bên thỏa thuận với nhau như sau: Phía
Chính phủ Việt Nam đồng ý xóa án cho ông Bình, đồng thời bồi thường 15 triệu đô la Mỹ và
trả lại toàn bộ tài sản đã tịch thu cho nguyên đơn. Đổi lại thì ông Bình phải rút đơn kiện
khỏi Tòa án Trọng tài Quốc tế, cũng như không tiết lộ nội dung thỏa thuận trên.
Nhưng đến tháng 1 năm 2015, ông Bình lại tiếp tục đâm đơn kiện Chính phủ Việt Nam
lần thứ hai, với lý do Chính phủ Việt Nam không thực hiện đúng những cam kết mà trước đó
hai bên đã thỏa thuận. Cùng với đó, ông cũng đòi bồi thường 1,25 tỷ đô la vì Việt Nam đã vi
phạm luật đầu tư liên quan đến Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương giữa Hà
Lan và Việt Nam. Hơn nữa, bị đơn còn vi phạm nhân quyền vì bắt giữ ông trái pháp luật (nhốt
người oan sai).
Theo phán quyết của Toà Trọng tài Quốc tế ở Paris đưa ra hồi tháng 4 năm 2019, Chính
phủ Việt Nam phải trả 37.581.596 đô la tiền bồi thường thiệt hại và gần 7,9 triệu đô la án phí
cho “vua chả giò” Trịnh Vĩnh Bình, nhưng Việt Nam lại từ chối trả những tài sản còn lại ở Việt

9
Nam cho ông. Mặt khác, ông Bình cũng xác nhận thông tin về việc thanh toán tiền trong một
phỏng vấn với RFA hôm 20/4/2019 rằng: Số tiền phán quyết một phần đó Chính phủ Việt Nam
đã trả. Đồng thời ông cũng cho biết thêm: Số tiền mà Tòa án đưa ra trong phán quyết chỉ là một
phần rất nhỏ trong tổng số tiền tổn thất mà ông đòi từ phía Chính phủ Việt Nam. Theo những gì
ông Bình tiết lộ thì nguyên đơn vẫn còn một số tài sản ở Việt Nam nhưng không cho biết cụ thể
những tài sản đó là gì và giá trị của nó là bao nhiêu. Dù vậy, nhưng theo ước tính số tiền thiệt
hại mà ông phải chịu do những vi phạm của Chính phủ Việt Nam tính theo thời giá hiện tại lên
đến 2,5 tỷ đô la. Trong một bài phỏng vấn mới đây, ông Bình cho biết ông đang xúc tiến ít nhất
hai vụ kiện mới đối với Chính phủ Việt Nam nhưng không tiết lộ cụ thể nội dung các vụ kiện
này là gì. Nói về phần tiền đền bù trong phán quyết mới nhất, ông nói: Phần mà Việt Nam đền
bù là không đủ, chỉ được một phần nên tôi sẽ tiếp tục đòi vì đây là những tài sản mà tôi đã đầu
tư nhiều năm ở thị trường Việt Nam. Khi được hỏi về khả năng ông sẽ quay lại Việt Nam đầu
tư trong tương lai hay không, ông Bình cho biết thêm: Thực ra, Việt Nam ngày càng mở cửa về
phương diện luật pháp. Nhưng khi có đụng chạm gì thì trên thực tế các cơ quan thực thi pháp
luật ở Việt Nam không thực hiện đúng như quy định của luật pháp. Đây là một vấn đề đầy nhức
nhối. Ông vẫn không tin tưởng vào môi trường đầu tư tại Việt Nam, đây chính là cản trở lớn
nhất đối với ông khi đưa ra quyết định đầu tư ở thị trường này.
Mặt khác, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam Mai Tiến Dũng trong
một lần phỏng vấn báo chí trong nước sau khi có thông tin vụ kiện của ông Bình được đưa ra
Toà Trọng tài Quốc tế vào năm 2017 đã nói rằng: Quan điểm của Chính phủ, Thủ tướng là tạo
môi trường kinh doanh bình đẳng, hợp pháp cho các doanh nghiệp nước ngoài vào trong nước
đầu tư. Và Tòa án quốc tế cũng đang xem xét việc tranh chấp trên có vi phạm điều luật hay
không. Như báo chí, truyền thông đều đã biết, vì đây là vấn đề bảo hộ đầu tư nên khi một địa
phương hay một cơ quan nào vi phạm hoặc không thực hiện đúng thỏa thuận, cam kết, điều luật
thì nhà đầu tư nước ngoài đều kiện Chính phủ Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là một khi hành lang pháp lý ở Việt Nam chưa ổn thì sẽ có rất nhiều nhà
đầu tư nước ngoài e dè, không muốn đầu tư ở thị trường nước ta. Chính vì vậy mà điều đó cũng
đã phần nào gây trở ngại rất lớn cho nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Do đó, Chính phủ
Việt Nam cần có những giải pháp tối ưu, hiệu quả nhất để khắc phục những hạn chế, yếu kém
nêu trên.
1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp
Trên thực tế, đa số các vụ tranh chấp về bảo hộ đầu tư phát sinh theo hiệp định EVIPA
là do nhà đầu tư cho rằng nước tiếp nhận đầu tư không thực hiện đúng hoặc không thực hiện,
thực hiện không đầy đủ sự bảo hộ như những gì mà họ đã thỏa thuận, cam kết trong Hiệp định
hoặc phát sinh ngoài thỏa thuận. Như vậy, tranh chấp về đầu tư có thể kể đến là tranh chấp giữa

10
nhà đầu tư nước ngoài với Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư; tranh chấp về những vấn đề liên
quan đến việc thực thi các cam kết trong Hiệp định Bảo hộ đầu tư. Mặt khác, còn có những
tranh chấp giữa các chính phủ thành viên về việc giải thích và áp dụng hiệp định, hay các loại
tranh chấp giữa thương nhân và thương nhân trong thương mại quốc tế nhưng khởi nguồn là
tranh chấp đầu tư quốc tế.
Hiệp định EVIPA được xây dựng với mục đích nhằm khuyến khích các nhà đầu tư cam
kết lâu dài về nguồn vốn, tài chính trên cơ sở sự đối xử công bằng, thỏa đáng mà quốc gia tiếp
nhận đầu tư đã cam kết, giải quyết các vụ việc tranh chấp và đảm bảo khoản bồi thường thỏa
đáng cho nhà đầu tư bị thiệt hại. Đồng thời, giúp ngăn chặn những hành vi đối xử bất công của
Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (nước chủ nhà) đối với nhà đầu tư nước ngoài và đem lại lợi
ích cho công dân và các tập đoàn, công ty của các nước ký kết thông qua việc dành cho họ sự
bảo hộ nhất định theo pháp luật quốc tế. Trong một báo cáo nghiên cứu của Hội nghị Liên hiệp
Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCATD) đã chỉ ra rằng việc quy định các cơ chế giải
quyết tranh chấp về đầu tư cũng được xem như là “sự bảo đảm cuối cùng để bảo vệ nhà đầu tư
nước ngoài”.3
1.5. Nội dung khởi kiện, các lĩnh vực có thể diễn ra tranh chấp chủ yếu
Liên quan đến hoạt động đầu tư, khoản đầu tư được bảo hộ như vốn, khoản nợ, hoạt
động kinh doanh, tài sản và quyền tài sản hoặc liên quan đến phạm vi việc thực hiện các nghĩa
vụ theo quy định của hợp đồng, điều ước quốc tế. Các dự án của các nhà đầu tư EU sẽ được thu
hút có chọn lọc, chất lượng, tập trung vào các lĩnh vực như: công nghiệp chế biến, chế tạo, sử
dụng công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ
ngân hàng, tài chính, dự án có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và
cung ứng toàn cầu. Đây là một số lĩnh vực mà EU có tiềm năng và thế mạnh nên cũng được
xem là các lĩnh vực gây nên tranh chấp giữa các bên.
1.6. Sự cấp thiết của việc ra đời hiệp định
Một sự kiện quan trọng, đặt dấu mốc lịch sử mới nhất trong quan hệ hai bên chính là
việc ký kết, phê chuẩn và chính thức có hiệu lực của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam –
EU (EVFTA) từ ngày 01/8/2020 với phạm vi cam kết sâu rộng, tạo thêm nhiều đột phá, mở ra
triển vọng mới cho quan hệ hợp tác Việt Nam và EU, từ đó tách nội dung bảo hộ đầu tư ra
thành một hiệp định riêng là Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU.

3
Tham khảo: Bùi Hồng Hạnh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (2020) “Quan hệ
Việt Nam – Liên minh Châu âu: Từ Hiệp định khung về hợp tác đến Hiệp định Thương mại tự do”,
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/819660/quan-he-viet-nam---lien-minh-chau-au--tu-
hiep-dinh-khung-ve-hop-tac-den-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do.aspx, truy cập ngày 3/6/2021.

11
Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) thể hiện một bước đi lớn để đưa Việt
Nam từ một nước đi sau vươn lên thuộc nhóm nước đi đầu trong khu vực trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.4
Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) được thông qua nhằm khẳng định
mong muốn, lợi ích và quyết tâm của hai bên tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa và tạo những đột phá
mới nâng tầm quan hệ đối tác toàn diện sau 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao không những
về mặt thương mại mà còn là pháp luật quốc tế.
Từ trước đến nay, sự bận tâm về các vấn đề liên quan đến tài sản, vấn đề pháp lý khi đầu
tư vào một doanh nghiệp nước ngoài luôn là mối trở ngại cản trở các nhà đầu tư mở rộng thị
trường của các nhà đầu tư trong nước. Không chỉ rào cản về ngôn ngữ mà còn là các tranh chấp
ngoài thỏa thuận, các vấn đề bảo hộ doanh nghiệp, các vấn đề phân biệt đối xử, v.v… luôn
khiến doanh nghiệp Việt Nam chùn bước khi muốn làm chủ thị trường nước ngoài. Hiệp định
EVIPA thực thi, phần nào giúp các nhà đầu tư cảm thấy an toàn về vấn đề bảo hộ tài sản một
cách công bằng và thỏa đáng. Đồng thời nhờ vào hiệp định, các nhà đầu tư sẽ được cam kết bồi
thường tài sản của mình nếu như tài sản bị phá hoại hay không bị “trưng mua quốc hữu hóa”. 5
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, việc thực hiện cam kết theo Hiệp định EVIPA vừa
được phê chuẩn tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, sẽ là động lực thúc đẩy Việt Nam tiếp
tục hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo
hướng ngày càng thuận lợi, bình đẳng, an toàn, minh bạch và thân thiện hơn đối với nhà đầu tư
thuộc mọi thành phần kinh tế.6
Là một nước đang phát triển nên Việt Nam phải hằng ngày cố gắng phát triển nền kinh
tế đầu tư để vươn lên. Đi cùng với đó chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi sự phụ thuộc hay sự
nhượng bộ đối với các nước lớn khác trên thế giới. Tuy nhiên khi hiệp định EVIPA được phê
duyệt và tiến hành, các vấn đề về giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác đã
có được sự chuyển biến. Nội dung của hiệp định giúp giải quyết các vấn đề về tranh chấp quốc
tế được thực thi một cách minh bạch. EVIPA giúp các nhà đầu tư trong nước tự tin hơn, cố
gắng hơn để hoàn thiện doanh nghiệp và không bị hạn chế các quyền trong một thế giới các
quốc gia đều cố gắng vươn mình.
1.7. Bối cảnh ra đời EVIPA
Bối cảnh thế giới

4
Lại Thị Vân Anh, Pháp luật quốc tế và thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, Tài liệu kiến thức, kỹ
năng pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế cho công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp, Hà Nội.
5
Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh (2021), EVIPA: Cân bằng cho cả Việt Nam và EU, Trung tâm WTO và hội nhập,
Hà Nội truy cập ngày 13/6/2021.
6
Phạm Sỹ Chung (2020), Vấn đề bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam,
truy cập ngày 13/6/2021.

12
Năm 2020, đại dịch COVID - 19 đã khiến mức tăng trưởng của nhiều nền kinh tế trên
toàn cầu bị suy giảm mạnh, điều chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ qua. Bối cảnh tình hình
kinh tế chính trị đang có nhiều diễn biến phức tạp và khó có thể đoán định. Hệ lụy của nó đang
khiến các nhà đầu tư cảm thấy lo sợ, sự đầu tư của các nước hay liên minh lớn đối với các nước
nhỏ đang dần trở nên ít đi. “Xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương khó
có thể được đảo ngược trong vòng 5 - 7 năm tới”.7
Vấn đề đầu tư bảo hộ của mỗi quốc gia vẫn còn là một dấu hỏi lớn đối với các nhà đầu
tư thế nên hoàn toàn có thể đánh giá đó là một thử thách của các quốc gia đang phát triển.
Trong năm 2021 và những năm tiếp theo được dự báo tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức
đối với nền kinh tế toàn cầu. Tuy vậy, trong 4 tháng đầu năm 2021, nền kinh tế thế giới đã dần
có dấu hiệu khởi sắc mặc dù xu hướng vốn đầu tư trực tiếp toàn cầu vẫn yếu. Toàn cầu hóa
chuyển dần sang khu vực hóa thương mại đầu tư với sự ra đời của nhiều sáng kiến ở cấp độ khu
vực, sẽ có sự kết hợp giữa bảo hộ và khu vực hóa các chuỗi giá trị, thay đổi theo từng lĩnh vực
khác nhau. Hậu quả của đại dịch COVID - 19 vẫn đang kéo dài khiến các vấn đề đầu tư trở nên
khó khăn, nguồn vốn và thị trường khan hiếm hơn bao giờ hết. Các vấn đề về bảo hộ đầu tư vẫn
còn đang đứng trước bờ vực khó khăn, chưa thể tìm ra lối mở cho các nhà đầu tư hay các quốc
gia của từng khu vực.
Bối cảnh Liên minh châu Âu
Năm 2020 chính là một năm đầu biến động đối với Liên minh châu Âu.
Ngày 30/9/2020 liên minh châu Âu công bố “Hiệp ước mới về di cư” nhằm cố gắng giải
quyết hậu quả kéo dài của khủng hỏa di cư xảy ra 05 năm trước đó, đồng thời hạn chế vấn đề
“người tị nạn”. Tiếp đến vào tháng 11, ngay trước Hội nghị thượng đỉnh, Thổ Nhĩ Kỳ và Hy
Lạp thông qua phương pháp trung gian cũng đã đạt được thỏa thuận giảm leo thang và tránh
xung đột trên biển và trên không, phần nào hóa giải căng thẳng liên quan Đông Địa Trung Hải.
Đặc biệt, ngày 01/12 tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao trực tuyến ASEAN - EU, từ mối gắn
kết đối tác cả hai khu vực đã nâng tầm lên thành đối tác chiến lược chứng tỏ sự phát triển toàn
diện và trên mọi mặt.
Tuy đạt được nhiều cố gắng đáng khích lệ, nhưng EU năm 2020 cũng phải đối mặt với
nhiều thách thức như việc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland rời khỏi EU (Brexit), nợ
công và nợ doanh nghiệp, đầu tư, sản xuất đình trệ, rạn nứt nội khối gia tăng..., song có lẽ vấn
đề lớn nhất là dịch bệnh COVID - 19. Đại dịch bệnh với nhiều lần tái bùng phát đã làm tăng
trưởng kinh tế của EU sụt giảm nghiêm trọng, rơi vào suy thoái kinh tế chưa từng có và chậm
phục hồi khiến “lục địa già” không ngừng chao đảo.

7
Tô Trung Thành (2020), “Xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương khó có thể được đảo ngược trong
vòng 5 - 7 năm tới, Kinh tế thế giới năm 2020 và những xu hướng mới”, Thời báo tài chính Việt Nam online.

13
Có thể nói, EU đang bước vào 2021 với nhiều thách thức và cơ hội ẩn. Với mục tiêu
chung là khắc phục hậu quả của đại dịch, phục hồi kinh tế - xã hội, xây dựng sức mạnh độc lập
về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện tiếp tục chống lại sự nóng lên toàn cầu, 2021 được
xem như bản lề đối với các nước thành viên của khu vực EU.
Hầu hết nền kinh tế các nước thành viên EU đều lâm vào tình trạng bị khủng hoảng bởi
nhiều khoản chưa thể giải ngân kịp thời, do đó chính phủ chưa dám chi thẳng cho việc đầu tư
vào các thị trường các nước đang phát triển trong khi vấn đề bảo hộ đang còn là một thách thức
lớn. Dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư lẫn Chính phủ vẫn chưa thể thống nhất với nhau về các
vấn đề bảo hộ đầu tư bởi đó là một vấn đề cần nhiều thời gian và ngân sách. Vì vậy mà các vấn
đề về bảo hộ đầu tư hay giải quyết tranh chấp hiện vẫn còn đang đứng trước bờ vực khó khăn,
chưa thể tìm ra lối mở cho các nhà đầu tư hay các quốc gia của từng khu vực.
Bối cảnh trong nước
Để từ đó, bức tranh hòa bình, hợp tác và hữu nghị lại một lần nữa là điểm sáng trong xu
thế phát triển không chỉ riêng Việt Nam. “Châu Á - Thái Bình Dương vẫn tiếp tục khẳng định
là khu vực phát triển kinh tế năng động, là động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu và có
tầm ảnh hưởng về chính trị ngày càng gia tăng”.8 Tiếp tục lấy người dân làm trung tâm và mục
đích hướng đến, “Của dân – do dân – vì dân” vẫn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, vững
bước tầm nhìn đến năm 2025 trong “Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2016.
Từ bối cảnh môi trường quốc tế với nhiều biến động, ngoài những nỗ lực duy trì, củng
cố quan hệ song phương đa phương với các nước trong khu vực, ngoài khu vực; tiếp tục trao
đổi, thúc đẩy mối quan hệ, linh hoạt trong ngoại giao; hỗ trợ y tế, khẩu trang cho các quốc gia,
đối tác quan trọng; tranh thủ được sự ủng hộ tài chính trang thị bị y tế từ quốc gia và tổ chức
quốc tế về kiểm soát dịch bệnh, thì ta còn để lại một số dấu ấn đặc biệt trong năm 2020 theo
báo cáo của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh
như sau:
Thứ nhất, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế (Chủ tịch ASEAN 2020 và AIPA 41, Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA)/Liên Hợp quốc (LHQ) trong năm đầu của
nhiệm kỳ 2020-2021); điều phối dẫn dắt, ký kết nhiều văn kiện quan trọng tại các hội nghị,
giúp ASEAN vượt qua nhiều thử thách; đồng thời tại HĐBA ta đã thể hiện được hình ảnh một
đất nước trách nhiệm, đề cao luật pháp quốc tế cũng như nỗ lực tìm kiếm giải pháp thỏa đáng
cho các cuộc tranh chấp, xung đột…;

8
Phạm Bình Minh (2020), “Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới”, Báo điện tử chính phủ nước CHXHCN
Việt Nam, VGP News: | Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới | BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ NƯỚC
CHXHCN VIỆT NAM (baochinhphu.vn), truy cập ngày 03/6/2021.

14
Thứ hai, công tác biên giới lãnh thổ có nhiều kết quả tích cực, cụ thể là với Campuchia
và Trung Quốc thông qua thành quả phân giới cắm mốc đến 84% với Campuchia và kỷ niệm
hiệp ước biên giới trên biển. Đặc biệt là kiên quyết giữ vững lập trường, kiên trì bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền biển Đông của nước nhà trên cơ sở thượng tôn pháp luật, giải quyết
tranh chấp một cách hòa bình;
Thứ ba, công tác bảo hộ người Việt Nam và công dân Việt Nam ở nước ngoài khi có
dịch xảy ra được triển khai kịp thời; bên cạnh đó kiều bào khắp nơi vẫn hướng về đất nước dù
khó khăn, đóng góp và ủng hộ đất nước vượt qua các ảnh hưởng do dịch COVID - 19 gây nên;
Thứ tư, các công tác tuyên truyền văn hóa, thông tin đối ngoại được tuyên truyền tích
cực, nổi bật là ứng dụng được công nghệ số vào đời sống. Từ đó gặt hái được nhiều kết quả
đáng chú ý như UNESCO công nhận công viên địa chất Đắk Lắk là công viên địa chất toàn
cầu, Vinh, Sa Đéc là thành phố học tập toàn cầu;
Ngoài những lĩnh vực nêu trên, lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã chứng tỏ được
sự phát triển có tính đột phá, tạo tiềm lực cho cho nền kinh tế tăng nhanh và bền vững thông
qua việc thúc đẩy, ký kết một số Hiệp định, nâng cao mối quan hệ đối tác với các nước nhằm
duy trì tăng trưởng thuộc nhóm cao thế giới.
1.8. Các mốc thời gian chính
Tháng 8 năm 2018: Hoàn tất rà soát pháp lý Hiệp định EVIPA. Ngày 17 tháng 10 năm
2018: Ủy ban châu Âu đã chính thức thông qua EVFTA và EVIPA.
Ngày 25 tháng 6 năm 2019: Hội đồng châu Âu đã phê duyệt cho phép ký Hiệp định.
Ngày 30 tháng năm 2019: Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và EVIPA.
Ngày 08 tháng 6 năm 2020: Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp định EVFTA và
EVIPA.
Cũng cần nói thêm rằng toàn bộ phần về bảo hộ và giải quyết tranh chấp đầu tư được
tách ra khỏi EVFTA trở thành Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) vẫn chưa được phía EU phê
chuẩn. Mặc dù sự chậm trễ này bắt nguồn từ những mâu thuẫn và thủ tục phức tạp trong nội bộ
EU, Việt Nam cũng nên có sự chuẩn bị phù hợp và tận dụng tối đa lợi thế từ vấn đề này.

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHÍNH CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA EVIPA

2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp


2.1.1. Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa chính phủ – chính phủ:
Bao gồm giải quyết theo phương thức tham vấn và hoà giải được quy định tại Chương 3
Điều 3.3, 3.4 của Hiệp định EVIPA: Các bên sẽ cố gắng hết sức để giải quyết bất đồng một
cách thiện chí bằng cách thông qua tham vấn nhằm đạt được một giải pháp được cả hai bên

15
chấp nhận. Khi cuộc tham vấn thất bại, các bên tìm ra được một hình thức hòa giải với nhau để
giải quyết tranh chấp.
2.1.2. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ nước tiếp nhận đầu
tư:
a) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế thông qua các phương thức tham vấn và thương
lượng
Một trong những nội dung của EVIPA là hòa giải như một phương thức giải quyết tranh
chấp. Do đó, một bên tranh chấp có thể yêu cầu hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình tranh
chấp bằng cách gửi yêu cầu bằng văn bản cho bên đối lập. Bên yêu cầu có thể đề cập đến một
giải pháp thỏa đáng giữa hai bên trong yêu cầu hoặc nếu không có thỏa thuận hòa giải, yêu cầu
bên còn lại tiến hành hoà giải.
b) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế tại toà án hay cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp
nhận đầu tư
Giải quyết tranh chấp của Tòa án đầu tư là một phương thức giải quyết tranh chấp mới
đang được nhiều quốc gia áp dụng như một phương thức thay thế khả thi cho phương thức
trọng tài. Hệ thống Tòa án đầu tư tại EVIPA bao gồm tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm. Tòa sơ
thẩm có 9 thành viên, trong đó 3 người là công dân EU, 3 người là công dân Việt Nam và 3
người mang quốc tịch các nước thứ ba khác. Tòa phúc thẩm có 6 thành viên, trong đó có hai
thành viên là công dân EU, hai thành viên là công dân Việt Nam và 2 thành viên là công dân
của các nước thứ ba khác. Thành viên của cả hai tòa án sẽ được ủy ban chỉ định nhiệm kỳ 4
năm (được thành lập theo EVIPA và bao gồm các đại diện của EU và Việt Nam để quản lý việc
thực hiện EVIPA) và có thể được bổ nhiệm lại một lần.9
c) Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế bằng trọng tài quốc tế:
Đối với phương thức này EVIPA chỉ quy định về quy tắc ứng xử của trọng tài viên tại
Phụ lục 8, EVIPA quy định rằng nguyên đơn có quyền yêu cầu giải quyết theo Quy tắc phụ
(khi có yêu cầu tòa án đầu tư giải quyết bằng phương thức trọng tài quốc tế) của ICSID hoặc
Quy tắc Trọng tài của UNCITRAL.
2.2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp
2.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal):
Theo WTO thì Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO là một loại cơ quan tài phán
quốc tế theo nghĩa là một cơ quan có thẩm quyền đưa ra những quyết định có tính chất ràng
buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Tại WTO cơ quan giải quyết tranh chấp của
WTO có 2 cấp bao gồm Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm giữ vai trò là các thiết chế pháp lý

9
Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn (2020), EVIPA - Bước triển khai quan trọng Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc
tế, Báo Nhân dân điện tử, truy cập ngày 13/6/2021.

16
để đánh giá các khía cạnh pháp lý của vụ tranh chấp. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường
trực được tổ chức khá tương đồng với mô hình cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. 10 Cũng
như WTO theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và
Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử trong EVIPA có thể được xem như một mô hình
hỗn hợp giữa toà án và trọng tài. Các hội đồng xét xử bao gồm các thành viên được bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ, nhưng lại đưa ra phán quyết (awards – thuật ngữ được sử dụng với ý nghĩ gắn
liền với phán quyết của trọng tài theo Công ước ICSID và Công ước New York 1958). Đây
được coi như một sự thay đổi lớn trong hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư.
Mỗi vụ tranh chấp sẽ được xét xử bởi một Hội đồng gồm ba thành viên, trong đó một
thành viên là người mang quốc tịch của quốc gia thành viên EU, một thành viên khác là người
mang quốc tịch Việt Nam và một thành viên còn lại là người mang quốc tịch của quốc gia thứ
ba.
Theo Gaukrodger và Gordon (2012), trọng tài được các bên bổ nhiệm theo các mô hình
trọng tài vụ việc trước đây sẽ có xu hướng sẽ thiên vị và làm việc vì lợi ích của các bên để
thuận lợi hơn trong công việc của chính mình sau này. 11 Việc bổ nhiệm thành viên và mô hình
hội đồng xét xử thường trực giải quyết được vấn đề quan ngại về tính độc lập của trọng tài sẽ
giúp đảm bảo về chất lượng xét xử, kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng của trọng tài.
Tuy nhiên, một số học giả lại quan ngại về tính linh hoạt của mô hình hội đồng xét xử
thường trực, hoặc viêc chỉ định trọng tài đối với các bên tranh chấp. Tranh chấp đầu tư quốc tế
có đặc thù đó là tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Do đó, theo Ruth Marie
Mosch và August Reinisch quy định về hội đồng xét xử thường trực hoặc danh sách trọng tài
này sẽ khiến cho các nhà đầu tư không có quyền chỉ định trọng tài, từ đó, có thể thấy các FTAs
này thường có xu hướng bảo vệ quyền lợi của các quốc gia. Hơn nữa, tiêu chuẩn của trọng
tài/thành viên hội đồng xét xử đó là phải có năng lực chuyên môn trong lĩnh vực công pháp
quốc tế và sở hữu các bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn để có thể đảm nhận các vị trí công việc
tại các văn phòng tư pháp hoặc để trở thành những luật gia có năng lực chuyên môn được công
nhận tại quốc gia của họ. Kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật
thương mại quốc tế và thủ tục giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến các thỏa thuận
đầu tư hoặc thương mại quốc tế chỉ là một ưu thế. Vì vậy, đây cũng có thể được coi là một
điểm bất lợi của nhà đầu tư.
2.2.2. Hội đồng xét xử sơ thẩm (instance tribunal)

10
Theo đó, Ban thư ký của WTO sẽ duy trì một danh sách các thành viên của Ban hội thẩm, trong trường hợp thành lập Ban
hội thẩm, cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ lựa chọn hội thẩm viên từ danh sách này.
11
Tham khảo: J. A. VanDuzer, Institut C.D. HOWE, “Investor-state Dispute Settlement in CETA: Is it the Gold Standard?”,
Commentary No. 459

17
Tòa sơ thẩm có chín thành viên, trong đó ba thành viên là công dân EU, ba thành viên là
công dân Việt Nam và ba thành viên là công dân của các nước thứ ba khác. Trong đó các thành
viên của toà sơ thẩm cũng được quy định tại khoản 7 Điều 3.38 Chương III EVIPA “Thành
viên ở cấp Sơ thẩm phải có bằng cấp chuyên môn theo yêu cầu của quốc gia của họ chỉ định để
đảm nhận các vị trí tại các phòng tư pháp hoặc phải là những luật gia được công nhận tại quốc
gia của họ. Họ phải chứng minh mình có chuyên môn trong lĩnh vực công pháp quốc tế. Cụ thể,
họ cần phải có chuyên môn trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và giải
quyết tranh chấp phát sinh từ các hiệp định đầu tư quốc tế hoặc thương mại quốc tế”.
2.2.3. Hội đồng xét xử phúc thẩm (appeal tribunal):
Việc thiếu vắng một cơ chế rà soát tư pháp đối với các quyết định của trọng tài đã trở
thành những điểm gây tranh luận nhất của cơ chế ISDS truyền thống. 12 Khác với các FTAs
trước đây mà Việt Nam là thành viên chỉ quy định về các thiết chế trọng tài thông thường gồm
một cấp xét xử, EVIPA quy định một Hội đồng xét xử phúc thẩm thường trực được thành lập
để giải quyết các kháng cáo đối với các quyết định của hội đồng xét xử. “Các thành viên ở cấp
Phúc thẩm phải chứng minh mình có chuyên môn trong lĩnh vực công pháp quốc tế và có bằng
cấp chuyên môn theo yêu cầu tại quốc gia của họ chỉ định để đảm nhận các vị trí cao nhất tại
phòng pháp lý hoặc phải là những luật gia được công nhận tại quốc gia của họ. Cụ thể, họ cần
phải có chuyên môn trong lĩnh vực luật đầu tư quốc tế, luật thương mại quốc tế và giải quyết
tranh chấp phát sinh từ các hiệp định đầu tư quốc tế hoặc thương mại quốc tế.” (Khoản 7 Điều
3.39 Chương III EVIPA).
2.3. Trình tự giải quyết tranh chấp
2.3.1. Trình tự giải quyết tranh chấp của phương thức hoà giải và tham vấn:
Theo đó, một bên tranh chấp có thể yêu cầu giải quyết bằng phương thức hòa giải bất cứ
lúc nào trong quá trình tranh chấp, bằng một văn bản yêu cầu gửi cho bên kia. Trong yêu cầu
của bên tranh chấp, thì bên tranh chấp yêu cầu có thể dẫn chiếu đến một thỏa thuận hòa giải đã
có giữa hai bên hoặc nếu chưa có thỏa thuận hòa giải, yêu cầu bên còn lại tiến hành hòa giải.
Bên nhận tranh chấp yêu cầu phải trả lời trong vòng 45 ngày sau khi nhận được yêu cầu của
bên tranh chấp.
Nếu cả hai bên không thống nhất được việc hoà giải thì phải giải quyết bằng tố tụng.
Quá trình hòa giải bắt đầu khi hòa giải viên được chọn. Các bên sẽ cố gắng hoàn tất quá trình
hòa giải trong vòng 60 ngày kể từ khi hòa giải viên được chọn/đề cử. Hòa giải kết thúc trong
các tình huống sau: Khi các bên thỏa thuận hòa giải thành; Khi hòa giải viên thông báo không
thể hoặc không cần thiết tiếp tục quá trình hòa giải; Khi một bên yêu cầu chấm dứt. Quá trình

12
Tham khảo: United Nations Conference on Trade and Development, World Investment Report 2015: Reforming
International Investment Governance, New York, p. 150.

18
tố tụng tại tòa án đầu tư cũng sẽ tạm ngưng khi các bên tranh chấp đã có thỏa thuận hòa giải
cho đến khi quá trình hòa giải chấm dứt.
Để bắt đầu quá trình khởi kiện tại tòa án đầu tư, EVIPA quy định rằng trước tiên nhà
đầu tư phải gửi yêu cầu tham vấn cho bên kia. Khi yêu cầu tham vấn được nộp bởi nhiều
nguyên đơn hoặc thay mặt nhiều công ty thành lập trong nước, mỗi nguyên đơn hoặc công ty
thành lập trong nước phải nộp riêng thông tin nêu tại điểm 1(a) và 1(e) Điều 3.30 Chương III
EVIPA.
Yêu cầu quá trình tham vấn phải được gửi trong thời hạn ba năm, kể từ ngày nhà đầu tư
biết hoặc phải biết về vi phạm, thiệt hại đã xảy ra hoặc trong thời hạn hai năm kể từ ngày nhà
đầu tư ngừng khởi kiện ra ban hội thẩm/tòa án theo luật quốc gia nhưng tối đa không quá bảy
năm kể từ ngày nhà đầu tư biết hoặc phải biết về vi phạm hoặc thiệt hại đã xảy ra. Nếu vụ tranh
chấp không được giải quyết trong vòng 90 ngày kể từ ngày gửi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư
có quyền gửi thông báo về ý định khởi kiện cho bên kia.
Chỉ trong trường hợp tranh chấp vẫn chưa được giải quyết trong thời hạn sáu tháng kể từ
khi gửi đơn yêu cầu tư vấn và còn ít nhất ba tháng kể từ ngày gửi thông báo ý định khởi kiện
thì nhà đầu tư mới có quyền khởi kiện sơ thẩm. Nếu nhà đầu tư không làm như vậy trong vòng
18 tháng kể từ khi yêu cầu tham vấn, nhà đầu tư sẽ được coi là đã rút đơn kiện và không có
quyền khởi kiện theo cơ chế này.
Nếu tham vấn trong trường hợp khẩn cấp quá trình tham vấn sẽ được tiến hành trong
vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn và tham vấn sẽ được coi là kết thúc
trong vòng 20 ngày trừ khi các bên thoả thuận tiếp tục tham vấn.
2.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua phương thức trọng tài:
Trong vòng 10 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được yêu cầu thành lập hội đồng trọng tài,
các bên sẽ tham vấn để đạt được một thỏa thuận về thành phần của hội đồng trọng tài. Trừ
trường hợp có thoả thuận khác, các bên phải họp với hội đồng trọng tài trong vòng 10 ngày kể
từ khi hội đồng trọng tài được thành lập để xác định các vấn đề tranh chấp mà các bên hoặc hội
đồng trọng tài cho là cần thiết, trong vòng 14 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, một bên có
thể gửi yêu cầu bằng văn bản đến hội đồng trọng tài, bao gồm cả các ý kiến, để hội đồng trọng
tài xem xét các phần của báo cáo sơ bộ.
Hội đồng trọng tài có thể cập nhật báo cáo và tiến hành xem xét thêm nếu cần thiết sau
khi xem xét yêu cầu bằng văn bản của các bên, bao gồm cả ý kiến của các bên về báo cáo sơ
bộ. Sau cùng hội đồng trọng tài phải đưa ra báo cáo cuối cùng trong vòng 120 ngày kể từ ngày
thành lập hội đồng trọng tài. Bị đơn sẽ thực hiện mọi biện pháp cần thiết để tuân thủ kịp thời và
thiện chí báo cáo cuối cùng.
2.3.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo phương thức toà án:

19
Nếu hai bên chưa thể giải quyết bằng phương thức tham vấn và hoà giải nguyên đơn có
đủ các điều kiện để quyết định khởi kiện tại toàn án thì quá trình khởi kiện là trong thời hạn 90
ngày kể từ ngày nộp hồ sơ, chánh án tòa án cấp Sơ thẩm sẽ chỉ định hội đồng xét xử để giải
quyết vụ án. Hội đồng xét xử sơ thẩm sẽ ra quyết định tạm thời trong vòng 18 tháng kể từ khi
khởi kiện và các bên tranh chấp có quyền kháng cáo quyết định này trong vòng 90 ngày kể từ
ngày ban hành. Nếu không được kháng cáo trong thời gian quy định, phán quyết tạm thời sẽ trở
thành phán quyết cuối cùng và chính thức có hiệu lực đối với các bên.
Nếu có kháng cáo thì kháng cáo sẽ do một hội đồng xét xử của toà án cấp Phúc thẩm
giải quyết. Một trong các bên tranh chấp có thể kháng cáo lên cấp Phúc thẩm trong vòng 90
ngày kể từ ngày ban hành phán quyết thủ tục kháng cáo không được kéo dài quá 180 ngày tính
từ ngày một bên tranh chấp chính thức thông báo quyết định kháng cáo đến ngày cấp Phúc
thẩm đưa ra phán quyết. Khi một phán quyết tạm thời bị kháng cáo và cấp Phúc thẩm ban hành
phán quyết cuối cùng, phán quyết tạm thời bị sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi cấp Phúc thẩm trở thành
phán quyết cuối cùng vào ngày cấp Phúc thẩm ban hành phán quyết cuối cùng.

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ MẶT LÝ LUẬN CỦA CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

Sự tác động của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA đã giúp EU và Việt Nam có
thêm sự tin tưởng về sự công bằng, minh bạch và tin tưởng thêm vào luật pháp quốc tế. Cũng
chính vì vậy mà việc ký kết Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU là một sự kiện quan trọng
với cả hai bên.
3.1. Đối với EU
EVIPA tạo cơ sở quan hệ kinh tế giữa hai bên phát triển hiệu quả cao, củng cố niềm tin
và tác động vào sự an toàn của nhà đầu tư EU về việc bảo vệ quyền lợi lúc tranh chấp phát sinh
khi đầu tư tại Việt Nam.
Cơ chế giải quyết tranh chấp EVIPA tác động đến sự an toàn của các doanh nghiệp EU
có ý định đầu tư vào Việt Nam. Nếu như trước đây, khi giải quyết các tranh chấp đầu tư Việt
Nam thường xuyên áp dụng phương pháp trọng tài quen thuộc trong các Hiệp định bảo hộ đầu
tư mà Việt Nam đã ký kết trước đó thì sau đó đã bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập làm ảnh
hưởng đến tính khách quan, chính xác, sự minh bạch của phán quyết cũng như có nguy cơ làm
suy giảm năng lực quản lý quốc gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đó cũng là lí do
các nhà đầu tư EU không dám mạnh tay đầu tư vào nước ta vì họ không cảm thấy được sự an
toàn đến từ một nước nhỏ đang phát triển. Nhờ vào cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA
mang tính đột phá đã giúp các nhà đầu tư EU cảm thấy an tâm và dễ dàng tìm thấy một nguồn
lực lớn và đang cần sự giúp đỡ lớn đến từ EU.

20
Trên thực tế trong khi các công ty EU đầu tư đến 2.375 dự án tại Việt Nam với tổng số
vốn đầu tư đăng ký là trên 25 tỷ USD,gấp gần 80 lần đầu tư ngược lại từ Việt Nam sang EU với
78 dự án tương đương 320 triệu USD và trong đó hiện tại các nhà đầu tư từ 6 quốc gia EU chưa
được bảo hộ tương ứng13. Vì vậy, khả năng tận dụng các tiêu chuẩn cao trong EVIPA về bảo hộ
đầu tư và cơ chế Toà Đầu tư là việc rất quan trọng đối với EU, như ta đã biết EU là một liên
minh có sức mạnh về kinh tế và chính trị trên thế giới cho nên về mặt chủ quan, các nhà đầu tư
EU phải tuân theo nội dung và quy trình của cơ chế giải quyết tranh chấp trong hiệp định khiến
họ không thể dùng sự lớn mạnh của mình để lấn áp Việt Nam. Điều này cũng sẽ khiến một vài
nhà đầu tư cảm thấy không thỏa đáng.
Thực tế cho thấy Hiệp định chưa được thực thi và vẫn đang chờ sự phê chuẩn của Nghị
viện các nước thành viên EU. Với việc các nghị viện các quốc gia nội khối EU thường phải
chịu những áp lực chính trị nhất định từ nhiều phía, để có được sự đồng ý của tất cả 27 nghị
viện là không đơn giản. Việc phê chuẩn còn có thể bị đình trệ do các thủ tục phức tạp tại từng
quốc gia. EVIPA bao gồm cả cơ chế ISDS tại Tòa Đầu tư, những lo ngại về một vụ Vattenfall
v. Germany thứ ba có thể tiếp tục làm dấy lên một làn sóng những yêu cầu tương tự.14
“Vanttenfall v Germany” (Vanttenfall v Germany 2) từng là một vụ tốn không ít giấy
mực của giới báo chí. Vụ kiện liên quan đến hai chủ thể là công ty năng lượng Thuỵ Điển –
Vanttenfall và Cộng hoà Liên bang Đức:
Công ty năng lượng Thuỵ Điển đã kiện Cộng hoà Liên bang Đức vì nhà đầu tư này cho
rằng việc Đức sửa đổi Đạo luật về sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hoà bình để từ bỏ
việc sử dụng năng lượng hạt nhân, đồng thời đẩy nhanh việc cho ngừng hoạt động của các nhà
máy mà không có bất kỳ một khoản bồi thường nào đã không đảm bảo quyền và lợi ích của họ
như trong cam kết của Hiệp ước hiến chương năng lượng. Vì vậy, Vantenfall tiến hành khởi
kiện Đức thông qua phương thức trọng tài đầu tư. Đồng thời công ty Thụy Điển này còn đệ đơn
kháng nghị lên Toà án Hiến pháp Liên bang Đức nhằm phản đối Hiến pháp từ các thay đổi nêu
trên.
Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đã bác bỏ hầu hết các yêu cầu của
Vattenfall tức không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng như yêu cầu thay đổi chính
sách năng lượng. Theo đó, việc thay đổi chính sách là chính đáng bởi lẽ nó bảo vệ các lợi ích
công cộng như tính mạng và sức khỏe, việc bán năng lượng như thế không thể bồi thường.
Quyết định của vụ việc này chắc chắn sẽ là một tiền lệ quan trọng khi các nhà đầu tư khác phải
đối mặt với các lệnh cấm năng lượng mà không có bồi thường từ quốc gia sở tại.

13
Đào Trọng Khôi “Đừng quên EVIPA”, Tạp chí tài chính, tapchitaichinh.vn, truy cập ngày 16/10/2020.
14
Đào Trọng Khôi “EVIPA có chìm vào quên lãng”,Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng
công nghệ, tapchicongthuong.vn/bai-viet/evipa-co-chim-vao-quen-lang-74787.htm, Số 19, tháng 8/2020.

21
Cũng vì những vụ việc xảy ra các nhà đầu tư EU còn đang lo lắng về cơ chế bảo hộ của
EVIPA và cả ISDS tại Toà đầu tư. Hiện tại nói đến việc mâu thuẫn nhiều trong nội bộ EU cũng
là một nguyên nhân dẫn đến việc EVIPA chưa được thực thi. Mâu thuẫn này bắt nguồn từ
chính nguyên tắc trao quyền, điều này đã gây ra những lo ngại lớn về sự chồng chéo giữa phạm
vi điều chỉnh và quyền phê chuẩn các hiệp định thương mại, đầu tư trong đó có EVIPA. Tất cả
các trường hợp sau đây, riêng lẻ hoặc kết hợp, có thể khiến EVIPA có hiệu lực sau EVFTA rất
nhiều.
Ví dụ, mặc dù thực tế CETA đã được phê chuẩn ở cấp EU từ tháng 9 năm 2017, nhưng
cho đến nay nó mới chỉ được 14 trong số 27 thành viên EU phê chuẩn và các quốc gia còn lại,
như Hà Lan, Pháp, Ý và Đức, vẫn đang đặt ra rất nhiều khó khăn. Ngay cả Bỉ cũng một lần nữa
bác bỏ thoả thuận CETA và đồng thời thách thức tính hợp pháp của cơ chế giải quyết tranh
chấp tại Toà tư pháp Châu Âu. Việc thông qua Hiệp định này cũng mất ít nhất là vài năm nữa.
Đồng thời những thách thức toàn diện Việt Nam phải đối mặt nói chung và về mặt bảo
hộ đầu tư cũng là một rào cản khiến các nhà đầu tư của EU chưa dám kí kết hành lang pháp lý
này. Theo đó, có thể đặt ra giả thuyết thời gian chờ phê chuẩn cũng chính là thời gian EU xem
xét “vị thế” tư pháp quốc tế của Việt Nam. Liệu có thể hoàn thiện, nâng cao sức cạnh tranh của
môi trường đầu tư cũng như củng có hệ thống luật pháp chính sách liên quan đến đầu tư, doanh
nghiệp, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công và sự an toàn
trong doanh nghiệp hay không?
Tuy vậy ta hoàn toàn có thể đánh giá phần nào mặt lý luận của các chế định trong cơ chế
giải quyết tranh chấp của Hiệp định này đối với EU mặc dù việc thực thi Hiệp định vẫn còn
đang chờ đợi. Thông qua các chế định của EVIPA nhà đầu tư sẽ được đối xử công bằng, thoả
đáng, bảo hộ an toàn và đầy đủ, cam kết không trưng thu, quốc hữu hoá tài sản nhà đầu tư mà
không có bồi thường thoả đáng, cam kết bồi thường thiệt hại phù hợp cho nhà đầu tư trong
trường hợp bị chiến tranh, bạo loạn,….đặc biệt, với chế định về cơ chế giải quyết tranh chấp
cũng rất rõ ràng khi áp dụng trong trường hợp phát sinh tranh chấp.
EVIPA đề cao sự thỏa thuận, hòa giải và tham vấn. Nếu trong trường hợp có tranh chấp
các nhà đầu tư, hoặc nhà đầu tư với Chính phủ nước sở tại ưu tiên giải quyết tranh chấp một
cách thiện chí thông qua đàm phán và hoà giải. Trong trường hợp không thể giải quyết tranh
chấp thông qua hai phương thức trên sẽ sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định cụ
thể trong EVIPA. Các nội dung tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên tăng cường hợp tác, thấu hiểu
và chia sẻ đối với Việt Nam cũng như với EU.
3.2. Đối với Việt Nam15, 16

15
Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế phối hợp trong giải
quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

22
Hiệp định EVIPA đã quy định một số nguyên tắc nhằm bảo đảm để Việt Nam phát triển
quan hệ với EU trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đoàn kết dân
tộc phù hợp với những mục tiêu đã được các bên thỏa thuận theo Hiệp định hợp tác và đối tác
toàn diện Việt Nam – EU. Việc đưa Hiệp định vào thực tế thực thi như xây dựng một hành lang
pháp lý chặt chẽ để có thể nâng cao chức năng “bảo hộ” đầu tư. Từ đó bổ trợ cho EVFTA góp
phần tăng cường sự gắn kết về kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU, đồng thời
củng cố và làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa hai bên.
3.2.1. Những điểm đặc biệt cần lưu ý của cơ chế giải quyết tranh chấp trong EVIPA
Toàn bộ phần bảo hộ và quyết đầu tư tranh chấp đã được tách ra khỏi Hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới EVFTA và trở thành Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA. Việc thực thi
EVIPA vừa là cơ hội, vừa là thách thức bởi một số nội dung mới về cơ chế trọng tài ISDS như
sau:
(i) Cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực (tribunal)
Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội
đồng xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử trong EVIPA có thể được xem như một mô hình hỗn
hợp giữa toà án và trọng tài. Các hội đồng xét xử bao gồm các thành viên được bổ nhiệm theo
nhiệm kỳ, nhưng lại đưa ra phán quyết. Đây được coi như một sự thay đổi lớn trong hệ thống
giải quyết tranh chấp đầu tư.
(ii) Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 3.39 IPA)
Khác với các thiết chế trọng tài thông thường, EVIPA quy định một Hội đồng xét xử
phúc thẩm thường trực được thành lập để giải quyết các kháng cáo đối với các quyết định của
hội đồng xét xử. Nhưng cũng phải thừa nhận một thực tế là mô hình xét xử phúc thẩm này hoàn
toàn mới không chỉ riêng đối với Việt Nam mà còn với các nước khác trên thế giới. Bởi lẽ, giải
quyết kháng cáo và áp dụng hội đồng xét xử phúc thẩm là thủ tục pháp lý ngầm công nhận việc
hội đồng tài phán phúc thẩm trong EVIPA có thể thay đổi hoặc đảo ngược phán quyết ban đầu
khi thực sự cần thiết. Và điều này sẽ ảnh hưởng đến thẩm quyền hạn chế trong thủ tục hủy bỏ
phán quyết trọng tài.
Mô hình này được đưa vào trong một số hiệp định gần đây như Hiệp định thương mại
song phương Canada – EU (CETA) hay Hiệp định đối tác đầu tư và thương mại xuyên Đại Tây
Dương (TTIP), tuy nhiên chưa thực sự vận hành trên thực tế nên cũng chưa thể kiểm nghiệm
được tính hiệu quả.
(iii) Nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp (Điều 3.46 IPA)
Điều 3.46 EVIPA bao gồm 08 khoản quy định về nguyên tắc minh bạch trong quá trình
tố tụng, theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài)
16
Nguyễn Minh Phong - THS. Nguyễn Trần Minh Trí, “Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU và Hiệp định bảo hộ
đầu tư Việt Nam - EU: Những động lực và kỳ vọng mới”. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06(406)/2020.

23
sẽ được công khai trừ các tài liệu mật (Khoản 3 Điều 3.46 IPA, Điều 2 UNCITRAL). Các phiên
điều trần sẽ được thực hiện công khai cho các bên có liên quan có thể tham dự. Đây là một
điểm khác biệt rõ nét với phương thức trọng tài thương mại tư thường theo nguyên tắc bí mật,
cũng là một bước tiến mới theo xu hướng trong thập kỷ gần đây.
Có thể thấy EVIPA đã áp dụng quy tắc minh bạch UNCITRAL trong khi CPTPP không
áp dụng Quy tắc này mà chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 Hiệp định (Điều 9.24
CPTPP, Điều 3.46 IPA).
(iv) Phán quyết của hội đồng xét xử có giá trị pháp lý như phán quyết của toà án trong
nước, không thể rà soát hoặc xem xét lại, hoặc huỷ bỏ (Điều 3.57 IPA)
Quy định này của EVIPA khác biệt so với Công ước ICSID và CPTPP. Trường hợp của
EVIPA, Việt Nam được gia hạn 5 năm tính từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc thời gian dài hơn
do Ủy ban thương mại quyết định, trong thời gian đó, nếu Việt Nam là bị đơn thì việc công
nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958. Điều này
đồng nghĩa với việc, trong khoảng thời gian 5 năm này, Toà án của Việt Nam vẫn có thể xem
xét huỷ phán quyết. EVIPA cũng quy định rõ là biện pháp bảo hộ ngoại giao không được phép
áp dụng trừ trường hợp một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58
IPA). Quy định này cũng tương tự như Công ước ICSID và các cơ chế giải quyết tranh chấp
đầu tư khác.
(v) Quy định về bên thứ ba tài trợ trong vụ kiện (Điều 3.37 IPA)
Tài trợ của bên thứ ba đóng một vai trò quan trọng trong nhiều trọng tài ngày nay và
được chấp nhận rộng rãi cho cả trọng tài thương mại và đầu tư. Đây là quy định mới so với
Công ước ICSID và UNCITRAL cũng như các hiệp định thương mại tự do khác mà Việt Nam
là thành viên. Quy định này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên nhà đầu tư, ghi nhận việc nhà
đầu tư có thể nhận trợ giúp tài chính từ bên thứ ba để cung cấp vốn hoặc hỗ trợ vật chất khác
cho việc theo đuổi hoặc bảo vệ một thủ tục tố tụng; đồng thời việc tiết lộ tài trợ của bên thứ ba
sẽ đảm bảo không có xung đột lợi ích cũng như tăng tính minh bạch, công bằng cho thủ tục
trọng tài.
(vi) Quy định về bảo đảm chi phí cho vụ kiện (Điều 3.48, Điều 3.54 IPA)
Trong trường hợp nguyên đơn không đủ năng lực tài chính để chi trả, EVIPA đã quy
định cụ thể về nghĩa vụ của nguyên đơn (nhà đầu tư) về việc phải đảm bảo toàn bộ hoặc một
phần chi phí nếu trong trường hợp cấp Sơ thẩm có “căn cứ hợp lí để tin rằng nguyên đơn sẽ
không tuân thủ quyết định về chi phí mà nguyên đơn phải trả”. Nếu không đảm bảo về vấn đề
chi phí, Hội đồng xét xử có thể trì hoãn hoặc đình chỉ thủ tục tố tụng. Ngoài ra, biện pháp bảo
đảm chi phí còn được áp dụng trong trường hợp nộp đơn kháng cáo theo Điều 3.54 sau khi tòa
Phúc thẩm xem xét sự việc.

24
Tất cả quy định trên nhằm hướng đến sự đảm bảo tính nghiêm ngặt, chặt chẽ của luật
pháp quốc tế.
3.2.2. So sánh giữa tranh chấp đầu tư EVIPA và truyền thống:
Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp truyền thống, EVIPA không sử dụng cơ chế trọng
tài đầu tư quốc tế mà thiết lập một thiết chế cố định để giải quyết tranh chấp đầu tư; xây dựng
khung thời hạn tố tụng nhằm giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời và bổ sung quy định
cụ thể về tính minh bạch; nâng cao hiệu quả của biện pháp thi hành phán quyết; các quy định
hạn chế khiếu kiện, bên thứ ba tài trợ cho vụ kiện; biện pháp bảo đảm chi phí tố tụng. Bên cạnh
đó, EVIPA cũng hướng tới việc đảm bảo hiệu quả các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tố
tụng như đàm phán và hòa giải.
EVIPA thiết lập một hệ thống hội đồng tài phán cố định (hay thường được các học giả
gọi là Tòa án đầu tư) gồm hai cấp xét xử là Hội đồng tài phán (sơ thẩm) và Hội đồng tài phán
phúc thẩm. Mỗi vụ tranh chấp sẽ được xét xử bởi một Hội đồng gồm ba thành viên, trong đó
một thành viên là người mang quốc tịch của quốc gia thành viên EU, một thành viên khác là
người mang quốc tịch Việt Nam và một thành viên còn lại là người mang quốc tịch của quốc
gia thứ ba. Do đó, các bên tranh chấp sẽ không thể can thiệp trực tiếp vào quá trình thành lập
hội đồng xét xử, từ đó giúp đảm bảo quyền được xét xử công bằng và bình đẳng giữa các bên
tranh chấp.
Đồng thời, thời hạn thủ tục tố tụng chỉ kéo dài trong khoảng 02 năm và không thể bị trì
hoãn đối với quá trình này. Theo đó, nếu tranh chấp không thể giải quyết bằng cách giải quyết
tranh chấp thay thế ngoài tài phán (đàm phán, hòa giải) trong vòng 06 tháng kể từ ngày nguyên
đơn yêu cầu tiến hành các cuộc đàm phán giải quyết tranh chấp hoặc trong vòng 03 tháng kể từ
ngày họ gửi thông báo dự định nộp hồ sơ khiếu kiện (Điều 3.35 IPA), Hội đồng tài phán sẽ
được thành lập trong vòng 90 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ khiếu kiện và sẽ tiến hành tố tụng theo
một thủ tục rất chặt chẽ về thời gian (Khoản 7 Điều 3.38 IPA). Hội đồng tài phán sẽ ban hành
phán quyết tạm thời trong vòng 18 tháng kể từ ngày nộp hồ sơ khiếu kiện và thời hạn giải quyết
khiếu nại dựa trên yêu cầu của bên tranh chấp sẽ không vượt quá 06 tháng (Khoản 6 Điều 3.53
IPA).
3.3.3. Đánh giá tác động của cơ chế đối với Việt Nam:
Ta thấy, các quy định của Hiệp định EVIPA được xây dựng chi tiết, có tiêu chí rõ ràng,
ghi nhận quyền ban hành và thực hiện chính sách của mỗi bên và diễn đạt dễ hiểu. Điều đó sẽ
góp phần bảo đảm để các quy định của Hiệp định EVIPA được hiểu và áp dụng một cách nhất
quán, giúp hạn chế tối đa khả năng tranh chấp xảy ra. Từ đó tạo nên một hành lang pháp lý
ngày càng hoàn thiện; một môi trường thuận lợi, bình đẳng, an toàn, minh bạch và thân thiện

25
đối với nhà đầu tư. Khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng thị trường quốc tế, thúc đẩy đầu tư
đa dạng ngành nghề và cách thức.
Hiệp định EVIPA là minh chứng rõ nét cho việc pháp luật về tòa án đầu tư, trọng tài và
hòa giải ngày càng được hoàn thiện với chủ trương khuyến khích nâng cao hiệu quả hoạt động
của phương thức này. Trong đó, phải kể đến Đề án của Bộ Tư pháp về “Nâng cao năng lực đội
ngũ trọng tài viên, trung tâm trọng tài và định hướng một hoặc một số trung tâm trọng tài điểm
có khả năng cạnh tranh quốc tế giai đoạn 2018-2023”. Đề án nhằm mục đích nâng cao sự phát
triển toàn diện, đẩy mạnh chất lượng đội ngũ nhân lực để có thể giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế nói chung và giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với Chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư (nước chủ nhà) nói riêng, nhằm giảm tải công tác xét xử của Tòa án như trước đây
qua đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực, việc đưa Hiệp định EVIPA vào thực thi
cũng đặt ra không ít thử thách. Đòi hỏi Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp
luật và tiếp thu kinh nghiệm giải quyết tranh chấp thực tiễn. Phải bảo đảm tính nhất quán, công
bằng, minh bạch, đúng trình tự thủ tục, truyền tải cơ chế mới đến các nhà đầu tư một cách
chính xác nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh. Đồng thời sớm xây dựng, hoàn thiện và ban hành
các cơ chế phòng ngừa tranh chấp bên cạnh việc giải quyết tranh chấp.

CHƯƠNG 4: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM


KHI THỰC THI HIỆP ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ

Năm 2020 đối với Việt Nam là một năm thành công với những kết quả, thành tích đặc
biệt so với các năm trước. Bên cạnh nỗ lực chống đại dịch COVID - 19 hay các chỉ số tăng
trưởng kinh tế đáng kinh ngạc trong thời kì hầu hết các nước đều lâm vào tình trạng khủng
hoảng ảnh hưởng từ đại dịch, ta còn phải nhìn nhận đối lĩnh vực ngoại giao đã để lại không ít
dấu ấn tạo tiền đề cho bậc thang phát triển trong tương lai. “Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng đã nhận định, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. 17 Đại dịch COVID - 19 đã gây ra nhiều hệ lụy, tác động đa
chiều đến đa lĩnh vực và có thể kéo dài đến nhiều năm tiếp theo.
Trong đó, mặt đối ngoại của mỗi quốc gia không tránh được các ảnh hưởng nặng nề sâu
sắc bị bao trùm bởi màn phủ đen xám xịt. Trước tình hình siêu lây nhiễm bởi virus Corona, các
quốc gia cần đặt mối bận tâm về y tế, các cơ sở thiết bị hay cứu trợ cứu nạn lên hàng đầu. Mở
rộng phạm vi liên kết giữa giữa các châu lục, các khu vực kinh tế hay các nước đối tác nhằm
17
Bích Liên (2020), “Năm 2020 là năm thành công của nước ta với những thành tích đặc biệt.”, Báo điện tử Đảng cộng sản
Việt Nam, Năm 2020 là năm thành công của nước ta với những thành tích đặc biệt (dangcongsan.vn) , truy cập ngày
03/6/2021.

26
tăng sự đoàn kết và loại bỏ tình trạng cục bộ của quốc gia sở tại. Ngoài nỗ lực ngăn chặn đại
dịch, ta cần nhìn thẳng vào vấn đề bảo hộ đầu tư của các thương nhân, doanh nghiệp giữa các
quốc gia. Họ gặp không ít khó khăn trong quan hệ thương mại từ trong nước đến nước ngoài:
khâu nhập khẩu xuất khẩu, vận chuyển lưu thông hàng hóa, đến mua bán trao đổi, mọi thứ
dường như đều bị trì trệ. Hoạt động toàn cầu hóa giữa các thương nhân, doanh nghiệp, nhà
buôn bán phân phối lẻ, v.v… từ lâu vốn dĩ cần nhiều sự bảo hộ, một bức tường thành pháp lý
vững chắc bây giờ lại càng mỏng manh hơn. Và một trong số những đối tác quan trọng của ta –
Liên minh châu Âu, trên đà quan hệ đã được thiết lập từ lâu và ngày càng tăng trưởng, đã ra đời
Hiệp định Bảo hộ đầu tư như những nhà tiên phong trong cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư.
Tuy chưa đưa vào thực thi nhưng Hiệp định đã đặt ra nhiều vấn đề về cơ hội và thách
thức Việt Nam phải đối diện. Dựa trên tình hình thế giới nói chung, của mỗi quốc gia nói riêng
và tình hữu nghị lâu năm giữa Việt Nam - EU, ta cần phải thẳng thắn đưa ra nhận xét càng
nhanh chóng áp dụng EVIPA sẽ giải quyết được nhiều vấn đề bảo hộ, thu hút được nhiều đầu
tư chất lượng cao trong thời kì khó khăn bây giờ. Ngày 01/6/2021, chủ tịch nước Nguyễn Xuân
Phúc đã tiếp Đại sứ EU tại Việt Nam. Bên cạnh “Hoan nghênh những đóng góp của cá nhân
Đại sứ Giorgio Aliberti cho quan hệ Việt Nam - EU, trong đó có việc thúc đẩy Hiệp định
EVFTA thời gian qua, Chủ tịch nước còn đề nghị Đại sứ EU tiếp tục thúc đẩy Nghị viện các
quốc gia thành viên EU sớm hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam -
EU (EVIPA) để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hợp tác đầu tư”.18
Về mặt cơ hội mà ta có thể kỳ vọng EVIPA mang lại:
Thứ nhất, như một hành lang pháp lí chính thức, thường trực và chặt chẽ hơn về giải
quyết tranh chấp, xung đột giữa nhà đầu tư và Chính phủ hay bảo hộ đầu tư. EVIPA giúp hạn
chế những bất cập trong Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS)
(như đã so sánh mục trên). Trong hàng chục năm qua Việt Nam chỉ ký kết các hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương, nhưng chưa có một thiết chế cụ thể để trở thành
một cơ chế áp dụng giải quyết tranh chấp. Bởi lẽ từ trước đến nay ta đều đi theo cơ chế áp dụng
trọng tài cho từng vụ việc khác nhau.
Thứ hai, việc áp dụng EVIPA không chỉ thu hút nhà đầu tư chất lượng cao đặc biệt trong
các lĩnh vực như: dịch vụ, thương mại, công nghệ, v.v… giúp Việt Nam tham gia vào chuỗi
cung ứng giá trị toàn cầu, mà còn mang cả cơ hội pháp lý: sự công bằng, minh bạch và thống
nhất trong việc đưa ra các phương thức giải quyết tranh chấp khi có xung đột về quyền và lợi
ích diễn ra. EVIPA vạch ra khung thời hạn tố tụng; cụ thể hóa các biện pháp phán quyết; các
quy định hạn chế khiếu kiện, bên thứ ba tài trợ cho vụ kiện; biện pháp bảo đảm chi phí tố tụng.

18
“Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đại sứ EU tại Việt Nam”, Báo VN+, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đại
sứ EU tại Việt Nam | Chính trị | Vietnam+ (VietnamPlus), truy cập ngày 01/6/2021.

27
Như tại điều 3.2 tiểu mục 1 mục A chương 3 Hiệp định đã quy định phạm vi của mọi tranh
chấp, đồng thời Hiệp định cũng đã khoanh vùng các ngoại lệ chính phủ tự do áp dụng biện
pháp mà không dẫn đến tranh chấp. Việc có một hội đồng tài phán riêng, giúp cho các bên
tranh chấp không thể can thiệp vào quá trình tố tụng, hạn chế tình trạng lạm dụng cơ chế giải
quyết của các nhà đầu tư thiếu thiện chí. Chế định về tranh chấp ngoài tố tụng là đàm phán và
hòa giải cũng là một điểm đặc biệt, góp phần nâng cao và duy trì tinh thần thỏa thuận, thiện chí
và tự nguyện trong quan hệ đầu tư giữa các chủ thể, không xảy ra tốn kém khi phải áp dụng
thiết chế tài phán.
Là một trong những quốc gia tiên phong áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp mới này,
Việt Nam phải đối diện với nhiều thách thức:
Theo tạp chí điện tử “Luật sư Việt Nam” đề cập đến bốn thách thức ta phải đối mặt:
trình độ chuyên môn; thời gian tố tụng và rủi ro bị thu hút bởi việc áp dụng cơ chế trọng tài đầu
tư thường trực; phải công khai tất cả phán quyết trước công chúng và cuối cùng là đối mặt với
việc phải nâng cao hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như hòa giải và
thương lượng vốn chưa phát triển và phổ biến ở Việt Nam.19
Hầu như các nhà làm luật đều lo ngại về năng lực và trình độ chuyên môn của các ứng
cử viên mà Chính phủ Việt Nam đề cử trở thành thành viên của Tòa án đầu tư cũng như sự độc
lập khách quan của các thành viên khác không mang quốc tịch Việt Nam. Bởi lẽ phương thức
giải quyết tranh chấp trong EVIPA cũng còn khá mới mẻ so với phương thức lựa chọn trọng tài
theo vụ việc như trước kia. Đồng thời để chọn ra một cá nhân có thể trở thành thành viên của
Tòa án đầu tư ngoài việc đáp ứng theo yêu cầu của Hiệp định, cá nhân đó còn phải thực sự xuất
sắc không chỉ trong lĩnh vực đầu tư, bảo hộ đầu tư mà còn am hiểu sâu rộng để có thể đại diện
nước nhà giải quyết các vụ tranh chấp quốc tế, vẫn công bằng minh bạch mà đảm bảo được
quyền và lợi ích của nhà đầu tư nước nhà. Bên cạnh đó, thời gian tố tụng và rủi ro trong việc bị
thu hút bởi áp dụng cơ chế trọng tài đầu tư thường trực cũng là áp lực cho Việt Nam bởi lẽ để
bắt đầu một quy trình tố tụng cần rất nhiều yếu tố, dù thắng hay không thì ta phải thiệt thòi rất
nhiều. Liên quan đến tính thực thi của Hiệp định thì Việt Nam sẽ không thể xem lại phán quyết
và phải công khai tất cả phán quyết trước công chúng.

CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM


TRƯỚC KHI THỰC THI HIỆP ĐỊNH
Với mục đích thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách ngành tư pháp, trong đó nhấn mạnh “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp

19
Th.s, Ls Ngô Văn Hiệp, Ls Phạm Thùy Dung (2021), “Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong
EVIPA”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong EVIPA
(lsvn.vn), truy cập ngày 03/6/2021.

28
thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải
quyết đó”. Tuy Việt Nam chưa là thành viên của ICSID nhưng trong bối cảnh việc tiếp nhận sự
đầu tư và bảo hộ đầu tư mạnh mẽ, sâu rộng như hiện nay thì chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm
từ các quốc gia để chuẩn bị sẵn sàng, kỹ lưỡng về mặt pháp lý. Việc Việt Nam lần đầu tiên trở
thành thành viên UNCITRAL với tư cách quan sát viên sẽ là cơ hội lớn để nước ta có thể tham
gia sâu hơn vào quá trình thảo luận, xem xét vấn đề mà các quốc gia đặt ra trong bối cảnh
thương mại quốc tế nói chung và bảo hộ đầu tư nói riêng. Đây cũng chính là cơ hội để thực thi
tốt hơn quá trình nội luật hóa cơ chế ISDS trong hiệp định EVIPA, cũng như có các giải pháp
điều chỉnh khi thấy cần thiết. Hiệp định EVIPA là minh chứng rõ nét cho việc pháp luật về tòa
án đầu tư, trọng tài và hòa giải ngày càng được hoàn thiện với chủ trương khuyến khích nâng
cao hiệu quả hoạt động của phương thức này. Trong đó, phải kể đến Đề án của Bộ Tư pháp về
“Nâng cao năng lực đội ngũ trọng tài viên, trung tâm trọng tài và định hướng một hoặc một số
trung tâm trọng tài điểm có khả năng cạnh tranh quốc tế giai đoạn 2018-2023”.
Hơn thế nữa, ta hoàn toàn có thể sử dụng quỹ thời gian chờ Nghị viện EU thông qua
Hiệp định để chuẩn bị, xây dựng các chính sách nhằm khắc phục, áp dụng hiệp định thực tế
một cách hiệu quả nhất. Hiện nay, với thực trạng đa hệ các điều ước quốc tế về đầu tư mà Việt
Nam là thành viên thì khả năng xảy ra các vụ việc ISDS là rất cao nên việc cụ thể hóa bằng
cách xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện các nội dung liên quan đến chính sách đầu tư được coi là rất
quan trọng nhằm phòng ngừa tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Việt Nam.
Nước ta cần xác định “khoản đầu tư”, “nhà đầu tư” chính xác sẽ loại trừ những tranh chấp
không thuộc phạm vi ISDS, bảo đảm mục tiêu ISDS, tránh việc nước tiếp nhận đầu tư mất thời
gian và tài chính theo đuổi các vụ kiện không có căn cứ, ngăn ngừa hiện tượng lạm dụng trong
đầu tư quốc tế.20 Hơn nữa, về lý thuyết chúng ta càn ngăn ngừa và ứng phó với tranh chấp đầu
tư quốc tế, đó là vấn đề quan trọng đối với Chính phủ Việt Nam, đòi hỏi cần có chiến lược cụ
thể và sự phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan. Hiệp đinh
EVIPA xác định ai được quyền khởi kiện thì có thể loại trừ đơn khiếu kiện không có căn cứ,
đây cũng sẽ là một nỗ lực để phòng ngừa cũng như là điểm chúng ta cần chú trọng để tránh bị
lạm dụng. Đã đến lúc ta cần xem xét, rà soát lại các hiệp định đầu tư song phương khác hoặc
yêu cầu chấm dứt nếu chúng không được sửa đổi. Những vấn đề này chúng ta cần một thời
gian dài để xem xét và giải quyết, tuy nhiên phải đặt nó lên hàng đầu và hoàn thiện từng ngày.
Tuy nhiên, ta cần biết được rằng về mặt thực tế, khi tranh chấp xảy ra, dù thắng hay thua
thì Việt Nam cũng đều thiệt hại rất lớn. Kể cả khi thắng thì Chính phủ Việt Nam cũng phải mất

20
Hội thảo “Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước theo các hiệp định bảo hộ đầu tư và hiệp định thương mại tự
do mà Việt Nam là thành viên (2020), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam”.

29
nhiều thời gian, công sức, nhân lực và vật chất để theo đuổi vụ kiện và đồng thời, khi một sự
kiện xảy ra thì sẽ tạo ấn tượng tiêu cực cho môi trường đầu tư, gây ảnh hưởng đến việc thu hút
vốn đầu tư từ nước ngoài. Vì vậy, chúng ta phải thực sự cản trọng trong việc nhận diện, ngăn
chặn và chuẩn bị cho các tranh chấp về đầu tư. Mặc dù hiệp định sẽ giúp ích ta rất nhiều về sự
công bằng, thỏa đáng, nhưng dù sao EU vẫn là một liên minh lớn khiến chúng ta phải nhường
một bước.
Vì vậy trên lý thuyết hay thực tế thì chúng ta đều phải củng cố, hoàn thiện bộ máy Nhà
nước để đảm bảo chuyên môn của các ban ngành có liên quan đến các vấn đề bảo hộ đầu tư.
Đây là thời gian để chúng ta bắt đầu vấn đề thay đổi và xem xét lại các vấn đề trong hiệp định
đưa ra một cách khách quan và kĩ càng nhất.

30
TỔNG KẾT
Trước khi bước vào vòng đàm phán cuối cùng trong khuôn khổ Hiệp định EVIPA, đã có
rất nhiều chuyên gia, các cuộc hội thảo được tổ chức để bàn về việc pháp luật Việt Nam nên
thay đổi như thế nào để tuân thủ các cam kết về đầu tư quốc tế. Hai đề xuất đã được đưa ra:
một là, áp dụng trực tiếp các cam kết đó hoặc xây dựng những văn bản riêng để thực thi Hiệp
định EVIPA; hai là, sửa đổi pháp luật Việt Nam để áp dụng chung. Quan điểm của nhóm cho
rằng, sẽ hợp lý hơn khi xây dựng và ban hành một văn bản pháp luật riêng nhằm điều chỉnh
những vấn đề liên quan đến đầu tư trong EVIPA thay vì phải sửa đổi các văn bản pháp luật
hiện hành. Cùng với đó, áp dụng trực tiếp thiết chế này vì các cam kết trong hiệp định khá chi
tiết và cụ thể. Đảng, Nhà nước, Chính phủ cần đẩy mạnh việc khuyến khích sử dụng biện pháp
như đàm phán và hòa giải trong các tranh chấp đầu tư nói chung và giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư nước ngoài với Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư trong EVIPA nói riêng - bởi đây là
cơ chế mới mẻ, đầy sáng tạo và khoa học mang tính đột phá.
Thông qua bài tiểu luận này, nhóm thực hiện mong muốn gửi gắm đến những độc giả
của đề tài, hãy hiểu đúng cũng như có cái nhìn toàn diện, tổng thể và đa chiều về cơ chế giải
quyết tranh chấp trong EVIPA, đặc biệt là đối với sinh viên Luật. Với hai mục đích: “tiếp
nhận” và “xử lý” từ đó áp dụng hiệu quả trong thời gian sắp tới, đề tài về chủ đề cơ chế tranh
chấp EVIPA hi vọng có thể bổ sung thêm phần nào kiến thức ngoài sách vở trong lĩnh vực đầu
tư quốc tế. Từ đó góp phần nâng cao khả năng thu nhận, nghiên cứu và xử lý kiến thức trong
cộng đồng sinh viên Luật.

31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – Liên minh châu Âu;
2. Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ
về Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
Sách, tạp chí
1. Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh (2021), EVIPA: Cân bằng cho cả Việt Nam và
EU, Trung tâm WTO và hội nhập, Hà Nội truy cập ngày 13/6/2021;
2. Bùi Hồng Hạnh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội (2020) “Quan hệ Việt Nam – Liên minh Châu âu: Từ Hiệp định khung về hợp tác
đến Hiệp định Thương mại tự do”, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-
de-su-kien/-/2018/819660/quan-he-viet-nam---lien-minh-chau-au--tu-hiep-dinh-khung-
ve-hop-tac-den-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do.aspx, truy cập ngày 3/6/2021;
3. Phạm Sỹ Chung (2020), Vấn đề bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu,
Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, truy cập ngày 13/6/2021;
4. Ngô Văn Hiệp, Phạm Thùy Dung (2021), “Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ
và nhà đầu tư trong EVIPA”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam, Cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư trong EVIPA (lsvn.vn), truy cập ngày 03/6/2021;
5. Đào Trọng Khôi “Đừng quên EVIPA”, Tạp chí tài chính, tapchitaichinh.vn, truy cập
ngày 16/10/2020;
6. Đào Trọng Khôi “EVIPA có chìm vào quên lãng”, Tạp chí Công Thương - Các kết quả
nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ,tapchicongthuong.vn/bai-viet/evipa-co-
chim-vao-quen-lang-74787.htm, Số 19, tháng 8/2020;
7. Nguyễn Minh Phong - Nguyễn Trần Minh Trí, “Hiệp định thương mại tự do Việt Nam –
EU và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU: Những động lực và kỳ vọng mới”. Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 06(406)/2020.
Tài liệu nước ngoài
1. United Nations Conference on Trade and Development, World Investment Report 2015:
Reforming International Investment Governance, New York, p. 150;
2. J. A. VanDuzer, Institut C.D. HOWE, “Investor-state Dispute Settlement in CETA: Is it
the Gold Standard?”, Commentary No. 459.

32
Tài liệu tham khảo
1. Lại Thị Vân Anh, Pháp luật quốc tế và thực tiễn áp dụng trong giải quyết tranh chấp đầu
tư quốc tế, Tài liệu kiến thức, kỹ năng pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế cho công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp, Hà Nội, tháng 07/2017;
2. Tô Trung Thành (2020), “Xu hướng bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương
khó có thể được đảo ngược trong vòng 5 - 7 năm tới, Kinh tế thế giới năm 2020 và
những xu hướng mới”, Thời báo tài chính Việt Nam online;
3. Nguyễn Thị Anh Thơ, Khoa Pháp luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà
Nội “Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên”, Page: Nghiên cứu Lập Pháp (Viện nghiên cứu
Lập Pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội) ngày 26/02/2020;
4. Hội thảo “Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước theo các hiệp định bảo hộ
đầu tư và hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên (2020), Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam”.

Cơ quan báo chí truyền thông


1. Phạm Bình Minh (2020), “Đối ngoại Việt Nam 2020: Bản lĩnh và tâm thế mới”, Báo
điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, VGP News: | Đối ngoại Việt Nam 2020:
Bản lĩnh và tâm thế mới | BÁO ĐIỆN TỬ CHÍNH PHỦ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
(baochinhphu.vn), truy cập ngày 03/6/2021;
2. Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn(2020), EVIPA - Bước triển khai quan trọng
Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, Báo Nhân dân điện tử, truy cập ngày
13/6/2021;
3. Bích Liên (2020), “Năm 2020 là năm thành công của nước ta với những thành tích đặc
biệt.”, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Năm 2020 là năm thành công của nước ta
với những thành tích đặc biệt (dangcongsan.vn), truy cập ngày 03/6/2021;
4. “Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đại sứ EU tại Việt Nam”, Báo VN+, Chủ tịch
nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đại sứ EU tại Việt Nam | Chính trị | Vietnam+
(VietnamPlus), truy cập ngày 01/6/2021.

33

You might also like