Professional Documents
Culture Documents
23 - Ngô Thùy Dương - 2163FECO2031
23 - Ngô Thùy Dương - 2163FECO2031
Câu 1: Trình bày nội dung của Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) về tự do hóa đầu tư,
bảo hộ đầu tư, thuận lợi hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư
I. Tổng quan về hiệp định ACIA
1. Hoàn cảnh và lịch sử ra đời
Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) là một công cụ ràng buộc pháp lý mà Việt Nam là một
thành viên. Đây là một hiệp định mới, ký ngày 26 tháng 2 năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 19 tháng 3
năm 2012. ACIA, thay thế cho các hiệp định trước đó là Hiệp định Đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp định
Bảo lãnh Đầu tư (IGA).
Theo Kế hoạch AEC, ACIA là một hiệp định hướng tới tương lai, thiết lập các nguyên tắc mới về tự do
hóa và bảo hộ đầu tư, từ đó thuận lợi hóa lưu chuyển tự do các luồng đầu tư tại (và từ ngoài vào) khu
vực ASEAN.
Hiệp định ACIA bao gồm 4 nội dung chính là: Bảo hộ đầu tư, Thuận lợi hóa đầu tư, Xúc tiến đầu tư và
Tự do hóa đầu tư.
Cụ thể, ACIA gồm có:
+ 49 Điều;
+ 2 phụ lục:
• Phụ lục 1 quy định về các yêu cầu bắt buộc về thủ tục mà Cơ quan có thẩm quyền nước
thành viên phải tuân thủ đối với các trường hợp mà pháp luật nội địa của từng nước quy định
phải có chấp thuận bằng văn bản đối với khoản đầu tư.
• Phụ lục 2 về trường hợp tịch biên và bồi thường.
+ 1 danh mục bảo lưu: Danh mục này của Việt Nam bao gồm các trường hợp ngoại lệ không áp
dụng nghĩa vụ đối xử quốc gia và nghĩa vụ đối với quản lý cấp cao và ban giám đốc.
2. Mục tiêu của hiệp định
Mục tiêu của hiệp định này là tạo ra một cơ chế đầu tư tự do, thông thoáng và mở cửa trong khu vực
ASEAN nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của sự hội nhập kinh tế của AEC theo Kế hoạch AEC.
Để đạt mục tiêu này, thông qua:
- Tự do hóa từng bước chế độ đầu tư của các nước thành viên.
- Quy định việc tăng cường bảo hộ nhà đầu tư và các hoạt động đầu tư của họ.
- Hoàn thiện, minh bạch hóa và nâng cao tính dự đoán của các quy tắc, quy định và thủ tục đầu tư để
tạo sự thuận lợi cho các hoạt động đầu tư được mở rộng trong nội khối.
- Các biện pháp xúc tiến, thúc đẩy khu vực thành một khu vực hội nhập đầu tư.
- Hợp tác giữa các nước thành viên để tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi cho đầu tư trên lãnh thổ các quốc
gia thành viên.
3. Nguyên tắc chung
Việc đạt mục tiêu của ACIA về tạo môi trường đầu tư tự do, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch và
mang tính cạnh tranh trong khu vực ASEAN sẽ gắn chặt với các nguyên tắc sau:
- Quy định việc tự do hóa, bảo bộ, xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư (bốn Trụ cột của ACIA).
- Thúc đẩy tự do hóa từng bước đầu tư hướng tới một môi trường đầu tư thông thoáng và cởi mở trong
khu vực.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và hoạt động đầu tư của họ tại ASEAN.
- Duy trì và nhất trí về đối xử ưu đãi giữa các nước thành viên ASEAN.
- Bảo lưu các cam kết của Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (Hiệp định AIA) và Hiệp định
Bảo lãnh Đầu tư ASEAN (ASEAN IGA).
- Đối xử đặc biệt và ưu đãi và linh hoạt đối với các nước thành viên ASEAN, tùy theo trình độ phát
triển và mức độ nhạy cảm ngành.
- Đối xử nhượng bộ lẫn nhau giữa các nước thành viên ASEAN khi phù hợp.
- Xem xét mức độ mở rộng phạm vi của ACIA điều chỉnh các lĩnh vực khác trong tương lai.
II. Nội dung hiệp định
1. Tự do hóa đầu tư
- Tự do hóa đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất trong
cộng đồng kinh tế ASEAN. Hiệp định ACIA chỉ có cam kết về tự do hóa đầu tư trong các lĩnh vực cụ
thể.
+ Chế tạo của các nước trong khu vực Đông Nam Á
+ Nông nghiệp của các nước trong khu vực Đông Nam Á
+ Nghề cá của các nước trong khu vực Đông Nam Á
+ Lâm nghiệp của các nước trong khu vực Đông Nam Á
+ Khai thác mỏ của các nước trong khu vực Đông Nam Á
+ Các ngành dịch vụ liên quan tới ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp,
khai khoáng và khai thác đá của các nước trong khu vực Đông Nam Á
+ Các dịch vụ phụ trợ cho các ngành trên của các nước trong khu vực Đông Nam Á
- Bên cạnh đó để tiến hành tự do hóa một số lĩnh vực, dịch vụ sẽ phát sinh trong tương lai hiệp định
ACIA đã có những quy định về hoạt động tự do hóa cũng được mở rộng đối với bất kì lĩnh vực nào
được tất cả các quốc gia thành viên tán thành.
- Tự do hóa đầu tư không phải là vấn đề mới được đề cập đến trong ACIA mà vấn đề này đã được hình
thành từ khi có sự ra đời của ý tưởng thành lập khu vực đầu từ ASEAN, và trên cơ sở đó nó đã được
ghi nhận trực tiếp trong văn kiện AIA (hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN).Đến năm 2009
ACIA ra đời đánh dấu một bước tiến lớn của khu vực đầu tư ASEAN. ACIA ra đời được những điểm
mới hơn so với AIA về vấn đề tự do hóa đầu tư. Có thể thấy những điểm mới đó trên các khía cạnh sau:
a. Mở cửa đầu tư
Hiệp định ACIA là một thỏa thuận đầu tư duy nhất cung cấp sự tương tác rõ ràng hơn về các quy định
có liên quan, cung cấp lợi ích trước mắt cho cả nhà đầu tư ASEAN và ASEAN dựa trên các nhà đầu tư
nước ngoài. Ngắn hơn thời hạn để đạt được môi trường đầu tư tự do và cởi mở (2015).
Hiệp định ACIA đã cụ thể hóa phạm vi mở cửa đầu tư bằng cách liệt kê những lĩnh vực mở cửa cụ thể
như: sản xuất, công nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng và khai thác đá, các dịch vụ liên quan
đi kèm theo của các lĩnh vực trên. ACIA được soạn thảo trên cơ sở các nguyên tắc chỉ đạo nêu trên,
trong đó có kế thừa quy định của hai Hiệp định AIA và IGA, đồng thời đưa vào một số quy định mới
phù hợp hơn với cơ chế tự do hóa đầu tư, trong đó đặc biệt quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư và
khoản đầu tư của họ.
b. Xóa bỏ biện pháp hạn chế đầu tư
Nếu việc xóa bỏ các hạn chế đầu tư quy định tại điểm 4 khoản a Điều 3 AIA chỉ được đề cập đến một
cách “hời hợt” không dứt khoát rằng : các quốc gia nỗ lực “ giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và
điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN”
đây là quy định mang tính chất kêu gọi chưa mang tính quyết liệt cao, không đem lại được hiệu quả
triệt để. Việc vẫn thừa nhận các hạn chế đầu tư là một rào cản rất lớn đến việc thu hút đầu tư đến khu
vực này, bởi lẽ nhà đầu tư nào khi chọn địa điểm đầu tư đều muốn toàn tâm toàn ý của mình bằng tiền
bạc của mình tự mình quyết định ý chí và lý cho trong việc đầu tư có hiệu quả chứ không ai muốn đầu
tư lại bị giới hạn bởi các hạn chế đầu tư do chính đất nước mà mình đầu tư vạch ra nhằm bảo hộ sản
xuất trong nước trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư, tư đó làm giảm sức hút từ phía các
nhà đầu từ đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Thấy được rõ điều đó, tại ACIA các quy phạm về tự do hóa đầu tư cụ thể là các hạn chế đầu tư không
chỉ dừng lại ở mức kêu gọi “hời hợt” mà đã nâng lên một sự quyết liệt cao. ACIA đã “cấm” các hạn
chế đầu tư mà AIA mới chỉ kêu gọi giảm dần “Cấm yêu cầu thực hiện Các quy định của Hiệp định về
các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO (TRIMs), không
đề cập cụ thể hoặc sửa đổi của Hiệp định này, sẽ được áp dụng, với những sửa đổi thích hợp, Hiệp định
này [khoản 1 Điều 7 ACIA]”
Hay như các biện pháp liên quan đến quản trị doanh nghiệp mà nội dung của nó là việc yêu cầu pháp
nhân nước ngoài của nước đó phải bổ nhiệm người có quốc tịch nước đầu tư vào vị trí quản lý cấp cao
thì ACIA cũng đã cấm không áp dụng biện pháp này.
c. Áp dụng nhóm nguyên tắc chống phân biệt đối xử trong thương mại đầu tư nói riêng và
thương mại quốc tế nói chung
Nhóm nguyên tắc chống phân biệt đối xử trong thương mại nói chung và thương mại đầu tư nói riêng
đã được AIA ghi nhân tại điểm b Điều 4 và các Điều 7, 8 AIA. Đây là nhóm nguyên tắc cơ bản trong
thương mại quốc tế được áp dụng cho việc dành những ưu đãi ngang bằng cho các nhà đầu tư nước
ngoài với nhau khi đầu tư vào thị trường nội địa một quốc gia bất kỳ trong khu vực và ngang bằng với
nhà đầu tư trong nước trong cùng lĩnh vực đầu tư tại thị trường quốc gia có sự tham gia đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, ACIA đã kế thừa và ghi nhận lại 2 nguyên tắc cơ bản và quan trọng
này nhằm đem lại sự công bằng trong thương mại đầu tư cho các nhà đầu tư tranh trường hợp các nhà
đầu tư cảm thấy bị phân biệt đối xử khi đầu tư vào khu vực so với các nhà đầu tư nước ngoài khác hoặc
các nhà đầu tư trong nước cùng một lĩnh vực đầu tư. [Điều 5, 6 ACIA]
Từ những phân tích, bình luận trên có thể thấy sự ưu việt và tiến bộ vượt bậc của ACIA so với AIA
trong vấn đề tự do hóa đầu tư. Và phải khẳng định lại rằng, sự ra đời của ACIA là một bước ngoặt lớn
tron quá trình xây dựng thành công khu vực đầu tư ASEAN – tiến tới một khu vực tự do hóa đầu tư
lành mạnh, cạnh tranh cao và đầu tư có hiêu quả.cùng một lĩnh vực đầu tư [Điều 5, 6 ACIA]
2. Bảo hộ đầu tư của các nước trong khu vực Asean
Kế thừa quy định của hai hiệp đinh trước đó, hiệp định ACIA bảo hộ cho tất cả các lĩnh vực, hình thức
đầu tư và chỉ bảo hộ cho các khoản đầu tư sau khi thành lập, trừ các biện pháp gây ảnh hưởng đến
thương mại dịch vụ trong phạm vi quy định của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ mà các nước
thành viên trong khối ASEAN áp dụng.
Vì mục đích bảo hộ đầu tư liên quan đến việc cung cấp dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại
các quy định về đối xử đầu tư và bồi thường trong trường hợp mất ổn định; chuyển tiền; tịch biên và
bồi thường; thế quyền và các quy định về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước thành viên sẽ
được áp dụng.
Và cần lưu ý rằng tùy từng trường hợp cụ thể việc áp dụng các quy định này có thể sẽ điều chỉnh cho
phù hợp với tình hình và theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá nghĩa vụ cam kết
trong hiệp định ACIA.
Bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo cho lợi ích của nhà đầu cũng như các khoản đầu tư của họ, ACIA quy
định các nước thành viên phải “đối xử bình đẳng và công bằng” với các nhà đầu tư, “bảo hộ đầy đủ”
đối với các khoản đầu tư và các lợi ích khác của nhà đầu tư. Kế thừa quy định của IGA, ACIA bảo hộ
cho tất cả các lĩnh vực, hình thức đầu tư và chỉ bảo hộ cho các khoản đầu tư sau khi thành lập, trừ các
biện pháp gây ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ trong phạm vi quy định của Hiệp định khung
ASEAN về dịch vụ mà các nước thành viên áp dụng.
Về chuyển tiền: Khác với quy định về chuyển quyền trong ACIA thì khoản 1 điều 15 AIA lại có quy
định về hạn chế việc chuyển tiền, theo quy định này thì trong trường hợp cán cân thanh toán lâm vào
tình trạng nghiêm trọng hoặc gặp các khó khăn về tài chính đối ngoại hoặc có sự đe dọa xảy ra các tình
trạng trên, quốc gia thành viên có thể đưa ra hoặc duy trì các hạn chế đối với đầu tư mà quốc gia đó đã
có các cam kết cụ thể, kể cả việc thanh toán hoặc chuyển tiền để thực hiện các giao dịch liên quan đến
các cam kết đó
Vấn đề chuyển tiền cũng được ghi nhận tại điều 13 của ACIA, theo đó các quốc gia thành viên có
nghĩa vụ cho phép thực hiện các hoạt động chuyển tiền liên quan đến đầu tư được tiến hành tự do trong
và ngoài lãnh thổ của quốc gia mình. Các khoản tiền này bao gồm: đóng góp tài chính bao gồm cả đóng
góp ban đầu; lợi nhuận và các thu nhập khác phát sinh từ khoản đầu tư; thu nhập từ việc bán hoặc thanh
lý toàn bộ hoặc một phần các khoản đầu tư; các khoản tiền thường trong trường hợp có xung đột; tiền
được trả phát sinh từ việc giải quyết tranh chấp; tiền công và các thù lao khác của nhân viên được tuyển
dụng và làm việc về đầu tư trong lãnh thổ nước đó.
Quy định này của ACIA mở rộng việc tự do chuyển tiền của các nhà đầu tư trong và ngoài lãnh thổ của
quốc gia thành viên do vậy sẽ đảm bảo quyền lợi tối đa của các nhà đầu tư, từ đó khuyến khích hơn nữa
đầu tư của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, theo nhóm thì quy định này cũng có phần nào hạn chế bởi việc
quy định nhà đầu tư có thể tự do chuyển tiền trong và ngoài lãnh thổ của quốc gia thành viên sẽ có thể
tiềm ẩn những nguy cơ về tội phạm xuyên quốc gia, mà đặc biệt là tội phạm rửa tiền; tội phạm kinh tế
trong khi cách thức và phương tiện rửa tiền ngày càng tinh vi, đa dạng, quy mô hơn và các quốc gia
trong ASEAN nói riêng đang phải đối mặt với tội phạm xuyên quốc gia
3. Xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư được tiến hành thông qua các hình thức như phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và các
công ty xuyên quốc gia; bổ sung công nghiệp và mạng lưới sản xuất; tổ chức đoàn khảo sát đầu tư tập
trung phát triển tổ hợp khu vực và mạng lưới sản xuất; tổ chức và hỗ trợ tổ chức hội thảo về cơ hội đầu
tư, quy định, chính sách đầu tư và trao đổi những vấn đề có liên quan khác. Các biện pháp xúc tiến đầu
tư của ACIA đã cụ thể các vấn đề chiến lược, cơ bản, cốt lõi mà ASEAN hướng tới.
Một số hoạt động: ngày 9/10/2012, Hội nghị Xúc tiến Đầu tư của các Bộ trưởng Tài chính ASEAN họp
về xúc tiến đầu tư (AFMIS) lần thứ 9 đã chính khai mạc tại Khu Hành chính Đặc biệt Hồng Công thuộc
Trung Quốc với sự tham dự của nhiều quan chức hàng đầu của ngành tài chính, ngân hàng ASEAN
cũng như trên thế giới. Nhiều chương trình hợp tác thiết thực về xúc tiến đầu tư: với sự phối hợp của
Trung tâm các cơ quan đầu mối các nước ASEAN tổ chức 31 Hội thảo về xúc tiến đầu tư tại Tokyo và
các tỉnh, thành phố trên khắp Nhật Bản, đồng thời, tổ chức 4 đoàn tìm hiểu đầu tư trực tiếp vào các
nước ASEAN. Chín chương trình làm quen với ngành công nghiệp (IFP) cũng được tổ chức thành
công... Các sự kiện này không chỉ thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư tiềm năng của Nhật Bàn mà
còn phổ biến rộng rãi những thông tin về Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản (FTA) cũng
như Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) tới doanh nghiệp Nhật Bản và các nước ASEAN.
Các hội thảo xúc tiến đầu tư, phái đoàn đầu tư và chương trình làm quen với công nghiệp tiếp tục được
triển khai và mở rộng, bao gồm cả việc phổ biến Hiệp định Đối tác kinh tế (EPA) và kết nối ASEAN
như Hành lang kinh tế sông Mêkông.
4. Thuận lợi hóa đầu tư
Nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, ASEAN đã thông qua các biện pháp chủ yếu như tạo môi trường
cần thiết cho tất cả các hình thức đầu tư; đơn giản hóa thủ tục đăng ký và cấp phép đầu tư; phổ biến
thông tin liên quan đến đầu tư (bao gồm quy định, quy tắc, chính sách); thành lập cơ quan một cửa về
đầu tư; củng cố cơ sở dữ liệu trong tất cả hình thức đầu tư nhằm hoạch định chính sách cải thiện môi
trường đầu tư nội khối; tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp về các vấn đề đầu tư; cung cấp dịch vụ
tư vấn cho cộng đồng doanh nghiệp. Hiệp định... ACIA đã đề ra các hướng cụ thể để xây dựng và phát
triển một khu vực đầu tư nhiều thuận lợi hơn. Những định hướng phù hợp với tình hình thực tế khu
vực, thích hợp với bối cảnh hiện tại sẽ giúp các nước ASEAN xóa bỏ dần các yếu tố cản trở, dần hình
thành những môi trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư vào khu vực.
II. Thực trạng đầu tư trong nội khối ASEAN
ASEAN đang là một trong những khu vực năng động nhất trên thế giới, là nền kinh tế lớn thứ 5 thế
giới với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2018 đạt khoảng 3.000 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế của
ASEAN đạt mức 5,4%, cao hơn trung bình toàn cầu khoảng 4%.
Trong thương mại, ASEAN cũng đang là nền kinh tế thương mại lớn thứ 4 trên thế giới về thương mại
hàng hóa với tổng giá trị hơn 700 tỷ USD.
Về đầu tư nước ngoài (FDI), tăng trưởng FDI tại ASEAN khoảng 4,4%, cao hơn nhiều so với các nền
kinh tế đang phát triển khác, đưa ASEAN trở thành nền kinh tế tiếp nhận FDI lớn thứ 3 trên thế giới.
Ông Aladdin D. Rillo, Phó Tổng Thư ký ASEAN nhấn mạnh thương mại- đầu tư nội khối hiện nay
trong ASEAN chỉ chiếm khoảng 23%, còn tương đối thấp so với các khu vực khác.
Singapore là quốc gia nhận được nhiều FDI nhất trong khối ASEAN.Tiếp đến là Thái Lan, Indonesia,
Malaysia và Việt Nam. FDI vào các quốc gia còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Nhìn chung, công nghiệp chế biến chế tạo và tài chính là những lĩnh vực hấp dẫn nhất đối với nhà đầu
tư nước ngoài tại ASEAN. Tuy nhiên, việc phân bố FDI theo lĩnh vực rất khác nhau giữa các quốc gia
thành viên. Ví dụ, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam FDI thường tập trung vào công nghiệp chế biến,
chế tạo trong khi luồng vốn FDI vào Singapore, Indonesia, Philipines chủ yếu là lĩnh vực dịch vụ.
Trong quá trình phát triển này, ASEAN cũng đã phát triển một chương trình nghị sự về chính sách khu
vực về FDI, khai thác các lợi ích của nó để tạo điều kiện cho hội nghị kinh tế khu vực sâu rộng hơn,
củng cố lẫn nhau với các mục tiêu phát triển trong nước của AMS.
Khung chính sách đầu tư khu vực của ASEAN
Kể từ khi ACIA có hiệu lực, bốn quốc gia AMS đã có các thay đổi đối với danh sách hạn chế và đã giới
thiệu thêm các điều khoản tự do hóa. Brunei thu hẹp phạm vi các lĩnh vực Đối xử quốc gia vì các biện
pháp không nhất quán, chỉ áp dụng cho nông nghiệp, thủy sản và dịch vụ liên quan đến lĩnh vực này.
Lào loại bỏ lĩnh vực sản xuất ra khỏi danh sách hạn chế. Myanmar gỡ bỏ các hạn chế trong đâ tư nước
ngoài đối với một số các sản phẩm như rượu, tôn mạ kẽm, dược phẩm. Tuy nhiên Indonesia đã đưa ra
những thay đổi hạn chế hơn áp dụng cho lĩnh vực khai thác than và khoáng sản.
Tự do hóa đầu tư trong ASEAN
- Có một số biện pháp thử “mô tả một cách định lượng” FDI quy định giữa các nền kinh tế.
- Mặc dù không toàn diện về mặt chính sách phạm vi bảo hiểm, các biện pháp này cung cấp hồ sơ đầy
đủ về các chính sách và quy định chính theo các nền kinh tế riêng lẻ, đồng thời cho phép đối chuẩn các
nền kinh tế.
+ Ví dụ: chỉ số vốn cổ phần nước ngoài do Ngân hàng Thế giới ước tính cho 103 nền kinh tế nằm
trong cơ sở dữ liệu Quy chế FDI đầu tư xuyên biên giới cung cấp một bản tóm tắt về các hạn chế
theo luật định hiện có đối với nước ngoài quyền sở hữu dựa trên mã đầu tư, luật thương mại, sáp
nhập và mua lại luật và các quy chế liên quan khác của một quốc gia, bao gồm 32 lĩnh vực
- Tỷ lệ tự do hóa đầu tư là công cụ đánh giá chính cho tự do hóa đầu tư, xem xét ba loại hạn chế đầu tư
chính: hạn chế vốn chủ sở hữu, hạn chế tiếp cận thị trường và các hạn chế đối xử quốc gia.
- Tỷ lệ tự do hóa đầu tư là ước tính cho các ngành nông nghiệp và khai khoáng (kết hợp) cũng như cho
khu vực sản xuất
- Một biện pháp rộng hơn nhiều trong việc mô tả các quy định về FDI được đưa ra bởi OECD, chỉ số
hạn chế về quy định đối với FDI trong khu vực ASEAN được mô tả qua bảng sau:
Campuchia 0.049
Indonesia 0.324
Lào 0.265
Malaysisa 0.212
Myanmar 0.356
Philippin 0.425
Singapore 0.047
Thái Lan 0.291
Châu Úc 0.128
Ấn Độ 0.264
Chỉ số hạn chế về quy định đối với FDI trong khu vực ASEAN năm 2013
Nhận xét:
+ Singapore và Campuchia là 2 quốc gia có hạn chế thấp nhất đối với FDI
+ Trung bình ASEAN có những hạn chế về quản lý FDI lớn hơn so với các nước đối tác FTA
- Đặt chỉ số so với FDI thành tỷ lệ GDP danh nghĩa:
Nhận xét: ACIA tạo ra chỉ số cao nhất (0,87), tiếp theo là AKFTA (0,80), AANZFTA tạo ra một
chỉ số 0,73 trong khi ACFTA có ít điều khoản hơn và do đó tạo ra chỉ số thấp nhất (0,67).
Xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei - dữ liệu, biểu đồ lịch sử và số liệu thống kê - được cập nhật lần
cuối vào tháng 10 năm 2021.
• Tháng 7/2021 xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Brunei đạt 1 triệu USD tăng 101,93% so với
tháng 6/2021 và tăng 80,22% so với tháng 7/2020. Xuất khẩu của Việt Nam sang Brunei trong 7
tháng đầu năm 2021 đạt 6 triệu USD, giảm 47,92% so với 7 tháng đầu năm 2020.
• Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Brunei như: hàng thủy sản, sản phẩm từ sắt
thép, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, gạo. Riêng mặt hàng gạo, hiện các doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đang phải cạnh tranh gay gắt với gạo của Thái Lan, Ấn Độ
và Campuchia. Loại gạo mà thị trường này hay nhập là gạo thơm, đây cũng là loại gạo chất lượng
cao mà các doanh nghiệp Việt Nam đang tăng cường xuất khẩu nhằm tăng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Ngoài gạo, cà phê, nước hoa quả, hoa quả sấy khô đang dần thâm nhập vào thị
trường Brunei.
* Chi tiết các loại hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Brunei tháng 4/2020 và lũy kế 4 tháng đầu năm
2020
Mặt hàng chủ yếu Xuất khẩu tháng 4/2020 Lũy kế 4 tháng/2020
Lượng (Tấn) Trị giá (USD) Lượng (Tấn) Trị giá (USD)
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác 43.223 263.818
Về nhập khẩu
• Năm 2017 Việt Nam nhập khẩu gần 51,6 triệu USD sang Brunei. Năm 2018 nhập khẩu đạt 36 triệu
USD. Năm 2019, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Brunei đạt 177,4 triệu USD, tăng 383,7%
so với năm 2018.
• Tiếp đó, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 4/2020 Việt Nam nhập siêu từ
Brunei hơn 9,5 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu lớn gấp 9 lần so với kim ngạch xuất khẩu với giá
trị lên đến 9,5 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 4, tổng nhập khẩu đạt 129,9 triệu USD.
• Tháng 7/2021 Việt Nam nhập khẩu 45,28 triệu USD từ Brunei tăng 253,72% so với tháng 6/2021
và tăng 89,09% so với tháng 7/2020. Nhập khẩu của Việt Nam sang Brunei trong 7 tháng đầu năm
2021 là 155,95 triệu USD, giảm 22,61% so với 7 tháng đầu năm 2020.
• Dầu thô là mặt hàng chính Việt Nam nhập từ Brunei, đạt kim ngạch hơn 66,8 triệu USD trong 4
tháng đầu năm nay.
* Chi tiết các loại hàng hóa Việt Nam nhập khẩu từ Brunei tháng 4/2020 và lũy kế 4 tháng đầu năm
2020.
Mặt hàng chủ yếu Nhập khẩu tháng 4/2020 Lũy kế 4 tháng/2020 So sánh tháng/ lũy kế
Lượng (Tấn) Trị giá (USD) Lượng (Tấn) Trị giá (USD)
Brunei 16.457
Lào 569.115
Myanmar 633.261
Singapore 3.009.333
Malaysia 3.387.833
Philippines 3.563.389
Campuchia 4,221,096
Nhóm mặt hàng Giá trị năm 2020 Tăng trưởng giá trị hàng năm
(Nghìn USD) trong Gđ 2016-2020 (%)
Muối; lưu huỳnh; đất và đá; vật liệu trát, vôi và 1.479 42
xi măng
Các sản phẩm bằng đá, thạch cao, xi măng, 283 128
amiăng, mica hoặc các vật liệu tương tự
Trái cây và quả hạch ăn được; vỏ của trái cây họ 255 203
cam quýt hoặc dưa
- Trong năm 2016 Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã sang thăm chính thức Brunei và hai bên đã ký
Tuyên bố chung, trong đó khẳng định cam kết tăng cường hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Brunei với
mục tiêu đạt được kim ngạch thương mại song phương là 500 triệu USD vào năm 2025, phát huy tối đa
các ưu đãi tiếp cận thị trường dành cho hàng hóa và dịch vụ của hai nước trên cơ sở các thỏa thuận
thương mại tự do, gồm cả các thị trường tiềm năng trong Khu vực tăng trưởng Đông ASEAN (BIMP-
EAGA) và tiểu vùng Mê Công, cũng như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, thúc
đẩy liên kết giữa doanh nghiệp hai nước, tham gia các hội chợ thương mại và giải quyết nhanh chóng
các vướng mắc cho doanh nghiệp, vì lợi ích của cả hai bên. Quốc vương Hassanal Bolkiah thăm Việt
Nam và tham dự các Hội nghị: Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái
Bình Dương (APEC)…
- Hai Bộ trưởng nhất trí xây dựng kế hoạch hành động triển khai quan hệ Đối tác toàn diện trong 5 năm
tới và duy trì thường xuyên, hiệu quả cơ chế ủy ban chung về hợp tác song phương giữa các quốc gia,
đồng thời nghiên cứu thiết lập cơ chế tham vấn chính trị và ký kết biên bản ghi nhớ. về hợp tác giữa hai
Bộ Ngoại giao trong thời gian sớm nhất.
- Chủ tịch Hội đồng Lập pháp Brunei Abdul Rahman Taib đánh giá rất cao việc Việt Nam có năng lực
sản xuất được vaccine phòng COVID-19, bày tỏ mong muốn hợp tác trong lĩnh vực này nhằm bảo đảm
nguồn cung vaccine công bằng. Cho biết Việt Nam là một trong các quốc gia Brunei luôn hướng tới để
nhập khẩu các mặt hàng nông sản thiết yếu phục vụ cho nhu cầu của người dân.
- Với những tín hiệu ổn định của nền kinh tế vĩ mô, sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế
thế giới, nhất là sự hợp tác tin cậy, hiệu quả giữa hai nước đã được vun đắp hơn 25 năm qua, chắc chắn
quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - Brunei sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong thời
gian sắp tới.
❖ Việt Nam
• Các loại hình du lịch văn hóa, lịch sử: Nếu bạn là người yêu những giá trị văn hóa của nhiều
vùng đất trong và ngoài nước, muốn được tham quan các di tích lịch sử nổi tiếng thì đây chính là
hình thức du lịch tuyệt vời.
• Các loại hình du lịch sinh thái: Tại Việt Nam, những khu du lịch sinh thái nổi tiếng có thể kể
đến như: Khu du lịch Cồn Phụng, Xẻo Quýt, Mỹ Khánh, vườn quốc gia Tràm Chim – Đồng Tháp,
rừng tràm Trà Sư – An Giang.
• Các loại hình du lịch nghỉ dưỡng: Giúp du khách lấy lại tinh thần, sức khỏe thông qua các hình
thức trị liệu, dịch vụ chăm sóc cao cấp tại resort,.
• Các loại hình du lịch sinh thái, khám phá: Phù hợp cho những du khách thích trải nghiệm, hòa
mình vào thiên nhiên và sẵn sàng cho những thử thách không ngờ tới.
• Các loại hình du lịch thể thao: Là loại hình du lịch kết hợp trải nghiệm các bộ môn thể thao dưới
nước, trên biển hoặc đơn giản là đi xem những trận đấu bóng đá, bóng chuyền chuyên nghiệp.
• Du lịch teambuilding: Thường được tổ chức tại các công ty, trường học giúp mọi người gắn kết,
giao lưu và tăng tinh thần đoàn kết hơn.
Đặc điểm du lịch: Có nhiều di tích lịch sử, đền, miếu, danh lam thắng cảnh nổi tiếng với các hang
động,... đa dạng, phong phú, mang đậm văn hóa Việt Nam gắn liền với các truyền thống, dựng nước
giữ nước, quá trình hình thành văn hóa Việt Nam, và giá trị lịch sử còn đọng lại, ngoài ra còn đặc trưng
với những vẻ đẹp núi song, non nước kỳ vỹ mà thiên nhiên ban tặng.
Phương tiện: Trải nghiệm các phương tiện du lịch độc đáo như xe lam, xe ngựa, cưỡi voi hay đi
thuyền độc mộc... luôn là 'thỏi nam châm' hút khách tại các điểm du lịch trên dải đất hình chữ S.
Địa danh nổi tiếng: Tràng An – Ninh Bình, Cố đô Huế, Hà Nội, Vịnh Hạ Long, Sa Pa, Côn Đảo,...
Chỗ ở, nghỉ dưỡng: hình thức homestay, thuê khách sạn 5 sao, du thuyền cho đến nhà nghỉ thường
dân tùy thuộc vào mục đích, chi phí, nhu cầu của người du khách,...
❖ Brunei
Nằm ở phía Đông Nam của châu Á, Brunei có những nét riêng biệt khó lẫn với một nơi nào. Đó là một
chút gì đó tĩnh lặng với không gian riêng tư và thánh đường tráng lệ. Sự nguy nga, lộng lẫy hiện lên rõ
nét qua từng công trình kiến trúc đặc sắc được đầu tư công phu.
Đến Brunei, du khách như lạc vào thánh đường sang trọng bậc nhất thế giới và được thưởng thức các lễ
hội văn hóa của người Hồi giáo. Tương tự Việt Nam, Brunei có khí hậu nóng ẩm, lắm mưa nhiều nắng.
Do đó, khi du lịch Brunei, khách hàng cần phải lựa chọn thời điểm lý tưởng.
Du lịch Brunei đang ngày càng thu hút du khách Việt Nam và quốc tế. Đất nước nhỏ bé nhưng có nhiều
tài nguyên và thắng cảnh đẹp Brunei luôn làm hài lòng những du khách khó tính nhất, mang những nét
đặc trưng riêng biệt khó lẫn với nơi nào.
Đa dạng các loại hình du lịch: Cung điện, bảo tàng, nhà thờ, thánh đường, quần thể, công viên, làng
nước,...
Đặc điểm chung: Nhìn chung đều rất nguy nga, tráng lệ, thiết kế độc đáo, mới mẻ – mang đậm văn
hóa của người Hồi giáo,....
Phương tiện: những người mang quốc tịch Israel có thể bị cấm vào Brunei. Những nước Asean không
cần Visa cũng có thể đến đây. Brunei chỉ có duy nhất một phi trường quan trọng là sân bay quốc tế
Brunei, nhỏ nhưng sạch sẽ và rất tiện nghi.
Ngoài ra khi đến với nước Brunei du khách có thể đi xe bus, phà, tàu tốc hành,.. Nếu du lịch vòng
quanh Brunei có thể đi xe bus, thuê ô tô hay taxi. Hệ thống xe bus công cộng giá rẻ, đáng tin cậy, chỉ
tầm 5 – 10’ có một chuyến giá chỉ từ một đôla Brunei (17.000 vnđ) nhưng chỉ có thể đi vòng quanh.
Muốn đi sâu trong nội địa phải thuê xe, có cả tàu thường xuyên chạy rất nhanh từ thủ đô đến Banggar.
Chỗ ở, chỗ nghỉ dưỡng: có thể lựa chọn hình thức homestay, thuê khách sạn hạng sang cho đến nhà
nghỉ thường dân tùy thuộc vào mục đích, chi phí, nhu cầu của du khách,..
Những địa danh du lịch Brunei nổi tiếng:
Khu làng nổi Kampong Ayer
Cung điện Hoàng gia Brunei (Istana Nurul Iman)
Quần thể The Empire Hotel & Country Club
Bảo tàng Hoàng gia Royal Regalia
Công viên giải trí Jerudong
Kết luận: Có thể nói cả Việt Nam và Brunei đều rất đa dạng, nổi bật về thương mại dịch vụ du lịch,
với nhiều loại hình du lịch cuốn hút khách du lịch, nhưng đồng thời đều mang những nét đặc trưng
riêng. Nên cần có sự hợp tác về thương mại dịch vụ du lịch, để có thể cùng nhau nâng cao chất lượng
dịch vụ cũng như quảng bá thế mạnh về du lịch và cùng nhau phát triển hơn.