You are on page 1of 29

CHƯƠNG 4

TỰ DO HOÁ ĐẦU TƯ TRONG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ


4.1. Xu hướng tự do hoá đầu tư

4.1.1. Khái niệm và nội dung tự do hoá đầu tư

4.1.1.1. Khái niệm

Tự do hoá đầu tư là một phần của quá trinh tự do hoá rộng lớn hơn, đó
là tự do hoá thương mại quốc tế về hàng hoá, dịch vụ và tự do hoá các dòng
tài chính, công nghệ, tri thức, về lý luận, tự do hóa chính là không hạn chế,
không cản trở, không có hàng rào. Cho đến nay có nhiều tài liệu đề cập đến tự
do hóa đầu tư. Tuy nhiên, có rất ít tài liệu đề cập đến khái niệm hay đưa ra
định nghĩa về tự do hóa đầu tư.

Theo giới kinh doanh Anh và châu Âu, chế độ đầu tư tự do là một chế
độ đầu tư đáp ứng các yêu cầu sau: không phân biệt đối xử, minh bạch, ổn
định (TUKP, 1998).

Theo Murray Dobbin (Canada), tự do hóa vế thương mại và đầu tư


được hiểu là không bị ràng buộc bởi các quy định của luật pháp, chính sách
(Dobbin, 1998).

Trong tuyên bố Bogor của APEC "đầu tư và thương mại mở và tự do"


được thực hiện bằng cách giảm dần các rào cản đối với thương mại và đầu tư,
khuyến khích sự lưu chuyển tự do về hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nền
kinh tế thành viên" (APEC, 1994).

Theo Susan Bryce (Úc), tự do hóa đầu tư là không bị ràng buộc bởi
hoặc dỡ bỏ dần các quy định và các hạn chế mà chính phủ các nước đặt ra cho
các nhà đầu tư nước ngoài (Bryce; 1998).

Hai quan điểm sau thực chất đề cập đến khái niệm tự do hóa ĐTNN,
không để cập đến đầu tư trong nước. Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm và

2
nội dung tự do hóa đâu tự của nhiều tài liệu khác nhau, có thể rút ra khái niệm
sau: Tự do hóa đầu tư là quá trình trong đó các rào cản đối với hoạt động, đầu
tư, các phân biệt đối xử tròng đầu tư được từng bước dỡ bỏ, các tiêu chuẩn
đối xử tiến bộ dần dần được thiết lập và các yếu tố để đảm bảo sự hoạt động
đúng đắn của thị trường được hình thành.

Quá trình tự do hóa đầu tư nhằm hướng tới một chế độ đầu tư tự do
trong đó không có bất cứ cản trở nào đối với các nhà đầu tư dù cho họ mang
quốc tịch gì. Các nhà đầu tư trong chế độ đầu tư tự do có thể đầu tư vào bất
cứ ngành, lĩnh vực, dự án nào và họ sẽ được đối xử công bằng, binh đẳng.
Ngay cả các ưu đãi, khuyến khích đầu tư, vốn được coi là một nhấn tố kích
thích đầu tư cũng sẽ không được sử dụng trong chế độ đầu tư đã tự do hoá
hoàn toàn, vì những ưu đãi, khuyến khích này sẽ tạo ra sự phân biệt đối xử,...
Trên thực tế chưa có một chế độ đầu tư nào đạt đến mức độ tự do hoá hoàn
toàn theo đúng khái niệm trên.. .

Từ những cách hiểu trên, về tự do hóa đầu tư và tự do hóa DTNN, có


thể rút ra cách hiểu về tự do hóa FDI như sau: Tự do hóa FDI là quá trình
trong đó các rào cản đối với hoạt động FDI, các phân biệt đối xử giữa FDI và
các hình thức đầu tư khác được từng bước dỡ bỏ, các tiêu chuẩn đối xử tiến
bộ dần dần được thiết lập và cấc yếu tố để đảm bảo sự hoạt động đúng đắn
của thị trường được hình thành.

4.1.1.2. Nội dung

Tiến trình tự do hoá đầu tư diễn ra ở các nước, các khu vực và các tổ
chức trên thế giới theo 3 nội dung chính.

a. Loại bỏ dần các rào cản và những ưu đãi mang tính phân biệt đối
xử trong hoạt động đầu tư

Các chế độ đầu tư sẽ từng bước được điều chỉnh theo hướng loại bỏ
dần các yếu tố "bóp méo" thị trường, đó là quy định mang tính phân biệt đối

3
xử trong đầu tư, bao gồm các quy định có tính cản trở, hạn chế đối với đầu tư
và cả những quy định dành ưu đãi, khuyến khích nhưng chỉ cho một số hoạt
động đầu tư nhất định. Cụ thể, các rào cản đối sau đây cần được loại bỏ:

- Hạn chế liên quan đến việc tiếp nhận và thành lập: Quyền tiếp nhận là
quyền được tiếp cận hoặc hiện diện, còn quyền thành lập doanh nghiệp đề cập
đến các hình thức hiện diện được phép. Cụ thể là không cho phép hoặc hạn
chế đầu tư trong một số ngành, lĩnh vực; hạn chế số lượng các công ty nước
ngoài được phép hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực đặc biệt; yêu cầu
phải liên doanh với một doanh nghiệp trọng nước; khống chế tỷ lệ góp vốn tối
thiểu của bên nước ngoài hoặc của đối tác trong nước; yêu cầu phải đặt trụ sở
chính của vùng hoặc của toàn thế giới ở nước nhận đầu tư; yêu cầu đầu tư bổ
sưng hoặc tái đầu tư; yêu cầu xin phép hoặc đăng ký đầu tư; đưa ra một số
điều kiến cần đáp ứng nếu muốn được đầu tư (bảo vệ môi trường,...); hạn chế
về hình thức đầu tư, hình thức xâm nhập (không cho phép M&A,..:); không
cho phép đầu tư vào một số địa bàn; hạn chế nhập khẩu các tài sản cố định
cần thiết cho đầu tư; yêu cầu có bảo lãnh của các tố chức tài chính,... Các
cách tiếp cận của các nước trên thế giới đối với việc tiếp nhận và thành lập
được tổng kết trong 5 mô hình sau:

 Mô hình "kiểm soát đầu tư" bảo lưu toàn bộ quyền kiểm soát của
quốc gia đối với việc tiếp cận và thành lập;

 Mô hình "tự do hóa có chọn lọc" đưa ra các quyền hạn chế về việc
tiếp cận và thành lập, ví dụ chỉ áp dụng cho các ngành thuộc "danh mục lựa
chọn" trong các hiệp định ký kết giữa các quốc gia. Mô hình này hữu ích đối
với các quốc giá không muốn tự do hóa rộng nhưng muốn tự do hóa cỏ kiểm
soát và trong một số ngành cụ thế để đổi lại những hành động tương tự của
các nước thành viên khác;

Mô hình "chương trình công nghiệp hóa khu vực" dành đầy đủ các
quyền tiếp cận và thành lập trên cơ sở đãi ngộ quốc gia (NT) cho nhà đầu tư

4
của các nước thành viên của một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực vì mục
đích của chương trình;

 Mô hình "đối xử quốc gia có đi có lại" đưa ra các quyền đầy đủ liên
quan đến tiếp cận và thành lập dựa trên cơ sở NT đối với tất cả các pháp nhân
và thể nhân của các nước thành viên thuộc một tổ chức hội nhập kinh tế khu
vực tham gia vào hoạt động kinh doanh qua biên giới;

Mô hình "kết hợp NT/MFN" đưa ra các quyền đẩy đủ về tiếp cận và
thành lập trên cơ sở sự đối xử nào tốt hơn giữa đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và
NT tùy thuộc "danh mục loại trừ" các ngành không được áp dụng các quyền
này. Mô hình này không được sử dụng rộng rãi như mô hình kiểm soát đầu tư.

- Hạn chế về vốn và quyền kiêm soát của nước ngoài: Quy định tỷ lệ
phần trăm vốn góp tối thiểu hoặc tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài trong
các doanh nghiệp (có thể có quy định riêng cho từng ngành, lĩnh vực hoặc
hoạt động cụ thể). Ngoài ra, các nước tiếp nhận đầu tư còn có thể áp dụng
nhiều biện pháp liên quan đến kiếm soát quyền sở hữu để đảm bảo cho sự
tham gia của các đại diện nước sở tại vào quá trình kiểm soát doanh nghiệp
(quy định về số lượng thành viên của mỗi bên tham gia hội đồng quản trị,
nguyên tắc nhất trí trong việc thông qua các quyết định của hội đồng quản
trị...). Các quy định về việc rút vốn, dùng lợi nhuận đế tái đầu tư cũng nằm
trong nhóm các biện pháp hạn chế đầu tư này. Ngoài ra, luật pháp các nước
còn có thể khống chế tỷ lệ tối đa vốn vay trên vốn góp...

- “ Những hạn chế về hoạt động: Đây là những hạn chế áp dụng sau khi
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thành lập. Mục tiêu là nhằm
giảm những ảnh hưởng tiêu cực và tăng lợi ích mà nền kinh tế có thể thu được
từ hoạt động, của các doanh nghiệp có vốn đầu tự nước ngoài. Cụ thể là
những hạn chế sau:

5
 Hạn chế liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động: hạn chế về số
lượng nhà quản lý, kỹ thuật viên hoặc những nhân viên khác là người nước
ngoài, kiểm soát trong khâu cấp thị thực và giấy phép cho người nước ngoài
vào làm việc trong nước.

 Hạn chế về thượng mại: hạn chế nhập khẩu máy móc thiết bị, bán
thanh phẩm; hạn chế hoặc áp đặt các điều kiện đối vơi việc tiếp cận thị trường
trong nước về nguyên vật liệu, bán thành phẩm và các yếu tố đầu vào khác;
yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá; yêu cầu phải liên kết với sản xuất trong nước;
yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm; hạn chế bán sản phẩm, ở thị trường trong
nước, yêu cầu chỉ được cung cấp hàng hóa, dịch vụ ở những khu vực thị
trường nhất định, yếu cẩu trở thành nhà cung cấp độc quyển một hoặc một số
hàng hóa, dịch vụ; hạn chế tham gia vào thị trường mua sắm của chính phủ
(không được trở thành nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho chính phủ nước
nhận đầu tư,...); hạn chế quảng cáo; quy định về nguồn gốc, xuất xứ;...

 Kiểm soát ngoại hối: yêu cầu tự cân đối ngoại tệ, kết hối bắt buộc,
hạn chế vốn bằng ngoài tệ vào một doanh nghiệp; hạn chế chuyển vốn và lợi
nhuận ra nước ngoài (phải xin phép, phải nộp thêm thuế,...).

 Yêu cầu chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất hoặc các tri thức
đặc biệt khác; khống chế giá, phí chuyển giao cống nghệ; đánh thuế đặc biệt
đối với công nghệ; hạn chế việc sử dụng một số công nghệ, nhãn hiệu, thương
hiệu; yêu cầu phải xin phép hoặc phải đáp ứng một số điểu kiện mới cho nhập
khẩu công nghệ; yêu cầu tiến hành đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tại
nước nhận đầu tư.

 Các hạn chế khác: thuê đất dài hạn sở hữu nhà ở, đất đai; di chuyển
địa điểm đầu tự trong phạm vi nước nhận đầu tư; đa dạng hóa hoạt động; tiếp
cận mạng lưới viễn thông; tự do lưu chuyển dữ liệu; độc quyền (bắt buộc phải
cung, cấp một dịch vụ công cộng nào đó ở một mức giá nhất định); tham gia
vào các doanh nghiệp nhà nước; tiếp cận các nguồn vốn vay trong hước; hạn

6
chế mang tính văn hóa- (chủ yếu liên quan đến các dịch vụ giáo dục đào tạo
hoặc truyền thông đại chúng); yêu cầu cung cấp thông tin (về hoạt động ở
nước ngoài của các TNC); các yêu cầu đặc biệt về các tiêu chuẩn kỹ thuật;
hạn chế liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng,...

Những hạn chế trên thường được áp dụng dưới dạng điều kiện để cấp
phép đầu tư và kèm với việc được hưởng các ưu đãi về tài chính như miễn,
giảm thuế,... Các hạn chế này sẽ làm cho dòng vốn đầu tư không chảy theo
quy luật tự nhiên từ chỗ có tỷ suất lợi nhuận thấp sang chỗ có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn, cũng không hoàn toàn theo ý muốn của các chủ đầu tư, mà
theo sự điều tiết của nước nhận đầu tư.

- Các rào cản mang tính hành chính như: thiếu rõ ràng, minh bạch trong
các quy định của luật pháp có liên quan đến đầu tư, thiếu rõ ràng trong việc
thực hiện luật và các quy định về đầu tư, phân tán quyển lực của các cơ quan
quản lý nhà nước dẫn đến chổng chéo gây khó khăn cho đầu tư.

Bên cạnh các hạn chế đầu tư, nhiều nước nhận đầu tự cũng đưa ra các
biện pháp khuyến khích đầu tư với nhiều ưu đãi dành riêng cho các nhà đầu tư
nước ngoài nhằm tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài và điều
chỉnh việc phân bổ dòng vốn này theo ngành và thẹo vùng lãnh thể. Cụ thể là:

- Các ưu đãi về thuế bao gồm các nhóm ưu đãi sau:

 Trực tiếp miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp: miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp cho các doanh nghiệp mới thành lập; giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp; chuyên lỗ; thành lập các khu vực đặc biệt trong đó áp dụng các chế độ
thuế thấp, hoặc miễn thuế;

• Ưu đãi cho việc đầu tư cơ bản: khấu hao nhanh, khấu trừ thuế, cho nợ
thuế, hoàn thuế, thu nhập doanh nghiệp trong trường hợp dùng lợi nhuận tái
đầu tư ở chính nước nhận đầu tư;

7
• Giảm các rào cản đối với các hoạt động xuyên quốc gia: giảm thuế
nhập khẩu, giảm phí hải quan, đánh thuế thấp đối với người lao động nước
ngoại có thu nhập cao; giảm bảo hiểm xã hội;...

• Các ưu đãi khác về thuế: miễn, giảm các loại thuế khác cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt,..,); cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn giữa việc
đóng thuế theo tình hình thực tế hay đóng trọn gói hàng năm một số tiền nhất
định;... .

- Các ưu đãi khác về tài chính như tài trợ, cho vay ưu đãi; bảo lãnh vốn
vay và ưu tiên trong việc tiếp cận các khoản tín dụng; miễn, giảm tiền thuê
đất; bán hoặc cho thuê đất đai, nhà xưởng với giá ưu đãi; thành lập các khu
vực đặc biệt dành cho các nhà dầu tư nước ngoài cùng với các thoả thuận đặc
biệt về thủ tục hải quan và thuế quan (khu công nghiệp, khu chế xuất...); cung
cấp cờ sở hạ tầng, dịch vụ kinh doanh, cung cấp thông tin; hỗ trợ việc đào tạo
lao động; hỗ trợ làm các thủ tục hành chính; hỗ trợ tạm thời tiền lương trong
thời gian đầu mới hoạt động; cung ứng các hàng hóa, dịch vụ cần thiết cho
hoạt động của dự án đầu tư với giá ưu đãi; .

- Ưu đãi miễn thực hiện một số quy định pháp luật, cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài không phải thực hiện một số yêu cầu của luật pháp hoặc
các quy định của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, thường là các quy
định nhằm hạn chế đầu tư (yêu cầu về bảo vệ môi trường, về lao động, về xã
hội,...). Các ưu đãi này thường được đành riêng cho từng dự án cụ thể.

Ưu đãi sẽ giúp các chủ đầu tư giảm được chi phí, tăng lợi nhuận hoặc
hạn chế được 'rủi ro.

b. Thiết lập các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ đối với hoạt động đầu tư

Không phân biệt đối xử. Tiêu chuẩn này xuất phát từ nguyên tắc bình
đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và là một trong những tiêu chuẩn, quan

8
trọng của Luật Kinh tế quốc tế. Theo tiêu chuẩn này, việc một quốc gia quy
định những điều kiện đặc biệt nhằm đặt một quốc gia khác hay các pháp nhân,
tự nhiên, nhân của quốc gia khác vào một vị trí kém thuận lợi hớn so với quốc
gia, pháp nhân, hoặc tự nhiên nhân của một nước thứ ba sẽ bị coi là một hành
động phi pháp và không phù hợp với những tiêu chuẩn của Luật Kinh tế quốc
tế. Tiêu chuẩn không phẩn biệt đối xử có hai mức độ: không phân biệt đối xử
giữa các nhà đầu tư nước ngoài có quốc tịch khác nhau (MFN) và không phân
biệt đối xử giữa nhà đầu tư nước ngoài và công dân nước sở tại (NT).

Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, NT được hiểu là việc một quốc gia
dành cho nhà đầu tư nước ngoài sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử
dành cho các nhà đầu tư nước mình. Cụ thể là các nhà đầu tư nước ngoài và
các nhà đầu tư trong nước trong những trường hợp tương tự nhau cần được
hưởng chế độ đối xử giống nhau về những vấn để như thành lập, quyền sở
hữu và quản lý doanh nghiệp, quyền tham gia vào thủ tục tố tụng toà án và
các cơ quan có thẩm quyển khác, được bảo hộ, thuế, lạo động, bảo vệ người
tiêu dùng hay bảo vệ môi trường, tự do tiếp cận các nguồn tín dụng, thậm chí
cả các nguồn tài trợ của chính phủ. Mục tiêu cao nhất của tự do hoá đầu tư
chính là tạo sự công bằng, bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài.

MFN được quy định trong hầu hết các điều ước quốc tế có liền quan
đến đầu tư và được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. Theo cam kết về MFN
trong đầu tư, một bên ký kết có nghĩa vụ dành cho nhà đấu tư của bên ký kết
kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư của bất
kỳ nước thứ ba nào trong toàn bộ quá trình đầu tư từ khỉ thành lập, hoạt động,
mở rộng cho đến khi thanh lý hay giải thể hay chấm dứt hoạt động

Đối xử công bằng và bình đẳng. Đây là một tiêu chuẩn quan trọng của
Luật Đầu tư Quốc tế. Tiêu chuẩn này được đề cập đến trong Điều 11 khoản 2
của Hiến chương Havana năm 1948 và được coi là một tiêu chuẩn đối xử cơ

9
bản đối với hoạt động đầu tư ở nước ngoài (Văn phòng Uỷ ban Nhà nước về
Hợp tác và Đầu tư, 1994).

Sử dụng các công cụ quốc tế để giải quyết các tranh chấp trong đầu tư.
Các nước nhận đầu tư không được giới hạn tranh chấp nảy sinh giữa các nhà
đầu tư, giữa nhà đầu tư với nhà nước nhận đầu tư và giữa nhà nước chủ đầu tư
và nhà nước nhận đầu tư chỉ được giải quyết bằng tòa án, trọng tài của nước
mình. Các bên có liên quan trong quá trình tranh chấp có thế thỏa thuận để
lựa chọn cơ quan đứng ra giải quyết tranh chấp.

Chuyển tiền. Để đằm bảo cho các chủ đầu tư được hưởng lợi nhuận và
lợi ích từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài, các nước phải cho phép việc thanh
toán, chuyển đổi hoặc chuyển về nước các khoản tiền liên quan đến hoạt động
đầu tư ở nước ngoài.

Tính minh bạch. Tiêu chuẩn này đảm bảo cho mỗi bên tham gia vào
quá trình đầu tư cổ thể nhận được đầy đủ thông tin từ các bên tham gia khác
để phục vụ cho quá trình ra quyết định và thực hiện các nghĩa vụ, các cam
kết. Các bên được đề cập đến ở đây là chính phủ các nước (chủ đầu tư và
nhận đầu tư) và các chủ đầu tư. Việc đảm bảo tính minh bạch vừa là nghĩa vụ
vừa là quyền lợi của các bên.

Bảo hộ khỏi việc tước đoạt quyền sở hữu. Vấn đề được bảo hộ khỏi
việc tước đoạt quyền sở hữu luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư
khi tiến hành đầu tư vào một nước.

c. Tăng cường các biện pháp giám sát thị trường để đảm bảo sự vận hành
đúng đắn của thị trường

Nội dung này nhằm đảm bảo cho thị trường thực hiện đúng chức năng
của nó và hoạt động bình thường, hạn chế, tiến tới xóa bỏ các biện pháp can
thiệp của chính phủ làm phương hại hoặc bóp méo sự vận hành của thị
trường. Nội dung này được thực hiện thông qua việc thiết lập các quy định về

10
cạnh tranh, chống độc quyền; công khai hóa thông tin; giám sát, kiểm soát
một cách chặt chẽ đối với thị trường; trong đó chính sách cạnh tranh là trung
tâm. Các vấn đề về cạnh tranh liên quan đến đầu tư ngày càng thu hút được sự
chú ý vì các TNC, MNC giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới đang
được toàn cầu hoá.

Trong ba nội dung kể trên hai nội dung đầu là trọng tâm của quá trình
tự do hoá đầu tư. Tuy nhiên, toàn bộ tác động có lợi của chúng lại phụ thuộc
nhiều vào nội dung thứ ba, nghĩa là phụ thuộc vào việc thị trường có được
kiểm soát một cách có hiệu quả không.

4.1.2. Tự do hoá đầu tư - xu thế tất yếu trong điều kiện toàn cầu hoá

4.1.2.1, Toàn cầu hóa - xu thế không thể đảo ngược trong quan hệ
quốc tế hiện đại

Toàn cầu hóa là vẩn đề hết sức rộng lớn, phức tạp và hiện đang thu hút
được sự chú ý của toàn xã hội. Xung quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác
nhau, không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Trong khuôn khổ chương
này, các tác giả chỉ đề cập đến một số khía cạnh của toàn cầu hóa để phục vụ
cho việc nghiên cứu nội dung chính của chương là tự do hóa đầu tư.

4.1.2.2. Khái niệm toàn cầu hóa và một số khái niệm có liên quan

Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về toàn cầu hóa. Theo
Mc Gren "Toàn cầu hóa là việc hình thành một chuỗi vô số các liên kết ràng
buộc giữa các chính phủ và các xã hội tạo lập nên một hệ thống thế giới hiện
đại. Toàn cầu hóa cũng là quá trình mà ở đó các sự kiện, các quyết định và
các hoạt động của một phần thế giới có thể tác động nghiêm trọng đến các cá
nhân và cộng đồng ở các phần khác xa của trái đất (Nguyễn Đức Bình và
cộng sự, 2001). Định nghĩa của Me Gren mang tính khái quát cao, nó nhấn
mạnh đến các mối liên kết (mà không liệt kê cụ thể liên kết trong một hay một
số lĩnh vực nhất định) giữa các nước, các xã hội trên toàn thế giới trong một

11
thể thống nhất. Mc Gren cũng chỉ ra toàn cầu hóa là một quá trình chứ không
phải là một trạng thái. Theo ông, trong một xã hội như vậy các hoạt động, sự
kiện, vấn đề xảy ra ở một nơi sẽ có thể có ảnh hưởng rất sâu và rất rộng.

Uỷ ban Châu Âu cho rằng: "Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa như
là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác
nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do tính năng động của việc
buôn bán hàng hóa và dịch vụ cũng như do tính năng động của sự lưu thông
vốn tư bản và công nghệ (Dân.Nguyễn.Văn, 2001).

Định nghĩa trên đại diện cho một trường phái cho rằng toàn cầu hóa là
bước phát triển cao của quốc tế hóa thông qua việc làm sâu sắc thêm các mối
quan hệ tương tác kinh tế quốc tế vốn đã được thiết lập và tăng cường từ lâu.
Định nghĩa, nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của toàn cầu hóa, cụ thể là việc
mở rộng địa bàn sản xuất và thị trường tiêu thụ nhờ có sự lựu chuyển hàng
hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ linh hoạt giữa các nước. Trên thực tế, toàn cầu
hóa diễn ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống như kinh tế, quân sự, chính
trị, văn hóa, môi trường sinh thái... Tuy nhiên, toàn cầu hóa kinh tế vẫn là đề
tài chiếm vị trí trọng tâm trong các cuộc thảo luận quốc tế. Những lĩnh vực
khác của toàn cầu hóa đều xuất phát từ những nguyên nhân và lý do kinh tế.

Một cách chung nhất, có thể hiểu toàn cầu hóa kinh tế là quá trình phát
triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng
tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học
kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu
rộng, tính chất xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng (Nguyễn Đức Bình và
cộng sự, 2001).

Tóm lại, nói đến toàn cầu hóa là nói đến quá trình liên kết về mọi mặt
giữa các quốc gia trong một thể thống nhất trong đó trung tâm là liên kết kinh
tế. Sự liên kết này dẫn đến sự ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau của các hoạt
động, các sự kiện, các vấn đề trên phạm vi toàn cầu.

12
4.1.2.3. Tính tất yếu của toàn cầu hóa

Các ý kiến về vấn đề này có thể tổng hợp thành mấy nhóm như sau:

Nhóm thứ nhất, thừa nhận tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa.
Theo quan điểm này, toàn cầu hóa được quy định bởi những quy luật khách
quan của xã hội, của lịch sử mà trực tiếp là từ tính chất xã hội hóa của lực
lượng sản xuất trên quy mô quốc gia và quốc tế. Có ba nhân tố chủ yếu chi
phối quá trình toàn cầu hóa: Cách mạng khoa học công nghệ; Sự phát triển
của kinh tế thị trường; và Sự chi phối của các TNC.

Nhóm thứ hai cho rằng có cả các yếu tố khách quan lẫn chủ quan dẫn
đến toàn cầu hóa. Các tác giả trong nhóm này thừa nhận toàn cầu hóa là hệ
quả phát triển của các yếu tố khách quan như sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của xã hội hóa cao độ. Tuy nhiên họ cũng nhấn mạnh đến các nhân tố
chủ quan tác động đến toàn cầu hóa đó là việc chủ nghĩa tư bản lợi dụng toàn
cầu hóa để thực hiện những ý đồ của mình.

Nhóm thứ ba cho rằng toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, nhưng
việc tiến hành thực hiện, đối sách tham gia qua trình này,... mang tính chủ
quan vì có sự can thiệp của con người, do con người quyết định và thực hiện.

Nhóm thứ tư cho rằng toàn cầu hóa là chính sách của Mỹ nhằm "Mỹ
hóa" thế giới. Ở Việt Nam, Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa: "Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế
khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy
hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế" (Văn kiện Đại hội Đảng IX, 2001).

Tóm lại, dù có nhiều quan điểm khác nhau về tính tất yếu của toàn cầu
hóa nhưng không thể phủ nhận sự tồn tại và phát triển ngày càng mạnh của xu
thế này. Tất cả các nước, kế cả những nước chậm phát triển nhất, đều đã và
đang bị kéo vào quỹ đạo của toàn cầu hoá như một tất yếu lịch sử. Xu thế này

13
đang thiết lập những nguyên tắc mới cho "cuộc chơi" trên bạn cờ thế giới
chung cho tất cả các nước, không phận biệt lớn hay nhỏ, phát triển hay kém
phát triển. Toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội, những thuận lợi lớn cho sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia, đồng thời xu thế này cũng đặt ra những thách
thức không nhỏ, nhất là đối với các nước đang và kém phát triển. Dù thế nào
các nước cũng không thể lảng tránh xu thế này.

4.1.2.2. Mối quan hệ hữu cơ giữa toàn câu hóa kinh tế và tự do hóa
đầu tư

Toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa đầu tư có mối quan hệ rất khăng khít
với nhau. Tự do hóa đầu tư vừa là điều kiện, vừa là biểu hiện, vừa là động lực
thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế phật triển. Ngược lại, toàn cầu hóa
kinh tế phát triển góp phần thúc đẩy tự do hóa kinh tế trong đó có tự do hóa
đầu tư diễn ra nhanh và mạnh trên toàn thế giới.

Trước tiên, có thể khẳng định tự do hóa đậu tư là một nội dung, một
biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Bàn về nội dung của toàn cầu hóa
kinh tế có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung các quan điểm đều
thống nhất toàn cầu hóa kinh tế có ba nội dung chính, đó là: (i) Sự gia tăng
của các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư, vốn, công nghệ, dịch
vụ, nhân công,...; (ii) Tự do hóa các hoạt động kinh tế bao gồm tự do hóa
thương mại, tự do hóa đầu tư, tự do hóa lưu chuyển dịch vụ, công nghệ, sức
lao động,...; và (iii) Sự gia tăng số lượng và hoạt động của các TNC, sự hình
thành ngày càng nhiều các MNC khổng lổ.

Thương mại quốc tế là thước đo đầu tiên của mức độ toàn cầu hóa kinh
tế và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và các nền kinh tế. Khi các nước
trao đổi hàng hóa với nhau, sự biệt lập của các nền kinh tế quốc gia dần được
xóa bỏ, phân cống lao động quốc tế được thiết lập và phát triển. Thương mại
quốc tế càng phát triển thì mức độ phân công lao động quốc tế trong mỗi
nước và trên toàn thế giới càng chuyên sâu hơn, sự tùy thuộc giữa các nước

14
gia tăng. Tuy nhiên chỉ điểu này không thôi chưa đủ để tạo nên xu thế toàn
cầu hóa kinh tế.

4.1.3. Xu hướng tự do hoá đầu tư ở các nước và trên thế giới

4.1.4.1. Tự do hóa đầu tư trước năm 1990

Từ giữa thế kỷ XIX trở về trước, nhìn chung FDI không có vai trò quan
trọng đối với các nước vì vậy hoạt động này không bị kiểm soát hoặc hạn chế
một cách có hệ thống. Từ cuối thế kỷ XIX, vai trò của FDI ngày càng quan
trọng trong dòng vốn đầu tư quốc tế và đối với các nước cả chủ đầu tư lẫn
nhận đầu tư. Chính vì vậy, chính phủ các nước bắt đầu quan tâm hơn đến việc
kiểm soát, điều tiết FDI.

Trên bình diện quốc tế, các quy định đầu tiên về FDI được đề cập đến
trong luật pháp quốc tế từ thế kỷ XVIII. Hai cơ sở nền tảng của các quy định
này là các nguyên tắc về chủ quyền quốc gia, chủ quyền bất khả xâm phạm về
mặt lãnh thổ và học thuyết luật về hách nhiệm của nhà nước đối với các tổn
thất gây ra cho nước ngoài và tài sản của họ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước tăng cường kiểm soát đối
với FDI. Các nước XHCN không cho phép FDI vào nước mình. Các nước
đang phát triển, sau khi giành được độc lập, cố gắng giành lại quyển kiểm
soát các tài nguyên thiên nhiên của mình từ tay nước ngoài. Các quy định
mang tính kiểm soát và hạn chế đối với việc thành lập và hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài được ban hành ở nhiều nước nhằm loại bỏ, FDI ra
khỏi một số ngành nhất định, bảo hộ cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp
trong nước. Trong bối cảnh đó, Hiến chương Hanava ra đời năm 1948 nhằm
thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế

Năm 1959, BIT đầu tiên được ký kết giữa Đức và Pakistan. Hiệp định
tập trung vào việc đảm bảo quyền lợi cho các chủ đầu tư chứ không để cập
đến quyền lợi của nước nhận đầu tư như trong Hiến chương Hanava.

15
Đầu những năm 1960, các nước phát triển bắt đầu tiến hành tự do hóa
FDI. Quá trình đàm phán các BIT được triển khai. Trong khuôn khổ khu vực,
một số nhóm nước bắt đầu áp dụng các quy định chung nhằm tự do hoá FDI,
chủ yếu là giữa các nước trong khối OECD và trong bối cảnh các khu vực
đang nỗ lực khuyến khích tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế. Đặc biệt,
việc thành lập (năm 1957) và phát triển của EEC đã khởi xướng phong trào
hướng tới hội nhập kinh tế khu vực, tự do lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, sức
lao động, vốn,...

Trong thời gian này OECP đã xây dựng hai bộ luật về Tự do hóa lưu
chuyển vốn và về các hoạt động vô hình hiện hành trong đó đặt ra các quy tắc
mang tính ràng buộc các nước tiến hành tự do hóa và đưa ra cơ chế cụ thể để
từng bước triển khai tự do hóa.

Thực tế, trong những năm 1960, có rất ít các sáng kiến đa phương giải
quyết những vấn đề cụ thể của FDI được thực hiện, một trong những sáng
kiến đó là việc thành lập Trung tâm Quốc tế Giải quyết các Tranh chấp về
Đầu tư (ICSID) của WB năm 1968.

Vào đầu những năm 1970, cuộc khủng hoảng năng lượng đã có tác
động sâu sắc đến môi trường quốc tế và đến FDI. Vị thế của các nước đang
phát triển đã được nâng cao trên các diễn đàn thế giới. Cũng trong thời gian
này, các INC và MNC phát triển mạnh mẽ và ngày càng có ảnh hưởng lớn
trên thế giới. Các nước đang phát triển một mặt rất cần vốn và công nghệ của
các TNG, MNC để phát triển, mặt khác lại rất lo ngại bị phụ thuộc vào các tập
đoàn này. Trước tình hình đó, các nước đang phát triển đã đưa ra các cơ chế
chi tiết nhằm kiểm soát việc tiếp nhận và thành lập của các TNC, MNC. Các
luật hoặc bộ luật của các nước đang phát triển trong thời kỳ này thường quy
định các thủ tục xét duyệt kết hợp với các ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác
nhằm thu hút và điều tiết FDI.

16
Trong những năm 1980, UN đã nỗ lực xây dựng các tiêu chuẩn đảm
bảo sự hoạt động hoàn hảo của thị trường. Trong thời kỳ này một loạt các sự
kiện quốc gia và quốc tế đã đảo ngược hoàn toàn các xu hướng chính sách
thịnh hành trước đó. Trước hết là sự thay đổi của nền kinh tế thế giới dẫn đến
sự thay đổi cơ cấu FDI theo ngành. Trước đây, FDI tập trung chủ yếu vào
khai thác tài nguyên thiên nhiên, từ những năm 1980 FDI đã chuyển dần sang
các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và công nghệ cao. Kết quả là MIGA được
thành lập năm 1985 với mục tiêu "khuyến khích dòng vốn đầu tư cho các mục
đích sản xuất giữa các nước thành viên, đặc biệt là cho các nước thành viên
đang phát triển". Hiện tổ chức này có trên 140 thành viên. MIGA cung cấp
bảo lãnh cho các nhà đầu tư của các nước thành viên khi đầu tư sang một
nước thành viên khác dưới hình thức "rủi ro phi thương mại".

4.1.4.2. Tự do hóa đầu tư nước ngoài từ năm 1990 trở lại đây

Tiếp tục xu hướng tự do hóa FDI từ cuối những năm 1980, trong những
năm 1990 và 2000, các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát
triển tăng cường thu hút FDI bằng cách dỡ bỏ các hạn chế đối với việc thành
lập, hoạt động của các dự án FDI và đưa ra các đảm bảo chặt chẽ ở cấp quốc
gia, quốc tế chống lại các biện pháp gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi
của các nhà đầu tư. Số lượng BIT được ký kết trong thời gian này gấp nhiều
lần tổng số BIT được ký kết trong 3 thập kỷ trước. Một khuôn khổ pháp lý
quốc tế chung vê' FDI .bắt đầu hình thành dưới hình thức các IIA. Các IIA
thường đề cập đến việc tự do hóa và bảo hộ ĐTNN trong đó có FDI.

4.2. Những bước tiến mới trong chính sách FDI

17
4.2.1. Cấp quốc gia

4.2.1.1. Nỗ lực cải cách luật pháp và chính sách đầu tư trực tiếp
nước ngoài của các nước theo xu hướng tự do hoá

Từ năm 1991 đến nay, hàng năm một số lượng đáng kê’ các quy định
phắp luật có liên quan đến FDI được sửa đổi và phần lớn theo hướng tạo
thuận lợi hơn cho FDI (xem bảng 5.1).

a) Bao gồm các thay đổi theo hướng tự do hoá hoặc các thay đổi nhằm
đảm bảo sự hoạt động hoàn hảo của thị trường và cả các biện pháp tăng
cường ưu đãi đầu tư.

b) Bao gồm những thay đối nhằm tăng cường kiểm soát hoặc giảm các
ưu đãi.

Đối với việc tiếp nhận và thành lập. Luật pháp quốc tế công nhận thẩm
quyển tuyệt đối của các quốc gia đổi với việc kiểm soát tiếp nhận và thành lập
đầu tư của người nước ngoài trên lãnh thổ nước mình. Ngày nay xu thế toàn
cầu hóa, khu vực hóa buộc các nước phải thay đổi cách nhìn nhận đối với vấn
đề này. Một số nước đơn phương tự do hóa các điều kiện tiếp nhận và thành
lập đối với FDI bằng cách sửa đổi luật quốc gia hoặc tham gia vào các hiệp
định quốc tế. Số lượng các hoạt động, các ngành đóng cửa đối với FDI đã
giảm xuống; danh mục các hoạt động, các ngành đóng cửa, mở cửa cho FDI
thường xuyên được rà soát; các hạn chế về quyền sở hữu và quản lý trong các
hoạt động, các lĩnh vực giảm xuống hoặc được xóa bỏ hoàn toàn; các thủ tục
xét duyệt được đơn giản hóa hoặc được xóa bỏ...

Các quy định về hoạt động của các công ty nước ngoài được tự do hóa
mạnh mẽ hơn các quy định vê tiếp nhận và thành lập. Các hạn chế về chuyển
lợi nhuận và vốn về nước, chuyển các khoản tiền khác nói chung đã được xỏa
bỏ hoặc nói lỏng. Các yêu cầu hoạt động cũng ít được sử dụng.

18
Một số biện pháp khuyến khích, ưu đãi được áp dụng chung cho mọi
hoạt động đầu tư. Một số ưu đãi trước đây chi áp dụng cho FDI, nay đã được
áp dụng cho cả các doanh nghiệp trong nước. Các khu kinh tế tập trung như
KCN, KCX, đặc khu kinh tế, khu vực đầu tư và thương mại tự do,... được xây
dựng ngày càng nhiều để thu hút đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau.

Các chuẩn mực đối xử như NT, MFN, đối xử công bằng, bình đẳng,...
được sử dụng đối với các dự án FDI trong quá trình hoạt động.

Các quy tắc và cơ chế nhằm giám sát thị trường, đảm bảo sự hoạt động
đúng đắn của thị trường cũng đã được để cập.

4.2.1.2. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng có một số thay đồi về luật
pháp và chính sách của một số nước đi ngược lại với xu hướng tự
do hóa FDI.

Cụ thể là một số nước còn có những thay đổi theo hướng tạo thêm rào
cản hoặc giảm bớt thuận lợi đối với FDI.

4.2.2. Cấp quốc tế

4.2.2.1. Các hiệp định đầu tư song phương

Trọng tâm chính của các BIT là bảo hộ, tạo thuận lợi và thúc đây đầu
tư. Các BIT thường được soạn thảo dựa trên các mẫu của Mỹ và châu Âu.
Mẫu BIT của châu Âu có truyền thống lâu đời hơn, quy đình FDI vào một
nước phải tuân theo luật phấp của nước đó. Các quy định trong các BIT theo
mẫu của Mỹ thường cao hơn của châu Âu (quy định các chủ đầu tư có quyền
tiến hành kinh doanh trong tất cả các ngành nghề trừ những ngành nghề được
"bảo lưu"). Nguyên tắc NT và MFN được áp dụng từ khi tiếp nhận, thành lập
và suốt trong quá trình hoạt động cho đến khi kết thúc. BIT kiểu này cũng đưa
ra các quy định về đối xử với nhiều vấn đề khác như yêu cầu hoạt động, cư
trú tạm thời của các nhà đầu tư và một số người nước ngoài khác, quốc tịch
của các thành viên bah giám đốc. Đặc điểm chung của các BIT là tìm cách sử

19
dụng luật quốc gia hiện hành áp dụng cho công dân của quốc gia khác, không
"quốc tế hoá" quá trình đầu tư. Nhìn chung các BIT dựa trên ICSID để giải
quyết tranh chấp. Điểm quan trọng của các BIT gần đây là đã thống nhất được
một số nguyên tắc chung, trong đó có những nguyên tắc liên quan đến tự do
hóa FDI. Cụ thể là:

- Việc tiếp nhận và thành lập: Hầu hết các BIT đều theo mô hình "kiểm
soát đầu tư" đối với việc tiếp nhận và thành lập nghĩa là công nhận các hạn
chế và kiêm soát của nước nhận đầu tư đối với việc tiếp nhận FDI và thành
lập các doanh nghiệp có vốn FDI. Riêng các BIT có một bên tham gia là Mỹ
theo mô hình "kết hợp đối xử MFN và NT" với mục đích mở rộng tối đa các
quyền tiếp cận và thành lập doanh nghiệp. Quyền này cũng có các ngoại lệ
(danh mục loại trừ một số hoạt động hoặc ngành được bảo hộ). Các ngoại lệ
này phải được cụ thể hóa và ghi trong phụ lục của hiệp định.

- Áp dụng chế độ đối xử công bằng và thỏa đáng, thường dưới hình
thức các chuẩn mực cụ thể như cấm áp dụng các biện pháp tùy tiện hoặc phân
biệt đối xử, quy định trách, nhiệm tuân thủ các cam kết đối với đầu tư;

- Quy định dành NT cho các nhà đầu tư của nước tham gia ký kết và
hoạt động đầu tư của họ trên lãnh thổ nước tham gia ký kết kia, thường kèm
theo các điều kiện nhất định (có tính đến các đặc điểm, khác nhau của các
doanh nghiệp trong nước so với doanh nghiệp nước ngoài) và các ngoại lệ
(chủ yếu liên quan đến các ngành và các hoạt động kinh tế cụ thể hoặc đến
các biện pháp chính sách như các ưu đãi thuế,...);

- Việc đảm bảo chế độ MFN, với một số ngoại lệ nhất định, đã trở
thành nguyên tắc phổ biến trong các BIT;

- Quy định quyền của nước chủ nhà được phép trưng thu, nhưng việc
trưng thu phải tuân thủ những điều kiện nhất định (phải được tiến hành vì

20
mục đích công cộng, không phân biệt đối xử, phù họp với quý trình hợp lệ và
phải bồi thường cho chủ đầu tư);

- Đảm bảo tự do chuyển các khoản tiền liên quan đến đầu tư ra nước
ngoài, thường có ngoại lệ đối với các giai đoạn mà dự trữ ngoại tệ ở mức
thấp;

- Có điều khoản giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà nước, dành
cho nhà đầu tư quyền lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp.

Một số vấn đề nữa có liên quan đến đầu tư cũng được đề cập trong một
số BIT, đó là: Yêu cầu nước chủ nhà phải đảm bảo cho nhà dầu tư quyền tiếp
cận thông tin về pháp luật quốc gia; cấm đặt ra các yêu cầu về hoạt động như
tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu xuất khẩu, yêu cầu tự cân đối ngoại tệ, yêu cầu đối
với việc tuyển dụng lao động; cam kết cho phép và tạo thuận lợi cho việc
nhập cảnh và cu trú của người nước ngoài liên quan đến việc thành lập và tiến
hành hoạt động đầu tư; bảo đảm dành NT và MFN đối với việc tiếp nhận và
thành lập.

Còn một số vấn đề liên quan đến đầu tư chưa được đề cập đến trong
các BIT, đặc biệt là các vấn đề về đảm bảo khả năng vận hành đúng đắn của
thị trường và vấn đề đầu tư phải gắn liền với sự phát triển bền vững, ví dụ
như: các nghĩa vụ về việc tự do hóa từng bước; chế độ đối xử dành cho EDI
trong quá trình tư nhân hóa; việc kiểm soát các thực tiễn kinh doanh bị hạn
chế; các thực tiễn quản lý tư nhân cản trở đầu tư và thương mại; bảo vệ người
tiêu dùng; bảo vệ môi trường; thuế đối với các công ty nước ngoài; tránh các
khoản thanh toán bất hợp pháp; bảo vệ chống lại các vi phạm về quyền sở hữu
trí tuệ; các tiêu chuẩn lao động; các điều khoản liên quan đến chuyển giao
công nghệ; trách nhiệm xã hội của các nhà đầu tư nước ngoài ở nước nhận
đầu tư; nghĩa vụ của các cơ quan địa phương (MPI, 2003).

21
Nhìn chung, các BIT có phạm vi điều chỉnh rộng hơn các quy định của
luật pháp quốc gia. Mặc dù các BIT được tiêu chuẩn hóa tương đối cao nhưng
chúng vẫn thể hiện các quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau của nhiều
nước tham gia ký kết. Trên thực tế các BIT được sử dụng rất nhiều để phát
triển lên thành các hiệp định đa phương.

4.2.2.2. Tự do hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài trên phạm vi toàn
cầu

Các văn bản điều chinh FDI trên thế giới cho đến nay thường có phạm
vi và mức độ khác nhau nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là tự do hoá
EDI trên cơ sở thực hiện chế độ NT và mở cửa các lĩnh vực kinh tế cho FDI.
Các văn bản này thường bao gồm các nội dung chính sau đây:

- Khuyến khích FDI: Dòng vốn FDI chảy giữa các bên tham gia ký kết
văn bản sẽ được khuyến khích bằng cách các bên tiến hành trao đổi thông tin,
hợp tác trong xây dựng pháp luật, hỗ trợ kỹ thuật và vật chất cho việc khuyến
khích FDI.

- Bảo hộ FDI: Tự do hóa các giao dịch thanh toán vãng lai và các giao
dịch thanh toán khác cũng như việc di chuyển vốn, cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài được bán, nhượng, chuyển các tài sản của họ ra nước ngoài; bảo
hộ quyền sở hữu của các chủ đầu tư nước ngoài; quy định về giải quyết tranh
chấp trong đầu tư.

- Tiếp cận thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài và các hạn chế có
thể có đối với việc tiếp cận thị trường (các quy định tiền dự án). Phần này quy
định rõ quyển của các nhà đầu tư. nước ngoài đối với việc xâm nhập và thành
lập trong một số lĩnh vực kinh tế cụ thể ở nước nhận đầu tư.

- Các quy định sau giấy phép, tiêu chuẩn đối xử với các nhà đầu tư
nước ngoài khi họ đã được phép tiến hành đầu tư ở nước nhận đầu tư. Nguyên
tắc quan họng nhất trong phần này là NT.

22
- Các quy tắc và cơ chế nhằm giám sát thị trường, đảm bảo sự vận hành
đúng đắn của thị trường cũng được đề cập: cách ứng xử của TNC và các công
ty con, cạnh tranh, bảo vệ môi trường, tệ hối lộ và các khoản thanh toán bất
hợp pháp,...

4.2.2.3. WTO với vấn đề tự do hoá FDI

Trong khuôn khổ GATT, FDI đã được đề cập nhưng không thường
xuyên. Đến vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển chú trọng bàn đến ý
tưởng xây dựng một khung pháp lý đa phương nhằm tự do hóa hơn nữa các
chế độ ĐTNN. Ý tưởng này vấp phải sự phản đợi của các nước đang phát
triển với lý do GATT được lập nên chỉ để giải quyết các vấn đề về thương
mại. Cụ thể là yêu cầu sau đây đối với doanh nghiệp có vốn FDI bị cấm: (i)
Phải mua hoặc sử dụng một tỷ lệ nhất định hàng hoá có xuất xứ tròng nước
hoặc từ nguồn cung cấp trong nước; (ii) Chỉ được mua hoặc sử dụng hàng hoá
nhập khẩu với SQ lượng hoặc giặ trị ngang bằng với số lượng hoặc giá trị
hàng hoá mà doanh nghiệp đó xuất khẩu; (iii) Thụ ngoại tệ từ nguồn xuất
khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của mình; (iv) Xuất khẩu họặc bán một
mặt hàng xuất khẩu nhặt định, hoặc chỉ được xuất khẩu hàng họá tương ứng
với số lượng và giá trị hàng hoá sản xuất trong nước của dọanh nghiệp.
Những biện pháp nóì trên được, quy định cụ thể trong danh mục minh họa
kèm theo Hiệp định TRIMs.

Các quy định, của GATS nhằm tự do hóa việc trao đối dịch vụ quốc tế
trên cơ sở một định nghĩa rộng về thương mại dịch vụ. GATS đưa ra một số
các quy định về đầu tư chủ yếu nhằm đảm bảo nguyên tắc MFN và tính minh
bạch đối với các dịch vụ được cung ứng thông qua "sự hiện diện thương mại"
ở nước ngoài. Trên thực tế có nhiều dịch vụ chỉ có thể được cung ứng ở nước
ngoài bằng cách thiết lập các chi nhánh ở nước đố thông qua FDI. Chính vì
vậy nhiều quy định của GATS đề cập đến việc điều chỉnh các dòng tài chính

23
xuyên biên giới. FDI là một trong bốn hình thức xuất khẩu dịch vụ theo quy
định của GATS.

TRIPS đề cập đến quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn đối xử và các
quy trình thủ tục quốc tế liên quan đến vấn đề này, TRIPS có phạm vi áp
dụng cả đối với FDI.

ASCM cấm một số các biện pháp khuyến khích đầu tư được coi là biện
pháp hỗ trợ theo đúng định nghĩa trong hiệp định này. Tuy nhiên các quy định
liên quan đến đầu tư trong ASCM chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của
các nước thành viên. Trong chương trình đàm phán về đầu tư theo Tuyên bố
Doha không đề cập đến vấn đề đầu tư trong ASCM.

Tóm lại các hiệp định kể trên trong khuôn khổ WTO chỉ đề cập đến
một khía cạnh của tự do hóa FDI chứ không giúp các nước thành viên tiến tới
thực hiện được tất cả các nội dung tự do hóa FDI.

Xu hướng xây dựng khung pháp lý đầu tư đa phương trọng khuôn khổ
WTO. Cùng với Hiệp định TRIMs, Hội nghị lần thứ nhất Bộ trưởng Thương
mại WTO tổ chức tại Singapore (1996) đã quyết định thành lập "Nhóm công
tác về quan hệ giữa thương mại và đầu tư" với mục đích nghiên cứu khả năng
xây dựng những nguyên tắc đầu tư đa phương trong khuôn khổ WTO.

4.2.2.4. WB với vấn đề tự do hóa PDI

Các sáng kiến của WB hên quan đến tự do hoá FDI chủ yếu nhân mạnh
vào hai khía cạnh đó là giải quyết tranh chấp trong FDI và các biện pháp đảm
bảo an toàn cho dòng vốn FDI. Tháng 7 năm 1990. Uỷ ban Phát triển của
IMF và WB đã xuất bản. "Các nguyên tắc chỉ đạo về đối xử với FDI". Đây
không, phải là các chuẩn mực cơ bản nhưng là một bước quan trọng trong tiến
trình xây dựng và đưa vào áp dụng các chuẩn mực quốc tế về FDI.

24
4.2.2.5. OECD với vấn đề tự do hoá FDI

MAI được đàm phán giữa các nước OECD từ tháng 9 năm 1995 và dự
kiến được ký kết vào tháng 5/1998. Mục tiêu chủ yếu của MAI là thiết lập
một khung pháp lý đa biên cho Đầu tư Quốc tế với tiêu chuẩn cao về tự do
hoá chế độ đầu tư, bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư. Cụ thể là:

- Loại bỏ các rào cản đối với đầu tư, cho phép nhà đầu tư nước ngoài
được đầu tư trong mọi lĩnh vực, trừ các lĩnh vực có liên quan đến an ninh
quốc phòng.

- Loại bỏ các quy định liên quan đến việc khống chế tỷ lệ sở hữu vốn
cùa bên nước ngoài, cho phép nhà đầu tư được toàn quyền quyết định tỷ lệ và
hình thức sở hữu của dự án đầu tư.

- Thực hiện chế độ không phân biệt đối xử trên cơ sở dành NT và MFN
cho nhà đầu tư nước ngoài không chỉ ở giai đoạn chuẩn bị, thành lập mà còn
cả ở khâu sau thành lập.

- Loại bỏ các điều kiện áp dụng đối với việc thành lập và hoạt động của
dự án đầu tư. Riêng đối với TRIMs, quy định của MAI không chỉ dựa trên các
nguyên tắc của Hiệp định TRIMs mà còn mở rộng thêm nhiều vấn đề như yêu
cầu về loại hình và trình độ công nghệ,...

- Bảo hộ các quyền của nhà đầú tư nước ngoài: không bị phân biệt đối
xử, trưng thu, quốc hữu hoá; sở hữu trí tuệ; chuyển vốn về nước,..

- Xác lập cơ chế giải quyết tranh chấp ràng buộc giữa nhà đầu tư và
nước tiếp nhận đầu tư.

4.2.2.6. APEC với vấn đề tự do hoá FDI

Trước năm 1991, APEC chỉ tập trung vào việc hợp tác và tạo thuận lợi.
Cuộc gặp Seoul (1991) của các Bộ trưởng Kinh tế đã mở rộng các mục tiêu

25
của APEC, “ủng hộ ý tưởng xoá bỏ các rào cản đối với thương mại và đầu tư
trọng khu vực.

Mục tiêu của APEC là tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư vào năm
2010 đối với các nước phát triển và 2020 đối với các nước đang phát triển. Để
thực hiện mục tiêu đó, các nước thành viên APEC sẽ giảm hoặc loại bỏ những
hạn chế đối với ĐTNN phù hợp với quy định của WTO, ANBIP, các hiệp
định quốc tế khác có liên quan đến đầu tư và .bất kỳ hướng dẫn nào được thoả
thuận chung trong nội bộ APEC, đồng thời tăng cường ký kết các BIT giữa
các nước thành viên.

4.2.2.7. ASEM với vấn đề tự do hoá FDI

Tháng 3 năm 1996, Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về hợp tác Á -
Âu lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok (Thái Lan) với sự tham gia của các
nguyên thủ quốc gia 15 nước thuộc EU và 10 nước châu Á.

Mục tiêu của IPAP là cải thiện luật pháp, chính sách ở mỗi nước thành
viên nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho nhà đầu tư ở cả hai khu vực
châu Á và châu Âu để gia tăng dòng vốn đầu tư hai chiều.

Tóm lại, mặc dù là một diễn đàn đối thoại không chính thức nhưng
ASEM đã xây dựng được một chương trình hành động xúc tiến đầu tư khá chi
tiết. Chương trình được sự hưởng ứng và phối họp thực hiện của tất cả các
nước thành viên. Bước đầu Chương trình đã giúp các nước thành viên quảng
bá được hình ảnh của nước mình, tạo thuận lợi cho các doanh nhân của các
nước gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm, cơ hội đầu tư, kinh doanh.
Chương trình cũng hỗ trợ rất nhiều cho các nước thành viên, đặc biệt là các
nước đang phát triển, trong việc cải thiện môi trường pháp lý và cơ chế chính
sách về đầu tư phù hợp với xu hướng tự do hóa FDI trên thế giới.

4.3. Các khu vực đầu tư tự do

26
4.3.1. Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)

Vì sức ép cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt đặc biệt từ hai đối
thủ mạnh trong khu vực là Trung Quốc và Ấn Độ,

Mục tiêu chủ yếu của AIA là:

Thứ nhất, xây dựng AIA có môi trường đầu tư thông thoáng và minh
bạch hon giữa các quốc gia thành viên.

Thứ hai, đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần
hướng tới tự do lưu chuyên đầu tư vào năm 2020.

Nguyên tắc quan trọng nhất của Hiệp định này là thực hiện chế độ NT
và mở cửa các ngành nghề cho các nhà đầu tư theo một lộ trình

Việc áp dụng NT và mở cửa tất cả các ngành nghề cho tất cả các nhà
đầu tư sẽ được tiến hành vào năm 2020, trừ các ngoại lệ được quy định trong
Hiệp định này.

Nguyên tắc dành MFN. Mỗi quốc gia thành viên ASEAN sẽ dành ngay
lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư ASEAN khác sự đối xử không kém
thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ ba nào.

Các nguyên tắc khác. Hiệp định đã mở rộng nguyên tắc về khuyến
khích và bảo hộ đầu tư của Hiệp định đã ký kết

Các chương trình và kế hoạch hành động. Để tiến tới thành lập AIA,
các quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện 3 chương trình: Hợp tác, tạo
thuận lợi, Xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết và Tự do hoá đầu tư. Mỗi
nước ASEAN sẽ tự vạch ra các kế hoạch hành động để cụ thể hoá các chương
trình nói trên. Cứ 2 năm một lần, các kế hoạch hành động này lại được rà soát
lại để đảm bảo tiến độ thực hiện Hiệp định AIA.

Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ. Hiệp định này được các nước
thành viên ASEAN ký kết năm 1998.

27
Bên cạnh chương trình hợp tác trong nội bộ khối, các nước ASEAN
cũng đang nỗ lực mở rộng hợp tác đầu tư với một số nước/khu vực xuất khẩu
vốn lớn như Trung Quốc, Ôxtrâylia, Niu Dilân, EU, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ,
Nga.

4.3.2. Khu vực đầu tư EU (EIA)

Đầu tư là một nội dung của các hiệp ước của EU. Điều 3 (c) của Hiệp
ước EEC nêu rõ một trong các mục tiêu của Cộng đồng là "bãi bỏ, giữa các
nhà nước thành viên, những rào cản tự do hoá việc di chuyển con người, dịch
vụ và vốn". Cách tiếp cận FDI của EEC khác với các hiệp định Đầu tư Quốc
tế khác ở chỗ nó để cập cả đến việc tự do di chuyển sức lao động.

Tóm lại việc tự do hóa mạnh mẽ sự lưu chuyển vốn, xóa bỏ một cách
có hiệu quả các biện pháp phân biệt đối xử và việc áp dụng các quy tắc chung
giữa các thành viên EU về đối xử với FDI đã có nhiều tác động đến FDI trong
nội bộ khối và với các nước ngoài khối.

4.3.3. Khu vực đầu tư Bắc Mỹ (NAIA)

Trong khu vực Bắc Mỹ, tự do hoá đầu tư được đề cập đến trong
NAFTA. NAFTA là Hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa Canada,
Mexico và Mỹ năm 1992. Hiệp định này đánh dấu một xù hướng mới đối với
các hiệp định thương mại tự do, đó là đưa FDI vào phạm vi điều chỉnh.
NAFTA yêu cầu các bên phải tôn trọng 5 nguyên tắc: NT; MFN; tiêu chuẩn
đối xử tối thiểu; cấm một số yêu cầu về hoạt động đối với các nhà đầu tư; và
các quy định quản lý việc tịch thu, trưng thu. NT và MFN yêu cầu đối xử của
một nước đối với các nhà đầu tư thuộc các nước thành viên NAFTA "trong
những điều kiện như nhau không được kém ưu đãi hơn những gì mà nước đó
dành cho các nhà đầu tư trong nước, hoặc cho các nhà đầu tư của bất kỳ nước
nào khác".

28
NAFTA quy định dành NT hoặc MFN (tùy theo sự đối xử nào tốt hon)
cho các nhà đầu tư và các khoản đầu tư của một bên ký kết liên quan đến
"thành lập doanh nghiệp, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành và
bán lại hoặc định đoạt bằng hình thức khác các khoản đầu tư".

Các qụy định về bảo hộ đầu tư trong NAFTÀ rất chi tiết. Không thành
viên nào trong NAFTA được phép trực tiếp hoặc giần tiếp tiến hành hoặc có
các biện pháp tương tự nhằm quốc hữu hóa hoặc trưng thu các khoản đầu tư
của nhà đầu tư của một thành viên khác trên lãnh thổ nước mình, trừ một số
trường họp ngoại lệ (vì mục đích công cộng; trên cơ sở không phân biệt đối
xử; theo quy định của việc thực thi luật,...).

Tranh chấp giữa một bên và một nhà đầu tư của một bên khác được giải
quyết dựa trên cơ sở Hiệp định ICSID và các quy tắc trọng tài của
UNCITRAL. Thêm vào đó, quá trình giải quyết tranh chấp trong NAFTA
được mở rộng giữa nhà nước và nhà đầu tư, nó đem lại cho các nhà đầu tư
nước ngoài quyền khiếu kiện trực tiếp với các chính phủ nước nhận đầu tư về
việc tuấn thủ hiệp định.

Các quy định của NAFTA có liên quan đến đẫu tư đã được sử dụng
trong nhiều văn bản đa phương và song phương về đầu tư. Chúng cũng được
sử dụng như một mô hình mẫu trong các vòng đàm phán về MAI của OECD.

4.3.4. Xu hướng liên kết Đông Á và ý tưởng về Khu vực đầu tư Đồng Á

Ngoài việc phát triển liên kết trong ASEAN, các nước thạnh viên tổ
chức này cũng đã quan tâm đến việc phát triển các cuộc đối thoại nhiều bên
hơn về hợp tác Đông Á.

 Việc thành lập ASEM năm 1996, đây là diễn đàn đối thoại giữa châu
Âu và một bên là châu Á;

 Ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998
đến nhiều nền kinh tế trong khu vực khiến các nước thấy cẩn đẩy mạnh hợp

29
tác trong khối để ngăn chặn khủng hoảng và để châu Á có tiếng nói có trọng
lượng hơn trong quan hệ với các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Thế giới
(IMF);

 APEC không còn duy trì được vai trò trong việc đây mạnh tự do hoá
thương mại như đã làm được vào đầu những năm 1990;

 Liên kết một số khu vực khác phát triển mạnh (Hiệp định Thương
mại Tự do Bắc Mỹ và Liên minh Châu Âu) khiến các nước Đông Á thấy cần
đẩy mạnh họp tác kinh tế trong khu vực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 4

1. Nguyễn Thị Việt Hoa, Bài giảng Đầu tư quốc tế, Trường Đại học Ngoại
thương, Hà Nội.
2. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
3. Vũ Chí Lộc (2012), Giáo trình Đầu tư Quốc tế, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
4. Khu vực đầu tư tự do, https://www.slideshare.net/bookbooming/cac-
khu-vuc-dau-tu-tu-do-bookbooming, truy cập ngày 27/10/2017.
5. Nội dung cơ bản của AFTA, http://www.dankinhte.vn/noi-dung-co-
ban-cua-afta, truy cập ngày 19/11/2017.

30

You might also like