You are on page 1of 28

Đề cương Lịch sử các học thuyết kinh tế

1. Bàn tay vô hình


a/ Phân tích lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith. Đưa ra nhận xét về lý
thuyết này.
b/ Phân tích nội dung “quy luật lợi thế so sánh” của David Ricardo. Ý nghĩa rút
ra của quy luật này trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở ở nước ta.
a/ Lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith:
Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới, là tiền
bối lớn nhất của Mác. Ông có nhiều lý luận rất có giá trị trong đó chúng ta phải
nhắc đến lý thuyết “bàn tay vô hình” của ông.
Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của một cơ chế thị
trường cạnh tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học
cổ điển.
Theo ông, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi
hàng hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do cạnh
tranh. Ngược lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của con
người.
Liên minh trao đổi là đặc tính vốn có của con người. Nó tồn tại vĩnh viễn với loài
người. Ông cho rằng mỗi người trong quá trình trao đổi sản phẩm không ai xuất
phát từ lợi ích công mà xuất phát từ lợi ích cá nhân của mình. Lợi thế cá nhân
chính là mục đích, là động lực xuất phát. Khi chạy theo lợi ích cá nhân thì lợi ích
công cộng cũng được hình thành bởi một bàn tay vô hình dẫn dắt mọi người phục
vụ cho lợi ích công, phục vụ cho lợi ích xã hội. Bàn tay vô hình đó không nằm
trong ý muốn ban đầu của con người.
Bàn tay vô hình đó chính là các quy luật kinh tế khách quan chi phối hành động
của con người. Adam Smith gọi hệ thống các quy luật khách quan đó là một trật tự
thiên định. Ông chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là: phải
có sự tồn tại và phát triển sản xuất trao đổi hàng hóa, nền kinh tế phải phát triển
trên cơ sở tự do kinh tế, tự do mậu dịch. Quá trình ấy được thực hiện bởi chính quá
trình cạnh tranh giữa các lợi ích cá nhân. Không ai cần kế hoạch, không ai cần
mệnh lệnh, thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả.
Theo ông quan hệ giữa người và người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế chỉ có
CNTB mới là XH bình thường, nó được xây dựng trên cơ sở các quy luật tự nhiên.
Ông cho rằng các chế độ XH trước đó là không bình thường. Từ đó ông cho rằng
nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ
quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong
nước. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào các chức năng kinh tế khi nó vượt ra ngoài
khả năng của các chủ doanh nghiệp. Ông cho rằng chính sách kinh tế tốt nhất của
nhà nước là tự do kinh tế.
Nhận xét:
Quan điểm kinh tế của ông phản ánh phù hợp với điều kiện kinh tế XH của CNTB
vào thời kỳ đó. Vào thời kỳ đó, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp thì tự do cạnh
tranh là đặc trưng chủ yếu và phổ biến vì lúc đó quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ,
số lượng các doanh nghiệp còn ít. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp
là có hiệu quả nhất và thích hợp nhất.
Lý thuyết bàn tay vô hình là lý thuyết kinh tế vĩ mô trong điều kiện tự do cạnh
tranh.
Trong một nền kinh tế cạnh tranh không hoàn toàn thì lý thuyết này vẫn là cơ sở
của lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
Phương pháp lý luận của ông có tính rõ rệt khoa học và tầm thường:
 Khoa học: quan sát các mối liên hệ bên trong, các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu
bị che lấp của hệ thống kinh tế tư sản.
 Tầm thường: lý luận của ông còn nhiều mâu thuẫn, ông đặt các mối quan hệ
trên như mối liên hệ bề ngoài của hiện tượng cạnh tranh.
Ý nghĩa:
 Tôn trọng quy luật kinh tế khách quan.
 Tôn trọng tư tưởng tự do kinh tế (tự do kinh doanh, tự do sản xuất, tự do cạnh
tranh, thọ trường tự do…)
 Nhà nước đôi khi cũng có chức năng kinh tế. 

b. Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo:


1. Trong thời đại D. Ricardo ngoại thương đóng vai trò quan trọng. Học thuyết lợi
thế so sánh của ông nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, dựa trên
nền móng là học thuyết về giá trị lao động.
Các chi phí để sản xuất sản phẩm được quy về hao phí lao động, và chuyên môn
hóa trong việc sản xuất các loại hàng hóa. Vì vậy, theo ông phải tính được lợi
thế của sự so sánh. Theo nguyên tắc này mỗi nước chỉ nên tập trung vào sản
xuất một loại hàng hóa nào dựa trên thế mạnh của mình.
2. Lý thuyết LTSS của R cho rằng ngoại thương có lợi cho mọi quốc gia miễn
là xác định đúng lợi thế so sánh, tức là tạo ra phân công lao động giữa các
nước. LTSS xuất hiện khi đối chiếu so sánh hao phí lao động cho mỗi đơn vị
sản phẩm ít nhất 2 quốc gia. Muốn xác định LTSS ta phải xác lập lợi thế
tuyệt đối.
3. Lợi thế tuyệt đối là khi tách ra xem xét một mặt hàng sản phẩm nào đó giữa
vùng này với vùng khác, nước này với nước khác. Lợi thế tuyệt đối xuất
hiện khi mặt hàng này nước này sản xuất được mà trước kia không sản xuất
được hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn nhiều. Điều này xảy ra
là do điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia khác nhau, trình độ khác nhau,
hàng từ nơi có lợi thế sang nơi không có lợi thế như là một yếu tố khách
quan là cơ sở sâu xa trong quan hệ ngoại thương.
4. Xác lập lợi thế tuyệt đối có nghĩa là hình thành tỷ lệ so sánh về hao phí lao
động cho mỗi loại sản phẩm giữa các nước, so sánh các tỷ lệ được thiết lập.
Các mặt hàng có tỷ lệ càng nhỏ thì được xem là có lợi thế và ngược lại. Các
mặt hàng có lợi thế thì tăng cường sản xuất, các mặt hàng không có lợi thế
nên hạn chế sản xuất mà nên nhập khẩu.
5. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, mỗi nước đều ra sức sử dụng các lợi thế tuyệt
đối của mình để chế ngự lợi thế tuyệt đối của đối phương, tìm ra sự công
bằng chung.
6. Vấn đề đặt ra là nếu một nước hoàn toàn có lợi thế tuyệt đối và nước kia thì
không. Có nên thiết lập quan hệ thương mại giữa hai nước trên không? D.
Ricardo cho rằng ngay cả trong những trường hợp như vậy thì ngoại thương
vẫn có lợi cho cả hai bên miễn là phải dựa trên cơ sở lợi thế so sánh, nghĩa là
mọi quốc gia phải xác định được sử dụng lợi thế so sánh của mình.
7. LTSS xã hội được xác lập khi đặt tất cả các sản phẩm để so sánh lẫn nhau về
chi phí sản xuất tương đối. Chi phí sản xuất tương đối chính là tỷ số so sánh
hao phí lao động của mỗi mặt hàng giữa hai nước.
VD: Chi phí lao động cho hai mặt hàng: quần áo và thực phẩm ở Mỹ và Châu Âu
được cho bởi bảng sau:
Mặt hàng Mỹ Châu Âu
Thực phẩm 1 3
Quần áo 2 4
Lợi thế so sánh của Châu Âu
Lợi thế tuyệt đối:
Thực phẩm: 3/1>1
Quần áo: 4/2 = 2/1>1
cả hai mặt hàng thì Châu Âu đều không có lợi htế tuyệt đối
Lợi thế so sánh : 3/1 (thực phẩm) > 2/1 (quần áo)
Theo nguyên tắc so sánh thì Châu Âu có lợi thế so sánh ở sản phẩm quần áo (cái
yếu ít nhất trong các cái yếu)
Nếu có hoạt động giữa Mỹ và Châu Âu:
Châu Âu sẽ sản xuất và xuất khẩu quần áo cho Mỹ và nhập khẩu thực phẩm từ Mỹ.
Giá một đơn vị quần áo ở Châu Âu là 4, xuất khẩu sang Mỹ với giá bằng 6 thì
Châu âu sẽ lời -2
Khi nhập thực phẩm, bán 2. Nhập khẩu số lượng thực phẩm đổi được 2:1 = 2 đơn
vị sản phẩm. Để có 2 đơn vị sp Châu Âu phải tốn 2x3=6. Qua hoạt động nhập khẩu
thực phẩm Châu Âu lời -2+6=4
Chung quy lại họat động ngoại thương Châu Âu lời -2+4 = 2 (vẫn lời mặc dù
không lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng quần áo và thực phẩm)
Giả sử tổng đơn vị hao phí lao động mỗi nước là 600. Phân công lao động:
Mỹ: Thực phẩm
Châu Âu: quần áo
Khi chưa có ngoại thương:
Mỹ: Nhịn ăn để mặc áo quần: 600/2 = 300
Nhịn mặc để ăn: thực phẩm: 600/1 = 600
Châu Âu: Nhịn ăn để mặc áo quần: 600/4 = 150
Nhịn mặc để ăn thực phẩm: 600/3 = 200
Qua hoạt động ngoại thương: 
Thực phẩm Châu Âu: (150 x 2)/1 = 300 (>200 ban đầu)
Số quần áo Mỹ: (600 x 3)/4 = 450 (>300 ban đầu)
Ý nghĩa trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở đối với Việt Nam:
Phân công lao động quốc tế có hoạt động ngoại thương đã đem lại lợi ích cho tất cả
các quốc gia nghĩa là với năng lực sản xuất không đổi nó làm cho tổng sản phẩm
tăng lên, thu nhập thực tế của xã hội nói chung, của mỗi thành viên nói riêng cũng
tăng lên. Tự do thương mại quốc tế là tốt và có lợi.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì hoạt động ngoại thương không thể thiếu.
Mở cửa làm ăn buôn bán với các nước có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả kinh
tế cao. Chúng ta phải xác định rõ đâu là mặt hàng có lợi thế của mình để mà tăng
cường sản xuất, xuất khẩu, lấy tiền mang về những thứ mà chúng ta chưa có khả
năng sản xuất hay không có lợi thế. Tránh xuất khẩu những mặt hàng mà chúng ta
đang thiếu và nhập về những thứ mà chúng ta không cần thiết. Xuất nhập khẩu
phải rõ ràng, có chọn lọc. Huấn luyện nhân sự, đào tạo những cán bộ giỏi trong
lĩnh vực ngoại thương có trình độ quốc tế. Hợp đồng ngoại thương cần phải rõ
ràng, chính xác để sau này tranh chấp xảy ra thì có chứng cớ mà giải quyết, hoạt
động ngoại thương hướng vào tất cả các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau,
không phân biệt với mục đích chính là phát triển kinh tế.
2. Chủ nghĩa trọng nông
a/ Phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng nông.
b/ Đưa ra những nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng nông.
c/ Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu?
a/ Phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng nông.
CN trọng nông là một trong những trường phái của kinh tế chính trị học tư sản và
CN trọng nông có những luận điểm kinh tế cơ bản như sau:
Lý thuyết sản phẩm thuần túy (sản phẩm ròng):
Lý thuyết sản phẩm thuần túy là lý thuyết trung tâm của CN trọng nông. Theo đó
sản phẩm thuần túy là số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất. Nó là
phần dôi ra ngoài các chi phí sản xuất nông nghiệp và chỉ có nông nghiệp mới cho
sản phẩm thuần túy mà thôi. Lý luận này đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề
sản phẩm thặng dư.
Giải thích nguồn gốc của sản phẩm thuần túy. CN trọng nông cho rằng: vì nông
nghiệp đã được hưởng sự trợ giúp của tự nhiên, như độ màu mỡ của đất đai, của
thời tiết, khí hậu, nước… do vậy, sản xuất nông nghiệp có sự tăng thêm về chất.
Theo F. Quesnay có hai nguyên tắc hình thành giá trị tương ứng với hai lĩnh vực
công nghiệp và nông nghiệp. Nguyên tắc chung của trao đổi là phải ngang giá.
Mục đích của trao đổi chỉ là giá trị sử dụng. Tiền tệ chỉ là phương tiện của trao đổi.
Giá trị trao đổi không phải được mang đến trong lưu thông mà được đem đến trong
quá trình sản xuất. Ông cho rằng sản xuất công nghiệp cũng tạo ra giá trị trao đổi
nhưng giá trị trao đổi ấy chỉ để nuôi sống những người lao động trong lĩnh vực
này. Đó là tiền lương cho nhà tư bản và tiền lương cho công nhân. Trong sản xuất
công nghiệp giá trị trao đổi tương ứng với các chi phí sản xuất và do các yếu tố sản
xuất chi phối quyết định. Sản xuất công nghiệp trong điều kiện bình thường không
tạo ra sản phẩm thuần túy, không tạo ra lợi nhuận. Họ giải thích nguyên nhân là do
trong công nghiệp quá trình tạo ra sản phẩm mới chỉ là quá trình kết hợp giản đơn
những chất cũ mà không tăng thêm về chất nên không tạo ra sản phẩm thuần túy.
CN trọng nông cho rằng nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần túy
cho xã hội. Lý luận này biểu hiện  cho sự quan sát giản đơn ở hiện tượng để đưa ra
kết luận.
Lý thuyết lao động sản xuất và lao động không sản xuất:
Từ lý thuyết sản phẩm thuần túy trên, F. Quesnay đã xây dựng nên lý thuyết lao
động sản xuất và lao động không sinh lời. Nghĩa là căn cứ vào kết quả để phân biệt
các dạng lao động. Theo đó, chỉ có lao động nào mà làm ra được sản phẩm thuần
túy mới được coi là lao động sản xuất hay lao động sinh lời và ngược lại những lao
động nào không tạo ra sản phẩm thuần túy thì không được coi là lao động sản xuất
hay còn được gọi là lao động không sinh lời.
Lý thuyết giai cấp:
Theo F. Quesnay, căn cứ vào lý thuyết sản phẩm thuần túy thì chỉ có lao động
trong khu vực nông nghiệp mới được coi là sản xuất, còn các lao động trong lĩnh
vực khác đề không được coi là lao động sản xuất. F. Quesnay chia xã hội thành
những giai cấp sau:
 Giai cấp những người sở hữu, đó là những người chiếm lĩnh ruộng đất, phú
nông… giai cấp này sống bằng thu nhập hay sản phẩm thuần túy trong nông
nghiệp mà hằng năm giai cấp sản xuất phải nộp cho họ.
 Giai cấp sản xuất bao gồm công nhân nông nghiệp, chủ trang trại, chủ đồn điền.
 Giai cấp không sản xuất gồm công nhân công nghiệp, thương nghiệp, tư bản
công nghiệp.
CN trọng nông đã dựa vào kết cấu kinh tế để phân chia giai cấp. Cách phân chia
này còn đơn giản chỉ dựa vào tính chất ngành hoạt động sản xuất mà chưa dựa vào
quan hệ, chủ yếu là quan hệ giữa các tập đoàn người với tư liệu sản xuất.
Lý thuyết về tiền lương và lợi nhuận:
CN trọng nông đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh
vực sản xuất, tức là đã đi tìm nguồn gốc của của cải, vật chất là trong sản xuất chứ
không phải trong trao đổi.
Lý thuyết sản phẩm thuần túy đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu giá trị thặng dư.
CN trọng nông bước đầu nghiên cứu các bộ phận cấu thành của tư bản và đặc biệt
đặt vấn đề phân tích có cơ sở khoa học về tái sản xuất tư bản xã hội.
Đã xác định được mức độ tối thiểu của tiền lương.
CN trọng nông đã đưa ra đề nghị trong các chính sách kinh tế của chính phủ: phải
ủng hộ phát triển nông nghiệp theo kiểu đồn điền TBCN. Ủng hộ tự do cạnh tranh
trong sản xuất, trao đổi và tự do cá nhân nói chung.
b/ Nhận xét:
Mặt hạn chế:
 CN trọng nông mới dừng việc nghiên cứu ở giới hạn xem xét, mô tả hiện tượng
bên ngoài mà chưa đi sâu phân tích để phát triển bản chất của các quá trình kinh
tế.
 Quan niệm về sản xuất còn hẹp hòi do đó đã đi đến kết luận sai lầm rằng giá trị
thặng dư tức là cái mà CN trọng nông gọi là sản phẩm thuần túy là tặng phẩm
của tự nhiên.
 CN trọng nông đề cao đến mức tuyệt đối hóa sản xuất nông nghiệp, phủ nhận
vai trò của lưu thông, chưa hiểu được mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông,
không thấy được vai trò của ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế.
 Về mặt lý luận, CN trọng nông chưa xây dựng được các phạm trù khái niệm
đúng đắn như hàng hóa, tiền tệ, giá trị lợi nhuận…
c/ Ý nghĩa nghiên cứu:
 Chính sách của CN trọng nông là đánh thuế mạnh nông nghiệp để lấy tiền phát
triển công nghiệp làm cho nông nghiệp kiệt quệ, nạn đói xảy ra khắp nơi. Từ đó
thấy rằng, ta phải phát triển nông nghiệp một cách đúng mức. Nông nghiệp thật
sự quan trọng đối với mỗi quốc gia nhưng cũng không nên tuyệt đối hóa sản
xuất nông nghiệp mà phải thấy được vai trò quan trọng của các ngành khác như:
công nghiệp, ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế.
 Phân biệt rõ ràng, xây dựng được các phạm trù và khái niệm đúng đắn như:
hàng hóa, tiền tệ, giá trị, lợi nhuận.
3. Chủ nghĩa trọng thương
a/ Hoàn cảnh và phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng
thương.
b/ Đưa ra những nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng thương.
c/ Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu?
1. Hoàn cảnh ra đời:
CN trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, hình
thành và phát triển ở Tây Âu vào giữa thế kỷ XV và tồn tại trong khoảng 3 thế kỷ.
Trong thời kỳ này chế độ phong kiến ở Châu Âu bắt đầu tan rã và là thời kỳ tích
lũy ban đầu cho CN tư bản, quan hệ sản xuất TBCN bắt đầu xuất hiện.
Sự xuất hiện chủ nghĩa trọng thương gắn liền với những tiền đề lịch sử sau:
Kinh tế:
 Vào thời điểm này hàng hóa ở Châu Âu phát triển mạnh. Thị trường dân tộc
trong nước mở rộng xuất hiện các hoạt động giao thông quốc tế.
 Tiền tệ không chỉ được sử dụng làm phương tiện trung gian trong trao đổi hàng
hóa mà tiền tệ còn sử dụng làm tư bản để sinh lợi 1 cách phổ biến.
Chính trị -  xã hội:
 Giai cấp phong kiến bắt đầu suy tàn, phân hóa rõ rệt. Trong xã hội vị thế của
tầng lớp thương nhân tăng lên và sự phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc.
 Xuất hiện khối liên minh của nhà nước phong kiến trung ương và tư bản thương
nhân dựa vào nhau để tồn tại.
Văn hóa tư tưởng:
 Phát triển của khoa học đặc biệt là khoa học tự nhiên.
 Xuất hiện phong trào phục hưng (do giai cấp tư sản khởi xướng nhằm chống lại
tư tưởng đen tối của phong kiến thời trung cổ, đề cao tư tưởng tự do nhân
quyền, bình đẳng).
 Sự chuyển biến tâm lý và lối sống của người dân. Đặc biệt trong tôn giáo đã có
sự cải cách đáng kể.
Về quan điểm chính trị: Có 2 ý niệm cơ bản.
 Củng cố nền độc lập và chủ quyền của từng quốc gia.
 Xem con người là một thực thể hay một công dân của quốc gia, đề cao cá tính
và vai trò cá nhân.
Kết luận: Sự kiện trên làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt phong kiến trung cổ, nền
sản xuất phong kiến bắt đầu nhường chỗ cho chế độ tư bản thương mại => CN
trọng thương xuất hiện.
2. Những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng thương:
Luận điểm về tiền tệ: CN trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền, tiền được coi
là tiêu chuẩn căn bản của của cải, do đó mục đích chính trong chính sách kinh tế
của mỗi nước là phải làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Mỗi quốc gia càng có nhiều
tiền (vàng) thì càng giàu có, còn hàng hóa chỉ là phương tiện để tăng thêm khối
lượng tiền tệ.
Luận điểm về ngoại thương: CN trọng thương đánh giá cao vai trò của thương mại
đặc biệt là ngoại thương. CN trọng thương xuất phát từ chỗ cho rằng tiền tệ (vàng
bạc) chỉ có thể gia tăng qua các hoạt động thương nghiệp, cụ thể là ngoại thương.
Ngoại thương đóng vai trò sinh tử đối với phát triển kinh tế của một quốc gia. CN
trọng thương cho rằng: Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là ống bơm.
Muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương. Khối
lượng tiền tệ chỉ có thể tăng lên bằng con đường ngoại thương và ngoại thương
phải thực hiện chính sách xuất siêu bằng cách hạn chế nhập khẩu và tăng cường
xuất khẩu. Sự phồn thịnh của một quốc gia chính là nhờ thương nghiệp đặc biệt là
ngoại thương chứ không phải do sản xuất (trừ việc khai thác vàng).
Trong quan điểm ngoại thương, tính dân tộc thể hiện rất rõ. Các đại biểu của CN
trọng thương đều đòi hỏi nhà nước phải có các biện pháp nhằm bảo vệ thị trường
nội địa tránh sự xâm nhập, cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài; chủ trương tìm
mọi cách để bảo vệ vàng bạc nước mình không chảy ra nước ngoài.
Luận điểm về chính sách ngoại thương: Xuất phát từ chỗ coi nguồn gốc của của
cải được sinh ra trong lưu thông và luận điểm về ngoại thương phải thực hiện xuất
siêu của mình, CN trọng thương chủ trương xuất siêu với các mức độ khác nhau
giữa các khuynh hướng của quốc gia trong những thời kỳ khác nhau. Để thực hiện
xuất siêu thì phải phát triển công nghiệp. Nhập khẩu có thể giảm nếu từ bỏ việc
tiêu dùng quá mức hàng nước ngoài. Chỉ nên nhập khẩu những hàng hóa mà trong
nước không sản xuất được hay sản xuất được nhưng có chi phí quá lớn so với hàng
ngoại cùng kiểu cách, chất lượng. Xuất khẩu phải chú ý đến những mặt hàng dư
thừa trong nước và nhu cầu của nước quan hệ trong hoạt động ngoại thương. CN
trọng thương ủng hộ chính sách thuế quan, chính sách bảo hộ mậu dịch có lợi cho
những hoạt động ngoại thương.
Luận điểm về cơ chế kinh tế: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển tốt đẹp nếu như
có sự điều chỉnh và quản lý của nhà nước, khuyến khích sự độc quyền trong ngoại
thương. Vai trò của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế được CN trọng
thương đề cao và cho rằng: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển có hiệu quả nếu
chịu sự chi phối, quản lý của nhà nước. Thương nhân cần dựa vào nhà nước và nhà
nước phối hợp bảo vệ thương nhân.
Luận điểm về lợi nhuận: CN trọng thương cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự tro
đổi không ngang giá do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả
việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt. Họ coi thương nghiệp như là một sự lường
gạt, cái được của người này là cái mất của người kia và tương tự như vậy là quan
hệ thương mại giữa các quốc gia.
3. Nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng thương:
Mặt tích cực:
CN trọng thương đả phá mạnh mẽ hệ tư tưởng kinh tế phong kiến.
 Lần đầu tiên trong lịch sử, CN trọng thương giúp mọi người thoát khỏi cách
giải quyết các vấn đề kinh tế bằng các giáo lý đạo đức, các lý thuyết tôn giáo
thần học.
 CN trọng thương đưa ra được cương lĩnh của giai cấp tư sản Châu Âu trong
thời kỳ tích lũy ban đầu.
CN trọng thương đã đưa ra tuyên ngôn hướng vào việc phát triển hệ thống công
trường thủ công và lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đã cố gắng nhận thức CNTB,
giải thích các quá trình kinh tế dưới góc độ lý luận dựa trên cơ sở các thành tựu
khoa học.
Mặt hạn chế:
Những thành tựu lý luận còn nhỏ bé, những vấn đề kinh tế đã được lý giải một
cách giản đơn, chỉ là sự mô tả các hiện tượng chưa đi sâu tìm hiểu bản chất bên
trong của nó. Ví dụ: chỉ thấy vấn đề lưu thông, không thấy được sản xuất là gốc và
cũng chưa thấy được mối liên hệ giữa sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng.
Hệ thống các luận điểm kinh tế chủ yếu xuất phát từ kinh nghiệm thực tế.
4. Ý nghĩa:
Mặc dù CN trọng thương còn những hạn chế khó tránh được do điều kiện lịch sử
khách quan cũng như chủ quan nhưng CN trọng thương đã tạo những tiền đề lý
luận kinh tế - xã hội cho kinh tế chính trị tư sản phát triển. Bởi lẽ CN trọng thương
đã cho rằng: Sự giàu có không phải là ở giá trị sử dụng mà là ở giá trị (tiền); Mục
đích của hoạt động kinh tế hàng hóa là lợi nhuận. Các chính sách thuế quan bảo hộ
đã góp nhần thúc đẩy sự ra đời của CNTB.
Hiện nay, những nghiên cứu về CN trọng thương vẫn còn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với chúng ta. Ví dụ: vấn đề tích lũy vốn, kêu gọi đầu tư từ nước
ngoài. Vai trò của ngoại thương trong thời kỳ mở cửa hội nhập với thế giới. Vấn đề
bảo hộ mậu dịch, các chính sách bảo vệ sản xuất trong nước, mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và những vấn đề xã hội. Việc nghiên cứu CN trọng thương có ý
nghĩa thời sự đáng được nghiên cứu và vận dụng đối với nền kinh tế chuyển sang
cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN như Việt
Nam ta hiện nay.
4. Lý thuyết giá trị Adam Smith
a/ Phân tích và so sánh lý luận giá trị của A. Smith với lý luận giá trị của
Walros.
b/ Rút ra nhận xét từ những lý luận trên.
a/ Phân tích so sánh lý luận giá trị của A. Smith với lý luận giá trị của Walros
*Adam Smith:
Lý luận giá trị của ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị
và lao động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông khẳng định giá trị sử dụng
không quyết định giá trị trao đổi. Cái quyết định mức độ giàu có của một dân tộc là
số lượng lao động và năng suất lao động.
Q=W x t
Trong đó: Q: Số lượng sản phẩm của cải.
  W: Năng suất lao động
  t: Số lượng lao động
Khi phân tích giá trị hàng hóa, ông cho rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi
hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa là do hao phí lao động trung bình quyết định.
Lao động là cái thật sự đo lường giá trị của hàng hóa, nghĩa là hao phí lao động sản
xuất ra hàng hóa quyết định. Giá trị của hàng hóa bằng số lượng lao động mà
người ta có thể mua được nhờ hàng hóa đó. Trong vấn đề phân phối giá trị ông cho
rằng khi sức lao động biến thành hàng hóa hay khi xuất hiện tư bản thì phần sản
phẩm do lao động tạo ra chia làm 2: tiền lương của công nhân và lợi nhuận của nhà
tư bản. Theo ông, năng suất lao động phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội.
Đây là tư tưởng của giai đoạn công trường thi công. Phân công lao động XH theo
ông là một bước tiến vĩ đại nhất trong lịch sử XH loài người, là thiên hướng tự
nhiên của con người. Cái quyết định sự phân công lao động XH ấy là do trao đổi
mua bán hàng theo quy định. Tất cả các vấn đề trên đều xuất phát từ lợi ích kinh tế
của mỗi cá nhân. Tính chuyên biệt của lao động một phần nhỏ là do bẩm sinh, chủ
yếu là do quá trình đào tạo, học tập, rèn luyện.
Ông đưa ra 2 định nghĩa về giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Giá cả tự nhiên là
biểu hiện tiền tệ của giá trị, giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hóa được
đưa ra thị trường. Giá cả tự nhiên có tính khách quan, còn giá cả thị trường thường
chênh lệch với giá cả tự nhiên: thấp hơn hoặc cao hơn do phụ thuộc nhiều yếu tố
như quan hệ cung – cầu của hàng hóa đó trên thị trường và sự độc quyền hàng hóa.
*Leon Walras:
Là sự phát triển ở một khía cạnh nhất định ở một lý thuyết giá trị của trường phái
Áo. Lý thuyết khan hiếm, và lý luận bàn tay vô hình của Adam Smith. Adam
Smith chưa đề cập đến sự tác động của bàn tay vô hình, còn Walras thì đề cập đến.
Theo Walras khan hiếm là một khái niệm khách quan theo đó giá trị phát sinh từ
tình trạng bất cân xứng giữa cung và cầu. Một vật có giá trị khi cầu lớn hơn cung
và ngược lại sẽ giảm giá trị nếu cung lớn hơn cầu, vật phẩm trở nên dư thừa mất
giá trị. Mặt khác ý niệm về lợi ích biên chế thì theo đó giá trị một vật tùy thuộc vào
tương quan giữa khả năng thỏa mãn của đồ vật đó với cường độ nhu cầu của mỗi
cá nhân.
b/ Nhận xét về 2 lý luận giá trị trên:
Adam Smith:
 Theo A.S, lao động là cái mình có thể mua bán. Thực tế giá trị hàng hóa được
tính bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hóa đó. Vì
vậy, lao động là cái không thể mua bán, chỉ có sức lao động mới có thể mua
bán.
 Ông đã không phân biệt nguồn gốc của giá trị trao đổi và việc phân phối giá trị
khi nói tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập,
cũng như mọi giá trị trao đổi. Khác với các nhà kinh tế trước ông cho rằng nông
nghiệp thì cao hơn (tư tưởng trọng nông)
Leon Walras:
 Đã nghiên cứu cân bằng cả XH. Ông đề cặp đến sự tác động của bàn tay vô
hình đối với nền kinh tế. Sự phân chia thị trường của Walras còn nhiều khiếm
khuyết.
5. Trường phái chính hiện đại
a/ Trình bày nội dung cơ bản lý thuyết về nền ktế hỗn hợp của trường phái
chính hiện đại.
b/ Cơ chế kinh tế của nước ta hiện nay có phải là cơ chế kinh tế hỗn hợp
không? Vì sao?
c/ Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết này trong quá trình chuyển đổi cơ
chế kinh tế nước ta.
a/ Nội dung cơ bản lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của trường phái chính hiện
đại:
Về cơ cấu thị trường:
Nói đến thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để xác định giá
cả hàng hóa. Không có sự cạnh tranh này thì không có thị trường. Thị trường đồng
nghĩa với tự do kinh tế, tự do trao đổi, tự do xác định giá cả. Thị trường có vai trò
tự động điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, gia đình và doanh nghiệp. Lời ích
kinh tế là động lực của cá nhân hay doanh nghiệp, cơ chế thị trường là hình thức tổ
chức kinh tế. Trong đó cá nhân người ta tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động
lẫn nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là gì?
Cho ai? Như thế nào? Cơ chế thị trường không phải là hỗn hợp mà là một trật tự
kinh tế. Sự biến động giá cả làm cho trạng thái cân bằng cung-cầu thường xuyên
biến đổi và ngược lại.
Lợi nhuận là động lực chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy hệ
thống thị trường luôn phải dùng lỗ và lãi để quyết định 3 vấn đề trung tâm của hoạt
động kinh tế.
Theo trường phái chính hiện đại thì nền kinh tế chính trị thường có những nét đặc
trưng cơ bản sau:
 Nó thông qua sự tác động qua lại của người tiêu dùng và người sản xuất mà tuổi
hoạt động tùy theo lợi ích từng phía, để thỏa mãn người tiêu dùng và lợi nhuận
của người sản xuất được tối đa hóa.
 Những tác động này nằm trong một thị trường tự do mà giá cả độc lập như một
người trung gian. Ở đây người tiêu dùng và xí nghiệp được tự do lựa chọn, nhà
nước không can thiệp vào. Sự tối đa hóa lợi ích người tiêu dùng và doanh thu
hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp không bị biến dạng. Vì vậy, người tiêu dùng
phải cẩn thận, định giá đúng kẻo bị thiệt thòi.
 Cạnh tranh là động lực cơ bản có tính hiệu quả trong sản xuất. Tín hiệu giá cả
với người sản xuất là nhu cầu của người tiêu dùng. Cạnh tranh là để bảo đảm
rằng cái mà người tiêu dùng muốn có được sản xuất ra một cách hiệu quả nhất.
 Lợi nhuận là động lực cá nhân hay doanh nghiệp.
 Giá cả của bất cứ sản phẩm nào cũng đều phụ thuộc vào cung – cầu của sản
phẩm đó trên thị trường. Vì vậy, nó có thể thực hiện mục tiêu của người tiêu
dùng và người sản xuất.
Kinh tế thị trường chịu điều khiển của hai ông vua:
 Người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ bỏ tiền ra mua hàng do doanh nghiệp
sản xuất ra. Kỹ thuật: hạn chế người tiêu dùng, nhu cầu phải chịu theo cung ứng
của người kinh doanh.
 Lý thuyết cung – cầu là lý thuyết trung tâm của trường phái chính hiện đại. Quy
luật cung – cầu là mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa cung và cầu và
việc hình thành giá cả. Khi các đường cung-cầu được vạch ra, điểm giao tuyến
của chúng xác định giá cân đối này đều dẫn đến kết quả cung lớn hơn cầu, do
đó kéo giá xuống. Ngược lại bất kỳ giá nào dưới mức cân đối này đều dẫn đến
kết quả là sản lượng cầu vượt qua số lượng cung. Vì vậy, giá lên (tranh nhau
mua). Ở mức cân đối không có sự thiếu hụt hay dư thừa sản phẩm.
Sự cân bằng giá cả thị trường xảy ra tại mức giá cả và khối lượng tại đó các lực
lượng hoạt động trên thị trường cân đối nhau. Tại đó, số lượng người mua bằng số
lượng người bán.
Vai trò của nhà nước:
 Trường phái này cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ quản lý ít nhất.
 Tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp kinh doanh.
 Thực hiện các hoạt động phúc lợi công cộng, đưa tiêu chuẩn về sức khỏe, an
toàn lao động, trợ cấp người già, tàn tật.
 Chính phủ dành những đặc quyền kinh tế cho một số nhóm đặc biệt thông qua
trợ cấp có đặc biệt, chương trình ứng dụng, hỗ trợ giá, thuế...
 Duy trì cạnh tranh, nghiêm cấm các công ty độc quyền không được điều chỉnh
các việc buôn bán, và sử dụng lao động bất công.
6. Keynes – Kinh tế điều chỉnh
a/ Trình bày nội dung cơ bản lý thuyết kinh tế của John Mayvard Keynes và
điều chỉnh kinh tế theo lý thuyết Keynes.
b/ Nhận xét về lý thuyết này.
c/ Ý nghĩa rút ra từ sự nghiên cứu lý thuyết của John Mayvard Keynes.
a/ Những nội dung cơ bản lý thuyết kinh tế Keynes:
Vai trò kinh tế của nhà nước:
Keynes đã bác bỏ quan điểm giá cả và tiền lương sinh hoạt, để tự cân đối cung –
cầu của trường phái kinh tế cổ điển và tân cổ điển. Ông cho rằng một nền kinh tế
không có khả năng tự động điều chỉnh một cách hoàn hảo. Theo ông trong điều
kiện một nền kinh tế mới thì giá cả và tiền lương là cân nhắc. Vì thế thị trường
không còn khả năng tự điều chỉnh. Các tổ chức độc quyền và nhà nước đã can
thiệp vào giá cả mặt hàng và sự đấu tranh của công đoàn dẫn đến các thỏa ước lao
động, chính nó ràng buộc mức tiền lương. Vì vậy, vai trò kinh tế của nhà nước là
hết sức quan trọng, để chống lại tình trạng khủng hoảng, suy thoái và thất nghiệp.
Vai trò của nhà nước sẽ làm tăng mức sản lượng của nền kinh tế gần với mức sản
lượng tiềm năng.
Thất nghiệp, suy thoái:
Theo ông tình trạng thất nghiệp kéo dài do thiếu hụt một số an hữu hiệu, mức cầu
bảo đảm lợi nhuận cho các nhà đầu tư, sỡ dĩ có tình trạng này là do:
 Khuynh hướng tiết kiệm ngày càng gia tăng, nó mang tính chất tâm lý, biểu
hiện trong từng cá nhân, tổ chức XH và ngay cả trong các doanh nghiệp.
Khuynh hướng tiết kiệm được biểu hiện như sau: Khi sản xuất tăng lên thì thu
nhập tăng lên, thu nhập chia làm hai bộ phận là tiêu dùng và tiết kiệm (để dự
phòng cho tương lai). Khi thu nhập tăng thì bộ phận tiêu dùng có thể tăng tuyệt
đối và giảm tương đối. Khuynh hướng tiết kiệm trong tiêu dùng cá nhân làm
cho cầu tiêu dùng cá nhân tăng chậm hơn là cung. Cầu đầu tư cũng có khả năng
tăng chậm hơn do cầu tiêu dùng chậm, lãi suất ngân hàng thường cố định ở mức
tương đối cao trong khi tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút. Vì thế tổng cầu
giảm sút do với tổng cung.
 Giải pháp chống suy thoái và thất nghiệp: theo ông đó là hai căn bệnh chủ yếu
của nền kinh tế, vì thế tất cả mọi nỗ lực của XH là làm sao giảm suy thoái và
thất nghiệp. Ông đề ra giải pháp là tăng mức cầu, vì theo ông tổng cầu tăng ảnh
hưởng đến tổng cung sẽ làm giảm suy thoái và thất nghiệp. Cách làm tăng mức
cầu △D cần có sự can thiệp của nhà nước: Sự can thiệp của nhà nước sử dụng
công cụ chính là chủ yếu (thu thuế, chi ngân sách). Theo ông phần chi của
chính phủ là công cụ chính yếu bởi vì khi chi tiêu chính phủ tăng làm kích thích
mang tính đẩy chuyển để làm tăng tổng cầu nói chung. Sự tăng tổng cầu tác
động đến tổng cung cũng theo một tác động dây chuyền. 
Lý thuyết mô hình số nhân:
Số nhân là hệ số bằng số phản ánh mức độ gia tăng của sản lượng do kết quả của
việc gia tăng, đầu tư hay là con số mà ta phải nhận sự thay đổi đầu tư với nó, để
xác định sự thay đổi trong tổng sản lượng.
Y=L/MPS x L hay Y= I/(I-MPC) x I
Với △Y: số giá của sản lượng
△ I: số giá của đầu tư
MPS: tiết kiệm trên hạn mức
MPC: tiêu dùng trên hạn mức
Số nhân tỷ lệ thuận với mức tiêu dùng trên hạn mức và tỷ lệ nghịch với mức tiết
kiệm trên hạn mức.
Ngoài ra Keynes còn đề nghị một chính sách tiền lương tối thiểu vì tiền lương
giảm sẽ dẫn đến khối lượng tiền tiết kiệm giảm, sẽ khuấy động nền kinh tế (lương
thấp: chủ tư bản sẽ thuê được nhiều công nhân: tiền lương công nhân không tiết
kiệm được đem ra tiêu dùng hết).
Điều chỉnh kinh tế theo thuyết Keynes:
* Điều chỉnh bằng lãi suất: Theo Keynes lãi suất là phần trả công cho việc không
sử dụng tiền mặt trong một thời gian xác định nào đó, lãi suất sẽ tỷ lệ nghịch với ý
muốn giữ tiền mặt của dân cư, hai yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất.
 Khối lượng tiền tệ trong lưu thông tỷ lệ nghịch với lãi suất, Keynes chủ trương
đưa thêm tiền vào lưu thông, làm giảm lãi suất thực tế, sẽ kích thích dân cư.
 Sự ưa chuộng tiền mặt trong nền kinh tế do: động lực giao dịch, động lực dự
phòng và động cơ đầu tư.
🡺 lãi suất là một khuynh hướng tâm lý cao độ, có tính quy ước, chính phủ có thể
dùng chính sách điều chỉnh lãi suất để tác động vào kinh tế.
* Sử dụng hệ thống tài chính, tiền tệ nhằm kích thích lòng tin, tính lạc quan và tính
tiêu cực đầu tư của các nhà kinh doanh. Chủ trương:
 Tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông để giảm lãi suất thực tế cho vay.
 Khuyến khích các nhà tư sản mở rộng quy mô vay vốn mở rộng đầu tư.
 Dùng lạm phát có kiểm soát.
 Nhà nước có thể in thêm tiền để bù đắp thân hụt ngân sách, mở rộng đầu tư và
bảo đảm chi tiêu chính phủ.
* Sử dụng công cụ thuế: Tăng thuế với người lao động để giảm phần tiết kiệm từ
thu nhập của họ và đưa phần này vào đầu tư của nhà nước, Giảm thuế cho các nhà
tư bản kinh doanh, nhằm khuyến khích cho các nhà tư bản kinh doanh và nâng cao
hiệu quả đầu tư.
* Mở rộng các hoạt động đầu tư của nhà nước kể cả các hoạt động đầu tư như:
sản xuất vũ khí, quân sự hóa nền kinh tế, chiến tranh... đều tốt vì nó tạo công ăn
việc làm, tạo thu nhập, nâng cao tiêu dùng và chống được khủng hoảng kinh tế.
* Mở rộng khuyến khích các hoạt động tiêu dùng nhất là tiêu dùng cá nhân.
b/ Ý nghĩa rút ra từ lý luận nghiên cứu của Keynes:
 Điều nổi bật đây là lý thuyết chống suy thoái được áp dụng hữu hiệu trong nền
kinh tế bị suy thoái, đã được các nhà tư bản ứng dụng trong nhiều thập kỷ.
 Lần đầu tiên trong kinh tế học tư bản Keynes phân tích một cách chặt chẽ cơ sở
khách quan cho sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế. Lý thuyết của
ông được coi là lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại và được áp dụng rộng rãi trên
toàn thế giới và là nền tảng lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại.
7. William petty – LL giá trị
. Phân tích và so sánh lý luận giá trị của William Petty với lý luận giá trị của
trường phái thành Viene (Áo).
b. Đưa ra nhận xét về những lý luận trên.
c. Ý nghĩa từ sự nghiên cứu những lý luận trên.
a. Phân tích - so sánh lý luận giá trị:
William Petty:
1. Ông nêu ra nguyên lý về giá trị lao động khi bắt đầu phân tích nguồn gốc, đánh
thức để tăng cường ngân khố và sử dụng hợp lý nguồn tài chính.
Đưa ra luận điểm đánh thuế vào lợi nhuận thương nghiệp và đất đai trên thực tế
thông qua tiền, nêu bật vấn đề giá trị.
2. Chia giá cả ra làm 2 loại: giá cả chính trị (giá cả thị trường) và giá cả tự nhiên
(giá trị bên trong). Giá cả chính trị phụ thuộc vào tình trạng ngẫu nhiên do đó khó
hiểu rõ được. Giá cả tự nhiên do hao phí quyết định và năng suất lao động có ảnh
hưởng đến mức hao phí đó. Petty căn cứ vào tỷ lệ hao phí lao động trong sản xuất
hàng hóa thường và hao phí lao động trong sản xuất tiền tệ để tính giá cả tự nhiên...
Cùng một số lượng lao động như nhau mà khai thác được 2 ounce bạc hoặc 1 burel
lúa mì thì 1 burel lúa mì giá 2 ounce bạc.
Do đó, Petty cho rằng lao động là cơ sở của giá cả tự nhiên.
3. Cơ sở của giá trị trao đổi là: hao phí lao động, thời gian lao động. Tỉ lệ trao đổi
tùy thuộc vào hao phí lao động.
Trường phái thành Viene:
1. Cho rằng: mọi sự kiện kinh tế đều phải được xem là những sự  kiện thuộc về con
người, do con người đóng vai trò chủ động. Muốn hiểu được thấu đáo các sự kiện
tâm lý phải nghiên cứu tâm lý con người. Con người có những nhu cầu thiết yếu
cần được thỏa mãn vì thế mới có hoạt động kinh tế. Khác với Petty, trường phái
thành Viene cho rằng giá trị của cải và vật phẩm không bắt nguồn và tùy thuộc ở
lao động mà phụ thuộc vào tính chất quan trọng nhiều hay ít do sự xét đoán chủ
quan của mỗi cá nhân.
2. Chia giá trị sử dụng ra 2 trường hợp:
- Tùy theo việc sử dụng giá trị sử dụng nó để làm gì, đáp ứng nhu cầu nào, mức độ
quan trọng ra sao... và tùy theo số lượng hiện có mà vật phẩm có giá trị nhiều hay
ít.
- Trong những cùng một công dụng, đáp ứng cùng một nhu cầu, giá trị của một
đơn vị vật phẩm cũng sẽ khác nhau và giá trị của đơn vị vật phẩm sau cùng sẽ ấn
định giá trị chung quanh vật phẩm đó. Một người đang khát nước, ly nước đầu tiên
có giá trị rất cao nhưng ly nước thứ 5 thứ 6 có thể không uống được nên giá trị rất
thấp, có thể giá trị là 0.
Mỗi cá nhân phân chia nhu cầu của mình thành nhiều loại, sắp xếp theo thứ tự căn
cứ vào sự quan trọng. Cường độ của một nhu cầu khi được thỏa mãn sẽ giảm dần.
Các đơn vị vật phẩm sử dụng cho những cường độ khác nhau sẽ có giá trị khác
nhau. Giá trị được tính trên đơn vị vật phẩm cuối cùng.
3. Về giá trị trao đổi quan niệm rằng yếu tố tâm lý đóng vai trò quyết định. Hai cá
nhân trao đổi hàng hóa cho nhau bởi họ đều tin vào số họ bỏ ra có giá trị thấp hơn
số họ mang về, như vậy khi trao đổi mỗi cá nhân đều căn cứ, tính toán trên nhu
cầu, khi nào cảm thấy có lợi họ mới chịu trao đổi.
b/ Nhận xét về những lý luận trên:
William Petty:
Lý thuyết của ông còn ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương: Ông chỉ thừa nhận
lao động khai thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị của hàng hóa khác chỉ
được xác định nhờ quá trình trao đổi với bạc.
Trường phái thành Viên:
Họ đề cao khía cạnh và vai trò tâm lý của mỗi cá nhân, đây là một hiện tượng có
thật trong thực tế trên thương trường. Học thức này phân tích kỹ lưỡng sự tiếp
nhận giá trị và giá cả từ phía người tiêu dùng, có ý nghĩa thực tiễn với các nhà
doanh nghiệp, quản lý. Trường phái thành Viene chỉ chú ý đến phân tích tâm lý
của người tiêu dùng nhưng không đề cập đến vai trò của người sản xuất và người
cung ứng.
c/ Ý nghĩa nghiên cứu:
 Cả hai đều có ý nghĩa to lớn, thực tiễn đối với các nhà doanh nghiệp, quản lý
trong việc sản xuất và trao đổi hàng hóa. Họ có thể nghiên cứu tâm lý khách
hàng để sản xuất một loại vật phẩm nào đó đem lại lợi nhuận cho mình.
 Ví dụ, vào mùa mưa, việc sản xuất áo mưa cũng nảy sinh nhiều vấn đề quan
trọng, muốn sản xuất bán chạy cần phải nghiên cứu tâm lý người tiêu dùng:
chất lượng, kích cỡ, màu sắc...
8. Lợi nhuận của Adam Smith
a/ Trình bày lý luận lợi nhuận của Adam Smith. Đưa ra những nhận xét về lý
luận này.
b/ Phân tích và so sánh lý luận địa tô của Adam Smith với lý luận địa tô của
David Ricardo. Nhận xét rút ra từ lý luận địa tô của hai ông.
a/ Lý luận lợi nhuận của Adam Smith:
Adam Smith cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của lao
động, không chỉ lao động trong nông nghiệp mà cả trong công nghiệp cũng tạo ra
lợi nhuận. Lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của
XH. Ông thừa nhận sự đối lập của tiến công là lợi nhuận. Ông nhìn thấy sự cạnh
tranh giữa các ngành và thường xuyên thì tỷ xuất lợi nhuận giảm sút. Theo ông, tư
bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp.
Ngoài ra, ông cũng cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như tư bản trong
lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau.
Theo cách giải thích của Adam Smith thì lợi nhuận địa tô lợi tức chỉ là những hình
thái khác nhau của giá trị thặng dư.
Nhận xét: 
 Không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Ông cho rằng
toàn bộ lợi nhuận là do tư bản đẻ ra.
 Do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên ông cho rằng tư
bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều đem lại lợi nhuận như
nhau.
 Ông coi lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc
mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản. Lợi nhuận là một trong những
nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. Một tiến
bộ của Adam Smith là nêu được nguồn gốc thật sự của giá trị thặng dư sinh ra
từ lao động.
b/ Phân tích và so sánh lý luận địa tô của Adam Smith với lý luận địa tô của
David Ricardo. Nhận xét rút ra từ hai lý luận trên.
Adam Smith:
1/ Khi ruộng đất trở thành sở hữu tư nhân thì địa tô chỉ là khoản khấu trừ thứ nhất
vào sản phẩm lao động. Ông coi địa tô như là tiền trả về việc sử dụng đất đai 🡪 Độc
quyền tư hữu ruộng đất là điều kiện chiếm hữu địa tô.
Quy mô địa tô nhiều hay ít là kết quả của giá cả sản phẩm, ông coi địa tô là giá cả
của độc quyền.
2/ Ông phân biệt được địa tô và lợi tức do tư bản đầu tư vào đất đai. Theo cách giải
thích của ông thì địa tô là hình thái của giá trị thặng dư.
3/ Ông phân biệt được địa tô chênh lệch do độ màu mỡ đất đai nhưng lại không đi
sâu vào nghiên cứu vấn đề này.
Ông chỉ ra mức độ địa tô trên mảnh đất, ruộng là do thu nhập của mảnh đất ruộng
đó đem lại và ông chỉ ra rằng địa tô trên những mảnh ruộng canh tác chủ yếu quyết
định địa tô trên ruộng đất trồng cây khác.
David Ricardo:
1/ Ông bác bỏ những lý luận địa tô là sản vật của những lực lượng tự nhiên hay do
năng suất lao động đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp đem lại. Ông cho rằng địa
tô là biểu hiện của sự bần cùng, là nguyên nhân của nạn đói. Ông lên án địa tô.
2/ Để giải thích địa tô, ông hoàn toàn dựa vào quy luật giá trị, ông cho rằng địa tô
không đi ngược với quy luật giá trị mà đi theo quy luật giá trị. Ông cho rằng giá trị
nông sản hình thành trên điều kiện “ruộng đất xấu nhất” vì ruộng đất là yếu tố có
giới hạn. Tư bản kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình thu được nhiều lợi
nhuận thì lợi nhuận này phải nộp cho địa chủ, ông phê phán tư tưởng ăn bám của
địa chủ, thu địa tô qua nhân danh quyền sở hữu ruộng đất.
3/ Ông thừa nhận cái gọi là địa tô chênh lệch, nghĩa là sự chênh lệch giữa các vùng
đất tốt và xấu khác nhau.
Nhận xét:
Adam Smith còn có những hạn chế sau:
 Ông coi địa tô là phạm trù vĩnh viễn và còn coi lợi ích của chủ đất phù hợp với
lợi ích của xã hội.
 Ông chưa hiểu được một cách đúng đắn sự chuyển hóa lợi nhuận siêu ngạch
thành địa tô.
 Ông bị khống chế bởi tư duy sai lầm, giá cả tự nhiên của hàng hóa do các nguồn
thu nhập quyết định mâu thuẫn: trước kia coi địa tô là yếu tố hình thành của giá
cả tự nhiên, sau lại cho là khoản dôi ra ngoài giá cả tự nhiên, trước coi địa tô là
nguyên nhân của giá cả, sau lại coi nó là hiệu quả của giá cả.
 Ông chưa hiểu được địa tô chênh lệch nhất và phủ nhận địa tô tuyệt đối.
 Vẫn còn chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng nông khi cho rằng năng suất
lao động trong nông nghiệp cao hơn năng suất lao động trong công nghiệp vì
cho rằng trong nông nghiệp còn có sự giúp đỡ của tự nhiên.
Những hạn chế của David Ricardo:
 Ông đã gắn lý luận địa tô với quy luật ruộng đất sinh lợi ngày càng giảm vì
ruộng đất là cái có hạn. Điều này đã bị phê phán trong kinh tế chính trị học.
 Ông chưa đề cập đến “địa tô chênh lệch II” và phủ nhận địa tô tuyệt đối vì
không biết cấu tạo hữu cơ, không thấy được tính quy luật cấu tạo hữu cơ trong
công nghiệp thường lớn hơn so với trong nông nghiệp, chưa thừa nhận địa tô
tuyệt đối nghĩa là phủ nhận quy luật giá trị.
9. Jean – batipse say
a/ Phân tích nội dung cơ bản lý thuyết kinh tế của Jean Baptiste Say. Đưa ra
nhận xét về lý thuyết này.
b/ So sánh lý luận giá trị của Say với lý luận giá trị của D. Ricardo.
a/ Lý thuyết kinh tế của Jean Baptiste Say và những nhận xét:
Say xuất thân từ một gia đình thương nhân lớn ở Lyon. Tư tưởng và luận điểm
kinh tế của Say thể hiện những vấn đề chủ yếu sau:
Lý luận về giá trị:
Ông xa rời lý thuyết giá trị lao động và ủng hộ lý thuyết giá trị ích lợi hay giá trị
chủ quan. Ông cho rằng có sản xuất thì có tạo ra giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng đó
truyền cho mỗi vật phẩm giá trị trao đổi hay giá trị. Trong “học thuyết về tính hữu
dụng” Say cho rằng giá cả là thước đo giá trị, còn giá trị là thước đo lợi ích (do giá
trị sử dụng của vật phẩm). Ích lợi của vật phẩm càng nhiều thì giá trị của vật phẩm
càng cao.
Nhận xét:
 Về nguồn gốc giá trị nó đối lập hoàn toàn với học thuyết giá trị lao động của
David Ricardo và Adam Smith.
 Chưa giải thích được vì sao có những của cải có giá trị sử dụng mà không có
giá trị trao đổi, chưa làm rõ giá trị sử dụng ở đây là giá trị sử dụng khách quan
hay giá trị sử dụng chủ quan.
Chính luận điểm này là một trong những cơ sở xuất phát để hình thành học thuyết
giá trị công dụng sau này dưới hình thức học thuyết công dụng cận biên.
Quan điểm về thu nhập: 
Được phản ánh trong học thuyết 3 nhân tố của ông và nó liên quan mật thiết với
thuyết giá trị công dụng của ông. Say phủ nhận vai trò thuần túy của lao động
trong việc hình thành giá trị. Theo ông, 3 nhân tố tạo nên giá trị là lao động, tư sản
và tự nhiên (đất đai). Mỗi nhân tố chỉ đưa lại một lợi ích (giá trị) nhất định. Ông
cho rằng nên đầu tư thêm tư bản vào sản xuất sẽ làm tăng thêm sản phẩm phù hợp
với phần tăng thêm về giá trị. Máy móc tham gia vào quá trình sản xuất sẽ tham
gia vào tăng giá trị 3 nhân tố trên sẽ tạo ra cho các chủ sở hữu của nó những nguồn
thu nhập riêng biệt, lao động tạo ra tiền lương, đất đai tạo ra địa tô, tư bản tạo ra lợi
tức. Theo ông, ở đây không có quan hệ bóc lột. Nhà tư bản kinh doanh cũng như
những người lao động, thu nhập của họ cũng là tiền lương nhưng đó là loại tiền
lương đặc biệt, là phần thưởng đặc biệt cho năng lực kinh doanh và tinh thần làm
việc của anh ta. Công nhân làm việc đơn giản nên nhận được tiền lương thấp, ông
thừa nhận tiền lương chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho công nhân nhưng ông
cho rằng XH tư bản không chịu trách nhiệm về tình hình này.
Nhận xét:
Quan điểm về thu nhập của Say đối lập với học thuyết giá trị lao động về nguồn
gốc của thu nhập. Ông phủ nhận về sự bóc lột của chủ tư bản đối với người làm
thuê. Quan điểm về thu nhập của Say là cơ sở để hình thành học thuyết năng suất
cận biên sau này.
Lý thuyết bồi hoàn:
Say coi sự tiến bộ kỹ thuật có vai trò đặc biệt đối với cả nhà tư bản lẫn công nhân
làm thuê. Ông cho rằng chỉ thời kỳ đầu áp dụng máy móc kỹ thuật thì người công
nhân mới có sự bất lợi vì gạt bỏ một số công nhân làm cho họ tạm thời không có
việc làm. Nhưng cuối cùng thì công nhân vẫn có lợi do việc sử dụng máy móc làm
cho các sản phẩm rẻ, người công nhân được hưởng.
Nhận xét:
Vẫn chưa đề cập đến sự bóc lột khốn cùng của giai cấp tư sản đối với giai cấp công
nhân làm thuê.
b/ So sánh lý luận giá trị của Say với lý luận giá trị của David Ricardo.
Say:
1/ Say đã đem thuyết về tính hữu dụng đối lập với lý luận giá trị của David
Ricardo.
2/ Cho rằng lao động tạo ra giá trị. Phân biệt giá trị trao đổi và giá trị sử dụng của
hàng hóa. Ông cho rằng: giá trị sử dụng truyền lại cho các vật phẩm giá trị trao đổi,
là thước đo của giá trị trao đổi, như là giá trị trao đổi cao hay thấp.
3/ Say cho rằng: giá trị của cải càng cao thì tính hữu dụng càng lớn, của cải càng
nhiều thì giá trị càng lớn.
4/ Say nói: giá trị được xác định trên thương trường hay giá trị chỉ xuất hiện trong
trao đổi, nói cách khác theo ông giá trị được quyết định bởi quan hệ cung-cầu, luận
điểm này cho thấy vật nào càng hiếm thì giá trị càng cao. Nó mâu thuẫn với lý luận
của ông cho rằng vật có giá trị sử dụng cao thì có giá trị cao.
David Ricardo:
1/ Đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị lao động và xem xét các phạm trù kinh tế
dưới ánh sáng lý luận đó.
2/ Phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chỉ
rõ giá trị sử dụng là điều cần thiết cho giá trị trao đổi nhưng không phải là thước đo
của giá trị trao đổi.
3/ Cho rằng giá trị càng giảm khi năng suất lao động tăng lên. Ông gạt bỏ quan
điểm của Say về của cải càng nhiều thì giá trị càng lớn.
4/ Ông hình dung vai trò của người lao động quá khứ nghĩa là vai trò của các yếu
tố vật chất trong việc hình thành giá trị sản phẩm mới.
10. Petty – trọng tiền
a/ Phân tích lý thuyết của trường phái Trọng Tiền hiện đại ở Mỹ. Đưa ra nhận
xét về lý thuyết này.
b/ So sánh luận điểm xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông của
William Petty với thuyết “số lượng tiền tệ”. Nhận xét về những luận điểm này.
a/ Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ:
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ chủ trương tự do hóa nền kinh tế đồng thời
nhấn mạnh vai trò tự điều tiết của thị trường.
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ đối lập và phê phán gay gắt những quan
điểm chủ yếu của Keynes:
 Về tình trạng nền kinh tế: Cho rằng giá cả và tiền lương trong điều kiện mới là
tương đối linh hoạt mềm dẻo.
 Thị trường vẫn có khả năng tự động điều tiết.
 Do thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên nền kinh tế có khả năng phát huy
tiềm năng của mình. GNP thực tế gần sát GNP tiềm năng. Do đó đường tổng
mức cung không phải là một khoảng nằm ngang mà là một đường dốc đứng gần
với GNP (GNP: tổng thu nhập quốc dân)
 Tổng cầu: Khi đường tổng cung là một đường dốc đứng, tổng cầu thay đổi thì
nó không thay đổi hình dáng kể GNP thực tế mà chỉ làm thay đổi giá cả.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu: Trường phái này cho rằng chính sách tài
chính không làm ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu mà nhân tố quan trọng quyết
định chính là khối lượng tiền tệ (ký hiệu: M) nói đúng hơn là tổng mức cung về
tiền tệ.
Theo quan điểm trọng tiền hiện đại ở Mỹ: Tổng cung tiền tệ là một nhân tố chủ
quan. Vì vậy, nó thường không ổn định và nó thường đặc biệt dễ bị chi phối bởi
nhân tố chính trị như là chu kỳ kinh doanh chính trị (chu kỳ bầu cử tổng thống,
nghị sĩ quốc hội...). Trong khi đó tổng mức cầu về tiền tệ là một đại lượng khách
quan, tương đối ổn định vì nó phụ thuộc vào GNP tiềm năng.
Trường phái trọng tiền hiện đại Mỹ quan tâm đến căn bệnh chủ yếu của nền kinh
tế: không phải là suy thoái và thất nghiệp mà căn bệnh nguy hiểm nhất là lạm phát.
Họ đề ra biện pháp để chống lạm phát như sau: Thực hiện một chính sách tiền tệ,
cụ thể, chủ động làm tăng tổng mức cung tiền tệ từ 3-4%/ năm (phù hợp với tốc độ
tăng của tổng mức cầu tiền tệ là xấp xỉ mức phát triển của GNP tiềm năng. Một
điểm cần chú ý ở đây là lạm phát giảm sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng.
Nhận xét:
 Đã đề ra một giải pháp hữu hiệu để tránh lạm phát nhưng cũng cần phải lưu tâm
đến suy thoái và thất nghiệp, là căn bệnh trầm kha của chủ nghĩa tư bản. 
b/ So sánh luận điểm xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông của
William Petty với thuyết “số lượng tiền tệ”. Nêu nhận xét.
Số lượng tiền cần thiết trong lưu thông của W.Petty:
Ông là người đầu tiên xác định số tiền trong lưu thông trên cơ sở số lượng hàng
hóa và tốc độ chu chuyển của tiền, là người tiên phong trong việc nghiên cứu ảnh
hưởng của thời hạn thanh toán đối với lưu thông tiền tệ, thời hạn thanh toán càng
dài thì số tiền cần thiết cho lưu thông càng nhiều.
Nhận xét: 
Ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng hai thứ kim loại giữ
vai trò tiền tệ là vàng bạc. Quan hệ tỷ lệ giữa chúng là giá trị của chúng là do số
lượng lao động bỏ vào việc khai thác vàng bạc quyết định.
Trường phái Mỹ:
Tốc độ lưu thông của tiền tệ là tốc độ quay vòng của tổng khối lượng tiền tệ. Công
thức’
PQ GNP
V= = (1)
M M
V= Tốc độ lưu thông của tiền tệ
M= Khối lượng tiền tệ
P= Mức giá chung
Q= Sản lượng thực tế của hàng hóa dịch vụ
🡪 MV=GNP=PQ (2)
Ở phương trình này ta thấy mối quan hệ giữa M.V.GNP.
Từ (2): gọi V là đại lượng cố định, trên danh nghĩa GNP tỷ lệ với khối lượng tiền
tệ trong lưu thông. Đặc biệt trong thời gian ngắn V coi như không đổi:
MV V
🡪 P= =      M
Q Q
V/Q trong thời gian ngắn nhất là một hằng số = Kinh tế Vì vậy P= KM (3)\
Mức giá luôn tỷ lệ với khối lượng tiền trong lưu thông
Từ đó, trường phái trong tiền hiện đại ở Mỹ cho rằng các biến số của kinh tế vĩ mô
như sản lượng quốc gia, việc làm mức giá cả thuần túy phụ thuộc rất nhiều vào
khối lượng tiền tệ. Nếu khối lượng tiền tệ càng nhiều thì GNP: việc làm giá cả
cũng tăng lên theo. Lạm phát là do dư thừa số lượng tiền tệ trong lưu thông.
So với W. Petty thì trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ nghiên cứu sâu hơn.
Nhận xét:
 Từ công thức (3) trên cho thấy trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ đã thấy
được mọi tình trạng lạm phát (P tăng nhanh) là do phát hành tiền quá mức cần
thiết. Từ đó, phải tìm cho ra giải pháp hữu hiệu để chống tình trạng lạm phát,
gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế.
 Thực tế chính sách tiền tệ là một công cụ vĩ mô hết sức quan trọng. Trong quản
lý nhà nước không chỉ ứng dụng chính sách tiền tệ và quy tắc tiền tệ mà còn
ứng dụng một cách tổng hợp các công cụ.

11.

You might also like