You are on page 1of 5

PHAÙP LUAÄT THEÁ GIÔÙI

CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NHÀ ĐẦU TƯ


NƯỚC NGOÀI VÀ NHÀ NƯỚC THEO CAM KẾT NỘI KHỐI ASEAN:
NHỮNG THÁCH THỨC ĐẠT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ CÁC QUỐC GIA
THÀNH VIÊN ASEAN KHÁC
Trần Anh Tuấn1
Tóm tắt: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập vào năm 1967 và ngày
càng đẩy mạnh tự do hóa, tăng cường mối quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực giữa các quốc gia
thành viên. Trong quá trình đó, để điều chỉnh tất cả các hoạt động đầu tư thuộc khối ASEAN,
Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) đã được soạn thảo và được các quốc gia tham gia
ký kết. Một trong những nội dung quan trọng của Hiệp định này là cam kết về giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước (ISDS). Bài viết này sẽ làm rõ sự hình thành, phát
triển, thực tiễn ISDS của ASEAN và những thách thức đặt ra cho Việt Nam cũng như các quốc
gia ASEAN khác từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của cơ chế ISDS trong khuôn
khổ ASEAN.
Từ khóa: nhà đầu tư nước ngoài, nhà nước, tranh chấp, hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á…
Nhận bài: 05/5/2017; Hoàn thành biên tập: 28/6/2017; Duyệt đăng: 01/8/2017
Abstract: The Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) is established in 1967 and
it is speeding liberalization, promoting relationship in all fields between its members. In that
process, to adjust all investment activities in ASEAN block, the ASEAN Comprehensive
Investment Agreement (ACIA) has been developed and signed by its members. One of the
agreement’s important contents is commitement to investors-State Dispute Setttment (ISDS).
This article will clarify the formation, development, reality of ISDS and challenges set out for
Viet Nam as well as other ASEAN countries to suggest some solutions to increase the
effectiveness of ISDS mechanism in ASEAN.
Keywords: Foreign investor, state, dispute, the Association of Southest Asian Nations
(ASEAN)...
Date of receipt: 05/5/2017; Date of revision: 28/6/2017; Date of approval: 01/8/2017
1. Tổng quan về quá trình hình thành, Trong sự mở rộng hội nhập nội khối nêu
phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp trên, tự do hóa và thúc đẩy đầu tư giữa các quốc
giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước gia là một thành tố quan trọng. Ngay từ thời kỳ
theo cam kết nội khối ASEAN ASEAN mới có 06 thành viên (Brunei,
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và
(ASEAN) được thành lập vào năm 1967 gồm có Thái Lan), năm 1987, các quốc gia ASEAN đã
05 quốc gia: Indonesia, Malaysia, Philippines, ký Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Singapore và Thái Lan với mục tiêu chủ yếu là ASEAN(IGA), trong đó có cam kết về giải
hợp tác về chính trị và an ninh. Sau này, có thêm quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và
Brunei, Việt Nam, Lào, Mianma, Campuchia, Nhà nước (sau đây gọi tắt theo tiếng Anh là
nâng tổng số thành viên ASEAN lên 10 quốc gia ISDS). Theo đó, tranh chấp giữa nhà đầu tư
với việc mở rộng hội nhập trong nội khối trên nước ngoài và Nhà nước trước hết được tự giải
cơ sở Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột là: quyết giữa hai bên một cách thiện chí. Trong
Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng trường hợp giải quyết thiện chí giữa hai bên
Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa – xã hội. không thành công, thì các bên có thể giải quyết
1
Thạc sỹ, Vụ Pháp luật Quốc tế - Bộ Tư pháp

94
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai

tranh chấp bằng hòa giải hoặc trọng tài tại Trung tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo
tâm giải quyết tranh chấp đầu tư thành lập theo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào
Công ước năm 1965 về giải quyết tranh chấp năm 2020. Nhằm đạt mục tiêu này, trong lĩnh
đầu tư giữa quốc gia và công dân của các quốc vực đầu tư, năm 2009, các quốc gia ASEAN
gia khác (Trung tâm ICSID), trọng tài thành lập (gồm 10 nước: Brunei, Campuchia, Indonesia,
theo Quy tắc trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc Malaysia, Mianma, Lào, Philippines, Singapore,
về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) hay Thái Lan và Việt Nam) đã cùng nhau ký kết
Trung tâm trọng tài khu vục Kuala Lumpur hoặc Hiệp định đầu tư toàn diện trong ASEAN
bất cứ trung tâm trọng tài khác của khu vực (ACIA). ACIA được xây dựng dựa trên nền tảng
ASEAN. Tiếp theo đó vào năm 1996, các quốc của hai hiệp định đầu tư trước đó là AIA và IGA.
gia ASEAN (trong đó có Việt Nam) ký Nghị Do đó, các quy định về ISDS của ACIA về cơ
định thư sửa đổi IGA. Liên quan đến cơ chế bản tiếp thu từ IAG, ngoại trừ một số nội dung
ISDS, Nghị định thư chỉ sửa đổi tên Điều X của được chỉnh sửa theo tiêu chuẩn mới về bảo hộ
IGA là “Giải quyết tranh chấp giữa một bên và đầu tư và bổ sung việc ISDS tại thiết chế giải
nhà đầu tư của bên khác” để phù hợp hơn, chứ quyết tranh chấp của nước tiếp nhận đầu tư.
không sửa đổi nội dung của điều này. Trong ACIA, cơ chế ISDS được quy định tại các
Đến năm 1998, các quốc gia ASEAN (thời Điều từ 21 đến 41, theo đó:
điểm đó gồm 09 nước: Brunei, Indonesia, Thứ nhất, về căn cứ khởi kiện ISDS: theo
Malaysia, Mianma, Lào, Philippines, Singapore, ACIA, nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện
Thái Lan và Việt Nam) lại ký Hiệp định khung nhà nước tiếp nhận đầu tư dựa trên những hành
về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) với mục đích vi của nước này được cho là vi phạm các nghĩa
thiết lập khu vực đầu tư mang tính cạch tranh vụ sau đây:
của khu vực ASEAN, từ đó thúc đẩy tự do hóa a) Vi phạm nghĩa vụ đối xử quốc gia (NT)
đầu tư nội khối. AIA là một bước ngoặt trong tư theo Điều 5 của ACIA. Vi phạm điều này có
duy và tầm nhìn của các quốc gia ASEAN về nghĩa là nước tiếp nhận đầu tư đã đối xử với
vai trò của đầu tư khu vực. Cũng theo AIA, đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài nào đó kém
nhằm tăng cường thúc đẩy một dòng vốn đầu tư thuận lợi hơn mức đối xử mà nước này đã dành
tự do hơn trong khu vực, tạo nên một khu vực cho đầu tư và nhà đầu tư trong nước trong
hấp dẫn nhất, các nước đã quyết tâm hướng đến những điều kiện tương tự.
những quy định đầu tư được đơn giản hóa thông b) Vi phạm nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc
qua sự minh bạch các quy tắc, thủ tục cũng như (MFN) theo Điều 6 của ACIA, tức là nước tiếp
các chính sách điều hành về đầu tư. Tuy nhiên, nhận đầu tư đã đối xử kém thuận lợi hơn so với
AIA không có quy định về ISDS và IGA vẫn tồn mức đối xử mà nước tiếp nhận đầu tư dành cho
tại song song theo nguyên tắc những quy định đầu tư và nhà đầu tư của của nước thứ ba trong
về cùng một vấn đề trong hai điều ước này, thì những điều kiện tương tự.
quy định nào thuận lợi hơn cho các bên sẽ được c) Vi phạm cam kết liên quan đến nhân sự
ưu tiên áp dụng. quản lý cao cấp và ban điều hành (Senior
Sau khi Hiến Chương ASEAN được ký kết Management and Board of Directors) theo
vào năm 2007 với mục tiêu thức đẩy hình thành Điều 8 ACIA với nội dung là một nước thành
Cộng đồng ASEAN, trong đó có Cộng đồng viên không được yêu cầu: (i) một pháp nhân
Kinh tế ASEAN, để thực hiện mục tiêu cuối của nước đó bổ nhiệm vào các vị trí quản lý
cùng của hội nhập kinh tế nhằm hình thành một cấp cao những cá nhân cụ thể cho dù những
khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng người này mang bất kỳ quốc tịch nào; (ii) yêu
và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng cầu số lượng thành viên hội đồng quản trị của
hóa, dịch vụ, và vốn đầu tư sẽ được lưu chuyển một pháp nhân của mình là những người có

95
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

quốc tịch hoặc cư trú trên lãnh thổ của nước trọng tài của Ủy ban Liên hợp quốc về thương
này dẫn đến làm suy yếu đáng kể khả năng của mại quốc tế (UNCITRAL); (iv) Trung tâm
chủ đầu tư để kiểm soát đầu tư. trọng tài khu vực Kuala Lumpur hoặc trung
d) Vi phạm nghĩa vụ về đãi ngộ đầu tư tâm trọng tài khác của khu vực ASEAN hoặc
(Treatment of Investment) theo Điều 11 ACIA, (v) Bất kỳ một trung tâm trọng tài nào khác.
có nghĩa là nước tiếp nhận đầu tư không thực Ngoài ra, hòa giải trong ISDS có thể thực
hiện hoặc không thực hiện không đúng các hiện ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải
nghĩa vụ liên quan đến việc dành cho các quyết tranh chấp miễn là trước khi cơ quan tài
khoản đầu tư của nước thành viên ASEAN phán đưa ra phán quyết về vụ việc ISDS.
khác sự đối xử công bằng và thỏa đáng, bảo vệ 2. Thực tiễn ISDS của ASEAN và những
đầy đủ và an toàn. thách thức đặt ra cho Việt Nam cũng như
đ) Bồi thường trong trường hợp có xung các quốc gia ASEAN khác
đột (Compensation in Cases of Strife) quy định ASEAN đang là một khu vực đầu tư hấp
tại Điều12 ACIA, theo đó nước tiếp nhận đầu dẫn nhất thế giới, theo một Báo cáo của Ban
tư vi phạm nghĩa vụ bồi thường cho nhà đầu tư Thư ký ASEAN và Hội nghị Liên hợp quốc về
nước ngoài liên quan đến các khoản đầu tư thương mại và phát triển (UNCTAD) vào năm
được bảo hộ của họ bị thiệt hại trên lãnh thổ 2016, thì tại thời điểm năm 2015, ASEAN thu
của mình do xung đột vũ trang, xung đột dân hút khoảng 16% tổng số vốn đầu tư FDI toàn
sự hoặc tình trạng khẩn cấp. cầu vào các nước đang phát triển với tổng số
e) Vi phạm nghĩa vụ về việc cho phép tự do vốn là 120 tỷ USD. Bên cạnh đó, đầu tư trong
chuyển tiền, thu nhập hợp pháp (Transfers) từ nội khối giữa các quốc gia ASEAN với nhau,
đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định trong những năm gần đây cũng tăng khá
tại Điều 13 ACIA. nhanh, ví dụ: chỉ trong giai đoạn 2015-2016 đã
g) Vi phạm nghĩa vụ về bồi thường và bồi có khoảng 20 dự án tầm cỡ của các công
hoàn (Expropriation and Compensation) trong ty/doanh nghiệp ASEAN đầu tư trực tiếp trong
trường hợp nước tiếp nhận đầu tư trưng thu, nội khối với số vốn tương đối lớn, có dự án lên
quốc hữu hóa khoản đầu tư của nhà đầu tư tới hàng chục tỷ USD (dự án của nhà đầu tư
nước ngoài theo Điều 14 ACIA. Singapore, Thái Lan)2.
Thứ hai, về các phương thức ISDS: trước Cùng với việc thu hút số lượng lớn dòng
hết, việc giải quyết tranh chấp được thông qua vốn đầu tư nước ngoài, thì các quốc gia
tham vấn giữa hai bên với thời hạn 180 ngày kể ASEAN cũng phải đối mặt với nhiều vụ việc
từ ngày bên nhà nước tiếp nhận đầu tư nhận ISDS. Tính đến nay, số lượng các ISDS mà một
được yêu cầu tham vấn. Trong trường hợp bên là quốc gia thành viên ASEAN khá cao.
không giải quyết được bằng tham vấn, thì các Theo thống kế của UNCTAD3, cho đến ngày
bên có thể đưa tranh chấp ra giải quyết tại: (i) 10/05/2017, các quốc gia ASEAN phải đối mặt
Tòa án hoặc cơ quan hành chính có thẩm với 23 vụ việc ISDS tại trọng tài quốc tế và chủ
quyền của nước tiếp nhận đầu tư; (ii) Trung yếu được phát sinh trong khoảng 05 năm trở lại
tâm ICSID và Quy tắc tố tụng của trung tâm đây (Brunei và Singapore không có vụ nào,
này nếu đáp ứng yêu cầu về quy chế thành viên Campuchia 01 vụ, Indonesia 07 vụ, Mianma 01
của ICSDS hoặc Quy tắc phụ trợ của ICSDS vụ, Lào 03 vụ, Malaysia 03 vụ, Philippines 05
dành cho nước ký kết liên quan đến tranh chấp vụ, Việt Nam 06 vụ). Tuy nhiên, trong số các
không phải là thành viên ICSID; (iii) Quy tắc vụ việc này chỉ có 03 vụ do nhà đầu tư có quốc
2
Xem The ASEAN Secretariat and United Nations Conference onTrade and Development (2016), ASEAN
Investment Report 2016 Foreign Direct Investment and MSME Linkages, Jakarta.
3
Xem trên http://investmentpolicyhub.unctad.org/ISDS.

96
Soá 4/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai

tịch của các quốc gia ASEAN khởi kiện (01 vụ về đầu tư trong nội khối diễn ra chậm chạp nên
do nhà đầu tư quốc tịch Singapore kiện nhà ít có các dự án đầu tư nước ngoài từ các quốc
nước Mianma và 02 vụ do nhà đầu tư quốc tịch gia nội khối; hoặc
Singapore kiện nhà nước Indonesia), còn lại là (2) Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ
do các nhà đầu tư có quốc tịch của các quốc gia ASEAN đã làm tốt vai trò thúc đẩy đầu tư
châu Âu, châu Úc, châu Mỹ hoặc Trung Đông trong nội khối và cải thiện môi trường đầu tư
khởi kiện. Đặc biệt, trong 03 vụ việc ISDS do tại mỗi quốc giai ASEAN nên môi trường đầu
nhà đầu tư có quốc tịch các nước ASEAN khởi tư vận hành “trơn tru”, không có tranh chấp
kiện nêu trên, 02 vụ được khởi kiện dựa trên đầu tư quốc tế xảy ra; hoặc
căn cứ vi phạm Hiệp định khuyến khích và bảo (3) Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ
hộ đầu tư ASEAN (IGA), 01 vụ căn cứ khởi ASEAN đã cải thiện tốt môi trường đầu tư nội
kiện là Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu khối nhưng do văn hóa, thói quan không muốn
tư song phương (Hiệp định giữa Singapore và kiện tụng của người châu Á, nhất là Đông Nam
Indonesia năm 2005). Á mà vụ việc về ISDS mà nguyên đơn là công
Đối với Việt Nam, trong những năm vừa dân của các quốc gia ASEAN là rất hãn hữu.
qua, đầu tư từ các quốc gia ASEAN vào Việt (4) Quy mô của các dự án đầu tư quốc tế
Nam tăng nhanh đáng kể4 và ngược lại đầu tư giữa các quốc gia ASEAN còn nhỏ, lẻ nên ít
từ Việt Nam sang các quốc gia ASEAN khác nhà đầu tư nước ngoài đủ tiền lực để theo
cũng có tiến triển, ví dụ: đầu tư của Hoàng Anh nhưng vụ việc ISDS rất tốn kém tại trọng tài
Gia Lai, Vietel, VNPT và một số doanh nghiệp quốc tế.
khác sang các quốc gia ASEAN. Tuy nhiên, Tuy nhiên, với việc các vụ ISDS mà bị đơn là
cho đến nay, cả phía Nhà nước và các cá nhân, quốc gia ASEAN tăng khá nhanh trong những
doanh nghiệp của Việt Nam hầu như vẫn chưa năm gần đây, nhưng nguyên đơn chủ yếu lại
sử dụng đến cơ chế ISDS, nhất là việc ISDS tại không phải do nhà đầu tư của các quốc gia
trọng tài quốc tế theo các hiệp định đầu tư ASEAN khởi kiện như trên đã nêu; trong khi đó,
trong ASEAN. sự tăng trưởng đầu tư nội khối ASEAN trong
Thực tiễn ISDS trên thế giới cho thấy, cơ khoảng hơn một thập niên trở lại đây là khá
chế ISDS tại trọng tài quốc tế thường là lựa nhanh, thì có thể đưa ra kết luận là việc ít sử dụng
chọn ưu tiên của các nhà đầu tư nước ngoài. cơ chế ISDS trong khuôn khổ các hiệp định về
Tuy nhiên, kể từ khi có các hiệp định đầu tư đầu tư khu vực ASEAN là có thể do nguyên
khu vực ASEAN (năm 1987), cơ chế ISDS tại nhân (3) và nguyên nhân (4) đã nêu ở trên.
trọng tài quốc tế theo các hiệp định này rất ít 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
được sử dụng. của cơ chế ISDS trong khuôn khổ ASEAN
Hiện tượng các nhà đầu tư của các quốc gia 3.1. Đối với các quốc gia ASEAN
ASEAN ít sử dụng cơ chế ISDS có thể được lý Xuất phát từ đặc điểm về quy mô đầu tư
giải bởi một trong các lý do sau đây: của các nhà đầu tư ASEAN (trừ một số dự án
(1) Có thể các hiệp định đầu tư trong khuôn của nhà đầu tư Singapore và Thái Lan) thường
khổ ASEAN trong thời gian vừa qua không là nhỏ, chỉ có số vốn đầu tư khoảng dưới 550
phát huy hiệu quả, dẫn đến quá trình tự do hóa triệu USD đến bảy tám chục triệu USD5 nên
4
Theo thông tin của Cục Đầu tư nước ngoài trên http://fia.mpi.gov.vn, thì tính đến cuối tháng 03/2015, chỉ riêng
nguồn vốn FDI từ các quốc gia ASEAN đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 3.219 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký
đạt 61,65 tỷ USD, trong khi đó ở thời điểm tháng 07/2015 mới chỉ có 2.632 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký
54,6 tỷ USD.
5
ASEAN Secretariat and United Nations Conference onTrade and Development (2016), ASEAN Investment Report
2016 Foreign Direct Investment and MSME Linkages, Jakarta, tr 27-33.

97
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

khó có khả năng theo kiện những vụ việc ISDS thành viên ASEAN (Campuchia, Indonesia,
có chi phí lớn. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử Malaysia, Lào, Philippines, Singapore và Thái
dụng cơ chế ISDS trong ACIA và hiệp định Lan). Đa số các hiệp định này được ký trong thập
đầu tư song phương giữa các quốc gia ASEAN, niên 90 của thế kỷ XX và có quy định về cơ chế
điều quan trọng là phải tạo thuận lợi trong việc ISDS tương tự như ACIA.
tiếp cận và giảm thiểu chi phí ISDS. Trên cơ Thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư
sở đó, các giải pháp về vấn đề này được đề xuất nói chung, cam kết về ISDS trong nội khối
như sau: ASEAN nói riêng, các văn bản pháp luật của
Thứ nhất, khuyến khích nhà đầu tư nước Việt Nam liên quan như: Bộ luật tố tụng dân
ngoài dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của sự, Luật đầu tư, Luật trọng tài thương mại và
nước tiếp nhận đầu tư trong ISDS. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn các luật, bộ luật này
để thực hiện được việc này, các quốc gia phải đều quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài tại
cải thiện hệ thống toà án, trọng tài trong nước Việt Nam có thể khởi kiện nhà nước Việt Nam
theo hướng hoạt động chuyên nghiệp, hiệu liên quan đến các vi phạm nghĩa vụ về bảo hộ
quả, khách quan, minh bạch và hiện đại. đầu tư tại các thiết chế giải quyết tranh chấp
Thứ hai, trong trường hợp các bên tranh trong nước và trọng tài quốc tế.
chấp chọn ISDS tại trọng tài quốc tế, thì việc Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả sử dụng
sử dụng trọng tài của khu vực ASEAN sẽ giảm cơ chế ISDS trong khuôn khổ ASEAN, Việt
đáng kể các chi phí giải quyết tranh chấp do lợi Nam cần thực hiện những giải pháp sau đây:
thế về khoảng cánh, văn hóa, ngôn ngữ... Tuy - Tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến
nhiên, điều này cũng đòi hỏi ASEAN và các ISDS và nâng cao năng lực giải quyết tranh
nước thành viên phải có biện pháp hỗ trợ hiệu chấp đầu tư quốc tế của hệ thống tòa án, trọng
quả việc nâng cao năng lực của các thiết chế tài Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, minh
trọng tài trong khu vực ASEAN, nhất là các bạch và hiện đại;
thiết chế có chức năng hòa giải tranh chấp đầu - Nâng cao năng lực tham gia ISDS của các
tư quốc tế. cơ quan nhà nước Việt nam, cùng với đó dần
Thứ ba, tiến tới, rà soát bổ sung các mô hình thành đội ngũ chuyên gia cả ở khu vực
hình về cơ chế ISDS mới thuận lợi và hiệu nhà nước và ngoài nhà nước (luật sư, trọng tài
quả hơn cho các bên tranh chấp đang được đề viên) về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư
xuất tại các điều ước quốc tế có quy định về nước ngoài và nhà nước;
đầu tư thế hệ mới, ví dụ: cơ chế ISDS theo - Đối với các doanh nghiệp Việt Nam có đầu
Hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại toàn tư tại các quốc gia ASEAN cũng cần được nâng
diện giữa Canada và EU, Hiệp định thương cao nhận thức, hiểu biết về ISDS để có thể bảo
mại tự do Việt Nam – EU. Bên cạnh đó, cũng vệ lợi ích hợp pháp của mình tại nước ngoài.
cần nghiên cứu, tiếp thu các ý tưởng mới liên Cùng với quá trình thực hiện Cộng đồng
quan tới phương thức ISDS như việc công ASEAN, dòng đầu tư lưu chuyển giữa các
nhận các thỏa thuận hòa giải tranh chấp quốc gia ASEAN ngày càng thuận lợi và phát
thương mại, đầu tư quốc tế mà Ủy ban Liên triển, nhằm tận dụng lợi thế của từng nước
hợp quốc về luật thương mại quốc tế hiện nay thành viên. Do đó, hoàn thiện cơ chế ISDS
đang thảo luận. trong khuôn khổ nội khối ASEAN cũng là một
3.2. Đối với Việt Nam biện pháp thúc đẩy nhanh, mạnh hơn dòng lưu
Đối với Việt Nam, bên cạnh việc là thành chuyển này. Đây là một trong những thách thức
viên của ACIA, thì Việt Nam cũng có các hiệp mà các quốc gia ASEAN cần phải tính tới
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song trong quá trình thực hiện Cộng đồng ASEAN
phương đang có hiệu lực với 07/10 quốc gia những năm tới đây./.

98

You might also like