Professional Documents
Culture Documents
SANG THU:
I.MỞ BÀI:
1.Tác giả: Hữu Thịnh: + là nhà thơ quân đội
+ thường tập trung về vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con
người
2.Tác phẩm: HCST: được ra đời vào năm 1977, sau 2 năm đất nước được thống nhất từ
chiến hào đến thành phố.
3.Vị trí đoạn trích: bài thơ khiến cho nhà thơ ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển
giao mùa từ mùa hạ sang thu, cả bài thơ là một bức tranh thu tươi đẹp.
Hữu Thịnh là một nhà thơ quân đội, ông thường tập trung vào chủ đề vẻ đẹp thiên nhiên,
đất nước và con người. Năm 1977, sau 2 năm đất nước thống nhất từ chiến hào đến thành
phố ông đã sáng tác bài thơ " Sang Thu". Bài thơ đã khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng
trước cảnh đất trời đang chuyển giao mùa từ mùa hạ sang thu, cả bài thơ là một bức tranh
thu tươi đẹp.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: NDC: bài thơ được sáng tác theo thể ngụ ngôn, là những cảm nhận của nhà thơ
về những biến chuyển mùa thu trong thời khắc giao mùa cuối hạ - đầu thu, qua đó thể
hiện những chiêm nghiệm, bài học sâu sắc của nhà thơ.
2.Phân tích:
a) LĐ1: Những tín hiệu mơ hồ cuối hạ - đầu thu:
Vẻ đẹp thiên nhiên được tái hiện lại trong sự biến đổi kì diệu của đất trời trước mùa thu
về. Tính từ "bỗng" đã thể hiện sự bất ngờ của tác giả dành cho người đọc. Ông diễn đạt
nhẹ nhàng qua hình ảnh thiên nhiên được đón nhận bằng nhiều giác quan khứu giác
"hương ổi", xúc giác "gió se", thị giác "chùng chình", cảm giác "hình như". Từ láy nhân
hóa "sương chùng chình" đã cho biết dấu hiệu mùa thu nhẹ nhàng thể hiện trái tim nhạy
cảm của nhà thơ, tình yêu thiên nhiên của tác giả.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
b) LĐ2: Dấu hiệu mùa thu đã rõ nét:
Phép liệt kê "sông", "chim", "đám mây" và các từ láy nhân hóa và đối lập "dềnh dàng" và
"vội vả" đã thể hiện một bức tranh mùa thu mang sắc thái sinh động, hữu tình. Đám mây
mềm mại "vắt nửa mình sang thu" thể hiện như một chiếc cầu nối nhịp của thời gian.
Những hình ảnh ấy ẩn chứa bao suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lí về con người vào
cuộc đời của tác giả lúc thua xa hoặc làm nên đặc điểm của cái tôi trữ tình sâu sắc trong
bài thơ.
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
c) Suy ngẫm, trài nhiệm của nhà thơ:
Thu về mang lại những cảm giác mới mẻ cho con người một chút bối rối ngỡ ngàng. Khi
con người từng trải họ sẽ vững vàng hơn trước những hành động bất thường của ngoại
cảnh và của cuộc đời. "Sấm" cũng bất ngờ mang ý nghĩa ẩn dụ của hình ảnh thật sâu sắc
và tinh tế.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hang cây đứng tuổi”
3. Hợp: nghệ thuật: Bằng cách dùng tính từ chỉ con người để nói về cảnh vật, nhà thơ
Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa một cách tài tình khiến cảnh vật trở
nên sống động và có hồn hơn, gợi mở cảm xúc cho con người đến đó.
III.KẾT BÀI:
Hữu Thỉnh đã xuất sắc tái hiện bức tranh đẹp đẽ nhiều hương sắc, nhiều phong vị rất đặc
trưng của đất Bắc. Cùng với đó là thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ mộc mạc
giản dị mà cũng vô cùng sâu sắc đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Y Phương là một nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến. Thơ ông với lối tư
duy của người dân tộc nên mạnh mẽ, giàu hình ảnh. Trong năm 1980, nhà thơ đã đón
nhận con gái đầu lòng và cho ra đời tác phẩm “Nói với con”, thời gian này đất nước cũng
đang rất khó khăn. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai của bài thơ, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ
niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp
của quê hương.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: NDC: là tiếng lòng của người cha nói với con, cũng như là lời nhắc nhở của
mình, mong con sống sao cho xứng đáng với truyền thống dân tộc.
2. Phân tích:
a) Hai nguồn sinh dưỡng nuôi con khôn lớn:
Tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là sâu sắc và vô hạn. Hai từ “chân” và
“bước” được tác giả thể hiện qua một người con đang chập chững tập đi, từng bước từng
“tiếng nói”, “tiếng cười” của con đều được cha mẹ nâng niu, dìu dắt. Con biết đi, biết nói
là sự kiện lớn trong cuộc sống gia đình, cả nhà luôn rộn rã tiếng nói cười.
b) Lời dặn dò ân cần của người cha dành cho người con:
Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh “người đồng mình”, cách xưng hô quen thuộc,
trìu mến của người vùng cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi. Đặc biệt là động từ
“thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm” để thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần
đối với những những khó khăn, vất vả. “Cao” và “xa” trong không gian đất trời đều là
những khoảng không hữu hạn không điểm dừng, gợi liên tưởng đến những dãy núi cao.
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Những hình ảnh của núi rừng quê hương được ông nhắc lại theo phép liệt kê “đá gập
ghềnh”, “thung nghèo đói” thể hiện cho một cuộc sống đầy vất vả và gian nan. Không chỉ
thế, nhà thơ còn kết hợp với các điệp ngữ “sống…không chê…”, dường như đã thể hiện
được ý chí và quyết tâm vượt qua thách thức, khó khăn và gợi lại một cuộc sống đầy khó
khăn và vất vả . Biện pháp so sánh "Sống như sông như suối" đã miêu tả lại một cách
sống lạc quan, mạnh mẽ như thiên nhiên.
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”
Cách gọi thân thương "Người đồng mình" ẩn chứa niềm tự hào về những con người giản
dị, thật thà, đồng thời là lời ngợi ca ý chí không bao giờ "nhỏ bé" của họ. Phẩm chất của
con người quê hương được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình
thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong họ. Và câu thơ “Còn quê hương thì làm
phong tục" dường như càng nhấn mạnh thêm ý nghĩa và giá trị của những phong tục tập
quán, truyền thống văn hóa của quê hương.
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục".
Tác giả sử dụng từ “tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” một lần nữa được lặp
lại nhằm khẳng định và khắc sâu hơn những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”,
vì thế hành trang của người con mang theo khi “lên đường”. Để kết thúc bài thơ, tác giả
đã sử dụng hai từ “Nghe con” ẩn chứa bao nỗi niềm và lắng đọng.
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
3.Hợp: Qua đó, nhà thơ Y Phương đã thành công một cách rực rỡ với thể thơ tự do kết
hợp cùng với lối tư duy khoáng đạt của người miền núi. Đặc biệt hơn là giọng điệu thơ
luôn linh hoạt, thiết tha, trìu mến.
III. KẾT BÀI:
Tác phẩm “Nói với con” đã khẳng định được một thứ tình cảm rất thiêng liêng, làm cho
ta biết yêu gia đình, yêu quê hương và sống hết mình với tình cảm ấy, điều lớn lao nhất
của người cha dành cho người con.
I.MỞ BÀI:
+ có mặt sớm nhất trong phong trào thơ ca giải phóng miền Nam
+ với phong cách nhẹ nhàng, giàu chất thơ ngay cả khi cuộc
chiếc ác liệt.
2.Tác phẩm: HCST: được ra đời vào tháng 4/1976, sau khi cuộc chiến tranh kháng chiến
chống Mĩ kết thúc thắng lợi.
3.Vị trí đoạn thơ: ông đã ca ngợi lên trọn tình cảm của nhà thơ dành cho Bác. Tình yêu
chân thành, cảm xúc tự nhiên được thể hiện ở nhà thơ và các nhân dân Việt Nam.
Viễn Phương là nhà thơ quân đội trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông cũng là một
trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam
thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Bài thơ "Viếng Lăng Bác" được ông sáng tác vào năm 1976
sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất. Ông đã ca
ngợi lên trọn tình cảm của nhà thơ dành cho Bác. Tình yêu chân thành, cảm xúc tự nhiên
được thể hiện ở nhà thơ và các nhân dân Việt Nam.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: Bài thơ là lời thông báo về việc nhân vật trữ tình hay chính là tác giả ra Hà Nội,
đến với lăng Bác để bày tỏ lòng mình, mà trong đó còn là tình cảm sâu nặng, là tấm lòng
hướng về vị Cha già dân tộc của tác giả nói riêng, của những người dân miền Nam nói
chung, bài thơ chan chứa tình cảm biết ơn, trân trọng, kính cẩn của người dân miền Nam
với vị lãnh tụ của dân tộc.
2. Phân tích:
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi đất nước còn chia cắt, câu thơ của ông mang theo niềm xúc
động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng
Bác. Cách xưng hô “con” và “Bác” cách xưng hô gần gũi, thân thương, trân trọng, thành
kính như một đứa con đã lâu nay được trở về thăm cha. Tác giả đã dùng từ “thăm” thay
cho từ “viếng” như dấu đi một nỗi đau đang chất chứa trong lòng mình.
Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Từ hàng tre cụ
thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ
kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa được hiểu theo
nghĩa ẩn dụ.
Hình ảnh "mặt trời đi qua trên lăng" được tác giả thể hiện rất tự nhiên, là nguồn sáng rực
rỡ, rọi sáng sự sống cho thế gian. Mặt trời trên cao được nhân hóa hàng ngày đi qua lăng
nhìn nhận mặt trời "rất đỏ". Hình ảnh ẩn dụ "mặt trời trong lăng" cho thấy vẻ đẹp rực rỡ
của Bác, một mặt trời mang vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách đã soi sáng đem lại tự do và hạnh
phúc cho nhân loại.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ".
Tác giả liên tưởng tạo ra phép so sánh thực tế "dòng người đi" như "kết tràng hoa" thành
vòng mang một giá trị biểu tượng cho sự nở hoa của cuộc đời và tâm hồn dưới ánh mặt
trời của Bác. Hình ảnh "bảy mươi chín mùa xuân" là hình ảnh hoán dụ để khẳng định lại
một lần nữa vẻ đẹp của cuộc đời và sự đóng góp to lớn của Bác trong việc làm nên mùa
xuân tươi đẹp của tổ quốc.
" Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".
c) Cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng:
Vào trong lăng khung cảnh và không khí như đóng băng. Hình ảnh "Bác nằm trong giấc
ngủ bình yên" gợi lên một cảm giác Bác đang nhẹ nhàng nghỉ ngơi giữa một không gian
tĩnh lặng bình yên và trang nghiêm dưới một ánh sáng ấm áp. Ông đã gợi lên ánh sáng
dịu hiền.
" Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền".
Hình ảnh ẩn dụ "trời xanh là mãi mãi" như là một niềm tin và tự hào vào sự hóa thân của
Bác. Thế nhưng "trái tim" vẫn thắt lại, nhói lên một nỗi đau và nỗi mất mát của muôn
loài.
" Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim".
d) Cảm xúc của nhà thơ khi chia tay với Bác:
“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân
thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Điệp ngữ “muốn làm” đã bày tỏ được niềm mong ước,
tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào niềm mong ước thiết tha muốn hoá thân vào cảnh
vật bên lăng Bác “muốn làm con chim hót”, “muốn làm bông hoa toả hương,” và hơn hết,
“muốn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác. Cây tre là
biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác
giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý
tưởng mà Người đã chỉ lối.
3.Hợp: nghệ thuật: Tác phẩm "Viếng Lăng Bác" đã thực sự thành công với thể thơ tự do.
Với thể thơ này tác giả đã bày tỏ được cảm xúc của mình một cách trọn vẹn và chân
thành nhất. Giọng thơ chân thật, chân tình đậm chất Nam Bộ. Ngôn ngữ thơ sâu sắc, bình
dị, tình cảm chân thật khiến người đọc xúc động tình cảm của nhà thơ cũng như toàn thể
nhân dân đối với Bác.
III.KẾT BÀI:
Bác là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già đáng kính của dân tộc Việt Nam. Toàn bài thơ là một
lời tâm sự tha thiết là nỗi lòng thầm kín và thiết tha của một người con miền Nam đối với
Bác.
4.Đoàn thuyền đánh cá [ khổ 1+2 ]:
I. MỞ BÀI:
2.Tác phẩm: HCST: được ra đời vào năm 1958 sau chuyến đi thực tế dài ngày ở Quảng
Ninh hòa trong không khí, hào hứng, tin tưởng khi miền Bắc được giải phóng và đi vào
xây dựng cuộc sống mới.
3. Vị trí đoạn thơ: được viết khi miền Bắc ra sức xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
cuộc sống mới, có thể thấy cảm hứng sáng tác của nhà thơ đã dành trọn vẹn cho biết bao
người lao động hăng say, lặng lẽ cống hiến cho đất nước.
Huy cận là nhà thơ quân đội, nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Năm 1958 sao chuyến
đi thực tế dài ngày ở Quảng Ninh ông đã cho ra đời tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”.
Tác phẩm được viết khi miền Bắc ra sức xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống
mới, có thể thấy cảm hứng sáng tác của nhà thơ đã dành trọn vẹn cho biết bao người lao
động hăng say, lặng lẽ cống hiến cho đất nước.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp con người lao động hăng say để xây dựng quê hương
đất nước, đồng thời cũng ca ngợi vẻ đẹp của những cư dân đang lao động làm giàu cho
quê hương, đất nước những con người lao động mới, sự hài hoà giữa thiên nhiên và con
người lao động. Đó là tình yêu, niềm tự hào của tác giả trước đất nước và cuộc sống mới.
2.Phân tích:
Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển và hình ảnh đoàn thuyền ra khơi. Tác giả đã
sử dụng nghệ thuật so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” và hình ảmh nhân hóa
“sống đã cài then”, “đêm sập cửa” để tạo nên sự liên tưởng độc đáo. Cảnh biển vào đêm
rộng lớn, gần gũi và ấm áp.
Từ “lại” trong câu thơ thể hiện sự lặp lại của một công việc thường xuyên đầy hào hứng.
Những câu hát của cư dân khi căng buồm là tiếng hát chan chứa niềm vui, hào hứng của
người dân lao động được làm chủ thiên nhiên được cái nước làm chủ công việc và gắn bó
với cuộc sống.
Giữa cảnh mênh mông sông nước cùng với đêm, họ nhìn thấy được cái đẹp của biển cả
vào ban đêm. Cái đẹp ấy đến từ những mẻ đầy tôm cá. Mỗi ngày cất vó ra khơi là chỉ
mong được biển hào phóng ban tặng cho cá, cho tôm. Lời hát vừa như để thể hiện tinh
thần yêu đời của mình, vừa như để cảm ơn sự giàu có của biển. Câu thơ cất lên khiến
người đọc cũng cảm thấy rộn rã.
Câu thơ “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát
của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể
hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước
ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.
“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
3.Hợp: nghệ thuật: đoạn thơ với các sử dụng thể thơ bảy chữ, có âm hưởng khỏe khoắn
lạc quan, cách sử dụng các biện pháp tu từ so sánh nhân hóa đã cho thấy người đọc cảm
nhận được vẻ đẹp của bức tranh khi ra khơi và lúc trở về bến của đoàn thuyền đánh cá.
III.KẾT BÀI:
Bài thơ thể hiện niềm lạc quan, vui tươi của người lao động và hồn thơ phơi phới, tình
yêu cuộc sống của tác giả trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với Âm điệu
như khúc hát mê say, phóng khoáng ngợi ca cuộc sống, tinh thần lao động của những
người con của biển
5.Làng:
I.MỞ BÀI:
1.Tác giả:Kim Lân: + nhà thơ có sở trường về truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt
Nam
+ thường xoay quanh về nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền
thống của người nông dân bắc bộ
2.Tác phẩm: HCST:được sáng tác vào năm 1948 trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp
3. Nội dung văn bản: tác phẩm đã khai thác một tình cảm bao trùm của con người trong
thời kì chiến tranh, đó là tình cảm quê hương đất nước một tình cảm mang tính cộng
đồng nên thành công của ông là đã diễn giải được tình cảm của một con người trở thành
một nét tâm lý sâu sắc của nhân vật ông Hai.
Kim Lân là nhà thơ có sở trường về truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam, ông
thường xoay quanh về nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền thống của người nông
dân Bắc Bộ. Tác phẩm đã khai thác một tình cảm bao trùm của con người trong thời kì
chiến tranh, đó là tình cảm quê hương đất nước một tình cảm mang tính cộng đồng nên
thành công của ông là đã diễn giải được tình cảm của một con người trở thành một nét
tâm lý sâu sắc của nhân vật ông Hai.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: Tình huống truyện: nhân vật ông Hai hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, với
tình yêu làng mộc mạc, giản dị mà sâu nặng hòa quyện với tình yêu đất nước, vẻ đẹp tâm
hồn của ông Hai, làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam có ý thức
giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương – Tổ quốc đối
với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm!
2. Phân tích:
a) Trước khi nghe tin làng chợ dầu theo giặc:
Gần cả cuộc đời ông gắn bó với làng chợ Dầu, thế rồi vì chiến tranh ông phải đi tản cư.
Ông nhớ làng chợ Dầu da diết: “Chao ôi! ông lão nhớ làng, ông lão nhớ cái làng quá”.
Ông muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến. Nỗi nhớ làng đã khiến ông thay đổi tâm
tính: “Lúc nào cũng thấy bực bội, ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một tí
là gắt, hơi một tí là chửi. Khi được nói chuyện về làng ông vui náo nức đến lạ thường:
“Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Hàng ngày ông luôn nghe
ngóng tin tức về làng, về kháng chiến, quan tâm đến tình hình chính trị thế giới. Đến các
tin thắng lợi của quân ta: “ruột gan ông cứ múa cả lên”, ở phòng thông tin ông nghe được
nhiều tin hay, những tin chiến thắng của quân ta, ông vui mừng phấn chấn trước thắng lợi
của quân ta, hả hê trước thất bại của quân địch.
b) Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
Ông Hai ngồi bên quán nước ven đường, nghe những người tản cư nói chuyện với nhau:
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Nghe xong cổ ông lão nghẹn ắng lăn lại, da mặt
tê rân rân. ừ anh minh lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới
rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất lên tiếng hỏi, giọng lạc thẳng đi”. Lời nói ấy
như nhát dao cắt từng khúc ruột. Nghe tin làng chợ Dầu theo Tây mà tưởng như ông vừa
nghe tin người thân tử trận. Thật đau đớn, xót xa khi mà cả cuộc đời ông dành hết tình
yêu thương trọn vẹn cho làng quê, giờ bị tổn thương sâu sắc. Khi về đến nhà, ông nằm
vật ra giường, tủi than khi nhìn thấy đàn con “nước mắt ông lão giàn ra” và hỏi “chúng
nó cũng là trẻ con làm Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy
đau khổ. Tâm trạng nửa tin nửa ngờ khiến ông day dứt, khổ sở, vừa buồn, vừa nhục nhã,
thất vọng, lo sợ. Khi trò chuyện cùng con ông hỏi những câu hỏi “ con là con ai?”, “nhà
con ở đâu?”, “con ủng hộ ai?” cho thấy tình yêu sâu nặng của ông dành cho làng quê, tấm
lòng chung thủy, gắn bó với kháng chiến, cách mạng với bác Hồ. Lời thề bền vững và
thiêng liêng.
c) Khi nghe tin làng chợ Dầu được cải chính:
Khi nghe tin làng được cải chính gương mặt ông tươi vui, rạng rỡ, miệng bỏm bẻm nhai
trầu, cặp mắt hy hy đỏ hấp háy. Khi ông về nhà, ông mua quà và chia ra cho các con, lật
đật đi báo tin cho mọi người biết và kể chuyện lại một cách tỉ mỉ và say sưa. Lời nói của
ông “bô bô” đi khoe với mọi người Tây đốt nhà mình “đốt nhẵn” nhà mình. Ông sung
sướng, hả hê như được tái sinh trở lại, tình yêu quê hương, đất nước được đặt lên lợi ích
của gia đình và bản thân được cống hiến cho quê hương đất nước là một niềm vui niềm
hạnh phúc của người dân Việt Nam.
3.Hợp: nghệ thuật: cách xây dựng tình huống gay gắn miêu tả tâm lý nhân vật chân thật
sinh động qua suy nghĩ, hành động, lời nói, ngôn ngữ nhân vật giàu tình khẩu ngữ thể
hiện rõ cá tính, cách trần thuật linh hoạt và tự nhiên.
III.KẾT BÀI:
chuyện thể hiện chân thật và cảm động một tình cảm bền chặt và sâu sắc là tình yêu làng
quê thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến qua nhân vật ông Hai. Qua
đó, Kim Lân đã khẳng định lòng yêu nước của nhân dân trong thời kỳ chống Pháp
6.Bếp lửa:
I.MỞ BÀI:
1.Tác giả: Bằng Việt: + là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ
+giọng thơ trong trẻo, thiết tha, phù hợp với đề tài kỷ niệm, mơ ước
của tuổi trẻ
2. Tác phẩm: HCST: được ra đời vào năm 1963 khi tác giả đang là sinh viên trường luật
ở nước ngoài.
3. Vị trí văn bản: nhà thơ đã thể hiện lòng thương nhớ và kính trọng, biết ơn với người
bà, đồng thời nhớ về gia đình nhớ về quê hương, đất nước
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, bài thơ của ông thường
có giọng thơ trong trẻo, thiết tha phù hợp với đề tài kỉ niệm, mơ ước. Năm 1963, khi ông
đang còn lại sinh viên trường luật của nước ngoài. Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa”.
Nhà thơ đã thể hiện lòng thương nhớ và kính trọng, biết ơn với người bà, đồng thời nhớ
về gia đình nhớ về quê hương, đất nước.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: Bài thơ “Bếp lửa” đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà cũng như
tình bà cháu. Đồng thời tác giả còn thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người
cháu đối với bà hay cũng chính là đối với quê hương, gia đình, đất nước.
2.Phân tích:
a) Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc kỉ niệm về bà:
Ngay từ câu mở đầu tác giả đã có sự liên tưởng vô cùng chính xác đó là sự liên tưởng
khói bếp với sương sớm. Khói bếp “chờn vờn” và lan tỏa khắp mọi nơi giống như sương
mù buổi sớm vậy. Nó khiến cho cảnh vật trở nên mờ ảo và không rõ ràng. Thế nhưng nó
lại chứa biết bao nhiêu nồng đượm của tình người. Bếp lửa ôm vào lòng mình những tình
cảm đậm sâu cũng giống như tình thương mà người cháu dành cho người bà của mình.
Người bà đã không quản ngại nắng mưa để nuôi cháu nên người.
Quanh năm vất vả, lật đật nhiều nắng mưa, bà vẫn là người nhóm lửa. Bà cũng là người
truyền những ngọn lửa của cuộc sống niềm tin cho thế hệ sau. Từ “kỳ lạ” và “thiêng
liêng” đã cho ta thấy được không có gì dập tắt được bếp lửa. Bếp lửa là tổ ấm, là cội
nguồn, là gia đình, là quê hương, đất nước”
3. Hợp: thành công lớn nhất của tác phẩm là xây dựng được tình huống truyện, chọn ngôi
kể thứ III khiến cho cuộc trò chuyện trở nên khách quan các nhân vật trong truyện được
không có tên làm nhiều nghề tuổi đời khác nhau đều là những người thầm lặng vô danh
thầm lặng hi sinh cho Tổ quốc.
III.KẾT BÀI:
“Lặng lẽ Sa Pa” là câu chuyện về cuộc gặp gở với những con người trong chuyến đi thực
tế của nhân vật ông họa sĩ. Qua đó, tác giả đã thể hiện niềm yêu thương đối với những
người có lẽ sống cao đẹp đang lặng lẽ quên mình cống hiến cho Tổ quốc.
8. NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI:
I.MỞ BÀI:
1. Tác giả: Lê Minh Khuê: + là nhà văn nữ, chuyên viết về truyện ngắn
+ từng là nữ xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
2. Tác phẩm: HCST: ra đời vào năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt-
tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê.
3. Nhân vật bài thơ: Trong tác phẩm, đáng chú ý nhất là cô gái Phương Định, cô gái
người Hà Nội.
Lê Minh Khuê là nhà văn nữ chuyên viết về chuyện ngắn, bà từng là nữ xung phong trên
tuyến đường Trường Sơn. Bà tập trung vào đề tài tuổi trẻ Việt Nam trong những kháng
chiến, giọng văn trẻ trung và nữ tính. Năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra
ác liệt bà đã cho ra tác phẩm đầu tay “Những ngôi sao xa xôi”. Trong tác phẩm, đáng chú
ý nhất là cô gái Phương Định, cô gái người Hà Nội.
II. THÂN BÀI:
1.Tổng: Tác phẩm đã gợi cho chúng ta vẻ đẹp của hình ảnh người lính, những con người
hi sinh thầm lặng để làm nên những chiến công vang cho Tổ quốc.
2. Phân tích:
a) Ngoại hình:
Phương Định chính xác là một cô gái mang hình ảnh những bông hoa hồng trên chiến
trường khốc liệt của thủ đô Việt Nam, là một cô con gái đất thủ đô. Cô mang một mái tóc
dày mềm mại, thắt thành hai bím tóc, chiếc cổ cao kiêu hãnh như hoa loa kèn, đôi mắt
nhìn xa xăm gợi cho các anh chàng lái xe một vẻ đẹp hồn nhiên nhưng lại mang một sâc
trưởng thành.
b) Dũng cảm, gan dạ và không sợ chết:
Phương Định là một cô gái dũng cảm, gan dạ và không sợ chết. Đây là nét nổi bật của cô
được thể hiện qua hoàn cảnh sống và chiến đấu nơi khói lửa khốc liệt. Công việc trinh
sát, phá bom, thường trực cận kề cái chết nhưng cô đã giữ vững tinh thần dũng cảm, gan
dạ. Đó là biểu hiện chân thành của ý thức và trách nhiệm cao.
c) Lạc quan, yêu đời:
Tâm hồn lạc quan và yêu đời của Phương Định đã được tác giả miêu tả qua một số hình
ảnh rất ấn tượng. Cô rất mê hát, thích nhiều bài, điều thú vị là cô còn bịa ra những câu hát
trên một nền nhạc.Trong hoàn cảnh chiến tranh đầy ác liệt, cô vẫn lạc quan nghĩ về cuộc
sống tương lai với những khát khao của tuổi trẻ rất đáng được trân trọng.
d) Tinh thần đồng chí, đồng đội:
Phương Định là một cô gái có tinh thần đồng đội, trái tim giàu tình cảm, chân thành của
cô thể hiện qua các mối quan hệ. Đối với đồng đội cô luôn dành nhiều sự yêu mếm,
thương quý và cảm phục. Khi Nho bị thương cô luôn lo lắng và chăm sóc cho cô gái nhỏ
tuổi trong đội. Đặc biệt, cô quý mếm và rất cảm phục những người chiến sĩ hằng đêm cô
gặp ở tuyến đường.
3. Hợp: Tác giả đã lựa chọn ngôi kể thứ nhất làm cho câu chuyện trở nên chân thật hơn.
Tâm lí nhân vật Phương định miêu tả có chiều sâu, tinh tế thể hiện sự am hiểu của tác giả
đối với con người chiến tranh.
III.KẾT BÀI:
Tác phẩm đã ca ngợi thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ là những người
dũng cảm, gan dạ, lạc quan, yêu đời, tinh thần đồng chí, đồng đội.
9. ĐỒNG CHÍ:
I. MỞ BÀI:
1.Tác giả: Chính Hữu: + là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến
+ thường viết về người lính và chiến tranh
+ thơ ông dồn nén cảm xúc ngôn ngủ và hình ảnh chọn lọc
2. Tác phẩm: HCST: ra đời vào năm 1948 thì ông mới bước ra khỏi cửa tự
3. Vị trí đoạn trích: đã ca ngợi được những suy nghĩ sâu sắc của ông về người lính trong
2 thời kỳ chống Pháp với Mỹ.
Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến, thường tập trung viết về
người lính và chiến tranh. Thơ ông dồn nén cảm xúc ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc.
Năm 1948 khi ông mới bước ra khỏi cửa tử ông đã sáng tác bài thơ “ Đồng chí ”. Đặc
biệt ừ chồng bài thơ đã ca ngợi được những suy nghĩ sâu sắc của ông về người lính trong
hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ.
II. THÂN BÀI:
1.Tổng: bài thôi đã ca ngợi tình đồng chí đồng đội trong thời kỳ gào của cuộc kháng
chiến chống Pháp gian nan, thiếu tốn của dân tộc ta.
2. Phân tích:
a) Cở sở của tình đồng chí:
Tình đồng chí bắt đầu từ những con người cùng chung cảnh ngộ, cùng chung lý tưởng
chiến đấu, xuất thân từ nông dân là đứa con của những vùng quê nghèo khó, những vùng
quê khác nhau “nước mặn”, “đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Cuộc chiến tranh đã ngẫu
nhiên biến những người “xa lạ” thành đồng ngũ, xóa bỏ mọi khoảng cách.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,”
Tình đồng chí được vun đắp từ những tâm sự, chia sẻ, từ những chuyện làng, nhà, nước
trong những ngày tháng “súng bên súng”, “đầu sát bên đầu”, “đêm rét chung chăn” nên
tình cảm cứ mới đượm nồng, thấm dần lên từ “xa lạ”-> “quen nhau” ->“tri kỷ”. Hai tiếng
“ Đồng chí” được cô đồng giữa bài thơ lắng động và thấm thía bao ân tình.
“ Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
b) Biểu hiện của tình đồng chí:
Tình đồng chí là sự thông cảm sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm cho nhau. Người lính đi
chiến đấu để lại những tài sản quý giá "ruộng nương", "gian nhà", "giếng nước gốc đa"
nhưng hai từ "mặc kệ"cho thế sự dứt khoát ra đi vì người lớn. Hình ảnh tả thực căn bệnh
sốt rét "ớn lạnh", "sốt run người" hành hạ để cho thấy sự gắn bó, sẽ chia trong gian lao,
thiếu thốn trong chiến trường, nó trở thành thứ tình thương thấm thía và cảm động bền
vững theo năm tháng.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân anh cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vùng trán ướt mồ hôi”
Đoạn thơ thể hiện tình đoàn kết chân thật và cảm động. Đó là thứ tình cảm cao quý được
vun đắp từ sự đồng cảm, sẽ chia, thấm thía, nỗi vất vả, nhọc nhằn của thời kháng chiến
"áo rách vai", "quần vài mảnh vá", "chân không giày", "buốt giá", đây là những hoàn
cảnh ngặt nghèo, thiếu thốn khiến họ xích lại gần nhau để nương tựa, chở che và hy sinh
cho nhau. Đặc biệt tình cảm ấy lắng tụ trong câu thơ "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
đã cho thấy được điểm tựa khiến con người trở nên mạnh mẽ để sống lạc quan nhắn bó
đoàn kết và sẵn sàng tinh thần để đối mặt với khó khăn khốc liệt của chiến trường.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau ta nắm lấy bàn tay”
c) Biểu tượng đẹp của tình đồng chí:
Đoạn thơ mang vẻ đẹp bay bổng lãng mạn trong tâm hồn người lính. Bức tranh núi rừng
ở Việt Bắc với thời gian "đêm" không gian "rừng hoang" và thời tiết "sương muối" cho
cái sự khắc nghiệt và đầy nguy hiểm. hình ảnh "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" là hình
ảnh cụ thể của những người lính sát cánh cùng nhau trong chiến trường để sưởi ấm, giúp
họ vượt lên tất cả. "Súng" biểu tượng cho chiến tranh, "trăng" biểu tượng cho vẻ đẹp yên
bình mơ mộng và lãng mạn.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
3. Hợp: Bài thơ thành công về nghệ thuật bởi thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình
ảnh được sử dụng mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức
biểu cảm.
Ở đây, gió đã được nhân hóa để thực hiện hành động “xoa”. Câu thơ đọc lên mang lại sự
ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Người lính lái xe nhìn thấy “gió”, “con đường” bởi vì
xe không có kính. Rồi giữa bầu trời đêm, người lái xe cũng nhìn thấy rõ sao trời. Những
từ “sa”, “ùa” khiến ta thấy nhịp thơ trở nên gấp gáp giống như chiếc xe đang lăn bánh
một cách vội vàng trên con đường.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Biết bao nỗi cực nhọc mà những người lính ấy phải gánh chịu. Từ “ừ” tác giả vang lên
một cách đầy thách thức, thách thức khó khăn mà mình đang gánh chịu. Câu thơ “Bụi
phun tóc trắng như người già” với những từ ngữ gợi tả đủ để ta tưởng tượng ra cảnh
tượng ấy đáng thương như thế nào.
Nhắc đến Nguyễn Dữ không thể không nhắc đến tác phẩm “ Chuyền người con gái Nam
Xương”, là truyện thứ 16 trong số 20 truyện trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông
"truyện kì mạn lục". Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân trong kho tàng cổ tích
Việt Nam. Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao phẩm
chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
III.KẾT BÀI:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương “Chuyện người con
gái Nam Xương” đã thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ
nữ Việt Nam dưới thời phong kiến đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác
phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng chuyện, miêu tả nhân vật, kết
hợp tự sự và trữ tình.
I.MỞ BÀI:
1.Tác giả: Nguyễn Du: + là người có kiến thức sâu rộng am hiểu văn hóa và văn chương
Trung Quốc
+ cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho ông một vốn
sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Là một
thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
+ ông gồm những tác phẩm có giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm.
Sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Đoạn trường tân thanh” được gọi là “truyện Kiều”.
2.Tác phẩm: nằm cho phần hai gia biến và lưu lạc từ câu 1033 – 1054. - Sau khi biết
mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi nàng bình
phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để
tiếp tục nghĩ ra kế sách mới.
3.Vị trí đoạn thơ: Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã miêu tả thành công nội tâm nhân
vật Thúy Kiều cho thấy nỗi cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.
Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống thơ văn cuộc đời trải
qua nhiều thăng trầm gắn với biến động dữ dội nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Những yếu tố này để làm nên một đại thi hào của dân tộc với tấm lòng yêu thương tha
thiết và cảm thông sâu sắc với số phận của con người. Bài thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
ở vị trí từ câu 1033 đến 1054, thuộc phần gia biến và lưu lạc. Đoạn trích đã thể hiện bối
cảnh Tú Bà đưa Kiều ra giam lỏng ở cầu Ngưng Bích, chờ đợi thực hiện âm mưu đen tối
đưa nàng vào bi kịch của số phận.
II.THÂN BÀI:
1.Tổng: là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn
Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc
tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành
cho Kim Trọng và cha mẹ.
2.Phân tích:
Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng
phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Giữa khung cảnh ấy cánh
buồm “thấp thoáng” vô định hiện hữu như một ảo ảnh, cánh buồm dường như
trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng
khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định.
Nàng Kiều tự ví bản thân mình với những cánh hoa mỏng manh, yếu đuối, thân phận nổi
trôi không biết đi đâu về đâu. “Ngọn nước mới sa” chứa đựng một sức mạnh của tự nhiên
có thể vùi dập, cuốn trôi, hủy diệt những gì nhỏ bé, kết hợp với câu hỏi tu từ “biết là về
đâu?” càng cho thấy rõ hơn nửa thân phận bấp bênh, vô định của nàng.
Cảnh tưởng khá ấn tượng không phải là “cỏ non xanh tận chân trời” của ngày xuân đầy
sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu” héo úa, tàn lụi, chết chóc càng làm cho nàng thêm chán
nản, vô vọng. Tác giả tả “màu xanh” của cỏ nối tiếp nhau đến tận chân trời, nhưng màu
xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu.
“Gió cuốn mặt duềnh” để báo trước một đợt giông bão của biển cả và cũng là báo trước
những giông bão của cuộc đời. Vậy là bi kịch của đời Kiều chưa dừng lại. Con Tạo còn
muốn đánh ghen đến “dập liễu vùi hoa tơi bời” mới thoả. Nghe trong tiếng “ầm ầm” của
sóng bể có tiếng bước chân của những bầy Khuyến Ưng hung hăng.
3.Hợp: Nguyễn Du đã thể hiện một vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo, tâm hồn nhạy cảm,
yêu thương, thấu hiểu, cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người tài hoa bạc mệnh bị
đầy đọa trong sóng gió cuộc đời.
I.MỞ BÀI:
1. Tác giả: Nguyễn Quang Sáng: + ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
+thường viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong
hai cuộc kháng chiến
+ với lối giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc, bình dị với
giọng văn đậm chất Nam Bộ.
2. Tác phẩm: được viết vào năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
3. Nhân vật: trong tác phẩm đáng chú ý là nhân vật ông Sáu và bé Thu.
Nguyễn Quang Sáng là người tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thường
viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến, với lối giản dị, mộc
mạc nhưng sâu sắc, bình dị, giọng văn đậm chất Nam Bộ. Năm 1966, khi ông còn đang
hoạt động ở chiến trường Nam Bộ ông đã cho ra bài “ Chiếc lược ngà”. Trong tác phẩm
đáng chú ý là nhân vật ông Sáu và bé Thu.
II. THÂN BÀI:
1.Tổng: tác phẩm đã xây dựng được hai tình huống, Bé Thu không nhận ra ba mình sau 8
năm xa cách.Anh 6 ở chiến khu làm loạn con case đường chưa kịp trao anh để thí sinh thể
hiện một bi kịch của một gia đình thể hiện đó có tội ác của chiến tranh là nguyên nhân
cướp đi những gì tốt đẹp.
2.Phân tích:
a) Nhân vật bé Thu :
Trước khi nhận ra ba, Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng thành công hình ảnh của một em
bé phần nào bướng bỉnh, lì lợm, ghê gớm. Nét tính cách ấy được thể hiện ngay từ khi bé
Thu nghe thấy có người gọi mình là con. Nó đã giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác lạ
lùng rồi nó chớp mắt, mặt bỗng tái đi, vụt chạy và kêu thét lên “Má! Má!. Vài những
ngày sau đó mặc cho những lời mẹ nói nói bé Thu vẫn nhất quyết không chịu nhận ông
Sáu là ba. Không dừng lại ở đấy, nó còn nói trống không, tự múc nước ở nồi cơm mặc
cho sự gợi ý giúp đỡ từ ông Sáu. Trong bữa ăn nó lì lợm đến mức hất cả cái trứng cá ra
khỏi bát cơm làm cho cơm tung tóe và bị ông Sáu đánh. Ngay sau đó nó đã gặp trứng cá
vào bát và chạy nhà bà ngoại.
Vào đêm ngủ với bà, được bà trò chuyện, bà tìm ra lí do Thu không nhận ông Sáu là cha
và khuyên nhủ bé. Con bé lăn lộn suốt đêm không ngủ được, nó ân hận rồi căm thù giặc
và thương ba nó vô cùng. Sáng hôm sau, bé Thu từ nhà ngoại trở về với cái gương mặt
sầm lại buồn rầu và đôi mắt của nó như to hơn nghĩ ngợi sâu xa, đôi mắt mênh mông ấy
bỗng xôn xao và u buồn. Và bỗng nhiên nó kêu thét lên “Ba! Ba!.. “. Nó vừa kêu vừa
chạy xô tới dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn ba nó cùng khắp. Rồi nó lại tiếp tục hét
lên, dang cả hai chân câu chặt lấy người ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó bỗng run run. Khi
phải buộc chia tay, Thu đã ao ước được ba mua tặng cho một một “chiếc lược ngà” cho
thấy cô muốn có vật kỉ niệm của ba để được thấy ba ở bên mình.
Ông được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người.
Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những
điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với
người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi
cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách, bởi đó giây phút vô cùng thiêng liêng và
trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm siết lấy
mình, là bước trở về sau bao xa cách… Ông đã “xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với
những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”. Ông vừa bước vào vừa khom người đưa
tay đón chờ, không ghìm nổi xúc động. Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy
của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra ông, nó như
một nhát dao cứa vào trái tim ông Sáu, ông lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên,
con bé vụt bỏ chạy, ông đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Có lẽ ông
Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người
cha làm sao ông có thể không đau đớn, xót xa.
Trong suốt 3 ngày nghĩ phép, ông đã làm mọi cách để gần con, để được nghe bé Thu gọi
một tiếng “ba”. Trong 3 ngày, ông không đi đâu, không giận con mà chỉ khe khẻ lắc đầu,
cười trước sự bướng bỉnh, xa lánh của con. Thậm chí khi còn bé hất miếng trứng cá ra
ngoài, chối từ sự chăm sóc của ông, ông đã đau đớn không giữ được bình tĩnh mà mắng
con. Vì yêu con, ông đã kiên nhẫn, dịu dàng, bao dung giấc mơ đối với con mình. Song
cũng chính là tình yêu ấy cộng với nỗi đau đớn khi bị khước từ và thời gian bên con đang
dùng rút ngắn lại mà ông đã lợi đánh con đã cho thấy tột cùng của sự đau đớn nỗi bất lực
của ông.
Trong giờ phút chia tay ông bộc lộ tình yêu con sâu sắc, không dám lại gần con, nhìn con
bằng ánh mắt trìu mến, buồn rầu và cố kìm nén nhận nước mắt. Khi con gọi tiếng “ba”
ông chỉ kịp rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên tóc con ôm chặt lấy nó rồi ra đi, mang theo
ước nguyện của con về một cây lược nhỏ. Đã cho thấy tình yêu con của ông Sáu đã chiến
thắng mọi khoảng cách của sự biệt ly, của chiến tranh. Tình cảm ấy luôn trọn vẹn, ấm áp
và tràn đầy.
Trong những ngày ông ở căn cứ, ông thương nhớ con, ân hận vì đã đánh con. Tình yêu
thương con dồn vào việc thể hiện lời hứa của con, là làm cho con một chiếc lược ngà. Tự
ông tìm ngà voi rồi tự tay ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, khổ công như một
người thợ bạc gò lưng, tỉ mỉ khắc lên đó một dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu – con của
ba”. Thỉnh thoảng những lúc rảnh rỗi, ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho
thêm bóng, thêm mượt. Vì lòng yêu con để biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân chỉ
sáng tạo ra một sản phẩm duy nhất trong đời.
3.Hợp: tác giả đã xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên và hợp lý, cốt truyện
khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể thích hợp. Cậu ấy được kể theo ngôi thứ I đặt vào
nhân vật bác Ba, ừ người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham
gia vào câu chuyện. ừ với ngôi kể này người kể chuyện xen vào lời bình luận suy nghĩ
bày tỏ sự đồng cảm chia sẻ với nhân vật và câu chuyện vẫn mang đến các khách quan.
“Chiến lược ngà” là hình ảnh chi tiết trung tâm của tác phẩm, gắn kết cuộc đời các của
các nhân vật và góp phần khắc họa sâu về nội dung truyện. Với bé Thu “chiếc lược ngà”
là mơ ước, là món quà đầu tiên vào cũng là kỉ vật cuối cùng của người cha. Bởi vậy,
“chiếc lược ngà” là kỷ vật, là hình ảnh của người cha. Với ông Sáu, “chiếc lược ngà”
không chỉ là món quà ông dành cho con mà còn là hình bóng của cô con gái yêu quý. Bởi
vậy, “chiếc lược ngà” là tất cả tình thương, nỗi nhớ ông gửi gắm cho cô con gái bé bỏng.
Với bác Ba “chiếc lược ngà’ là sự trao gửi thiêng liêng giữa người cán bộ cách mạng với
đứa con gái của người đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường.
g gì tốt đẹp