You are on page 1of 10

Đề 3:

A. Nội dung chính của Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP) và các
Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau:
1. Nội dung chính của Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân (MNP)
 Giới thiệu: Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân (MNP) được ký ngày
19/11/2012 tại Phnom Penh, Campuchia với mục tiêu dỡ bỏ đáng kể các rào
cản đối với việc di chuyển tạm thời qua biên giới của các thể nhân tham gia vào
thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các nước ASEAN.
 Mục tiêu: 
(a) cung cấp trong phạm vi của Thỏa thuận này quyền và nghĩa vụ bổ sung cho
những quyền được đặt ra trong Hiệp định khung ASEAN về Các dịch vụ và các
Giao thức triển khai của nó trong mối quan hệ với sự di chuyển của thể nhân giữa
các Quốc gia thành viên;
(b) tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển của thể nhân tham gia vào việc thực
hiện thương mại: trong hàng hóa, thương mại trong dịch vụ và đầu tư giữa các
thành viên;
(c) thiết lập các thủ tục hợp lý và minh bạch cho các ứng dụng cho các thủ tục
nhập cư cho nhập cảnh tạm thời hoặc tạm trú tự nhiên những người mà Thỏa thuận
này áp dụng;
(d) bảo vệ sự toàn vẹn của biên giới các Quốc gia Thành viên và bảo vệ lực lượng
lao động trong nước và việc làm lâu dài trong các lãnh thổ của Các quốc gia thành
viên.
 Phạm vi áp dụng:
Hiệp định này áp dụng đối với các quy định ảnh hưởng tới việc di chuyển tạm thời qua
biên giới của thể nhân của một nước ASEAN sang lãnh thổ của nước ASEAN khác
trong các trường hợp:
1) Khách kinh doanh (business visitors)
2) Người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp
3) Người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng
4) Một số trường hợp khác quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết về Di
chuyển thể nhân của mỗi nước đính kèm theo Hiệp định này.
Hiệp định không áp dụng đối với các quy định của một nước ASEAN liên quan tới
việc hạn chế tiếp cận thị trường lao động của người lao động các nước ASEAN khác.
Việc mở cửa thị trường lao động của mỗi nước chỉ áp dụng cho các ngành nghề được
quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết của nước đó và thuộc một trong 4 trường
hợp trên.
 Các thoả thuận về tự do di chuyển thể nhân trong MNP

1
a) Quy định về cấp Tạm nhập cảnh (Temporary Entry) hoặc Tạm trú (Temporary
Stay)
Theo Điều 4 của Hiệp định, mỗi quốc gia thành viên, theo Biểu cam kết của quốc gia
sẽ cấp quyền tạm nhập cảnh hoặc tạm trú cho thể nhân của quốc gia thành viên khác
khi các thể nhân đã theo các thủ tục nộp đơn quy định đối với hình thức nhập cảnh đó,
đồng thời đáp ứng tất cả các yêu cầu và đủ điều kiện để nhập cảnh tạm thời hoặc tạm
trú theo quy định của pháp luật quốc gia. Để đảm bảo việc xử lý đơn tạm nhập cảnh/
tạm trú được thực hiện nhanh chóng, Hiệp định quy định quốc gia thành viên tiếp nhân
phải xử lý kịp thời và thông báo cho người nộp đơn về trình trạng giải quyết đơn đối
với các đơn xin đã hoàn thành thủ tục tạm nhập cảnh/tạm trú; trường hợp đơn đăng ký
chưa hoàn chỉnh, quốc gia thành viên phải thông báo cho người nộp đơn để hoàn thành
đơn đăng ký. Phí nhập cảnh hoặc tạm trú sẽ do pháp luật quốc gia quy định. Để đảm
bảo về an ninh và tuân thủ pháp luật, Hiệp định cho phép quốc gia tiếp nhận có thể từ
chối tạm nhập cảnh hoặc tạm trú đối với thể nhân của một quốc gia khác nếu không
thực hiện đủ các yêu cầu và đáp ứng các điều kiện tạm nhập cảnh/tạm trú theo pháp
luật quốc gia tiếp nhận.
b) Quy định về cam kết của quốc gia thành viên đối với tạm nhập cảnh/ tạm trú của
thể nhân và lộ trình các thỏa thuận hướng tới tự do hoá hơn nữa về di chuyển thể
nhân trong ASEAN
Mỗi quốc gia thành viên sẽ cam kết về tạm nhập cảnh/tạm trú trong lãnh thổ quốc gia
mình cho thể nhân của các quốc gia thành viên khác, cụ thể là các điều kiện chung, các
giới hạn, thời gian lưu trú đối với từng loại thể nhân. Khi MNP có hiệu lực, cam kết
này sẽ thay thế các cam kết theo AFAS liên quan đến Mode 4 trước đây.
Với mục tiêu tự do di chuyển thể nhân hơn nữa trong tương lai, Hiệp định cũng quy
định về lộ trình các cuộc đàm phán trong tương lai nhằm đạt được những thỏa thuận
cao hơn. Theo MNP, cuộc thảo luận đầu tiên để xem xét lại các Biểu cam kết sẽ được
tổ chức sau 1 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực và các cuộc thảo luận sau đó sẽ
diễn ra theo thoả thuận của các quốc gia thành viên ASEAN. Những sửa đổi của các
Biểu cam kết sẽ được đưa vào Hiệp định dưới hình thức sửa đổi, bổ sung Hiệp định.
c) Quy định về đảm bảo sự minh bạch
Để đảm bảo sự minh bạch trong tự do di chuyển thể nhân, Hiệp định MNP quy định
nghĩa vụ của các nước thành viên trong việc thực hiện thỏa thuận này. Theo Điều 8
MNP, mỗi quốc gia thành viên ASEAN sẽ có nghĩa vụ:
- Công khai các thủ tục nhập cảnh và các giải thích có liên quan hoặc ảnh hưởng đến
thoả thuận về tự do di chuyển thể nhân của ASEAN;
- Thiết lập hoặc duy trì các cơ quan liên lạc để hướng dẫn về thủ tục và các quy định
có liên quan đến tạm nhập cảnh/ tạm trú của thể nhân
- Cho phép khoảng thời gian hợp lý giữa công bố các quy định mới về tạm nhập cảnh/
tạm trú của thể nhân và ngày có hiệu lực, có thể công bố qua phương tiện điện tử.
- Công bố các thủ tục, các quy định có liên quan và các giải thích về tạm nhập
cảnh/tạm trú trên website về nhập cư trong khoảng thời gian không quá 6 tháng kể từ
ngày MNP có hiệu lực.

2
- Khi có bất kỳ sửa đổi, bổ sung nào về các quy định nhập cư liên quan đến tạm nhập
cảnh hoặc tạm trú của thể nhân phải công bố sớm nhất trong vòng 90 ngày kể từ ngày
sửa đổi, bổ sung có hiệu lực
d) Quy định về công nhận lẫn nhau
Nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động di chuyển thể nhân, MNP quy định mỗi quốc gia
thành viên (theo thỏa thuận của cả khối hoặc thỏa thuận song phương với quốc gia
thành viên khác) có thể công nhận trình độ giáo dục, kinh nghiệm, giấy phép, chứng
nhận có được của thể nhân được cấp bởi một quốc gia thành viên khác để phục vụ cho
việc cấp giấy phép, chứng nhận nhà cung cấp dịch vụ của thể nhân tại quốc gia mình.
 
2. Các Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA)
 MRA đối với dịch vụ tư vấn kỹ thuật (Engineering Services)
-  MRA đối với dịch vụ tư vấn kỹ thuật là MRA đầu tiên của các nước ASEAN được
ký vào ngày 9/12/2005 tại Kuala Lumpur, Malaysia. MRA này hướng tới xây dựng
một hệ thống đăng ký hành nghề kỹ sư chung ASEAN.
-   ASEAN đã thành lập Ủy ban Điều phối kỹ sư thuật chuyên nghiệp ASEAN
(ACPECC) đặt tại Jakarta, Indonesia để điều phối việc thực hiện MRA này. Trang web
của Ủy ban là: www.acpecc.net
-   Mỗi nước ASEAN cũng thành lập một Uỷ ban giám sát về dịch vụ tư vấn kỹ thuật
tại nước mình để thực hiện quy trình đánh giá và đăng ký cấp phép Kỹ sư chuyên
nghiệp đủ điều kiện theo ASEAN.
-   Quy trình đăng ký để được hành nghề tại một nước ASEAN khác như sau:
 Bước 1: Kỹ sư chuyên nghiệp đủ điều kiện về trình độ và kinh nghiệm theo quy
định trong MRA nộp đơn đăng ký lên Uỷ ban Giám sát về dịch vụ tư vấn kỹ
thuật tại nước mình để xin cấp chứng nhận Kỹ sư chuyên nghiệp đủ điều kiện
theo ASEAN (ASEAN Chartered Professional Engineer – ACPE)
 Bước 2: Uỷ ban Giám sát xem xét đơn đăng ký và lập Bản đánh giá, sau đó gửi
lên Ủy ban Điều phối kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPECC) để quyết định
cấp phép hay không cấp phép chứng nhận ACPE
 Bước 3: Kỹ sư chuyên nghiệp đã được cấp chứng nhận ACPE sẽ đủ điều kiện
để đăng ký với Cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành nghề kỹ sư ở một nước
ASEAN khác để được cấp phép là Kỹ sư chuyên nghiệp nước ngoài có đăng ký
(RFPE) tại nước đó, nhưng phải tuân theo các quy định và pháp luật liên quan
của nước đó.
 Bước 4: Kỹ sư chuyên nghiệp có RFPE được phép hành nghề tại nước ASEAN
đó nhưng phải phối hợp với các kỹ sư chuyên nghiệp của nước đó.
- Hiện tại, tất cả các thành viên ASEAN đã chính thức tham gia MRA này, và đã thành
lập các cơ quan thực hiện MRA tại nước của mình, cũng như hoàn thành các thủ tục để
thực hiện việc cấp chứng nhận ACPE. Tại Việt Nam, Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết
định số 820 và 821/QĐ-BXD ngày 6/8/2009 về việc thành lập Uỷ ban giám sát của
Việt Nam và Quy chế đánh giá đối với kỹ sư chuyên nghiệp

3
- Tính tới thời điểm tháng 10/2015, đã có 1.483 ACPE từ 9 nước ASEAN được chứng
nhận, và 6 ACPE đã được đăng ký hành nghề như RFPE.
MRA đối với dịch vụ Kiến trúc (Architectual Services)
- MRA đối với lĩnh vực dịch vụ Kiến trúc được ký 19/11/2007 tại Singapore. MRA
này hướng tới xây dựng một hệ thống đăng ký hành nghề Kiến trúc sư chung ASEAN
- ASEAN đã thành lập Hội đồng Kiến trúc sư ASEAN (AAC) quản lý việc thực hiện
MRA này. Website của AAC là: www.aseanarchitectcouncil.org
- Mỗi nước ASEAN cũng thành lập một Ủy ban giám sát về dịch vụ kiến trúc tại nước
mình để thực hiện quy trình đánh giá và đăng ký cấp phép Kiến trúc sư ASEAN.
- Quy trình đăng ký Kiến trúc sư ASEAN và đăng ký hành nghề tại một nước khác
như sau:
 Bước 1: Kiến trúc sư đủ điều kiện về trình độ và kinh nghiệm theo quy định
trong MRA nộp đơn đăng ký lên Uỷ ban Giám sát về dịch vụ Kiến trúc tại nước
mình để xin cấp chứng nhận Kiến trúc sư ASEAN (AA)
 Bước 2: Uỷ ban Giám sát xem xét đơn đăng ký và lập Bản đánh giá, sau đó gửi
lên Hội đồng Kiến trúc sư ASEAN để quyết định cấp phép hay không cấp phép
chứng nhận Kiến trúc sư ASEAN
 Bước 3: Kiến trúc sư đã được cấp chứng nhận là Kiến trúc sư ASEAN sẽ đủ
điều kiện để đăng ký với Cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành nghề kiến trúc
sư ở một nước ASEAN khác để được cấp phép là Kiến trúc sư nước ngoài có
đăng ký (RFA) tại nước đó, nhưng phải tuân theo các quy định và pháp luật liên
quan của nước đó.
 Bước 4: Kiến trúc sư có RFA có thể hành nghề tự do hoặc phối hợp với các
kiến trúc sư của nước sở tại.
- Hiện tại, tất cả các thành viên ASEAN đã chính thức tham gia MRA này, và đã thành
lập các cơ quan thực hiện MRA tại nước của mình, cũng như hoàn thành các thủ tục để
thực hiện việc cấp chứng nhận Kiến trúc sư ASEAN. Ở Việt Nam, Bộ Xây dựng đã
Ban hành Quyết định số 554/QĐ-BXD ngày 14/06/2011 về việc ban hành quy chế
đánh giá kiến trúc sư ASEAN.    
- Tính tới thời điểm tháng 10/2015, đã có 284 Kiến trúc sư ASEAN từ 9 nước ASEAN
được chứng nhận AA.
MRA đối với dịch vụ Kế toán (Accountancy Services)
-  MRA đối với lĩnh vực Kế toán ban đầu được ký tháng 2/2009 dưới hình thức một
khuôn khổ MRA nhằm khuyến khích các nước ASEAN đã sẵn sàng để tham gia vào
đàm phán song phương hoặc đa phương về MRA trong lĩnh vực Kế toán. Sau đó,
MRA này được sửa đổi và ký chính thức vào ngày 13/11/2014 tại Nay Pyi Taw,
Myanmar.
-   ASEAN đã thành lập Ủy ban Điều phối Kế toán chuyên nghiệp ASEAN để thực
hiện MRA này.

4
-   Mỗi nước ASEAN cũng thành lập một Uỷ ban giám sát về dịch vụ kết toán tại nước
mình để thực hiện quy trình đánh giá và đăng ký cấp phép Kế toán chuyên nghiệp đủ
điều kiện theo ASEAN.
-   MRA này áp dụng đối với tất cả các dịch vụ kế toán trừ dịch vụ ký báo cáo kiểm
toán độc lập và các dịch vụ yêu cầu cấp phép ở các nước ASEAN
-   Quy trình đăng ký để được hành nghề tại một nước ASEAN khác như sau:
 Bước 1: Kế toán chuyên nghiệp đủ điều kiện về trình độ và kinh nghiệm theo
quy định trong MRA nộp đơn đăng ký lên Ủy ban Giám sát về dịch vụ kế toán
của nước mình để xin cấp chứng nhận Kế toán chuyên nghiệp đủ điều kiện theo
ASEAN (ACPA).
 Bước 2: Uỷ ban Giám sát xem xét đơn đăng ký và lập Bản đánh giá, sau đó gửi
lên Uỷ ban Điều phối kế toán chuyên nghiệp ASEAN để quyết định cấp phép
hay không cấp phép chứng nhận ACPA
 Bước 3: Kế toán chuyên nghiệp đã được cấp chứng nhận ACPA sẽ đủ điều kiện
để đăng ký với Cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành nghề kế toán ở một nước
ASEAN khác để được cấp phép là Kế toán chuyên nghiệp nước ngoài có đăng
ký (RFPA) tại nước đó, nhưng phải tuân theo các quy định và pháp luật liên
quan của nước đó.
 Bước 4:  Kế toán chuyên nghiệp có RFPA được phép hành nghề nhưng phải
phối hợp với Kế toán chuyên nghiệp của nước sở tại.
Tính tính đến thời điểm tháng 12/2015, MRA này mới ký được hơn 1 năm và hiện
chưa có thông tin về tình hình thực hiện MRA này của các nước ASEAN (bao gồm cả
Việt Nam). 
MRA đối với dịch vụ Du lịch
-  MRA đối với dịch vụ Du lịch (MRA-TP) được các nước ASEAN ký ngày 9/11/2012
tại Bangkok, Thái Lan
-   Nội dung chính: Trình độ của người lao động của một nước ASEAN có thể được
một nước ASEAN khác công nhận, và được làm việc tại nước đó với điều kiện:
 Người lao động làm việc trong 32 lĩnh vực dịch vụ khách sạn và lữ hành quy
định trong Phụ lục đính kèm MRA-TP, trong đó không bao gồm Hướng dẫn
viên du lịch.
 Người lao động phải được đào tạo và có Chứng nhận trình độ du lịch (còn hiệu
lực) đáp ứng Tiêu chuẩn trình độ chung ASEAN về du lịch (ACCSTP) và được
cấp bởi một Hội đồng chứng nhận nghề du lịch tại nước mình
 Người lao động phải tuân thủ các quy định và pháp luật hiện hành của nước sở
tại.
 Hiện tại MRA này vẫn chưa có hiệu lực. Sáu nước Indonesia, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Singapore và Thái Lan đã hoàn thành các thủ tục và quy
trình trong nước để thực hiện MRA này nhưng 4 nước còn lại trong ASEAN
bao gồm Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuẩn bị cho việc thực hiện MRA
này.

5
MRA đối với lĩnh vực Điều dưỡng, Hành nghề Y và Hành nghề Nha khoa
 MRA về Điều dưỡng ký ngày 8/12/2006 tại Cebu, Philippines. MRA về Hành
nghề y và MRA về Hành nghề nha khoa được ký ngày 26/2/2009 tại Cha-am,
Thái Lan.
 Đặc điểm chung của cả 3 MRA này là không hướng tới thiết lập một cơ chế
đăng ký hành nghề chung ASEAN mà chủ yếu tập trung vào trao đổi thông tin
và tăng cường hợp tác về công nhận lẫn nhau trong các lĩnh vực ngành nghề
này, thúc đẩy áp dụng các thực tiễn tốt nhất về các tiêu chuẩn và trình độ, cung
cấp cơ hội xây dựng năng lực và đào tạo…
 Vì vậy, các cá nhân của một nước ASEAN hoạt động trong 3 lĩnh vực này khi
muốn hành nghề tại một nước ASEAN khác thì vẫn phải thực hiện hoàn toàn
theo các quy định pháp luật và quy trình thủ tục liên quan của nước ASEAN
khác đó.
MRA đối với lĩnh vực Khảo sát (Surveing Services)
 Thỏa thuận khung về thừa nhận lẫn nhau về trình độ khảo sát được ký ngày
19/11/2011 tại Singapore nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ cho các nước
ASEAn đã sẵn sàng tham gia vào các cuộc đàm phán song phương và đa
phương về thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực này, cũng như thúc đẩy trao đổi
thông tin, kỹ năng và các thực tiễn tốt…
 Tuy nhiên, cho tới thời điểm hiện tại chưa có một thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau
song phương hay đa phương nào được đưa ra về lĩnh vực này.
B. Phân tích sự khác biệt về dòng tự do di chuyển lao động của Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) và Liên minh châu Âu (EU)

Nội dung Cộng đồng Kinh tế ASEAN Liên minh châu Âu (EU)
phân tích (AEC)

Mục đích của hợp tác dịch Nguyên tắc tự do di chuyển lao động
chuyển lao động trong AEC giữa các nước thành viên Liên minh
hướng tới sự phát triển bền vững châu Âu theo Điều 48 (nay là Điều
nguồn lao động ASEAN trong 39) Hiệp ước Rome. Theo đó, người
đó: lao động được tự do di chuyển nội
    – Về chính trị – an ninh: Tăng khối mà không phải đối mặt với bất
cường các động thái công lý với kỳ rào cản nào từ việc phân biệt đối
vấn đề buôn người; Bảo vệ các xử vì lý do quốc tịch. Từ nguyên tắc
nạn nhân của nạn buôn người. chung mang tính định hướng đó,
   – Về kinh tế: Tạo thuận lợi nhiều quy định của pháp luật cấp độ
cho dịch chuyển lao động thông khu vực được ban hành cùng với
qua việc cấp visa và giấy phép nhiều án lệ được giải quyết bởi Tòa
Mục đích việc làm cho doanh nghiệp và án Công lý châu Âu (European Court
các lao động có tay nghề; Công of Justice - ECJ) nhằm bảo vệ hiệu
nhận trình độ chuyên môn trên quả các quyền lợi chính đáng của

6
cơ sở thực hiện và phát triển người lao động di chuyển nội khối;
MRAs (thỏa thuận thừa nhận lẫn trong đó, đáng kể nhất là các quyền
nhau); Phát triển nguồn nhân lực liên quan đến an sinh xã hội. Vốn là
trong lĩnh vực dịch vụ; Nâng cao các quốc gia chú trọng đến vấn đề
trình độ chuyên môn và năng lực phúc lợi xã hội, các nước thành viên
cốt lõi trong các dịch vụ ưu tiên; EU muốn hướng đến cơ chế bảo vệ
Tăng cường năng lực chương người lao động di chuyển nội khối
trình thị trường lao động. không chỉ từ góc độ quyền lao động
   – Về văn hóa – xã hội: Phát tại mỗi thời điểm mà còn từ góc độ
triển lao động, tạo việc làm cho quyền phúc lợi xã hội kéo dài của
xã hội theo hướng bền vững; người lao động kể từ khi bắt đầu làm
Thúc đẩy và bảo vệ quyền cho việc. 
người di cư lao động.

Nguyên tắc tự do di chuyển lao động


Đối tượng ASEAN không đặt ra vấn đề tự giữa các nước thành viên Liên minh
áp dụng do di chuyển đối với mọi đối châu Âu theo Điều 48 (nay là Điều
tượng lao động mà chỉ tiến hành 39) Hiệp ước Rome được áp dụng
đối với lao động có trình độ, tay đối với mọi đối tượng lao động là
nghề cao.  công dân của các nước thành viên
EU.

Quá trình hài hoà hoá pháp luật an


sinh xã hội trong khối EU đã được
đánh giá lại một cách toàn diện.
Theo đó, mặc dù quá trình này có thể
giúp các hệ thống pháp luật trở nên
thống nhất nhưng cũng đặt ra những
Mới chỉ quy định những nguyên tiêu chuẩn mà không phải quốc gia
tắc chung và biểu cam kết của nào cũng có đầy đủ các nguồn lực xã
các nước chứ chưa có quy định hội để thực hiện. Do đó, quá trình
cụ thể về hài hòa hóa các tiêu này đã được điều chỉnh thành tiến
chuẩn, điều kiện và thủ tục cho trình tương tác hoá pháp luật
Cơ chế phép lao động, làm việc trong (coordination).
hài hòa khu vực ASEAN.
pháp luật Cơ chế tương tác pháp luật được
Cơ chế công nhận và cho phép hiểu là “giúp các hệ thống an sinh xã
lao động làm việc tự do còn hội trở nên tương thích với nhau
nhiều bước và phức tạp, chưa nhằm đảm bảo quyền lợi của người
khuyến khích được lao động di trú phải chịu thiệt thòi khi rời bỏ
tham gia vào thị trường ASEAN. hệ thống an sinh bản địa”. Như vậy,
mục tiêu cơ bản của cơ chế này
không tập trung vào việc tác động
đến hệ thống pháp luật của từng quốc
gia, mà thay vào đó là tạo ra phương
thức hợp tác giữa các nước thành

7
viên đó để hướng đến mục tiêu cơ
bản là bảo vệ quyền lợi chính đáng
của các chủ thể khỏi những thiệt thòi
do xung đột pháp luật gây ra. 
Nhằm đạt được các mục tiêu Công dân có quyền tự do đi lại và cư
trong AEC Blueprints và các trú trong EU và quyền làm việc trong
văn kiện trước về tự do di bất kỳ tổ chức nào (bao gồm cả công
chuyển lao động lành nghề, Hiệp chức quốc gia), lao động di trú có
định ASEAN về di chuyển thể quyền tự do di chuyển giữa các quốc
nhân năm 2012 (MNP) được ký gia thành viên mà không bị mất đi
kết với mục tiêu gỡ bỏ các rào các quyền an sinh xã hội, kể cả trong
cản, cho phép các thể nhân có trường hợp có sự khác biệt giữa hệ
thể di chuyển tạm thời qua biên thống an sinh xã hội giữa các quốc
giới để tham gia vào thương mại gia”. Bên cạnh đó, nguyên tắc
hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. ‘không phân biệt đối xử’ – ‘non-
Theo Điều 4 của Hiệp định, mỗi discrimination’ - cũng có ý nghĩa
quốc gia thành viên, theo Biểu quyết định trong việc đảm bảo thực
cam kết của quốc gia sẽ cấp thi tương tác pháp luật. Các nguyên
Các thoả quyền tạm nhập cảnh hoặc tạm tắc này đã được giải thích và vận
thuận về trú cho thể nhân của quốc gia dụng một cách linh hoạt và rộng mở.
tự do di thành viên khác khi các thể nhân Theo đó, để đảm bảo quyền tự do di
chuyển đã theo các thủ tục nộp đơn quy chuyển nội khối, bất kỳ một thiệt
lao động định đối với hình thức nhập cảnh thòi nào xảy ra đối với người lao
đó, đồng thời đáp ứng tất cả các động và/hoặc các thành viên gia đình
yêu cầu và đủ điều kiện để nhập của họ cũng bị coi là rào cản cho
cảnh tạm thời hoặc tạm trú theo việc di chuyển tự do. Cùng với đó,
quy định của pháp luật quốc gia. mọi quy định của pháp luật quốc gia
Công dân mang quốc tịch một tạo ra bất kỳ sự khác biệt về quyền
nước ASEAN tuy có thể đến lợi giữa những người lao động vì lý
một nước ASEAN khác để du do quốc tịch cũng bị coi là vi phạm
lịch, hội họp, công tác có thời nguyên tắc không phân biệt đối xử.
hạn do chính sách miễn thị thực
giữa các nước ASEAN nhưng Đặc biệt, công dân mang quốc tịch
không thể tự do đến làm việc, một nước EU (dù là người nhập cư)
càng không thể đến định cư ở đều có thể đến định cư ở một nước
một nước ASEAN khác. AEC EU khác.
chỉ mới chấp nhận sự dịch
chuyển trong nội khối những lao
động có tay nghề cao cho 8
ngành nghề.
Trên thực tế, có những hạn chế Các văn bản pháp lý của EU yêu cầu
nhất định trong quản lý và thực cụ thể các quốc gia thành viên tránh
hiện dịch chuyển lao động nhất trường hợp một chủ thể không được
là đối với chuyên gia có trình độ điều chỉnh bởi bất kỳ hệ thống pháp
cao; chưa giải quyết được dòng luật nào và trường hợp chịu sự điều

8
Quản lý chảy lao động (một thực trạng chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật.
và thực trong khu vực) và có thể bỏ lỡ Bên cạnh các nguyên tắc chung,
hiện dịch những cơ hội và những tác động pháp luật của châu Âu còn đưa ra
chuyển phát triển tích cực của các dòng cách xác định luật áp dụng trong một
lao động dịch chuyển do chưa có cách số trường hợp cụ thể, tránh những tác
tiếp cận quản lý dịch chuyển lao động tiêu cực của xung đột pháp luật
động tốt. đến việc bảo vệ các quyền chính
đáng về an sinh xã hội cho lao động
Phạm vi áp dụng của các quy di trú. Để thực hiện việc này, lao
định còn hẹp, mới chỉ áp dụng động di trú được chia thành các
cho lao động có tay nghề mà nhóm nhỏ và pháp luật của châu Âu
chưa điều chỉnh lao động phổ xác định cụ thể luật áp dụng cho
thông và mới chỉ tập trung vào từng nhóm, bao gồm người lao động
số lượng ít các lĩnh vực liên đang làm việc (economically active
quan đến thương mại đầu tư. people), người lao động bị mất việc
Nhiều văn bản còn chưa có giá (unemployed people), lao động vùng
trị pháp lý ràng buộc, chỉ mang biên giới (frontier workers), người
tính chất khuyến nghị (soft law). lao động đang tìm việc (job seekers)
… Việc phân nhóm và xác định luật
Nhằm mục đích bảo vệ lao động áp dụng cho từng nhóm này giúp
trong nước, một số nước thành giảm bớt những tranh cãi pháp lý
viên của AEC đã thiết lập các liên quan đến việc áp dụng luật cho
“rào cản kỹ thuật” để hạn chế một chủ thể nhất định trong quá trình
lao động nhập cư. Ví dụ, Thái di chuyển giữa các quốc gia thành
Lan đã liệt kê khoảng 40 nghề viên. Bên cạnh đó, một số biện pháp
cấm người nước ngoài làm việc, kỹ thuật cũng được áp dụng như là
trong đó có những nghề thuộc một phương thức hỗ trợ và/hoặc thay
nhóm tự do dịch chuyển của thế cho các nguyên tắc giải quyết
ASEAN; Singapore quy định xung đột pháp luật. Các biện pháp đó
bên sử dụng lao động phải đăng bao gồm việc công nhận sự kiện
tuyển dụng tại ngân hàng việc pháp lý tại quốc gia khác và kết nối
làm của Chính phủ ít nhất 14 thông tin từ các cơ quan hành pháp
ngày trước khi được lao động tại các quốc gia khác. Thông qua
nước ngoài được phép dự tuyển; việc thực hiện các biện pháp trên, hệ
tại Malaysia, nếu một kỹ sư thống pháp luật giữa các quốc gia
nước ngoài muốn đến làm việc ở thành viên EU trở nên kết nối với
nước này, thì cơ quan nhập cư sẽ nhau trong việc cùng bảo vệ quyền
yêu cầu người đó phải chứng lợi của lao động di trú.
minh mình đang làm một công Trong Hiệp ước Gia nhập
việc hoặc dự án mà trong đó 2003 , Hiệp ước Gia nhập
không có người Malaysia nào đủ 2005 và Hiệp ước Gia nhập 2011 , có
năng lực một điều khoản về giai đoạn chuyển
tiếp trước khi người lao động từ các
quốc gia thành viên mới có thể
được tuyển dụng với các điều khoản
bình đẳng, không phân biệt đối xử ở

9
các thành viên cũ. Các quốc gia
thành viên cũ có quyền áp đặt thời
gian chuyển tiếp đó trong 2 năm, sau
đó quyết định kéo dài thêm 3 năm,
và sau đó, nếu có bằng chứng
nghiêm túc rằng lao động từ các quốc
gia thành viên mới sẽ gây xáo trộn
thị trường cũ. các quốc gia thành
viên sau đó có thể kéo dài thời hạn
lần cuối thêm 2 năm.
Theo nguyên tắc có đi có lại, các
quốc gia thành viên mới có quyền áp
đặt các hạn chế đối với tất cả các
quốc gia đã đưa ra các hạn chế và
giai đoạn chuyển tiếp đối với công
dân của họ. Croatia đã quyết định áp
dụng quy tắc này.

1
0

You might also like