You are on page 1of 89

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT


HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA: 41 (2015-2019)

CÁC TỘI HỐI LỘ


TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:


ThS. NGUYỄN THU HƯƠNG TRẦN THỊ THUẬN ANH
LUẬN
Bộ môn: Luật VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
Tư pháp MSSV:LUẬT
B1510395
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH Lớp:
QUYHG1563A1
KHÓA: 41 (2015-2019)

CÁC TỘI HỐI LỘ TRONG PHÁP LUẬT


HÌNH SỰ VIỆT NAM

Cần Thơ, tháng 12 năm 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT


HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH QUY
KHÓA: 41 (2015-2019)

CÁC TỘI HỐI LỘ


TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:


ThS. NGUYỄN THU HƯƠNG TRẦN THỊ THUẬN ANH
LUẬN
Bộ môn: Luật VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN
Tư pháp MSSV:LUẬT
B1510395
HỆ ĐÀO TẠO: CHÍNH Lớp:
QUYHG1563A1
KHÓA: 41 (2015-2019)

CÁC TỘI HỐI LỘ TRONG PHÁP LUẬT


HÌNH SỰ VIỆT NAM

Cần Thơ, tháng 12 năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên xin cho người viết gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trong khoa Luật-
Trường Đại học Cần Thơ, đã tận tâm truyền đạt kiến thức để người viết có thể thực hiện
và hoàn thành luận văn này;
Người viết xin chân thành cảm ơn đến cô Nguyễn Thu Hương - giảng viên hướng
dẫn luận văn. Cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ dạy, động viên và giúp đỡ cho người viết để
hoàn thành luận văn này;
Cuối cùng, người viết gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình và bạn bè đã giúp
đỡ, tạo điều kiện, động viên và luôn đồng hành cùng người viết suốt thời gian vừa qua;
Luận văn đã được hoàn thành nhưng chắc hẳn sẽ có nhiều thiếu sót bởi điều kiện
thời gian có hạn, kiến thức, khả năng nghiên cứu cùng với kinh nghiệm thực tế của người
viết còn hạn chế. Nhưng với sự nghiêm túc trong quá trình nghiên cứu cũng như niềm đam
mê học hỏi người viết mong rằng đề tài nghiên cứu này có thể là một tư liệu nghiên cứu,
là một đóng góp nhỏ của phát sự phát triển của nền khoa học pháp lý. Mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô, các anh chị đi trước và các bạn đọc giả quan tâm đến đề
tài này.
CHẤP THUẬN CỦA HỘI ĐỒNG

Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Luật này, với đề tài là “Các tội hối lộ trong pháp luật
hình sự Việt Nam”, do sinh viên Trần thị Thuận Anh thực hiện theo sự hướng dẫn của
giảng viên Thạc sĩ Nguyễn Thu Hương. Luận văn đã báo cáo và được hội đồng chấm
luận văn thông qua ngày 6 tháng 12 năm 2018.

Thành viên thứ nhất Thành viên thứ hai Thành viên thứ ba
(GVHD) (Chủ tọa)

Thạc sĩ Nguyễn Thu Hương Tiến sĩ Phạm Văn Beo Thạc sĩ Lê Quỳnh Phương Thanh
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………
Cần Thơ, Ngày … tháng ... năm 2018
Giảng viên hướng dẫn luận văn
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN LUẬN VĂN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………
Cần Thơ, Ngày … tháng … năm 2018
Hội đồng phản biện luận văn
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ………………………………………………………………..... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 2
5. Bố cục đề tài .................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỘI HỐI LỘ TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................................... 4
1.1. Khái quát chung về các tội hối lộ ........................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về các tội hối lộ ................................................................................ 4
1.1.2. Đặc điểm về các tội hối lộ .................................................................................. 6
1.1.2.1. Tính nguy hiểm cho xã hội...........................................................................6
1.1.2.2. Tính có lỗi .................................................................................................... 7
1.1.2.3. Tính trái pháp luật hình sự .......................................................................... 7
1.1.2.4. Tính phải chịu hình phạt .............................................................................. 7
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các tội hối lộ ..................................................... 7
1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về các tội hối lộ ...................................... 7
1.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ sau Cách mạng
tháng tám đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời ............................................... 9
1.2.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 1985 ............................................................................................................... 11
1.2.4. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 1999 ............................................................................................................... 15
1.2.5. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 2015 đến nay ................................................................................................. 20
1.3. Ý nghĩa nghiên cứu về các tội hối lộ .................................................................... 22

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI HỐI LỘ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH................................................................................................................................ 24
2.1. Tội nhận hối lộ ....................................................................................................... 25
2.1.1. Khái niệm tội nhận hối lộ ............................................................................... 25
2.1.2. Căn cứ pháp lý của tội nhận hối lộ ................................................................ 25
2.1.3. Dấu hiệu cấu thành tội nhận hối lộ ............................................................... 26
2.1.3.1. Dấu hiệu về khách khể của tội nhận hối lộ ................................................ 26
2.1.3.2. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội nhận hối lộ ...................................... 27
2.1.3.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội nhận hối lộ .................................................... 31
2.1.3.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội nhận hối lộ .......................................... 32
2.1.3. Các trường hợp phạm tội cụ thể và hình phạt của tội nhận hối lộ ............... 32
2.1.3.1. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 1 Điều 354 Bộ luật hình sự ................ 32
2.1.3.2. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự ................ 34
2.1.3.3. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 3 Điều 354 Bộ luật hình sự ................ 36
2.1.3.4. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 4 Điều 354 Bộ luật hình sự ................ 37
2.2. Tội đưa hối lộ ......................................................................................................... 37
2.2.1. Khái niệm tội đưa hối lộ .................................................................................. 37
2.2.2. Căn cứ pháp lý của tội đưa hối lộ ................................................................... 37
2.2.3. Dấu hiệu cấu thành tội đưa hối lộ .................................................................. 39
2.2.3.1. Dấu hiệu về khách thể của tội đưa hối lộ .................................................. 39
2.2.3.2. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội đưa hối lộ ........................................ 39
2.2.3.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội đưa hối lộ ...................................................... 41
2.2.3.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội đưa hối lộ ............................................ 42
2.2.4. Các trường hợp phạm tội cụ thể và hình phạt của tội đưa hối lộ ................. 42
2.2.4.1. Phạm tội đưa hối lộ thuộc khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự .................. 42
2.2.4.2. Phạm tội đưa hối lộ thuộc khoản 2 Điều 364 Bộ luật hình sự .................. 43
2.2.4.3. Phạm tội đưa hối lộ thuộc khoản 3 và khoản 4 Điều 364 Bộ luật hình sự 44

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.2.4.4. Hình phạt bổ sung của tội đưa hối lộ thuộc khoản 5 Điều 364 Bộ luật hình
sự ............................................................................................................................. 44
2.2.4.5. Tình tiết được coi là không phạm tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự
của tội đưa hối lộ .................................................................................................... 44
2.3. Tội môi giới hối lộ .................................................................................................. 45
2.3.1. Khái niệm tội môi giới hối lộ........................................................................... 45
2.3.2. Căn cứ pháp lý của tội môi giới hối lộ............................................................ 45
2.3.3. Dấu hiệu cấu thành tội môi giới hối lộ........................................................... 46
2.3.3.1. Dấu hiệu về khách thể của tội môi giới hối lộ ........................................... 46
2.3.3.2. Dấu hiệu về khách quan của tội môi giới hối lộ ........................................ 46
2.3.3.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội môi giới hối lộ ............................................... 48
2.3.3.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội môi giới hối lộ..................................... 49
2.3.4. Các trường hợp phạm tội cụ thể và hình phạt của tội môi giới hối lộ .......... 49
2.3.4.1. Phạm tội môi giới hối lộ thuộc khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự ........... 49
2.3.4.2. Phạm tội môi giới hối lộ thuộc khoản 2 Điều 365 Bộ luật hình sự ........... 50
2.3.4.3. Phạm tội môi giới hối lộ thuộc khoản 3 và khoản 4 Điều 365 Bộ luật hình
sự ............................................................................................................................. 52
2.3.4.4. Hình phạt bổ sung của tội môi giới hối lộ thuộc khoản 5 Điều 365 Bộ luật
hình sự ..................................................................................................................... 52
2.3.4.5. Tình tiết được miễn trách nhiệm hình sự của tội môi giới hối lộ .............. 53
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN, BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG
CHỐNG VỀ CÁC TỘI HỐI LỘ .................................................................................... 54
3.1. Thực tiễn về các tội hối lộ ở Việt Nam ................................................................ 54
3.2. Những bất cập về các tội hối lộ ............................................................................ 57
3.2.1. Bất cập trong quy định pháp luật về các tội hối lộ ........................................ 57
3.2.2. Bất cập trong áp dụng quy định về các tội hối lộ vào thực tiễn .................... 63
3.2.3. Bất cập trong quá trình phát hiện và xử lý các tội hối lộ .............................. 64
3.3. Giải pháp cho những bất cập về các tội hối lộ .................................................... 67
3.3.1. Giải pháp để hoàn thiện quy định pháp luật về các tội hối lộ ....................... 67

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

3.3.2. Giải pháp hoàn thiện việc áp dụng quy định về các tội hối lộ vào thực tiễn 70
3.3.3. Giải pháp trong công tác phát hiện và xử lý các tội hối lộ ............................ 71
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung sang nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát
triển vượt bậc, đời sống của người dân được nâng cao; tình hình chính trị - xã hội được ổn
định; quốc phòng, an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ; phá được
thế bao vây, cô lập; mở rộng hợp tác và tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, trong xã hội cũng đã và đang phát sinh nhiều hiện
tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội ngày một gia tăng dưới mọi hình thức. Tình hình các loại tội
phạm rất phức tạp xảy ra trong các lĩnh vực, nhất là tội phạm tham nhũng đang gây sự bất
bình trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước:
“Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy
của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống
còn của chế độ ta...”1.
Tội phạm hối lộ cũng là một trong những loại tội phạm gây ảnh hưởng không nhỏ đến
uy tín cũng như sự tín nhiệm của nhân dân đối với các doanh nghiệp, tổ chức. Sự ảnh hưởng
của nó được thể hiện ở chỗ, các tội phạm này đang phá hoại sự hoạt động bình thường của
bộ máy nhà nước, làm cho mọi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước không thể vận dụng đúng đắn vào cuộc sống. Thực tế đã chỉ ra rằng, bộ máy nhà
nước có vững mạnh, trong sạch thì mới bảo đảm được hiệu lực quản lý nhà nước. Điều này
đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ có đủ năng lực, trình độ, mà còn
phải có phẩm chất đạo đức. Hiệu lực và chất lượng công tác của bộ máy nhà nước, suy cho
cùng phần lớn phụ thuộc vào hoạt động và chất lượng công tác của cán bộ, công viên chức
trong bộ máy nhà nước. Tăng cường hiệu lực nhà nước không thể tách rời việc nâng cao
năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức cách mạng của người cán bộ và khắc phục những
hiện tượng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp
luật. Phần lớn các cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước trung thực, tận tuỵ làm việc
vì nước, vì dân không nề hà khó khăn gian khổ, nêu cao đạo đức cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số
người thoái hoá, biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhũng nhiễu đòi hối lộ, nhận hối
lộ, làm tổn thương uy tín của Đảng và Nhà nước ta.
Ở nước ta, trong mấy chục năm qua, nạn hối lộ vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội
và đang phát triển rất nghiêm trọng, gây tác hại lớn đến hoạt động của các bộ máy. Thời

1
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 1 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam
gian gần đây, loại tội phạm về hối lộ diễn biến khá phức tạp, một loại vụ án về hối lộ hết
sức nghiêm trọng đã xảy ra liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như thương
mại, giao thông, bảo vệ pháp luật, bên cạnh đó hối lộ đã len lõi vào cả những lĩnh vực vốn
được xem là cao quý như giáo dục, y tế. Lúc này cần phải đấu tranh chống các hành vi hối
lộ với những biện pháp đa dạng và hiệu quả, trong đó có sử dụng cả luật hình sự. Trong
khi đó, hoạt động sử dụng pháp luật hình sự đấu tranh với tội phạm này đang gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc và còn dừng lại ở những kết quả khiêm tốn mà một trong những
nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động xử lý tội phạm về hối lộ là sự thiếu rõ ràng, thiếu
hợp lý trong quy định của luật hình sự hiện hành về các tội phạm này. Chính vì vậy, làm
sáng tỏ cũng như góp phần hoàn thiện quy định của luật hình sự về các tội phạm này là
một hoạt động thiết thực góp phần vào cuộc đấu tranh với tội phạm này.
Từ đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu các tội phạm về hối lộ là điều cần thiết, góp phần
hiệu quả vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm này. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu
cũng góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật hình sự, tránh bỏ sót tội phạm, xử lý nghiêm
minh, đúng người, đúng tội. Đây là lý do người viết chọn đề tài “Các tội hối lộ trong pháp
luật hình sự Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Người viết nghiên cứu đề tài “Các tội hối lộ trong pháp luật hình sự Việt Nam” nhằm
phân tích một số vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn của các tội phạm về hối lộ. Trên cơ sở
đó, tìm ra những điểm bất cập từ quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này góp phần bảo vệ hoạt động đúng đắn, bình thường, tính chuẩn
mực trong công tác của cơ quan, tổ chức.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài “Các tội hối lộ trong pháp luật hình sự Việt Nam” này
được nghiên cứu trên cơ sở quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017, tại các Điều 354 (Tội nhận hối lộ), Điều 364 (Tội đưa hối lộ) và Điều 365 (Tội làm
môi giới hối lộ), các văn bản khác có liên quan đến tội hối lộ và thực tiễn của tội phạm này
trong thực tế hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu nghiên cứu của đề tài là các phương pháp phân tích câu chữ trong
luật viết, phương pháp liệt kê, phương pháp quy nạp, phương pháp chứng minh và phân
tích đối chiếu nhằm đi sâu điều luật cụ thể và tìm hiểu nội dung, tính hữu hiệu cũng như
mặt hạn chế để từ đó đưa ra hướng giải quyết cho những vấn đề đặt ra.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 2 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam
5. Bố cục đề tài
Đề tài này được chia thành ba phần: Lời nói đầu, phần nội dung và kết luận. Trong phần
nội dung gồm có ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về các tội hối lộ trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2. Quy định về các tội hối lộ trong Bộ luật hình sự hiện hành.
Chương 3. Thực tiễn, bất cập và giải pháp đấu tranh phòng chống về các tội hối lộ.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 3 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC TỘI HỐI LỘ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Trong chương này người viết tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về các tội
hối lộ. Người viết chủ yếu phân tích và làm rõ khái niệm, đặc điểm của các tội hối lộ, bên
cạnh đó cũng giới thiệu về lịch sử hình thành và phát triển của các tội hối lộ qua các thời
kỳ qua đó đưa ra ý nghĩa nghiên cứu đối với các loại tội phạm này.
1.1. Khái quát chung về các tội hối lộ
1.1.1. Khái niệm về các tội hối lộ
Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng, chống tham nhũng có thể hiểu “hối lộ”
là những hành vi “Thực hiện một cách cố ý hứa hẹn, chào mời hay cho, trực tiếp hay gián
tiếp, công chức bất kỳ một lợi ích không chính đáng cho chính bản thân công chức ấy hay
cho một người hoặc một tổ chức khác, để công chức này làm hoặc không làm một việc
trong quá trình thi hành công vụ; hành vi của công chức, trực tiếp hay gián tiếp, đòi hoặc
nhận một lợi ích không chính đáng cho chính bản thân công chức hay cho người hoặc tổ
chức khác, để công chức làm hoặc không làm một việc trong quá trình thi hành công vụ”2.
Ở nước ta, khái niệm hối hộ xuất hiện từ rất lâu, có rất nhiều quan niệm khác nhau về hối
lộ ở nhiều góc độ khác nhau. Từ góc độ xã hội, hối lộ có thể được xem là một hình thức
biến tướng của việc đền đáp, trả ơn3, từ đó hối lộ đã biến tướng thành một hình thức lạm
dụng các truyền thống tốt đẹp của con người như tặng quà hoặc đền ơn đáp nghĩa. Theo
Đại từ điển Tiếng Việt “hối lộ” là “lén lút đưa tiền của để nhờ kẻ có quyền làm điều trái
pháp luật nhưng có lợi cho mình”4. Dưới góc độ chính trị “hối lộ là một trong những loại
bổng lộc của quyền lực và là một hình thức trao đổi chung giữa quyền lực và sự giàu có”5.
Bản chất của việc hối lộ là hành vi trao đổi lợi ích giữa các bên, mà chủ yếu là hai bên chủ
thể, quan hệ tạo nên lợi ích càng lớn, càng thuận lợi thì mức độ tương tác xảy ra thường
xuyên hơn, mạnh mẽ hơn. Và nó trở thành kỳ vọng mong muốn từ các bên tham gia, khả
năng trong tương lai chúng sẽ được tiến hành lặp lại thành thói quen, có hệ thống và chuẩn
mực rõ ràng hình thành lên khuôn mẫu xã hội, một hiện tượng khó điều chỉnh và xử lý.

2
Điều 15 Công ước của Liên Hợp Quốc về phòng, chống tham nhũng năm 2003.
3
Đào Lệ Thu: Các tội phạm về hối lộ theo Luật hình sự Việt nam trong sự so sánh với Luật hình sự Thụy Điển và
Astralia, Nxb Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011.
4
Nguyễn Như Ý: Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
5
Reisman, W.M., Folded lies – Bribery, Crusades, and Reforms, New York: The Free Press – A Division of
Macmillan Publishing CO., Inc, 1979, p.39.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 4 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Dưới góc độ pháp lý - xã hội, những hành vi hối lộ đã không những làm mất công
bằng xã hội, xâm phạm đến sự nghiêm minh của pháp luật mà còn làm băng hoại đạo đức
xã hội, đặc biệt hư hỏng và thoái hóa, biến chất một bộ phận đội ngũ cán bộ, những người
có quyền hạn, chức vụ trong xã hội, làm suy giảm uy tín của Nhà nước đối với nhân dân,
cũng như cộng đồng quốc tế. Cho nên, hối lộ thực sự xâm phạm đến sự sống còn của chế
độ và phải được coi là giặc nội xâm.
Trong khi đó, từ khía cạnh hành chính - nhà nước, các học giả và đa số các quốc gia
đều thống nhất chung hối lộ là một loại hành vi tham nhũng. Hiện tượng này đang có xu
hướng xảy ra nhiều tại những nơi thiếu sự minh bạch và thiếu sự tôn trọng các quy tắc
đạo đức, đồng thời tác động trở lại làm cho bộ máy nhà nước trở nên trì trệ, thối nát và
quan liêu. Đặc biệt, hối lộ cũng hủy hoại đạo đức và trách nhiệm của những người thực
thi chức trách, làm mất lòng tin của công chúng vào hoạt động công vụ.
Dưới góc độ khoa học Luật hình sự Việt Nam, “hối lộ” được hiểu thống nhất bao
gồm ba loại hành vi phạm tội tương ứng với ba tội hối lộ cụ thể: tội nhận hối lộ, tội đưa
hối lộ và tội môi giới hối lộ.
Quan hệ hối lộ được xác định bởi những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quan hệ hối lộ được thực hiện thông qua việc trao và nhận, hứa hẹn về việc
trao và nhận hoặc tạo điều kiện cho việc trao và nhận lợi ích giữa các bên. Một bên trao
của hối lộ và nhận về cách giải quyết từ người có chức vụ, quyền hạn theo như mong
muốn của bên trao của hối lộ, tương tự bên nhận của hối lộ và theo đó là lợi dụng chức
vụ, quyền hạn của mình để thực hiện theo yêu cầu của bên đưa hối lộ và các bên có thể
thực hiện hoạt động trao nhận này thông qua người thứ ba mà người này đã tạo điều kiện
cho hoạt động này diễn ra.
Thứ hai, quan hệ hối lộ thường bao gồm người đưa hối lộ và người nhận hối lộ, đây
là hai chủ thể bắt buộc phải có trong quan hệ này, sự có mặt của hai chủ thể này mới làm
phát sinh quan hệ hối lộ. Bên cạnh đó, một số trường hợp quan hệ hối lộ phát sinh là
thông qua người thứ ba làm trung gian cho mối quan hệ này, tức là người môi giới hối lộ
mà thông qua người này người đưa và người nhận hối lộ mới có điều kiện liên hệ và thực
hiện hành vi.
Thứ ba, các bên khi tham gia vào quan hệ này là mong muốn được thông qua chức
vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện công việc có lợi cho lợi ích
cá nhân, theo đó người có chức vụ, quyền hạn hoặc những người mà người có chức vụ,
quyền hạn mong muốn sẽ được hưởng lợi ích từ việc thực hiện hành vi này. Điều này gây
ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức mà đáng ra người có chức vụ,
quyền hạn phải thực hiện đúng theo chức trách mà mình có.
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 5 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Thứ tư, lợi ích mà các bên tham gia vào quan hệ hối lộ là những lợi ích cá nhân mà
việc có được lợi ích đó lại thông qua việc sử dụng quyền lực của người có chức trách,
điều này thể hiện sự bất hợp pháp và không công bằng cho xã hội, đây là sự mong muốn
thõa mãn của riêng cá nhân nên mối quan hệ hối lộ là mối quan hệ không chính đáng.
Như vậy, dù dưới góc độ (khía cạnh) nào đi chăng nữa có thể thấy hối lộ là một dạng
trao đổi lợi ích bất hợp pháp, sự bất hợp pháp này xuất phát từ việc hướng đến thõa mãn
nhu cầu, lợi ích cá nhân, dù ở bất kỳ góc độ nào chúng ta vẫn có thể nhận thấy một điểm
đặc trưng cơ bản là “hối lộ” luôn thể hiện bản chất của một hiện tượng tiêu cực và gây
hậu quả nặng nề đến đời sống xã hội.
Tóm lại, có nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau nhưng cơ bản đều thống nhất chung
về các tội hối lộ với những nội dung khái quát như sau: “Các tội hối lộ là những hành vi
đưa, nhận hoặc tạo điều kiện cho việc đưa, nhận lợi ích dưới bất kỳ hình thức nào và
thông qua người có chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến việc thực thi chức trách của
người có chức vụ, quyền hạn một cách cố ý và trái pháp luật hình sự”.
1.1.2. Đặc điểm về các tội hối lộ
Vốn là hành vi khó phát hiện bởi đa dạng hình thức và được che giấu với nhiều lý do
hợp lý khác nhau gây khó khăn cho công cuộc phát hiện và truy cứu trách nhiệm. Thông
qua những hành vi ứng xử thông thường từ trước đến nay như biếu tặng, thăm hỏi,.. thì
việc xử lý càng trở nên khó khăn hơn. Thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hình sự nên
các tội phạm về hối lộ cũng có những đặc điểm cơ bản như sau:
1.1.2.1. Tính nguy hiểm cho xã hội
Giống như những hành vi phạm tội khác, hối lộ cũng mang tính nguy hiểm cho xã
hội, hành vi này xâm phạm đến tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức; một
trong những yếu tố quyết định đến hoạt động hiệu quả của các quan hệ xã hội nói chung
và của cơ quan, tổ chức nói riêng là uy tín, giúp cho cơ quan, tổ chức dễ dàng thực hiện
các chính sách, mục tiêu khi có được tín nhiệm nhưng đây lại là một trong những yếu tố
bị hành vi hối lộ xâm phạm nghiêm trọng, gây mất niềm tin và làm suy yếu, cao hơn là
sụp đổ chính thể. Thông thường các quan hệ hướng tới những lợi ích vật chất bao gồm:
tiền, vàng, cổ phiếu, nhà đất và các loại tài sản khác, bên cạnh đó cũng có những lợi ích
phi vật chất , nó thuộc giá trị tinh thần mà các chủ thể hối lộ hướng tới, cần được bảo vệ
như: danh hiệu thi đua, danh hiệu văn hóa,.. Ngoài ra các quan hệ mà chủ thể hối lộ xâm
phạm còn là những giá trị mang tính chuẩn mực xã hội, cần được pháp luật bảo vệ.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 6 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

1.1.2.2. Tính có lỗi


Tính có lỗi của tội phạm hối lộ thể hiện ở trạng thái tâm lý của chủ thể hối lộ bao gồm
dấu hiệu lỗi và mục đích của hối lộ. Bất kỳ hành vi hối lộ nào cũng đều được thực hiện
với lỗi cố ý trực tiếp, vì cả ba chủ thể (người đưa hối lộ, người nhận hối lộ, người môi
giới hối lộ) đều nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được
hậu quả của hành vi đó, mong muốn hậu quả xảy ra và tạo điều kiện để thực hiện cũng
như che giấu hành vi phạm tội. Không có trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm
với lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý. Mục đích của hối lộ là kết quả mà tội phạm hối lộ mong
muốn đạt được trên thực tế bằng việc thực hiện hành vi hối lộ, đây là giới hạn cuối cùng
mà chủ thể hối lộ mong muốn đạt được, thể hiện ở việc chủ thể hướng tới lợi ích và mong
muốn hậu quả của việc thực hiện hành vi phạm tội xảy ra.
1.1.2.3. Tính trái pháp luật hình sự
Hối lộ là hành vi sai trái không chỉ về mặt xã hội mà còn được quy định cụ thể trong
Bộ luật Hình sự qua ba điều: 354 (Tội nhận hối lộ), 364 (Tội đưa hối lộ), 365 (Tội môi
giới hối lộ). Đây là dấu hiệu đặc biệt quan trọng nhằm xác định một hành vi có vi phạm
pháp luật hình sự hay không. Tính trái pháp luật cũng là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của
công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.
1.1.2.4. Tính phải chịu hình phạt
Tính phải chịu hình phạt được hiểu là bất cứ hành vi phạm tội hối lộ nào cũng phải bị
áp dụng những hình phạt tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự, cụ thể các tội
phạm hối lộ phải chịu mức hình phạt từ nhẹ nhất là cải tạo không giam giữ 3 năm đến
mức hình phạt cao nhất là tử hình. Đặc trưng đối với đặc điểm này là chỉ có hành vi phạm
tội mới phải chịu hình phạt, phạm tội càng nghiêm trọng thì khung hình phạt áp dụng
càng nghiêm khắc.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các tội hối lộ
1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về các tội hối lộ
Từ thế kỷ I trước công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên, nhân dân nước ta chịu
sự đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, do đó pháp luật Trung hoa được áp
dụng ở nước ta trong thời kỳ này (chủ yếu là bộ luật Hán và nhà Đường), ở giai đoạn này
các quan lại phương bắc đã có những hành vi tham nhũng, có các hành động cắt đất thưởng
cho người có công trấn áp phản nghịch, chính quyền đặt lệ phong hầu.
Trước đó, pháp luật Việt Nam mãi đến khi vua Lê Thái Tổ hạ lệnh “Từ xưa đến nay,
việc trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn”. Từ đó việc xây dựng pháp
luật rất được nhà Lê coi trọng. Điều nổi bật nhất trong các bộ luật cổ phải kể đến là Luật
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 7 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Hình Thư, Bộ luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình Luật) và Bộ Luật Gia Long (Hoàng Việt
luật lệ), là những bộ luật chú trọng đặc biệt đến việc quy định chi tiết hành vi và hình phạt.
Luật Hình Thư là bộ luật thành văn dưới thời triều Lý ban hành năm 1402 bởi vua Lý Thái
Tông, bộ luật này hiện nay không còn, tuy nhiên, những chiếu chỉ còn lưu lại vẫn thể hiện
một số nội dung cốt lõi. Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1483 với
hơn 700 điều thì chiếm tới 107 điều quy định những hành vi không được phép phạm phải
đối với quan lại như: lợi dụng quyền thế sách nhiễu nhân dân, ăn hối lộ, gian lận, bớt xén
của công, lợi dụng quyền chức mưu lợi riêng….Bộ Luật Gia Long do vua Gia Long ban
hành năm 1815 với 22 quyển, 398 điều quy định về đủ các loại hình.

• Quy định về hối lộ trong Luật Hình Thư


Ngoài các tội về “thập ác”, tội tham nhũng cũng được luật pháp đặc biệt quan tâm.
Năm 1042, vua Lý Thái Tông ban chiếu: “Những người thu quá số thuế quy định sẽ bị
ghép vào tội ăn trộm. Người dân tố cáo việc đó được miễn dịch 3 năm. Người ở kinh
thành mà cáo giác nhận thưởng bằng hiện vật thu được”.
Luật còn quy định “ai ở kho lụa nhận riêng một thước lụa bị phạt 100 trượng, nhận từ
một tấm trở lên bị phạt trượng theo tấm kèm 10 năm khổ sai”. Ngoài hình phạt chính, các
quan ăn hối lộ từ một đến 9 quan tiền bị phạt 50 quan, từ 10 đến 19 quan thì bị phạt từ 60
đến 100 quan. Của hối lộ một phần trả lại chủ, một phần sung vào kho6.

• Quy định về hối lộ trong Bộ Luật Hồng Đức


Điều 138 của bộ luật này quy định, quan lại mà tham nhũng, nhận hối lộ, làm sai phép
nước bị phạt theo các mức sau: Nếu tham ô từ 1 đến 9 quan tiền bị cách chức, từ 10 đến
19 quan thì bị đánh trượng rồi đi đày, từ 20 quan trở lên bị xử chém. Ngoài hình phạt
chính, các quan ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan tiền bị phạt 50 quan, từ 10 đến 19 quan thì bị
phạt từ 60 đến 100 quan. Của hối lộ một phần trả lại chủ, một phần sung vào kho7.
Một số điều luật liên quan đến tham nhũng bị xử tội chết trong Quốc Triều Hình Luật
như: Điều thứ 30, chương Vệ cấm với hành vi “Sứ thần đi sứ ra nước ngoài..lấy của hối
lộ mà tiết lộ công việc nước nhà” thì bị xử tội chém, Điều thứ 42, chương Vi chế với

6
Zing.vn, “Tội tham nhũng bị xử phạt như thế nào qua 3 bộ luật thời phong kiến”, Nguyễn Thanh Điệp,
https://news.zing.vn/toi-tham-nhung-bi-xu-phat-nhu-the-nao-qua-3-bo-luat-thoi-phong-kien-post810894.html [truy
cập ngày 20/8/2018].
7
Báo điện tử Vnexpress, “Quan tham thời phong kiến bị xử phạt như thế nào”, Bảo Hà, https://vnexpress.net/tin-
tuc/phap-luat/quan-tham-thoi-phong-kien-bi-xu-phat-the-nao-3380187.html [truy cập ngày 20/8/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 8 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

hành vi “Quan liêm phóng (quan mặt tra) khi xét việc vì báo ân, báo oán hay ăn hối lộ
mà đổi trắng thay đen” thì mức cao nhất là xử tội chết,..
Ngoài biện pháp nghiêm trị tội tham ô, tham nhũng trong bộ luật Hồng Đức dưới thời
Lê Thánh Tông còn có sự gắn kết nhiều hình thức, biện pháp khác như: khuyên bảo, răn
đe, cho đến trừng trị bằng pháp luật. Như vậy, luật Hồng Đức vừa mang tính khoan dung,
độ lượng, nhưng cũng rất nghiêm minh, công bằng. Chính vì thế, không những có tác
dụng ngăn ngừa, trừng trị tội tham ô, tham nhũng, mà bên cạnh đó còn cho phép quan lại
nếu mắc phải tội tham ô, tham nhũng còn có điều kiện chuộc lỗi và tiếp tục cống hiến cho
đất nước8.

• Quy định về hối lộ trong Bộ Luật Gia Long


Bộ luật có quy định rõ tội trạng của quan lại tham ô nhận tiền của hối lộ được ghi
chép cụ thể trong quyển 17 (bản chữ Hán) trong mục Hình luật, đây là điều cấm bắt buộc
đối với quan lại khi thi hành việc công. Tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ để trách tội.
Một số vụ án điển hình cho thấy việc coi trọng xử phạt tội hối lộ dưới thời triều Nguyễn
như theo Đại Nam thực lục, năm 1822, Quảng Đức và Quảng Trị bị thiên tai nên gạo đắt,
triều đình cho phát 25.000 hộc để bán cho dân. Người lính quản lý kho thóc ở kinh là
Đặng Văn Khuê phụ trách phát thóc, nhưng mỗi hộc thóc lại thiếu một ít. Vụ việc bị phát
giác, vua Minh Mạng giao bộ Hình tra xét. Án xong tâu lên, vua Minh Mạng liền ra lệnh
chém. Cũng dưới thời Minh Mạng, năm 1821, Phó tổng trấn Gia Định là Huỳnh Công Lý
(cha vợ Minh Mạng) cũng bị xử tử vì tham nhũng tới 30.000 quan tiền.
Ngoài những bản án rất nặng, thời nhà Nguyễn, các quan tham nhũng của dân đều bị
tịch thu tài sản, đem xử chém trước dân chúng nhằm thị uy9.
1.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ sau Cách mạng
tháng tám đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời
Sau khi Cách mạng tháng tám thành công, với một chính quyền nhân dân non trẻ đối
mặt với những điều khó khăn mọi mặt, tàn dư chiến tranh còn nặng nề trên đất nước, nền
kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đất nước lâm vào tình trạng ngàn cân treo sợi tóc khi vẫn còn
tồn tại thù trong, giặc ngoài, nhân dân đói khổ lầm than. Việc ra đời của những văn bản

8
Trần Đại Quang Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, http://trandaiquang.org/tu-luat-hong-duc-
cua-co-nhan-ma-huong-toi-luat-chong-tham-nhung-hien-nay.html [truy cập ngày 20/7/2018].
9
Zing.vn, “Tội tham nhũng bị xử phạt như thế nào qua 3 bộ luật thời phong kiến”, Nguyễn Thanh Điệp,
https://news.zing.vn/toi-tham-nhung-bi-xu-phat-nhu-the-nao-qua-3-bo-luat-thoi-phong-kien-post810894.html [truy
cập ngày 20/8/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 9 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

pháp lý xoay quanh vấn đề phòng chống tội phạm nói chung và tội tham nhũng nói riêng
mang ý nghĩa vô cùng to lớn lúc bấy giờ.
Khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc
lệnh số 223-SL, ngày 27/11/1946 về tội đưa hối lộ với 5 điều khoản và quy định cụ thể về
tội đưa hối lộ được quy định tại 2 điều đầu như sau:
“Điều thứ 1
Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ, hoặc phu lam, hoặc biển thủ
công quỹ hay của công dân đều bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi
tang vật hối lộ, phu lam hay biển thủ.
Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công.
Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản.
Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên.
Điều thứ 2
Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà chức trách việc
hối lộ ấy và chứng minh rằng đã đưa hối lộ là vì bị công chức cưỡng bách ước hứa hay
là dùng cách trả nguy thôi người ấy được miễn hết các tội. Trong trường hợp này, tang
vật hối lộ được hoàn lại”.
Sắc lệnh này được ban hành nhằm trừng trị các tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, phu lam
hoặc biển thủ công quỹ hay của dân. Tuy được xây dựng những năm đầu thành lập đất
nước nhưng sắc lệnh đã bao quát một cách đầy đủ và thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập
pháp lúc bấy giờ. Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định hướng dẫn các tòa án
trừng trị một số tội liên quan đến tài sản. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày
21/10/1970 quy định về việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, về việc
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những người có chức vụ. Nhìn chung, những văn bản này
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phòng, chống các loại tội phạm cũng như tội phạm về
hối lộ.
Sau ngày miền Nam giải phóng, năm 1976 Sắc lệnh số 03 được Hội đồng chính phủ
cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam ban hành ngày 15/3/1976, sắc lệnh này quy định
thêm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn và quy định tội nhận, đưa hối lộ. Đến năm 1979 tình
hình đất nước rơi vào bối cảnh Mỹ và các nước thù địch ra sức bao vây, cấm vận, chúng ta
phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biên giới phía Tây Nam và phía
Bắc, đối mặt với những khó khăn khác nhau, kinh tế, đời sống và cả những tiêu cực trong
xã hội, song theo đó tình hình hối lộ cũng diễn biến phức tạp. Để giải quyết những vấn đề

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 10 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

đang xảy ra, Nghị quyết hội nghị lần thứ 06 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IV
đã đề ra chủ trương “Kiên quyết đấu tranh những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và
xã hội nhất là tệ nạn ăn cắp, hối lộ ức hiếp quần chúng”, thể chế hóa nghị quyết của Đảng
và trên cơ sở Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1980. Ngày
20/5/1981, Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ và đã thay
thế các văn bản trước đó về tội hối lộ, lần đầu tiên trong pháp lệnh tội đưa hối lộ và môi
giới hối lộ được quy định tại điều luật một cách độc lập. Pháp lệnh đã có sự phân chia cụ
thể đối với trường hợp đưa và nhận hối lộ, qua đó hình phạt đối với hai tội này cũng được
chia ra. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 ở các trường hợp nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng thì cả hai tội đều có chung mức phạt, đều này cho thấy sự nhìn nhận
của Nhà nước ta đối với mức độ nguy hiểm của hai tội này cơ bản là như nhau.
Một trong những bước tiến cơ bản trong pháp luật lúc bấy giờ về tội hối lộ được thể
hiện tại Điều 9 pháp lệnh này: “Người nào bị ép buộc đưa hối lộ, nếu chủ động khai báo
trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội” trường hợp đặc biệt này cũng góp phần
ngăn chặn và phát hiện hiệu quả hành vi hối lộ, thể hiện được sự bao quát các trường hợp
xảy ra của quy định pháp luật. Pháp lệnh ra đời là một sự kiện pháp lý quan trọng, là một
bước tiến cần thiết góp phần trong công tác phòng chống và xử lý tội phậm về hối lộ.
1.2.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 1985
Với sự quan tâm của Nhà nước, quá trình pháp điển hóa pháp luật hình sự ở nước ta
được chú trọng đẩy mạnh trong giai đoạn 1982 - 1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của
một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt - Bộ luật hình sự năm
1985 đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VII thông qua
ngày 27/6/1985 tại kỳ họp thứ 9 và đã có hiệu lực ngày 01/01/1986. Có thể nói, Bộ luật
hình sự năm 1985 là sự kết tinh thành tựu 40 năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách
mạng, là bản tổng kết sâu sắc thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ở nước ta từ
năm 1945 đến thời điểm Bộ luật được ban hành.
Bộ luật hình sự 1985 có 12 chương, 280 Điều. Các tội phạm về hối lộ được quy định
cụ thể ở Điều 226 (Tội nhận hối lộ) và Điều 227 (Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ),
cụ thể như sau:
“Điều 226. Tội nhận hối lộ.
1- Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ
nhận tiền của hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm một việc thuộc
trách nhiệm của mình hoặc không làm một việc phải làm, thì bị phạt tù từ một năm đến
bảy năm.
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 11 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Phạm tội trong trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn để làm một việc không được phép
làm, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến mười
lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Của hối lộ có giá trị lớn;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Phạm tội nhiều lần.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nhiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai
mươi năm hoặc tù chung than”.
Như vậy, lần đầu tiên tội nhận hối lộ được quy định rõ ràng trong điều luật, ba yếu tố
cấu thành tội nhận hối lộ là:
Thứ nhất: Chủ thể nhận hối lộ phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Thứ hai, Chủ thể đó phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm hoặc không làm một
việc phải làm.
Thứ ba, Đối tượng phải là tiền của hoặc lợi ích vật chất khác.
“Điều 227. Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ.
1- Người nào đưa hối lộ hoặc làm môi giới hối lộ thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười lăm
năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Của hối lộ có giá trị lớn;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Phạm tội nhiều lần.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai
mươinăm hoặc tù chung thân.
4- Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được coi
là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 12 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác
thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã
dùng để đưa hối lộ”.
Theo quy định cho thấy, Bộ luật hình sự không miêu tả cụ thể hành vi đưa hối lộ và
làm môi giới hối lộ mà chỉ được nêu tội danh mà hành vi như tên của tội là “đưa hối lộ” và
“làm môi giới hối lộ”. Ngoài ra, nếu chủ thể của tội nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền
hạn thì chủ thể của hai tội này có thể là bất kỳ ai, không nhất thiết phải là người có chức
vụ, quyền hạn.
Có thể thấy Bộ luật hình sự 1985 đã kế thừa cơ bản những quy định của nền pháp luật
Việt Nam trước đó nhất là sau cách mạng tháng tám. Với sự phát triển nhanh chóng của xã
hội, các điều luật quy định về các tội hối lộ cũng không còn phù hợp và phải sửa đổi theo
những quy định khác trong bộ luật: lần thứ nhất vào ngày 12/8/1991, lần hai vào ngày
22/12/1992 và cuối cùng vào ngày 10/5/1997, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: quy định về tội nhận hối lộ tại Bộ luật Hình sự năm 1985 với quy định
mức hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là “tù chung thân”10 thì lần sửa đổi bộ luật
vào ngày 12/8/1991 đã bổ sung mức hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là “tử hình”11.
Lần thứ hai: đối với tội nhận hối lộ lần sửa đổi vào năm 1992 đã bổ sung hai tình tiết
tăng nặng vào khoản 2 Điều 226 là “đòi hối lộ”12 và “lạm dụng chức vụ, quyền hạn”13.
Đối với tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ cũng bổ sung thêm một tình tiết tăng nặng
tại khoản 2 Điều 227 là tình tiết “sử dụng công quỹ để đưa hối lộ”14.
Lần thứ ba:

• Đối với tội nhận hối lộ đã có sự sửa đổi, bổ sung lớn về quy định, cụ thể:
Tại khoản 1 đã có sự miêu tả cụ thể, chi tiết hơn về hành vi phạm tội “Người nào lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến
dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng,
vi phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm để làm hoặc không làm một việc
vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”15.
Có thể thấy được ba sự thay đổi lớn tại khoản 1 Điều này là việc bổ sung của hối lộ là “tài

10
Khoản 3 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985.
11
Khoản 3 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1991.
12
Điểm b khoản 2 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1992.
13
Điểm e khoản 2 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1992.
14
Điểm e khoản 2 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1992.
15
Khoản 1 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 13 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

sản”, nêu rõ giá trị của hối lộ là “từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc
dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần hoặc đã
bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm” và “làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu
cầu của người đưa hối lộ”.
Việc sửa đổi, bổ sung vào năm 1997 đã miêu tả cụ thể hơn về giá trị của hối lộ cũng
như mức hình phạt tại khoản 3 và khoản 4 Điều này: “Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: Của hối lộ có giá
trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; Có nhiều tình tiết quy định tại
khoản 2 Điều này; Gây hậu quả rất nghiêm trọng”16, “Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù chung thân hoặc tử hình: Của hối lộ có giá trị từ năm
mươi triệu đồng trở lên; Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này; Gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng”17.

• Đối với tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ tại Điều 227 cũng có sự thay đổi lớn
về quy định, cụ thể:
Tại khoản 1 Điều này mức giá trị của hối lộ được nêu rõ cụ thể là “từ năm trăm nghìn
đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần” và mức hình phạt mà người phạm tội phải chịu
cũng được nâng lên từ “tù từ sáu tháng đến năm năm”18 thành “tù từ một năm đến sáu
năm”19.
Tại khoản 2 Điều này các tình tiết tăng nặng “của hối lộ có giá trị lớn”20 đã được cụ
thể hóa thành “của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới ba mươi triệu đồng”21
và bổ sung thêm tình tiết “dùng tài sản xã hội chủ nghĩa để đưa hối lộ”22.
Tương tự với lần sửa đổi vào năm 1997 bộ luật này đối với tội nhận hối lộ thì tội đưa
hối lộ và tội làm môi giới hối lộ cũng miêu tả cụ thể hơn về giá trị của hối lộ cũng như mức
hình phạt tại khoản 3 và khoản 4 Điều này: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm: Của hối lộ có giá trị từ ba mươi
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều
này; Gây hậu quả rất nghiêm trọng”23 và “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

16
Khoản 3 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.
17
Khoản 4 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.
18
Khoản 1 Điều 227 bộ luật Hình sự năm 1985.
19
Khoản 1 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.
20
Điểm c khoản 2 Điều 227 bộ luật Hình sự năm 1985.
21
Điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.
22
Điểm đ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.
23
Khoản 3 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 14 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

đây, thì bị phạt tù chung thân hoặc tử hình: Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng
trở lên; Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng”24. Bên cạnh đó, một sự thay đổi lớn về mức hình phạt là tội phạm về đưa hối lộ và
làm môi giới hối lộ vẫn chịu hình phạt “tử hình” theo quy định mới so mới mức hình phạt
cao nhất là “chung thân” theo quy định cũ.
Qua các lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa giải quyết được triệt để công cuộc phòng
chống tội phạm này. Nhiều vụ án nghiêm trọng vẫn lọt qua khe hở của pháp luật, chưa bị
xử lý thích đáng, một Bộ luật hình sự hoàn chỉnh hơn được ban hành là điều thiết yếu xảy
ra.
1.2.4. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 1999
Trước những hạn chế gặp phải trong quá trình áp dụng pháp luật, tại kỳ họp thứ 6 ngày
21/12/1999 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã thông qua Bộ
luật hình sự năm 1999 và đã có hiệu lực ngày 01/7/2000. Bộ luật này đã thay thế Bộ luật
hình sự 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự vào các năm
1989, 1991, 1992 và 1997, với sự kế thừa một cách hợp lý, tích cực so với những quy định
trước đó, Bộ luật hình sự 1999 đã có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện
thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. Qua đó, Bộ luật cũng quy định về
các tội hối lộ chặt chẽ, cụ thể hơn. Các tội phạm về hối lộ được quy định cụ thể như sau:
“Điều 279. Tội nhận hối lộ
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ năm
trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu
cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
c) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm:

24
Khoản 4 Điều 227 Bộ luật Hình sự năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 15 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

a) Có tổ chức;
b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
đ) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến
hai mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có
thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản.”
So với Bộ luật hình sự năm 1985, tội nhận hối lộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 được
quy định riêng biệt ở Mục A (các tội phạm về tham nhũng) trong chương các tội phạm về
chức vụ (chương XXI) so với bộ luật trước đó là đặt cùng một chương các tội phạm về
chức vụ (chương IX) không có sự phân chia nhóm các tội phạm về tham nhũng và nhóm
các tội phạm khác về chức vụ. Điều này phải xét đến yếu tố chủ thể phạm tội là chủ thể
đặc biệt – người có chức vụ, quyền hạn. Qua đó, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có những
thay đổi cơ bản khi đã bổ sung mức định lượng về số tiền nhận hối lộ vào quy định để làm
cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
trị giá từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng
nhưng thuộc một trong ba trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 279 thì sẽ bị xử lý
trách nhiệm hình sự. Hơn nữa, khung hình phạt về tội này trong Bộ luật hình sự năm 1999
cũng có phần tăng hơn so với Bộ luật hình sự 1985 là bốn khung hình phạt chính và một
khoản hình phạt bổ sung tại khoản 5 là “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 16 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

năm năm, có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản” so với trước kia chỉ có ba khung hình phạt.
Xem xét quy định, ta có thể thấy được một số đặc điểm cơ bản sau của tội nhận hối lộ:
Thứ nhất, chủ thể phạm tội phải là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn.
Thứ hai, khách thể của tội phạm này là hoạt động đúng đắn, bình thường, tính chuẩn
mực trong công tác của cơ quan, tổ chức do Nhà nước quy định.
Thứ ba, mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một
việc theo yêu cầu hoặc vì lợi ích của người đưa hối lộ.
Thứ tư, đối tượng của nhận hối lộ phải là tiền, tài sản hoặc những lợi ích vật chất khác
mà có thể quy đổi ra giá trị thành tiền.
Hành vi nhận hối lộ trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác có thể được hiểu là: đối với trường hợp đã nhận tức là người có
chức vụ, quyền hạn được coi là đã nhận của hối lộ khi đã nhận số tiền hoặc tài sản, lợi ích
vật chất khác dù chỉ nhận một phần hay toàn bộ; trường hợp sẽ nhận được hiểu là người có
chức vụ, quyền hạn vẫn chưa nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất từ người đưa hối lộ
nhưng có căn cứ để cho rằng đã có sự thỏa thuận sau khi công việc được thực hiện theo
mong muốn của người đưa hối lộ thì người có chức vụ, quyền hạn sẽ nhận được lợi ích
như thỏa thuận.
Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai tội đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ trong
cùng một Điều 227 thì Bộ luật hình sự năm 1999 lại phân định rõ ràng hai tội danh này ở
hai Điều khác nhau là Điều 289 (tội đưa hối lộ) và Điều 290 (tội làm môi giới hối lộ), cụ
thể:

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 17 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

“Điều 289. Tội đưa hối lộ


1. Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười
triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm
nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười
ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai
mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình:
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
6. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi
là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác,
thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã
dùng để đưa hối lộ”.
“Điều 290. Tội làm môi giới hối lộ
1. Người nào làm môi giới hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới
mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 18 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ tám năm đến mười
lăm năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến
hai mươi năm:
a) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.
6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn
trách nhiệm hình sự”.
Tương tự về sự khác biệt trong quy định giữ hai Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật
hình sự 1999 về tội nhận hối lộ, hai tội danh này cũng được quy định một cách cụ thể với
mức định lượng về số tiền đưa, làm môi giới hối lộ vào quy định, với giá trị tài sản “từ
năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần” để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm
hình sự. Hơn nữa, khung hình phạt về hai tội này trong Bộ luật hình sự năm 1999 cũng có
phần tăng hơn so với Bộ luật hình sự 1985 là bốn khung hình phạt chính, đồng thời bổ sung
thêm những tình tiết định khung cũng như hình phạt bổ sung tại khoản 5 của hai tội này là
“bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ”. Bên cạnh đó, điều luật còn quy
định thêm khoản 6 với cách xác định vô tội đối với trường hợp đưa hối lộ“ bị ép buộc đưa
hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác” và cả hai điều luật đều có những quy
định khuyến khích hành động khai báo trước khi bị phát giác của người phạm tội với khả
năng “có thể được miễn trách nhiệm hình sự ”. Gần đây nhất, ngày 19/6/2009 tại kỳ họp
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 19 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

thứ 5, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi cụm từ “năm trăm nghìn
đồng” thành “hai triệu đồng” đối với cả ba tội.
1.2.5. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội hối lộ trong Bộ luật hình
sự năm 2015 đến nay
Với mong muốn ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình
sự nói riêng, ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại
kỳ họp thứ 10, khóa XIII đã thông qua Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết
số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật hình sự. Theo quy định thì Bộ luật này sẽ có
hiệu lực từ ngày 01/7/2016 nhưng trong quá trình soạn thảo xảy ra nhiều sai sót nên ngày
29/6/2016 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/NQ-QH13 về việc lùi hiệu lực
thi hành Bộ luật này. Ngày 20/6/2017 Quốc hội ban hành Nghị quyết số 41/2017/QH14 về
hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 kể từ ngày 01/01/2018. Với hoạt
động lập pháp ngày càng tiến bộ và khắc phục được những nhược điểm của quy định cũ,
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những bước tiến đáng kể thông qua một số quy định mới
tiêu biểu, cụ thể một số điểm mà cả ba tội phạm về hối lộ đều có sự sửa đổi, bổ sung trong
Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
Thứ nhất, một điểm thay đổi nổi bậc trong quy định là Bộ luật Hình sự năm 2015 đã
nâng giá trị của hối lộ ở cả ba loại tội phạm này, từ giá trị của hối lộ tại quy phạm cơ bản
đến quy phạm tăng nặng.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bao quát đầy đủ tất cả các dạng lợi ích mà các
đối tượng phạm tội có thể đem ra làm điều kiện cũng như là nhận được khi thực hiện tội
phạm. So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung lợi ích phi
vật chất vào các loại của hối lộ. Việc bổ sung này trước hết đã thể hiện được tinh thần
thống nhất giữa Bộ luật Hình sự mới với Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống
tham nhũng năm 2003 về tài sản hối lộ là “mọi loại tài sản, vật chất hay phi vật chất, động
sản hay bất động sản, hữu hình hay trừu tượng”25, bên cạnh đó đã thể hiện được sự chặt
chẽ, đầy đủ hơn của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với luật cũ và các dạng lợi ích như tình
dục hoặc tình cảm,.. sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm về tội hối lộ nếu cấu thành đủ các yếu tố
luật định.
Thứ ba, Bộ luật hình sự năm 2015 đã loại bỏ các tình tiết mang tính định tính như “Gây
hậu quả nghiêm trọng”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “Gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng” trong Bộ luật Hình sự năm 1999 ra khỏi các quy định thay vào đó là nêu rõ

25
Điều 2 Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng năm 2003.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 20 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

mức thiệt hại mà tội phạm gây ra. Điều này giúp dễ dàng hơn trong việc xác định mức hình
phạt và áp dụng pháp luật vào công tác xét xử của cơ quan thẩm quyền.
Thứ tư, nếu quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ giới hạn hành vi hối lộ ở khu
vực công thì Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có một sự mở rộng khá nổi bật là phạm vi tội
phạm về hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội
này. Điều này thể hiện được sự nhìn nhận tính chất nguy hiểm của hành vi hối lộ đối với
xã hội vì không chỉ hoạt động của khu vực Nhà nước mà hoạt động của các doanh nghiệp,
tổ chức ngoài Nhà nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến xã hội, việc xử phạt cả các
hành vi hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước góp phần tạo nên lối ứng xử công bằng trong tất
cả các lĩnh vực, tạo điều kiện phát triển một cách công bằng, lành mạnh.
Bên cạnh đó, quy định cũng đã sửa đổi, bổ sung một số điểm riêng biệt của từng loại
tội phạm về hối lộ, cụ thể như sau:
Đối với tội nhận hối lộ: Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ quy phạm tăng nặng “Phạm
tội nhiều lần”26 và thay vào đó là quy phạm “Phạm tội 02 lần trở lên”27.
Đối với tội đưa hối lộ: Thay vì chỉ mô tả hành vi một cách giản đơn giống với tội danh
là “người nào đưa hối lộ” theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì Bộ luật Hình sự năm 2015
đã mô tả cụ thể hơn hành vi phạm tội đưa hối lộ là “Người nào trực tiếp hay qua trung
gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức
khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một
việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ”28. Tương tự với tội nhận hối lộ Bộ
luật Hình sự năm 2015 đã thay tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần”29 thành tình tiết
“Phạm tội 02 lần trở lên”30 và bổ sung thêm một tình tiết tăng nặng “Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn”31. Một sự thay đổi lớn đối với tội phạm này là Bộ luật Hình sự năm 2015 đã
giảm mức hình phạt tối đa ở các điều khoản và loại bỏ hình phạt tử hình đối với tội này mà
mức hình phạt cao nhất người phạm tội phải chịu là 20 năm tù.
Đối với tội môi giới hối lộ: Tương tự với hai tội phạm về nhận hối lộ và đưa hối lộ, đối
với tội phạm về môi giới hối lộ Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay tình tiết tăng nặng
“Phạm tội nhiều lần”32 thành tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”33 và bổ sung thêm hai

26
Điểm c khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999.
27
Điểm đ khoản 2 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015.
28
Khoản 1 Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015.
29
Điểm d khoản 2 Điều 289 Bộ luật Hình sự năm 1999.
30
Điểm đ khoản 2 Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015.
31
Điểm d khoản 2 Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015.
32
Điểm d khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 1999.
33
Điểm e khoản 2 Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 21 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

tình tiết tăng nặng là “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”34 và “Phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp”35.
Quy định các tội phạm về hối lộ tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự
năm 1999 có nhiều điểm mới song Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn còn nhiều điểm bất cập
cần được sửa đổi, bổ sung tuy nhiên về các tội phạm này trong Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) không có gì thay đổi.
1.3. Ý nghĩa nghiên cứu về các tội hối lộ
Thời gian gần đây, loại tội phạm về hối lộ diễn biến khá phức tạp. những hiện tượng
nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ cùng với những hậu quả kèm theo của chúng như
sự suy thoái về đạo đức và lối sống, việc thực hiện tội phạm hoặc tạo điều kiện cho một số
loại tội phạm khác của một bộ phận cán bộ, công chức diễn biến khá phức tạp và nguy
hiểm, gây sự bất bình và mất niềm tin của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà
nước. Một loạt vụ án về hối lộ hết sức nghiêm trọng đã xảy ra trong thời gian vừa qua liên
quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như thương mại, xây dựng cơ bản, thể thao,
bảo vệ pháp luật. Bên cạnh đó, các tội phạm về hối lộ giờ đây đã len lỏi vào cả những lĩnh
vực vốn được xem là cao quý như giáo dục đào tạo, y tế. Thủ đoạn phạm tội về hối lộ cũng
ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Thực tế đó yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải có những hành
động kiên quyết và kịp thời. Chính vì vậy, đối với Việt Nam, việc tăng cường những biện
pháp đấu tranh phòng, chống các tội phạm này, trong đó có biện pháp trách nhiệm hình sự
là đòi hỏi khá cấp bách.
Đối với Việt Nam việc bảo vệ hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước bằng pháp
luật hình sự đã được chú trọng và được cụ thể hoá bằng việc ban hành các quy phạm pháp
luật hình sự về các tội phạm về chức vụ, trong đó có nhóm tội phạm về hối lộ, bên cạnh
những thành công về mặt lập pháp, có một số điểm bất cập trong các quy định đó cần phải
được phân tích, làm sáng tỏ và đặc biệt là cần được hoàn thiện. Chính vì vậy, việc hiểu rõ
về loại tội phạm này là một trong những nội dung cơ bản góp phần thiết thực vào cuộc đấu
tranh phòng, chống mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề tài nghiên cứu do vậy sẽ có thể
gợi ý một số nội dung của luật cần được giải thích và làm rõ.
Trong khi đó, hoạt động áp dụng luật hình sự đấu tranh với các loại tội phạm này đang
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và còn dừng lại ở những kết quả khá khiêm tốn, đối với
Việt Nam những khó khăn, vướng mắc trong nhận thức cũng như trong thực tiễn áp dụng
những quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về hối lộ vẫn chưa được giải quyết

34
Điểm đ khoản 2 Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015.
35
Điểm b khoản 2 Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 22 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

triệt để, hiện nay vẫn có một khoảng cách không nhỏ giữa một bên là thực trạng của các
hành vi hối lộ với một bên là thực tế điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm về hối lộ. Thông
qua việc nghiên cứu đề tài những vướng mắc trong việc áp dụng luật hình sự xử lý các tội
phạm này được làm sáng tỏ cũng như giải pháp khắc phục sớm được đề ra.
Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức cũng như
những hành vi tiếp tay cho tiêu cực là điều kiện tiên quyết để duy trì sự trong sạch, vững
mạnh của bộ máy nhà nước. Để bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ
chức, Nhà nước Việt Nam kết hợp nhiều biện pháp khác nhau và đã sớm nhận thấy tầm
quan trọng của biện pháp trách nhiệm hình sự đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội
liên quan đến chức vụ, quyền hạn. Việc nghiên cứu sâu về quy định của các tội hối lộ
giúp hiểu rõ hơn về bản chất cũng như những vấn đề cần giải quyết, góp phần nâng cao
hiệu quả phòng chống loại tội phạm này cũng như hoàn thiện hệ thông pháp luật, nâng
cao tinh thần thượng tôn pháp luật. Hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ làm cơ sở để truy
cứu trách nhiệm hình sự các chủ thể phạm tội, tránh bỏ sót tội phạm, xử đúng người đúng
tội. Bên cạnh đó, nâng cao hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật vì bản chất của
pháp luật là mang tính giáo dục nhân dân, hướng xã hội đến sự hòa bình.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 23 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI HỐI LỘ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
Hiện nay các tội phạm về hối lộ được quy định tại Chương XXIII (Các tội phạm về chức
vụ) của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ
luật Hình sự). Mặc dù trong Bộ luật Hình sự các tội phạm về hối lộ không được sắp xếp
thành một nhóm riêng nhưng dựa vào các quy định của Bộ luật có thể xác định nhóm tội
phạm này bao gồm: tội nhận hối lộ (Điều 354), tội đưa hối lộ (Điều 364) và tội môi giới
hối lộ (Điều 365). Tuy đều là tội phạm về hối lộ song ba tội phạm này lại được quy định
tại hai mục khác nhau của Chương XXIII, với tính chất của tội phạm khác nhau. Cụ thể,
tội nhận hối lộ được quy định tại Mục 1 (Các tội phạm tham nhũng) với tính chất là tội
phạm về tham nhũng. Trong khi đó tội đưa hối lộ và tội môi giới hối lộ được quy định tại
Mục 2 (Các tộ phạm khác về chức vụ) với tính chất là tội phạm về chức vụ và không bị xem
là tội phạm về tham nhũng. Bộ luật Hình sự quy định như trên là xuất phát từ quan điểm
về khái niệm “tham nhũng” nói chung và khái niệm “tội phạm về tham nhũng” nói riêng,
cụ thể như sau: theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học thì “Tham nhũng là lợi
dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của cải”36, theo Luật phòng chống tham
nhũng năm 2005 quy định “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”37. Như vậy, qua các khái niệm có thể xác định
hai yếu tố cơ bản của tham nhũng là: yếu tố chức vụ, quyền hạn và yếu tố lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó. Vì vậy, khi sắp xếp nhóm tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự
quan điểm chỉ đạo xác định chủ thể của tội phạm tham nhũng phải là người có chức vụ,
quyền hạn. Trong số ba tội phạm về hối lộ chỉ tội nhận hối lộ có yếu tố chủ thể là người có
chức vụ, quyền hạn nên bị xem là tội phạm về tham nhũng. Hai tội phạm còn lại vẫn thuộc
nhóm tội phạm về chức vụ vì có liên quan đến hoạt động thực thi công vụ của người có
chức vụ, quyền hạn.
Trong chương này người viết tập trung phân tích và tìm hiểu những quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về các tội hối lộ, cụ thể là ba tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và tội
môi giới hối lộ. Trong đó có khái niệm, căn cứ pháp lý, dấu hiệu cấu thành tội phạm cũng
như những trường hợp phạm tội cụ thể của các tội phạm này.

36
Hoàng Phê: Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, 2016.
37
Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2012.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 24 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.1. Tội nhận hối lộ


2.1.1. Khái niệm tội nhận hối lộ
Tội nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian
đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác dưới bất kỳ hình thức nào, để làm hoặc
không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ38.
2.1.2. Căn cứ pháp lý của tội nhận hối lộ
Tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ
nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức
khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ,
thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000
đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm
hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
g) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến
dưới 1.000.000.000 đồng;

38
Nguyễn Manh Hùng: Thuật ngữ Pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 25 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân
hoặc tử hình:
a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể
bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản.
6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận
hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”.
2.1.3. Dấu hiệu cấu thành tội nhận hối lộ
2.1.3.1. Dấu hiệu về khách khể của tội nhận hối lộ
Cũng như những loại tội phạm khác, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội đó39. Qua đó, khách thể của loại tội phạm này là hoạt động đúng đắn, bình thường,
tính chuẩn mực trong công tác của cơ quan, tổ chức do nhà nước quy định. Đối tượng
của tội nhận hối lộ phải là tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất. Việc xác
định đối tượng tác động của đối tượng này phải dựa trên lý luận hình sự về vấn đề này “Đối
tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội
ác tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ”40. Khoa học luật hình sự xác định đối tượng tác động của tội phạm có
thể là con người, là các đối tượng vật chất hoặc là hoạt động bình thường của chủ thể. Hầu
hết hành vi nhận hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn là làm trái công vụ được giao,
gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức. Các hành vi phạm tội này chủ yếu là làm biến đổi các
hoạt động, thực hiện chức năng của cơ quan, tổ chức xâm phạm đến hoạt động bình thường,
các quan hệ xã hội của những cơ quan, tổ chức này mà làm cho hoạt động đó xảy ra theo
mong muốn của người đưa hối lộ. Ví dụ, cán bộ hải quan không thực hiện việc kiểm tra
hàng hóa nhập khẩu theo ý muốn của người đưa hối lộ khi thỏa thuận nhận tiền từ họ. Qua
đó đã thấy được sự biến dạng xử sự của người nhận hối lộ thông qua việc hưởng một lợi
ích không chính đáng nào đó. Bên cạnh đó, hành vi hối lộ cũng xâm phạm nghiêm trọng

39
Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 (Phần chung), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013,
tr.15.
40
Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2003, tr.664.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 26 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

đến uy tín của cơ quan, tổ chức. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động, sự tồn
tại vững mạnh và lâu dài của bộ máy hoạt động. Những đức tính cốt lõi của những người
nhân danh quyền lực như trung thực, công bằng, khách quan dần bị phai nhạt thay vào đó
là sự vụ lợi cá nhân, theo đó tỉ lệ tín nhiệm và sự tôn trọng của nhân dân đối với toàn bộ
hệ thống cơ quan cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, trong số đó có cả sự không tôn trọng
của những người đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ vì thiếu tính nghiêm minh trong cách
hành xử của người mang chức vụ, quyền hạn. Hành vi nhận hối lộ là một trong những
nguyên nhân dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng, tiếp tay cho sự suy giảm về đạo đức và
uy tín.
Đối tượng tác động của tội nhận hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi
vật chất. Theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “tài sản” được hiểu là “vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản”41, theo đó, sẽ bao gồm các tài sản là bất động sản như “Đất đai; Nhà,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình
xây dựng và tài sản khác theo quy định của pháp luật”42 và những tài sản không phải là
bất động sản (tài sản là động sản) và “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”43. Bên cạnh đó, với quy định về của hối lộ ngoài tiền và tài sản thì quy định
của hối lộ gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất đã bao quát một cách đầy đủ nhất
về của hối lộ, phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham
nhũng năm 2003 với cách hiểu của hối lộ gồm “mọi loại tài sản, vật chất hay phi vật chất,
động sản hay bất động sản, hữu hình hay trừu tượng, và các văn bản pháp lý hay giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu hoặc lợi ích đối với tài sản đó”44, quy định về tiền, tài sản, lợi
ích vật chất và phi vật chất đã bao hàm tất cả các loại lợi ích mà người phạm tội có thể có
được khi thực hiện tội phạm.
Bên cạnh đó, có những hành vi thỏa thuận nhận hối lộ song vẫn làm đúng nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, nhưng hành vi nhận hối lộ vẫn làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan,
tổ chức mà họ là thành viên nói riêng và hệ thống cơ quan, tổ chức liên quan nói chung.
2.1.3.2. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội nhận hối lộ
Đối với tội nhận hối lộ, một trong những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi
phạm tội có cấu thành hay không thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhận tiền
của, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không

41
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015.
42
Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015.
43
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015.
44
Điều 2 Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng năm 2003.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 27 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

làm một việc theo yêu cầu hoặc vì lợi ích của người đưa hối lộ. Hành vi nhận hối lộ được
thực hiện trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác và cả lợi ích phi vật chất (trường hợp sẽ nhận được hiểu là người có chức vụ,
quyền hạn vẫn chưa nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích từ người đưa hối lộ nhưng có căn cứ để
cho rằng đã có sự thỏa thuận sau khi công việc được thực hiện theo mong muốn của người
đưa hối lộ thì người có chức vụ, quyền hạn sẽ nhận được lợi ích như thỏa thuận).
Trước hết, người phạm tội nhận hối lộ phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình để thực hiện hành vi nhận hối lộ. Mối quan hệ nhân quả của hành vi nhận
hối lộ này phải từ người có chức vụ, quyền hạn mà họ phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn
có liên quan đến họ để thực hiện hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác, nếu hành vi
nhận của hối lộ này do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện nhưng lại không liên quan
đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn nhưng vẫn không thể bị
coi là nhận hối lộ.
Trường hợp người nhận hối lộ trực tiếp hoặc qua trung gian để nhận tiền, tài sản, lợi
ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của người đưa hối lộ được hiểu như sau:
Trực tiếp nhận hối lộ được hiểu là người nhận hối lộ tiếp xúc thẳng với đối tượng đưa
hối lộ, trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác từ người đưa hối lộ mà không thông
qua người khác, cụ thể như việc Nguyễn Văn A đưa của hối lộ bằng cách trực tiếp cầm số
tiền đã thỏa thuận giao cho Phan Văn B hoặc chuyển số tiền đó vào tài khoản ngân hàng
của B mà không phải thông qua sự tiếp tay đưa của hối lộ từ người nào khác. Tuy nhiên,
cần phân biệt trường hợp người trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác của người khác
nhưng người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích đó không phải là người đưa hối lộ, cũng không
phải là người môi giới hối lộ.
Qua trung gian để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của người
đưa hối lộ là trường hợp người nhận hối lộ không trực tiếp nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích
khác của người đưa hối lộ hoặc người đưa hối lộ không trực tiếp đưa tiền, tài sản hoặc lợi
ích khác cho người nhận hối lộ mà là thông qua cầu nối ở giữa, nối liền mối quan hệ giữa
người đưa hối lộ và người nhận hối lộ. Qua trung gian không nhất thiết là chỉ qua người
thứ ba mà có thể là qua nhiều người, nhiều khâu nhưng cuối cùng người nhận hối lộ vẫn
nhận được tiền, tài sản hoặc lợi ích khác của người đưa hối hộ. Ở trường hợp này, người
nhận hối lộ không nhất thiết phải biết người đưa hối lộ là ai, chỉ cần biết đó là của hối lộ
mà vẫn nhận là đã bị coi là nhận hối lộ, nếu có căn cứ xác định rằng người nhận tiền, tài
sản hoặc lợi ích khác nhưng không biết đó là của hối lộ thì người nhận tiền, tài sản hoặc
lợi ích khác đó không bị coi là nhận hối lộ.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 28 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Tuy nhiên, với sự tinh vi của các loại tội phạm nói chung và tội phạm về nhận hối lộ
nói riêng, đa số những người có chức vụ, quyền hạn nhận hối lộ đều không trực tiếp nhận
của hối lộ mà thông qua người thân của mình nhận như: Cha, mẹ, vợ, chồng, con,..Có
trường hợp việc nhận của hối lộ được thực hiện thông qua các hoạt động như mua bán tài
sản, tặng quà nhân dịp mừng lễ, tết,..là những lý do chính đáng trong văn hóa ứng xử của
con người.
Hành vi trực tiếp hay qua trung gian nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi
vật chất mà không bắt buộc bất kỳ hình thức nào mà người đưa và nhận hối lộ sử dụng là
việc nhận của hối lộ không bị phụ thuộc vào thủ đoạn mà người đưa và nhận hối lộ thực
hiện. Hình thức ở đây là hình thức nhận hối lộ chứ không phải hình thức giao nhận tiền,
nên khi xác định hình thức nhận hối lộ trong một số trường hợp núp dưới danh nghĩa tưởng
như hợp pháp thì cần xác định hình thức đó chính là thủ đoạn đưa và nhận hối lộ, còn hình
thức cụ thể đó chỉ là thủ đoạn giải quyết để che giấu tội phạm. Tuy nhiên, nếu hình thức
đó không phải là thủ đoạn đưa và nhận hối lộ thì đó là lại một quan hệ thuộc các lĩnh vực
khác như: dân sự, kinh tế, hành chính hoặc chỉ là quan hệ thuộc lĩnh vực đạo đức.
Ví dụ: Thông qua hợp đồng mua bán, nhưng hợp đồng mua bán đó về hình thức đều
đúng với quy định của pháp luật; người mua chuyển tiền, người bán giao hàng với giá cả
thỏa thuận thì không thể coi đó là thủ đoạn đưa và nhận hối lộ được.
Như vậy, hình thức nhận hối lộ không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với cấu thành tội
phạm này, nhưng căn cứ vào hình thức ta xác định được thủ đoạn của hành vi nhận hối lộ
do người phạm tội thực hiện. Trong nhiều trường hợp nhờ thông qua hình thức nhận hối lộ
giúp ta xác định đó là thủ đoạn nhận hối lộ hay là quan hệ xã hội khác. Với việc không quy
định bất kỳ hình thức nhận hối lộ nào cũng đã đảm bảo được không bỏ lọt một hình thức
phạm tội tinh vi nào mà người phạm tội sử dụng.
Trường hợp người nhận hối lộ đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc
lợi ích phi vật chất từ người đưa hối lộ được hiểu như sau:
Đã nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất là trường hợp người nhận
hối lộ đã nhận được của hối lộ mà người đưa hối lộ đã trực tiếp hoặc qua trung gian giao
cho thông qua một số hình thức chiếm hữu như: đã cầm tiền, đã cầm tài sản, tiền đã được
chuyển vào thẻ ngân hàng của mình (Ngân hàng đã báo có),..
Sẽ nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất được hiểu là người đưa
hối lộ hứa sẽ giao tiền, tài sản hoặc lợi ích khác cho người nhận hối lộ. Người có chức vụ,
quyền hạn vẫn chưa nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích từ người đưa hối lộ nhưng có căn cứ để
cho rằng đã có sự thỏa thuận sau khi công việc được thực hiện theo mong muốn của người
đưa hối lộ thì người có chức vụ, quyền hạn sẽ nhận được lợi ích như thỏa thuận.
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 29 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Dù trong trường hợp đã nhận hay sẽ nhận của hối lộ thì giá trị của hối lộ không phải là
hậu quả của tội phạm mà nó chỉ là phương tiện để thực hiện tội phạm, nên không thể cho
rằng trường hợp đã nhận của hối lộ là tội phạm hoàn thành còn sẽ nhận là tôi phạm chưa
hoàn thành, vì cơ bản tội nhận hối lộ không phải là tội phạm có tính chất chiếm đoạt, nên
hành vi đã nhận của hối lộ không phải là hành vi chiếm đoạt.
Thoả thuận về việc làm hoặc không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ là
những dấu hiệu thể hiện ý thức chủ quan của người nhận hối lộ và người đưa hối lộ. Trong
đó, thoả thuận về việc làm hoặc không làm một việc vì lợi ích của người đưa hối lộ là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội nhận hối lộ. Nói cách khác, giữa người có việc và người có
chức vụ, quyền hạn phải có sự thoả thuận nhất định về việc người có chức vụ, quyền hạn
làm hoặc không làm một việc cụ thể nào đó vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối
lộ, dù là hành vi làm hay không làm một việc vẫn gây ảnh hưởng đến hoạt động của cơ
quan, tổ chức.
Để làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là trường hợp người
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm một công việc nào
đó, mà việc đó đem lại lợi ích cho người khác mà qua việc làm đó người có chức vụ, quyền
hạn được hưởng lợi ích là tiền, tài sản hoặc lợi ích khác. Ví dụ: Phụ huynh đưa hối lộ cho
hiệu trưởng để con mình được vào trường học dù không đủ điều kiện để được học tại trường
này, đưa hối lộ để giảm nhẹ hình phạt,…Có người đưa hối lộ chỉ yêu cầu người nhận hối
lộ đẩy nhanh tiến độ một công việc nào đó mà có lợi cho người đưa hối lộ hay họ quan tâm
đến.
Không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là trường hợp
người phạm tội không thực hiện một công việc mà lẽ ra họ phải thực hiện theo nhiệm vụ,
quyền hạn mà mình có và thông qua hành vi không làm một việc đã mang lại lợi ích theo
mong muốn của người đưa hối lộ. Ví dụ: Kiểm sát viên không thực hiện quyền truy tố khi
phát hiện tội phạm, phát hiện gian lận trong thi tuyển công chức, viên chức nhưng vì đã
nhận hối lộ nên không xử lý theo đúng quy định,..
Trường hợp, người có chức vụ nhận quà biếu sau khi đã làm đúng chức trách của mình
không được coi là nhận hối lộ bởi giữa người có chức vụ và người đưa quà biếu không có
bất kỳ thỏa thuận nào về việc tặng quà biếu, người nhận quà biếu thực hiện công việc của
mình đúng chức năng, quyền hạn, vô tư thì quà biếu được như sự biết ơn, có trước có sau,
là tấm lòng, đạo đức của người Việt nam.
Tóm lại, bị coi là hành vi nhận hối lộ nếu có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của
mình trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc
phi vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 30 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.1.3.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội nhận hối lộ


Trước hết, người phạm tội nhận hối lộ phải là người có chức vụ, quyền hạn. Theo đó,
có thể hiểu chức vụ, quyền hạn là quyền hành, trách nhiệm tương ứng với chức quyền theo
cương vị, chức vụ cho phép từ đó có thể thấy được yếu tố quan trọng để thực hiện được tội
phạm này là sự liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người nhận hối lộ, nếu họ
không có chức vụ, quyền hạn thì việc thực hiện hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích khác
của người đưa hối lộ khó có thể xảy ra, điều này chứng tỏ chức vụ, quyền hạn là điều kiện
vô cùng thuận lợi để người phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi của mình.
Chủ thể của tội nhận hối lộ phải đảm bảo đủ điều kiện cần và đủ, cụ thể là người từ đủ
16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự và không bị rơi vào tình trạng
“Đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình”45 theo Điều 21 Bộ luật Hình sự và đồng thời phải là người
có chức vụ, quyền hạn, mà chức vụ, quyền hạn đó có liên quan đến việc lợi dụng để thực
hiện tội phạm. Trường hợp người có chức vụ nhưng chức vụ, quyền hạn của họ không liên
quan đến việc giải quyết công việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì không coi là tội
nhận hối lộ mà phạm vào tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi.
Đối với người phạm tội thuộc lĩnh vực công: Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
36 Luật cán bộ, công chức năm 2008 (Điều kiện đăng ký dự tuyển công chức) quy định
điều kiện phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Qua quy định trên có thể hiểu là chủ thể nhận
hối lộ là cán bộ, công chức chỉ có thể là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Đối với chủ thể là
người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể trở thành chủ thể của tội nhận hối lộ với vai trò là đồng
phạm vì những người đồng phạm không nhất thiết phải là cán bộ, công chức.
Đối với người phạm tội thuộc các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước: Cũng theo
quy định tại Điều 354 Bộ Luật Hình Sự đã thể hiện sự mở rộng về chủ thể phạm tội này
không chỉ trong phạm vi Nhà nước, mà còn cả những người có chức vụ, quyền hạn khu
vực ngoài Nhà nước “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài
Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này”46. Theo quy định tại Bộ
luật Lao động năm 2012 thì “người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên”47 và theo quy
định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự thì người phạm tội đối với tội phạm này là người từ
đủ 16 tuổi trở lên. Như vậy, đối với trường hợp người phạm tội là người thuộc các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì phải đáp ứng đủ năng lực trách nhiệm hình sự khi

45
Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
46
Khoản 6 Điều 354 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
47
Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 31 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

không thuộc Điều 21 Bộ luật Hình sự và đáp ứng về độ tuổi theo quy định tại Điều 12 Bộ
luật Hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên thì sẽ bị xử lý hình sự nếu có đủ các yếu tố cấu
thành tội phạm này.
2.1.3.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội nhận hối lộ
Việc thực hiện hành vi nhận hối lộ cho chính bản thân người đó được hiểu là hành vi
mang tính chất vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “vụ lợi” được hiểu là “chỉ mưu cầu lợi
ích cho riêng mình”48. Từ đây có thể thấy hành vi nhận hối lộ của người người có chức vụ,
quyền hạn là nhằm đem lại lợi ích cho chính bản thân người có chức vụ, quyền hạn. Bên
cạnh đó, việc thực hiện hành vi phạm tội của người có chức vụ, quyền hạn cũng có thể
nhằm đem lại lợi ích cho người hoặc tổ chức khác, một số trường hợp bản thân người có
chức vụ, quyền hạn không nhận các lợi ích như tiền, tài sản hoặc lợi ích khác từ người đưa
hối lộ mà các lợi ích đó sẽ được thỏa thuận về người nhận lợi ích là người hoặc tổ chức
nào khác, trường hợp người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi làm hoặc không làm
một việc theo như mong muốn của người đưa hối lộ và giữa họ có thỏa thuận về của hối lộ
nhưng của hối lộ sẽ được chuyển cho một viện dưỡng lão thì vẫn cấu thành tội nhận hối lộ
mặc dù của hối lộ không thuộc sở hữu của người có chức vụ, quyền hạn. Từ quy định này
có thể thấy yếu tố vụ lợi không phải là yếu tố bắt buộc đối với loại tội phạm này.
Cũng như các loại tội phạm khác, mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên
trong của người phạm tội, động cơ và mục đích phạm tội49. Qua quy định có thể thấy được
tội nhận hối lộ được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành
vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để làm hay không làm một việc vì lợi ích hoặc
theo yêu cầu của người đưa hối lộ là nguy hiểm cho xã hội, mong muốn làm hoặc không
làm việc đó nhằm mục đích nhận được của hối lộ đã thoả thuận trước với người đưa hối
lộ. Không có trường hợp nhận hối lộ nào được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp và vô ý, vì
người phạm tội bao giờ cũng mong muốn nhận được của hối lộ.
2.1.3. Các trường hợp phạm tội cụ thể và hình phạt của tội nhận hối lộ
2.1.3.1. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 1 Điều 354 Bộ luật hình sự
Căn cứ theo khoản 1 Điều 354 Bộ luật hình sự, có bốn trường hợp phạm tội cụ thể như
sau:
Trường hợp thứ nhất, phạm tội nhận hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị
giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng. Đây là trường hợp người phạm tội nhận

48
Hoàng Phê: Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, 2016.
49
Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 (Phần chung), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013,
tr.15.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 32 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

hối lộ lần đầu hoặc nhận hối lộ diễn ra nhiều lần mà tổng giá trị tài sản là từ 2.000.000
đồng đến dưới 10.000.000 đồng thì người nhận hối lộ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản này.
Trường hợp thứ hai, phạm tội nhận hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị
giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Với
trường hợp này có thể hiểu người phạm tội chỉ nhận hối lộ dưới 2.000.000 đồng thì phải là
người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ bằng một trong những hình thức
kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa
hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi nhận hối lộ. Nếu trước đó người phạm tội
tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi nhận hối lộ thì cũng
chưa cấu thành tội phạm này.
Trường hợp thứ ba, phạm tội nhận hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị
giá dưới 2.000.000 đồng và đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương
XXIII Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì hành vi nhận hối lộ đã
cấu thành tội phạm và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đã bị kết
án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nhận hối lộ người phạm tội đã bị Tòa án
kết án về một trong các tội: tội tham ô tài sản (Điều 353) ); tội nhận hối lộ (Điều 354); tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều
357); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi (Điều 358)
và tội giả mạo trong công tác (Điều 359), nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại
Điều 69 Bộ luật Hình sự. Nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác không phải là
một trong 7 tội phạm trên hoặc tuy đã bị kết án về một trong 7 tội phạm trên nhưng đã được
xoá án tích thì cũng chưa cấu thành tội nhận hối lộ.
Trường hợp thứ tư, phạm tội nhận hối lộ là lợi ích phi vật chất theo điểm b khoản 1
Điều này đã mở rộng đối tượng là quy định mới, thể hiện rõ hơn quy định “bất kỳ lợi ích
nào”. Lợi ích phi vật chất tức là những lợi ích tuy không có tính hữu hình và quy giá trị
thành tiền nhưng có khả năng đem lại sự hài lòng, sự thỏa mãn cho người nhận, do đó có
khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động thực thi công vụ của người có chức vụ, quyền hạn
, ví dụ: việc khen ngợi trên phương tiện truyền thông, việc quan hệ tình dục, tặng huân,
huy chương,…Do đó hành vi trao và nhận những lợi ích này bị xem là phạm tội hối lộ và
người phạm tội vẫn chịu trách nhiệm hình sự theo khoản này.
Đây là các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 354 Bộ luật hình sự, là cấu
thành cơ bản tội nhận hối lộ với khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 33 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.1.3.2. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự
Một số tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự, cụ thể
như sau:

• Có tổ chức
Cũng như các trường hợp pham tội có tổ chức khác, trường hợp “Phạm tội có tổ chức
là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm”50. Trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Thực tế cho thấy không phải bất kỳ vụ án hối lộ có tổ chức nào cũng có đầy đủ người giữ
các vai trò trên, nhiều trường hợp chỉ có người tổ chức và người thực hành và nhất thiết
phải có hai chủ thể này. Tuy nhiên, tội phạm nhận hối lộ có tổ chức có những đặc điểm
riêng như: người thực hành trong vụ án nhận hối lộ có tổ chức phải là người có chức vụ,
quyền hạn và có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để trực tiếp hoặc qua trung gian
nhận của hối lộ. Đối với trường hợp thực hiện tội phạm nhận hối lộ có tổ chức thường sẽ
rất khó bị phát hiện vì tội phạm này thường diễn ra với quy mô lớn, có sự câu kết chặt chẽ
và hành vi bao che, khỏa lấp lẫn nhau.

• Lạm dụng chức vụ, quyền hạn


Một yếu tố bắt buộc của tội phạm này là người nhận hối lộ phải là người có chức vụ,
quyền hạn và phải thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để nhận hối lộ. Nếu
chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì đó chỉ là tình tiết, là yếu tố định tội, nhưng
nếu người nhận hối lộ lạm dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có để thực hiện hành vi nhận
hối lộ thì lại là tình tiết, là yếu tố định khung tội phạm.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn nhận hối lộ là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn
trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
dưới bất kỳ hình thức nào để làm một việc vượt qua chức vụ quyền hạn của mình vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

• Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng
Đây là trường hợp nhận hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng. Qua quy định này có thể hiểu là người nhận hối lộ nhận của hối lộ có
giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng chứ không phải của hối lộ có giá
trị như trên, nên chỉ cần xác định căn cứ người nhận hối lộ sẽ hoặc đã nhận hối lộ có trị giá

50
Khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 34 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì sẽ bị xử phạt theo khoản 2 Điều này,
việc người nhận hối lộ đã nhận tiền hay chưa nhận tiền không phải là dấu hiệu bắt buộc.

• Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng
Với một quy định cụ thể hơn là nêu rõ giá trị tài sản gây thiệt hại sẽ tạo sự rõ ràng và
thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng pháp luật so với các tình tiết có tính “định tính” của
quy định trước đây như “gây hậu quả nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” và “đặc biệt
nghiêm trọng”. Gây thiệt hại về tài sản có thể hiểu là thiệt hại về tiền hoặc những tổn thất
có thể tính thành tiền như những thiệt hại về tài sản bị mất, tài sản bị hủy hoại hoặc hư
hỏng mà giá trị của những tài sản đó quy ra thành tiền với giá trị từ 1.000.000.000 đồng
đến dưới 3.000.000.000 đồng. Nếu những thiệt hại do hành vi nhận hối lộ gây ra thì những
thiệt hại này nếu là tiền thì sẽ căn cứ vào số tiền bị thiệt hại, còn thiệt hại là tài sản mà
không phải là tiền thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành thẩm định giá tương tự như
định giá của hối lộ. Tuy nhiên, khác với giá trị tài sản, của hối lộ được xác định tại thời
điểm nhận hối lộ, còn thiệt hại về tài sản sẽ được xác định tại thời điểm định giá.

• Phạm tội hai lần trở lên


Phạm tội hai lần trở lên là hai lần phạm tội nhận hối lộ trở lên mà mỗi lần phạm tội có
đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1 Điều luật này, đồng thời chưa có lần nào bị
truy cứu trách nhiệm hình sự trong các lần phạm tội và cũng chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Như vậy, trong trường hợp này người phạm tội chịu trách nhiệm hình
sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại51.

• Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước


Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước là trường hợp người nhận hối lộ biết rõ tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là tài sản của Nhà nước mà vẫn nhận.

• Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt
Quy định này chứa ba tình tiết khác nhau: đòi hối lộ, sách nhiễu và dùng thủ đoạn xảo
quyệt. Người phạm tội chỉ cần rơi vào một trong ba trường hợp này đã bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điểm g khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thực
hiện đủ cả ba hành vi này vẫn chỉ bị truy cứu trách hiệm hình sự theo điểm g khoản này.
Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp người phạm tội chủ
động đòi hỏi, yêu cầu, đề nghị, ép buộc, dọa dẫm người khác để họ đưa hối lộ cho mình,

51
Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, “Tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Tái phạm, tái phạm nguy hiểm” trong BL
Hình sự 2015 và kiến nghị”, Phạm Thị Hồng Đào, http://moj.gov.vn.vn/tintuc/pages/nghien-cứu-trao-
doi.aspx?ItemID=1995 [ truy cập ngày 29/10/2018 ].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 35 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

ví dụ như việc gây khó dễ cho người khác để đòi tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
như: đã có giấy phép kinh doanh như vẫn cố tình trì hoãn việc cấp giấy phép tạo tâm lý
người dân phải gửi một số tiền cho cán bộ có nhiệm vụ thực hiện việc cấp phép đó thì việc
cấp phép mới được thực hiện nhanh chóng, hoặc có những mánh khóe, cách thức gian dối,
thâm hiểm làm cho người đưa hối lộ hoặc người khác khó thấy được để đề phòng, thủ đoạn
xảo quyệt được thể hiện rất đa dạng như: nhận hối lộ bằng cách buộc người đưa hối lộ
mua tài sản của mình với giá cao rất nhiều lần so với giá trị thực tế của tài sản.
2.1.3.3. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 3 Điều 354 Bộ luật hình sự

• Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến
dưới 1.000.000.000 đồng
Cũng như các quy định với các tình tiết giá trị của hối lộ ở các khoản khác, người nhận
hối lộ nhận của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng
đến dưới 1.000.000.000 đồng thì sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản này, nếu của hối
lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá trị thị trường vào thời điểm
nhận của hối lộ hoặc đã hứa nhận hối lộ, chỉ cần xác định căn cứ rằng người phạm tội sẽ
nhận của hối lộ có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng là đã thuộc
trường hợp quy định tại khoản này, người phạm tội đã nhận được hay chưa không phải là
đấu hiệu bắt buộc, không thể cho rằng người phạm tội chưa nhận được của hối lộ là trường
hợp phạm tội chưa đạt.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 36 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

• Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng
Tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 điều luật này chỉ khác ở chổ giá
trị thiệt hại tài sản có phần tăng lên thành từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000
đồng. Gây thiệt hại về tài sản do hành vi nhận hối lộ gây ra thì những thiệt hại này nếu là
tiền sẽ căn cứ vào số tiền thiệt hại, còn thiệt hại là tài sản sẽ được cơ quan có thẩm quyền
tiến hành định giá như định giá của hối lộ.
Người phạm tội thuộc khoản này sẽ chịu trách nhiệm hình sự với khung phạt tù từ 15
năm đến 20 năm.
2.1.3.4. Phạm tội nhận hối lộ thuộc khoản 4 Điều 354 Bộ luật hình sự
Đây là khung hình phạt cao nhất đối với tội phạm này với mức phạt tù 20 năm, tù chung
thân hoặc tử hình được quy định cụ thể với 02 tình tiết phạm tội như sau:

• Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá trị giá 1.000.000.000
đồng trở lên
Với mức giá trị của hối lộ cao nhất là 1.000.000.000 đồng trở lên , người nhận hối lộ
nhận của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác với mức giá trị này sẽ chịu trách
nhiệm hình sự theo khoản này, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài
sản đó là giá trị thị trường vào thời điểm nhận của hối lộ hoặc đã hứa nhận hối lộ, chỉ cần
xác định căn cứ rằng người phạm tội sẽ nhận của hối lộ có trị giá 1.000.000.000 đồng trở
lên là đã thuộc trường hợp quy định tại khoản này.

• Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên


Gây thiệt hại về tài sản do hành vi nhận hối lộ gây ra thì những thiệt hại này nếu là tiền
sẽ căn cứ vào số tiền thiệt hại, còn thiệt hại là tài sản sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiến
hành định giá như định giá của hối lộ. Với mức thiệt hại về tài sản cao nhất có trị giá
5.000.000.000 đồng trở lên thì người pạm tội sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản này.
2.2. Tội đưa hối lộ
2.2.1. Khái niệm tội đưa hối lộ
Tội đưa hối lộ là hành vi trao tiền, tài sản hoặc lợi ích khác, dưới bất kỳ hình thức nào,
cho người có chức vụ, quyền hạn để yêu cầu người đó làm hoặc không làm một việc vì lợi
ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ52.
2.2.2. Căn cứ pháp lý của tội đưa hối lộ

52
Nguyễn Manh Hùng: Thuật ngữ Pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 37 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 364 Bộ luật Hình sự:
“1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ,
quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức
vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối
lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng.
3. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ
500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá
1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
6. Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức
quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị
xử lý theo quy định tại Điều này.
7. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi
là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác,
thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã
dùng để đưa hối lộ”.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 38 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.2.3. Dấu hiệu cấu thành tội đưa hối lộ


2.2.3.1. Dấu hiệu về khách thể của tội đưa hối lộ
Bộ luật Hình sự đã cấm việc đưa hối lộ đối với các chủ thể có chức vụ, quyền hạn của
các tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước. Không chỉ hoạt động thực hiện công vụ của
người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực Nhà nước mà cả hoạt động thực hiện nhiệm
vụ của người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực ngoài Nhà nước cũng như hoạt động
đó của công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công. Có thể thấy đối
tượng tác động của tội phạm đưa hối lộ là chức vụ, quyền hạn mà người nhận hối lộ có
được, đó là việc người đưa hối lộ hướng tới chức vụ, quyền hạn mà thông qua chức vụ,
quyền hạn đó họ mới đạt được lợi ích và mong muốn và khách thể của tội phạm này là
quan hệ xã hội bảo đảm cho uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức trong
và ngoài Nhà nước..
2.2.3.2. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội đưa hối lộ
Hành vi khách quan đối với tội phạm đưa hối lộ thể hiện ở hành vi đưa tiền, tài sản, lợi
ích vật chất hoặc phi vật chất cho người có chức vụ, quyền hạn dưới bất kỳ hình thức nào
để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu
của người đưa hối lộ. Hành vi đưa hối lộ được thực hiện trực tiếp hay qua trung gian đã
đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác tiền,
tài sản, lợi ích vật chất hoặc phi vật chất.
Việc đưa tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất có thể là do người phạm
tội chủ động đưa cho người có chức vụ, quyền hạn. Tức là người đưa hối lộ có sự tự chủ
trong việc phạm tội. Nhưng cũng có trường hợp người đưa của hối lộ theo gợi ý, đòi hỏi
của người có chức vụ, quyền hạn. Một số trường hợp người có chức vụ, quyền hạn chủ
động yêu cầu người đưa hối lộ phải đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích khác cho mình thì mới
làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Ví dụ:
Lâm Văn K là cán bộ quản lý đô thị đã nhiều lần gợi ý bà Trương Thanh T đưa tiền để làm
ngơ về việc bà T xây nhà không có giấy phép xây dựng, do công trình xây dựng của bà T
thuộc trường hợp phải xin phép. Thực tiễn cũng cho thấy người có chức vụ, quyền hạn sẽ
không yêu cầu người khác phải đưa hối lộ cho mình mà sẽ có những thủ đoạn nhằm gợi ý
hoặc qua trung gian gợi ý cho người khác về việc đưa hối lộ cho mình. Bên cạnh những
hành vi gợi ý còn có những trường hợp người có chức vụ, quyền hạn gây khó dễ cho người
khác để họ tìm đến hướng giải quyết là đưa tiền của, tài sản hoặc lợi ích khác để công việc
được thuận lợi.
Hành vi đưa hối lộ có thể thực hiện một cách trực tiếp, nhưng cũng có thể thực hiện
một cách gián tiếp (qua người môi giới):
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 39 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Trực tiếp đưa tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất khác cho người nhận
hối lộ của người đưa hối lộ là trường hợp người đưa hối lộ trực tiếp đưa của hối lộ cho
người nhận hối lộ mà không thông qua người nào khác, việc nhận hối lộ một cách trực tiếp
có thể là hành vi cầm tiền do người đưa hối lộ giao, nhận tiền từ người đưa hối lộ thông
qua việc chuyển trực tiếp vào tài khoản ngân hàng của người nhận hối lộ và hành vi đưa
hối lộ trực tiếp cũng tương tự như vậy.
Việc đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích khác của người đưa hối lộ một cách gián tiếp là
trường hợp người đưa hối lộ không trực tiếp đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích khác cho người
nhận hối lộ. Tuy nhiên, người đưa hối lộ vẫn hiểu rõ bản chất của việc đưa tiền, tài sản
hoặc lợi ích này là đưa của hối lộ và sẽ bị coi là hành vi đưa hối lộ.
Thời điểm hoàn thành tội phạm này được tính từ thời điểm một bên chấp nhận đề nghị
hoặc yêu cầu của bên kia. Trên thực tế có trường hợp bên đưa hối lộ không có thỏa thuận
trước với người có chức vụ, quyền hạn nhưng thực hiện việc đưa của hối lộ đồng thời với
việc đưa ra yêu cầu đối với người có chức vụ, quyền hạn và người đó đã chấp nhận (tức
vừa nhận của hối lộ vừa chấp nhận đề nghị của người đưa hối lộ), thì thời điểm hoàn thành
tội phạm này tính từ thời điểm người có chức vụ, quyền hạn chấp nhận đề nghị của bên
đưa hối lộ, đây cũng đồng thời là thời điểm hoàn thành tội nhận hối lộ53.
Trường hợp người đưa hối lộ đã đưa hoặc sẽ đưa tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi
ích phi vật chất được hiểu như sau:
Đã đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác tiền, tài
sản, lợi ích vật chất hoặc phi vật chất khác là trường hợp người đưa hối lộ đã đưa tiền, tài
sản hoặc lợi ích khác một cách trực tiếp hoặc qua trung gian và người nhận hối lộ đã nhận
được số tài sản hối lộ đó, tức là người nhận hối lộ đã chiếm hữu số tiền, tài sản, lợi ích đó.
Tương tự như tội nhận hối lộ, sẽ đưa tiền, tài sản, lợi ích khác là trường hợp người đưa
hối lộ hứa sẽ giao tiền, tài sản hoặc lợi ích khác cho người nhận hối lộ nhưng trên thực tế
vẫn chưa giao. Giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ chỉ mới thỏa thuận về việc đưa
của hối lộ.
Trường hợp của hối lộ được đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác
hoặc tổ chức khác: Với quy định của hối lộ được đưa cho người có chức vụ, quyền hạn
hoặc người khác hoặc tổ chức khác đã góp phần không bỏ lọt bất kỳ trường hợp phạm tội
đưa hối lộ nào. Tương tự với trường hợp người nhận hối lộ nhận của hối lộ cho “chính bản

53
Lao động thủ đô, “Hành vi đòi hối lộ phạm tội gì?,” Trịnh Khánh Toàn, http://laodongthudo.vn/hanh-vi-doi-hoi-
lo-pham-toi-gi-25181.html [truy cập ngày 29/8/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 40 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

thân người đó hoặc cho người khác hoặc tổ chức khác”54 thì quy định này đối với tội phạm
đưa hối lộ đã thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa hành vi đưa và nhận hối lộ. Trường
hợp của hối lộ được đưa cho người có chức vụ, quyền hạn là việc người có chức vụ, quyền
hạn là người thực hiện tội phạm nhận hối lộ và đồng thời cũng là người nhận được lợi ích
từ của hối lộ, theo đó trường hợp của hối lộ được đưa cho người khác hoặc tổ chức khác là
trường hợp có sự thỏa thuận về của hối lộ được giao cho đối tượng thụ hưởng không phải
là người có chức vụ, quyền hạn, tức là người có chức vụ, quyền hạn không có sự chiếm
hữu đối với số tiền, tài sản hoặc lợi ích mà người đưa hối lộ đưa.
Để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu
cầu của người đưa hối lộ được hiểu như sau:
Đây là một trong những dấu hiệu quan trọng góp phần phát hiện và xử lý loại tội phạm
này. Thông qua chức vụ, quyền hạn mà người nhận hối lộ có được, người đưa hối lộ mong
muốn người nhận hối lộ sử dụng chức vụ, quyền hạn đó để thực hiện hoặc không thực hiện
một công việc mà khả năng người đưa hối lộ không thể tự mình thực hiện được. Qua đó,
người đưa hối lộ hưởng được những lợi ích nhất định từ việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của người nhận hối lộ.
Để làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ là trường hợp người
đưa hối lộ sử dụng tiền, tài sản hoặc lợi ích khác làm thỏa thuận với người nhận hối lộ để
người nhận hối lộ sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình giải quyết cho người đưa hối lộ
một việc nào đó đem lại lợi ích cho chính người đưa hối lộ hoặc lợi ích cho người khác mà
người đưa hối lộ quan tâm như: yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thi hành một quyết
định có lợi cho người đưa hối lộ, cha đưa hối lộ chạy án cho con,..
Không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ được hiểu là
người nhận hối lộ vì đã nhận của hối lộ nên đã theo yêu cầu của người đưa hối lộ không
thực hiện một công việc mà lẽ ra họ phải làm theo chức vụ, quyền hạn của mình, và việc
không làm đó đã đem lại lợi ích cho người đưa hối lộ hoặc lợi ích cho người khác mà người
đưa hối lộ quan tâm. Ví dụ: không lập biên bản vi phạm trong trường hợp phát hiện vi
phạm vì đã nhận của hối lộ của người vi phạm, do đã nhận tiền hối lộ nên không thi hành
lệnh bắt tạm giam, để người phạm tội bỏ trốn,..
2.2.3.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội đưa hối lộ
Chủ thể của tội đưa hối lộ là bất kỳ người nào có đủ điều kiện về độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự (người từ đủ 16 tuổi trở lên) theo quy định tại Điều 12 và không rơi vào tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác

54
Khoản 1 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 41 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình) theo quy định
tại Điều 21 Bộ Luật Hình Sự.
2.2.3.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội đưa hối lộ
Mục đích của việc đưa hối lộ là để người có chức vụ, quyền hạn chấp nhận làm hoặc
không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người phạm tội và người phạm tội
luôn mong muốn hành vi của người nhận hối lộ xảy ra, không có trường hợp người đưa
hối lộ thực hiện tội phạm với lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý vì lúc nào họ cũng mong muốn
việc họ yêu cầu được hoàn thành nên người phạm tội đưa hối lộ thực hiện tội phạm này
với lỗi cố ý trực tiếp.
2.2.4. Các trường hợp phạm tội cụ thể và hình phạt của tội đưa hối lộ
2.2.4.1. Phạm tội đưa hối lộ thuộc khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự thì hành vi đưa hối lộ chỉ bị coi là
phạm tội khi của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng hoặc là lợi ích phi vật chất.
Trường hợp thứ nhất, tương tự như các quy định với các tình tiết giá trị của hối lộ ở
các quy định khác của các tội hối lộ, người đưa hối lộ đưa của hối lộ là tiền, tài sản hoặc
lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng thì sẽ chịu trách
nhiệm hình sự theo khoản này, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài
sản đó là giá trị thị trường vào thời điểm của hối lộ được đưa hoặc sẽ đưa cho người có
chức vụ, quyền hạn, chỉ cần xác định căn cứ rằng người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá
trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng là đã thuộc trường hợp quy định tại khoản
này, người phạm tội đã đưa hay chưa không phải là đấu hiệu bắt buộc, không thể cho rằng
người phạm tội chưa đưa của hối lộ là trường hợp phạm tội chưa đạt.
Trường hợp thứ hai, lợi ích phi vật chất mà người đưa hối lộ sử dụng để hối lộ cũng
được hiểu giống như lợi ích phi vật chất mà người nhận hối lộ quy định tại Điều 354 Bộ
luật hình sự có được. Lợi ích phi vật chất tức là những lợi ích tuy không có tính hữu hình
và quy giá trị thành tiền những có khả năng đem lại sự hài lòng, sự thỏa mãn cho người
nhận, do đó có khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động thực thi nhiệm vụ của người có
chức vụ, quyền hạn, ví dụ: việc khen ngợi trên phương tiện truyền thông, việc quan hệ tình
dục, tặng huân, huy chương cho người thân…Do đó hành vi trao và nhận những lợi ích
này bị xem là phạm tội hối lộ và người phạm tội vẫn chịu trách nhiệm hình sự theo khoản
này.
Đây là các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự, là cấu
thành cơ bản tội đưa hối lộ với khung hình phạt phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 42 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm, tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm mà Tòa án áp dụng từng mức
hình phạt cụ thể theo Điều 35, Điều 36 hoặc Điều 38 Bộ luật hình sự.
2.2.4.2. Phạm tội đưa hối lộ thuộc khoản 2 Điều 364 Bộ luật hình sự
Tại khoản 2 Điều 364 Bộ luật hình sự quy định 06 tình tiết tăng nặng định khung hình
phạt, cụ thể như sau:

• Có tổ chức
Đây là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội đưa hối lộ và có
sự thống nhất với nhau về ý chí. Trong đó có một hoặc một số người thực hành; và có thể
có người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.

• Dùng thủ đoạn xảo quyệt


Dùng thủ đoạn xảo quyệt là trường hợp người phạm tội hành động một cách tinh vi,
gian ngoan để thực hiện hoặc che giấu hành vi của mình làm cho việc phát hiện tội phạm
trở nên khó khăn.

• Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ


Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ là trường hợp khi đưa hối lộ người phạm tội
biết rõ tiền, tài sản hoặc lợi ích khác thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

• Lợi dụng chức vụ, quyền hạn


Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là trường hợp hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp
đến chức vụ, quyền hạn của người giữ chức vụ, quyền hạn, nếu không có chức vụ,
quyền hạn đó thì người đưa hối lộ khó có thể thực hiện việc phạm tội; chức vụ, quyền
hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội nhờ vào đó mà thực hiện tội phạm một
cách dễ dàng.

• Phạm tội 02 lần trở lên


Đây là trường hợp có từ hai lần trở lên thực hiện hành vi đưa hối lộ, mỗi hành vi đều
đủ yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ nhưng chưa lần nào bị xử lý về hình sự, chưa hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và cùng bị đưa ra xét xử một lần.

• Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng
Đây là trường hợp một lần phạm tội đưa hối lộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất có giá
trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Việc xác định giá trị của đưa hối lộ là

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 43 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

tài sản hoặc lợi ích vật chất được xác định theo giá trị thị trường của tài sản hoặc lợi ích
vật chất đó tại địa phương vào thời điểm đưa hối lộ.
Người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ theo khoản 2 Điều
này nếu có một trong các tình tiết được quy định với khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07
năm.
2.2.4.3. Phạm tội đưa hối lộ thuộc khoản 3 và khoản 4 Điều 364 Bộ luật hình sự
Khoản 3 Điều 364 quy định “Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi
ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 12 năm”.
Khoản 4 Điều 364 Bộ luật hình sự quy định trường hợp phạm tội với mức hình phạt
cao nhất lên đến 20 năm, cụ thể “Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi
ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm”.
Việc quy định cụ thể giá trị tài sản người phạm tội đưa hối lộ và khung hình phạt đã thể
hiện được sự rõ ràng của quy định pháp luật và tạo sự thuận lợi cho cơ quan hành pháp.
2.2.4.4. Hình phạt bổ sung của tội đưa hối lộ thuộc khoản 5 Điều 364 Bộ luật hình
sự
Do chủ thể phạm tội đưa hối lộ là bất cứ người nào đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi và
năng lực chịu trách nhiệm hình sự, không phải là chủ thể đặc biệt mang chức vụ, quyền
hạn như tội nhận hối lộ nên hình phạt bổ sung được áp dụng đối với tội này chỉ có thể là
hình phạt tiền với quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng
đến 50.000.000 đồng”, không thể áp dụng hình phạt bổ sung “cấm đảm nhiệm chức vụ
nhất định” như chủ thể nhận hối lộ và tùy vào tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này
mà Tòa án đưa ra quyết định với mức hình phạt từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
2.2.4.5. Tình tiết được coi là không phạm tội hoặc được miễn trách nhiệm hình sự
của tội đưa hối lộ
Theo quy định tại khoản 7 Điều 364 Bộ luật hình sự thì “Người bị ép buộc đưa hối lộ
mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại
toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ”. Qua quy định, người đưa hối lộ phải đáp ứng đủ hai
điều kiện thì mới được xác định vô tội là người đưa hối lộ thực hiện hành vi phạm tội do
bị người khác ép buộc và phải có hành động khai báo trước khi bị phát giác, quy định này
dựa vào yếu tố lỗi trong mặt chủ quan khi phạm tội này. Trường hợp “Người đưa hối lộ
tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được
miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 44 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

lộ”55. Quy định này thể hiện được sự khuyến khích tinh thần tố giác tội phạm của người
đã có hành vi phạm tội, góp phần phát hiện và xử lý hiệu quả loại tội phạm này.
2.3. Tội môi giới hối lộ
2.3.1. Khái niệm tội môi giới hối lộ
Tội môi giới hối lộ là hành vi làm trung gian giữa người nhận và người đưa hối lộ theo
yêu cầu của một trong hai bên hoặc của cả hai56.
2.3.2. Căn cứ pháp lý của tội môi giới hối lộ
Tội môi giới hối lộ được quy định chi tiết tại Điều 365 Bộ luật Hình sự như sau:
“1. Người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù
từ 08 năm đến 15 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.

55
Khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
56
Nguyễn Đình Lộc, Uông Chi Lưu, Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi, Dương Thanh Mai, Nguyễn Ngọc Hòa: Từ
Điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp, 2006.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 45 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn
trách nhiệm hình sự.
7. Người nào môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử
lý theo quy định tại Điều này”.
2.3.3. Dấu hiệu cấu thành tội môi giới hối lộ
2.3.3.1. Dấu hiệu về khách thể của tội môi giới hối lộ
Cũng như các tội nhận hối lộ và đưa hối lộ, tội môi giới hối lộ cũng xâm phạm đến một
loại khách thể đó là những quan hệ xã hội bảo đảm cho hoạt động bình thường của cơ quan
hoặc của tổ chức mà đối tượng tác động của tội phạm này là người nhận và người đưa hối
lộ. Giống như những tội phạm khác về chức vụ, tội môi giới hối lộ cũng gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức; làm giảm uy tín của các cơ
quan, tổ chức của nhà nước trong con mắt của nhân dân.
2.3.3.2. Dấu hiệu về khách quan của tội môi giới hối lộ
Theo quy định đối với tội phạm môi giới hối lộ chỉ quy định theo cách giản đơn
không mô tả rõ hành vi mà người phạm tội môi giới hối lộ thực hiện nên có nhiều quan
điểm khác nhau về hành vi này, cụ thể theo từ điển Luật Học thì hành vi môi giới là
“hành vi làm trung gian cho các bên tiếp xúc, đàm phán và thiết lập các quan hệ để
hưởng thù lao”57, từ đó có thể hiểu môi giới là hoạt động tạo điều kiện, hỗ trợ cho các
bên được môi giới đạt được mong muốn và bản thân người môi giới thực hiện hành vi
này nhằm mục đích là hưởng thù lao từ các bên, trong khi đó cũng theo Từ Điển Luật
Học này thì “môi giới hối lộ” được hiểu là “hành vi làm trung gian giữa người nhận và
người đưa hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc cả hai bên”58, cũng là hành vi
tạo điều kiện và hỗ trợ các bên trong việc thực hiện hành vi hối lộ nhưng với việc mô tả
cụ thể hành vi môi giới hối lộ lại không bắt buộc yếu tố lợi ích mà người môi giới hối lộ
có được và phải đạt được một yếu tố nữa là làm theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đưa
hối lộ và nhận hối lộ. Trong khi đó, theo Thuật ngữ Pháp Lý thì “môi giới hối lộ” được
hiểu là “làm trung gian giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ”59, qua đó có thể
hiểu chỉ cần có hành vi làm trung gian cho hai bên đưa hối lộ và nhận hối lộ thì đã bị coi
là tội phạm với tội danh môi giới hối lộ mà không cần xét đến động cơ, mục đích gì. Theo
cách hiểu này thì một điểm khác biệt cơ bản đối với cách hiểu về môi giới hối lộ trong

57
Nguyễn Đình Lộc, Uông Chi Lưu, Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi, Dương Thanh Mai, Nguyễn Ngọc Hòa: Từ
Điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp, 2006.
58
Nguyễn Đình Lộc, Uông Chi Lưu, Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi, Dương Thanh Mai, Nguyễn Ngọc Hòa: Từ
Điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp, 2006.
59
Nguyễn Manh Hùng: Thuật ngữ Pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 46 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Từ Điển Luật Học là theo Thuật ngữ Pháp Lý thì môi giới hối lộ chỉ cần có hành vi làm
trung gian cho hai bên mà không cần phải có sự yêu cầu hoặc đề nghị của bất kỳ chủ thể
nào. Từ các quan điểm trên, có thể hiểu môi giới hối lộ là hành vi làm trung gian giữa
người đưa hối lộ và người nhận hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc của cả hai
bên, giúp việc xác lập và thỏa thuận việc người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không
làm một việc có lợi cho người đưa hối lộ và có thể theo sự ủy nhiệm của người đưa hối
lộ chuyển tiền, của hối lộ cho người nhận hối lộ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 365 Bộ luật Hình sự có thể nhận biết một yếu tố quan
trọng là đối với tội phạm về môi giới hối lộ thì không đòi hỏi người thực hiện hành vi môi
giới có được lợi ích nào từ việc môi giới, tội phạm sẽ cấu thành khi hành vi thực hiện hoạt
động làm môi giới diễn ra với sự ý thức và mong muốn của người môi giới. Người môi
giới sẽ thực hiện hành vi làm trung gian giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ. Người
môi giới có thể chuyển yêu cầu về của hối lộ từ người có chức vụ, quyền hạn cho người
mà họ muốn sẽ thực hiện thỏa thuận về việc hối lộ đó, đồng thời có trường hợp người môi
giới sẽ chuyển yêu cầu của người đưa hối lộ về việc đưa tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc
phi vật chất khác cho người giữ chức vụ, quyền hạn, với mong muốn người này lợi dụng
chức vụ, quyền hạn làm một việc hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu
của người đưa hối lộ.
Người môi giới chuyển yêu cầu về tiền, tài sản hoặc lợi ích khác từ người có chức vụ,
quyền hạn đến người họ muốn sẽ nhận được của hối lộ. Với trường hợp này, có thể hiểu
giữa người môi giới và người có chức vụ quyền hạn có sự quen biết và thỏa thuận với nhau,
một trong những biểu hiện của hành vi sách nhiễu, đòi hối lộ. Thay vì trực tiếp đưa ra yêu
cầu về tiền, tài sản hoặc lợi ích khác đến người đưa hối lộ, trường hợp này người giữ chức
vụ, quyền hạn sẽ thể hiện những mong muốn của mình đến người môi giới, qua đó người
môi giới sẽ dùng những khả năng của mình để chuyển mong muốn đó đến người đưa hối
lộ và với mục đích mang lại lợi ích cho người đưa hối lộ khi được biết họ có yêu cầu thực
hiện một việc gì đó mà khả năng người nhận hối lộ có thể làm được.
Người đưa hối lộ thông qua người môi giới thể hiện ý chí thỏa thuận về việc yêu cầu
người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu
của người đưa hối lộ. Qua đó, người có chức vụ, quyền hạn sẽ biết được việc mình cần
thực hiện và của hối lộ từ người môi giới.
Bên cạnh những trường hợp thực hiện hành vi môi giới như trên, tức là người nhận hối
lộ và đưa đưa hối lộ chỉ thực hiện thỏa thuận thông qua người môi giới, trong những trường
hợp này người môi giới có nhiệm vụ giúp sức vào việc xác lập và thỏa thuận việc người có
chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc có lợi cho người đưa, thỏa thuận của hối

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 47 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

lộ và theo sự ủy nhiệm của hai bên chủ thể nhận và đưa hối lộ. Người môi giới cũng có thể
tổ chức để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ gặp nhau và trực tiếp đưa ra các yêu sách
của mình, ở trường hợp này việc xác lập thỏa thuận về công việc và của hối lộ sẽ diễn ra
nhanh chóng hơn.
Ngoài ra, hành vi môi giới hối lộ còn có một đặc điểm là nó được người môi giới hối
lộ thực hiện một cách khách quan, theo sự yêu cầu của các bên đưa và nhận hối lộ, thể hiện
vai trò làm cầu nối của chủ thể đối với việc đưa và nhận hối lộ. Hành vi làm môi giới chủ
yếu nhằm giúp các bên đi đến thỏa thuận hối lộ chứ không can thiệp vào nội dung thỏa
thuận. Nếu người thực hiện vai trò trung gian hối lộ xuất phát từ lập trường chủ quan của
mình (không phải do yêu cầu của người đưa hoặc nhận hối lộ) thì đó là người đồng phạm
đưa hối lộ chứ không phải người môi giới hối lộ.
Khi xác định hành vi môi giới hối lộ cần phân biệt với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; hành vi lợi dụng ảnh hưởng đối với người
có chức vụ, quyền hạn để trục lợi hoặc hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi tuy
có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi” theo
Điều 358 Bộ luật hình sự. Nếu hành vi tuy có tính chất làm môi giới hối lộ nhưng người
có hành vi đã lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức
vụ, quyền hạn để trục lợi” theo Điều 366 Bộ luật hình sự. Nếu hành vi tuy có tính chất làm
môi giới hối lộ nhưng người có hành vi đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
của người đưa hối lộ thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “lửa đảo
chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật hình sự.
Của hối lộ đối với tội phạm về môi giới hối lộ được hiểu giống như trường hợp của tội
nhận hối lộ mà người viết đã phân tích ở mục 2.1.3.1 chương này.
Tuy nhiên, trong thực tiễn do mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa tội làm môi giới hối lộ
với tội đưa hối lộ và nhận hối lộ nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này phải tương
ứng với thời điểm hoàn thành hai tội phạm trên. Tính chất nguy hiểm của hành vi làm môi
giới hối lộ chỉ thể hiện khi có hành vi hối lộ (đưa hoặc nhận hối lộ).
2.3.3.3. Dấu hiệu về chủ thể của tội môi giới hối lộ
Tương tự với tội phạm về đưa hối lộ, chủ thể của tội môi giới hối lộ có thể là bất kỳ
người nào, không nhất thiết phải có chức vụ, quyền hạn, nên các tội phạm này không được
xếp vào nhóm tội phạm về tham nhũng nhưng vẫn thuộc nhóm tội phạm khác về chức vụ
vì chúng có liên quan chặt chẽ với hành vi nhận hối lộ và hơn nữa, chúng còn liên quan
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 48 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

đến việc thực thi công vụ của chính bản thân người có chức vụ, quyền hạn, chỉ cần đáp ứng
đủ điều kiện về độ tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự) và không rơi
vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 Bộ luật Hình sự). Hành
vi môi giới hối lộ được cấu thành kể cả khi thực hiện môi giới trong lĩnh vực Nhà nước và
cả đối với những người có chức vụ, quyền hạn ở các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
2.3.3.4. Dấu hiệu về mặt chủ quan của tội môi giới hối lộ
Một trong những yếu tố cơ bản của các tội về hối lộ là hành vi phạm tội đều được thực
hiện với lỗi cố ý trực tiếp, với tội môi giới hối lộ người môi giới hoàn toàn mong muốn
hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra và tạo điều kiện thuận lợi để hành vi được thực hiện,
tạo sự khó khăn cho cơ quan điều tra phát hiện. Không có trường hợp người môi giới phạm
tội với lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý.
2.3.4. Các trường hợp phạm tội cụ thể và hình phạt của tội môi giới hối lộ
2.3.4.1. Phạm tội môi giới hối lộ thuộc khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự
Căn cứ theo khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự thì có 02 trường hợp phạm tội như sau:
Trường hợp thứ nhất, phạm tội môi giới hối lộ mà của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi
ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng. Đây là trường hợp người
phạm tội môi giới hối lộ lần đầu với giá trị tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng. Tương tự với các trường hợp quy định về giá
trị của hối lộ ở các quy định khác về các tội hối lộ, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là
tài sản thì giá trị tài sản đó là giá trị thị trường vào thời điểm hành vi hối lộ xảy ra.
Trường hợp thứ hai, Phạm tội môi giới hối lộ mà của hối lộ là lợi ích phi vật chất tại
điểm b khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự. Do các tội phạm nhận hối lộ, đưa hối lộ và môi
giới hối lộ có cùng động cơ là trục lợi nên của hối lộ mà các tội phạm này sử dụng cũng
tương tự như nhau. Như vậy, lợi ích phi vật chất ở đây được hiểu là những lợi ích tuy không
có tính hữu hình và quy giá trị thành tiền những có khả năng đem lại sự hài lòng, sự thỏa
mãn cho người nhận, do đó có khả năng gây ảnh hưởng đến hoạt động thực thi công vụ
của người có chức vụ, quyền hạn , ví dụ: việc khen ngợi trên phương tiện truyền thông,
việc quan hệ tình dục, tặng huân, huy chương…
Đây là các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 365 Bộ luật hình sự, là cấu
thành cơ bản của tội môi giới hối lộ, có khung hình phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 49 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.3.4.2. Phạm tội môi giới hối lộ thuộc khoản 2 Điều 365 Bộ luật hình sự
Với khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được quy định tại khoản 2 Điều 365 Bộ
luật hình sự, có thể nhận thấy các tình tiết tăng nặng của tội môi giới hối lộ giống như hai
tội về hối lộ còn lại, với 07 tình tiết tăng nặng, cụ thể như sau:

• Có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm60. Giống như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, môi giới
hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm. Như vậy, những người tham gia thực hiện hành vi môi giới có tổ chức là đồng phạm,
do phạm tội có biểu hiện đầy đủ những dấu hiệu về mặt khách quan và măt chủ quan giống
như đồng phạm thông thường61. Phạm tội môi giới hối lộ có tổ chức có những đặc điểm
như sau:
Môi giới hối lộ có tổ chức thường khó phát hiện, vì có sự cấu kết, phân công vai trò,
trách nhiệm của từng người đồng phạm.
Hành vi hối lộ thường được ngụy trang bằng những hành vi thông thường như quà tặng,
biếu, mừng lễ, tết,.. nên việc môi giới hối lộ có tổ chức thường được thực hiện như những
lối ứng xử bình thường giữa con người với nhau, việc tổ chức chặt chẽ càng gây thêm trở
ngại cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự các đồng phạm trong vụ án.

• Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp


Đây là một tình tiết có tính khác biệt so với quy định của hai tội phạm về hối lộ còn
lại, do thực tế có xảy ra trường hợp người coi việc môi giới hối lộ như một nghề nghiệp,
người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm
tội làm nguồn sống chính. Đây là trường hợp người môi giới hối lộ đã thực hiện hành vi
môi giới hối lộ “Từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích; Người phạm tội đều lấy các lần phạm
tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính” 62 và việc
phạm tội trở nên thuần thục, được mọi người biết và tìm đến khi có nhu cầu.

• Dùng thủ đoạn xảo quyệt

60
Khoản 2 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
61
Luật Dương gia, “Thế nào được coi là tội phạm có tổ chức theo Luật hình sự”, https://luatduonggia.vn/the-nao-
duoc-coi-la-pham-toi-co-to-chuc-theo-luat-hinh-su/ [truy cập ngày 20/8/2018].
62
Khoản 1 Điều 5 Nghị Quyết Số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tóa án Nhân dân Tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 50 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Dùng thủ đoạn xảo quyệt phạm tội là trường hợp khi phạm tội, người phạm tội có
những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại hoặc những người
khác khó lường thấy trước được để đề phòng63. Đây là một trong những hành vi phổ biến
khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nói chung và người môi giới hối lộ thực
hiện hành vi môi giới hối lộ nói riêng, với mục đích chủ yếu là tránh khỏi sự phát hiện của
cơ quan chức năng, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội.

• Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước


Tương tự như tình tiết tăng nặng “Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước” tại điểm
e khoản 2 Điều 354 (Tội nhận hối lộ) và “Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ” tại
điểm c khoản 2 Điều 364 (Tội đưa hối lộ) Bộ luật hình sự, tình tiết “Biết của hối lộ là tài
sản của Nhà nước” cũng được hiểu là trường hợp người môi giới hối lộ biết rõ tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác là tài sản của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
mà vẫn thực hiện, giúp sức, tạo điều kiện cho hành vi đưa và nhận hối lộ xảy ra.

• Lợi dụng chức vụ, quyền hạn


Trên thực tế hầu hết những người môi giới đều có những mối quan hệ rộng rãi ở nhiều
lĩnh vực khác nhau, họ lợi dụng các mối quan hệ giữa các chủ thể để làm trung gian thực
hiện hành vi môi giới, chủ thể của tội môi giới hối lộ cũng nhờ vào các mối quan hệ rộng
rãi này thực hiện việc môi giới, một điểm đặc biệt là người môi giới hối lộ thường có ảnh
hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn, qua đó họ nhờ vào những việc mà người có
chức vụ, quyền hạn này có thể thực hiện nhờ việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó mà tạo
niềm tin đối với người đưa hối lộ, giúp việc thực hiện tội phạm trở nên dễ dàng.

63
“The Supreme People's Court of Vietnam: Benchbook Online”, AsianLII,
http://www.asianlii.org/vn/other/benchbk/331-vn.html [truy cập ngày 20/8/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 51 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

• Phạm tội 02 lần trở lên


Đây là tình tiết cụ thể hóa của tình tiết “phạm tội nhiều lần”. Phạm tội 02 lần trở lên là
02 lần phạm tội môi giới hối lộ trở lên mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy
định tại khoản 1 Điều này, đồng thời trong các lần phạm tội chưa có lần nào bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

• Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
Với tình tiết giá trị của hối lộ, người môi giới hối lộ mà của hối lộ trị giá từ 100.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng thì sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản này.
Dựa vào hành vi mà người môi giới hối lộ thực hiện, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g khoản 2 Điều này sẽ được Toà án viện
dẫn để tăng nặng trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt tăng nặng đối với người phạm
tội nếu có thực hiện một trong các hành vi nêu trên với khung hình phạt tù từ 02 năm đến
07 năm.
2.3.4.3. Phạm tội môi giới hối lộ thuộc khoản 3 và khoản 4 Điều 365 Bộ luật hình
sự
Theo quy định tại khoản 3 Điều 365 Bộ luật hình sự “Phạm tội thuộc trường hợp của
hối lộ trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm”. Người môi giới hối lộ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt
tại khoản này nếu giá trị của hối lộ từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Điều khoản cuối cùng quy định về giá trị tài sản mà người môi giới hối lộ thực hiện
môi giới được quy định tại khoản 4 Điều 365 Bộ luật hình sự như sau “Phạm tội thuộc
trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15
năm”. Quy định cao nhất với khung hình phạt lên đến 15 năm áp dụng cho trường hợp
người môi giới hối lộ thực hiện việc môi giới với giá trị của hối lộ thấp nhất là
1.000.000.000 đồng.
Với quy định cụ thể giá trị của hối lộ và mức khung hình phạt Tòa án sẽ căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm để quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
2.3.4.4. Hình phạt bổ sung của tội môi giới hối lộ thuộc khoản 5 Điều 365 Bộ luật
hình sự
Với tội phạm về môi giới hối lộ sẽ bị áp dụng một hình phạt bổ sung duy nhất là “Người
phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng”, Tòa án sẽ căn
cứ vào hành vi phạm tội để quyết định áp dụng mức hình phạt bổ sung này với giá trị tiền
phạt từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 52 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

2.3.4.5. Tình tiết được miễn trách nhiệm hình sự của tội môi giới hối lộ
Theo quy định tại khoản 6 Điều 365 Bộ luật hình sự thì “Người môi giới hối lộ mà chủ
động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Qua quy
định có thể thấy yếu tố giúp người môi giới hối lộ có thể được miễn trách nhiệm hình sự là
người môi giới hối lộ chủ động khai báo trước khi bị phát giác. Quy định này thể hiện được
sự khuyến khích tinh thần tố giác tội phạm của người đã có hành vi phạm tội, góp phần
phát hiện và xử lý hiệu quả loại tội phạm này.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 53 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 3

THỰC TIỄN, BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP

ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG VỀ CÁC TỘI HỐI LỘ


Ở chương này, người viết trình bày về thực trạng các tội phạm hối lộ ở Việt Nam
thời gian vừa qua cũng như tập trung phân tích những bất cập chính yếu về các tội hối
lộ như bất cập trong quy định pháp luật, bất cập trong áp dụng quy định về các tội hối lộ
vào thực tiễn, bất cập trong phát hiện và xử lý tội phạm này. Thông qua đó, người viết
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn về quy định pháp luật cũng như thuận lợi
hơn trong công tác áp dụng quy định vào thực tiễn và công tác phát hiện, xử lý tội phạm
về hối lộ.
3.1. Thực tiễn về các tội hối lộ ở Việt Nam
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay và mức thu nhập bình quân
trên đầu người còn thấp thì khả năng xảy ra tình trạng tham nhũng, hối lộ là rất cao và có
ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế của đất nước.
Theo kết quả khảo sát của Tổ chức Minh bạch Quốc tế về tình trạng tham nhũng của
16 quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương từ tháng 7/2015 đến tháng 1/2017
cho thấy Malaysia, Việt Nam, Pakistan, Mongolia, Indonesia, Ấn Độ, Campuchia là những
nước có tỷ lệ hối lộ, tham nhũng cao nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong đó,
hai quốc gia có tỷ lệ hối lộ cao nhất là Việt Nam và Ấn Độ64.
Năm 2017, với những cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, công tác phòng, chống
tham nhũng trong nước đã đạt được một số kết quả nổi bật, bao gồm việc xét xử các vụ án
tham nhũng nghiêm trọng liên quan đến nhiều cán bộ cấp cao. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng
tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật về phòng, chống tham nhũng như tiến hành sửa đổi
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành theo hướng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Trong những năm từ 2005 - 2010, trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, các Tòa án Việt
Nam đã đưa ra xét xử nghiêm minh và đúng pháp luật những vụ án và các bị cáo khi phạm
nhóm tội hối lộ (tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ). Tuy nhiên, đối
với hiện tượng hối lộ thực sự đang tồn tại trong xã hội thì đó chỉ là “phần nổi của tảng băng
chìm”. Mặt khác, liên quan chặt chẽ với nhau giữa đưa và nhận hối lộ, nhưng qua thống kê
cho thấy, việc xử lý vẫn chủ yếu là tội nhận hối lộ (trong 6 năm đã xét xử được 177 vụ và

64
TRITHUCVN, “Phần 13: Việt Nam thuộc nhóm có tỷ lệ hối lộ, tham nhũng cao nhất khu vực châu Á-Thái Bình
Dương”, Lưu Giang, https://trithucvn.net/tin-tuc-vn/viet-nam-thuoc-nhom-co-ty-le-hoi-lo-tham-nhung-cao-nhat-khu-
vuc-chau-a-thai-binh-duong.html [truy cập ngày 20/8/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 54 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

478 bị cáo), còn tội đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ rất ít (trong 6 năm đã xét xử được
196 vụ đưa hối lộ và 319 bị cáo; 11 vụ làm môi giới hối lộ và 31 bị cáo)65.
Ngoài ra, thời gian vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy những
vụ việc đó bị xử lý về hình sự và đưa ra xét xử hầu như là các trường hợp hối lộ giá trị lớn,
hối lộ bằng tài sản công, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc bức xúc dư luận xã hội
chẳng hạn như: vụ nhận hối lộ “Chạy Quota” ở Bộ T.M. của Thứ trưởng Mai Văn D.; băng
đảng tội phạm Năm C. với hàng loạt hành vi “bảo kê”,“chạy án”vụ hối lộ hàng trăm nghìn
Đôla của Tổng giám đốc Bùi Tiến D. nhằm thoát tội; vụ nguyên Phó giám đốc sở Giao
thông Vận tải thành phố H. là Huỳnh Ngọc S. nhận hối lộ của doanh nghiệp N.B.; vụ Đoàn
Tiến D. - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - BIDV bị cáo
buộc nhận hối lộ hàng tỷ đồng của doanh nghiệp; v.v... Đó chỉ là những trường hợp nổi
bật, trong khi hối lộ diễn ra “âm thầm” với“độ ẩn rất cao” ở hầu hết các lĩnh vực của đời
sống hiện nay như đã nêu ở trên thậm chí cả những lĩnh vực được coi là bất khả xâm phạm
như giáo dục, thi cử, y tế, khám chữa bệnh... Mặc dù có những hành vi hối lộ với giá trị
không lớn nhưng diễn ra thường xuyên, liên tục, có tổ chức và chuyên nghiệp cũng hết sức
nguy hiểm cho xã hội. Nghịch lý là một bộ phận lớn dân cư trong xã hội hiện nay dường
như thừa nhận và thúc đẩy thực hiện những hành vi tiêu cực này66.
Phân tích số liệu thống kê từ năm 2012 đến năm 2013 cho thấy, số vụ án và số bị cáo
phạm tội năm sau tăng cao hơn năm trước. Cụ thể, năm 2012, xét xử 245/513 bị cáo, tăng
so với năm 2011 là 25 vụ/28 bị cáo; năm 2013, xét xử 281 vụ/552 bị cáo, tăng so với năm
2012 là 364 vụ/39 bị cáo và 6 tháng đầu năm 2014, đã xét xử 101/295 bị cáo. Một số vụ án
dư luận xã hội quan tâm nhưng việc truy tố và đưa ra xét xử còn chậm; kết quả thu hồi tài
sản bị thiệt hại do tham nhũng, hối lộ gây ra đạt tỷ lệ thấp (riêng năm 2013 đạt dưới 10%);
hình phạt áp dụng đối với một số bị cáo còn chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội; án treo tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khá lớn (trung bình
gần 30%)...Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao, trong 5 năm (2009 - 2013)
và 6 tháng tính từ quý IV năm 2013, đến quý I năm 2014 (1/10/2013-31/3/2014), các Tòa
án đã thụ lý sơ thẩm tổng số 2.041 vụ án/5.120 bị cáo bị truy tố về các tội phạm tham
nhũng, hối lộ, đã xét xử được 1.405 vụ/3.129 bị cáo, đạt bình quân hàng năm là 69% số vụ
và 61% số bị cáo. Trong tổng số các vụ án tham nhũng thì tội “Tham ô tài sản”, chiếm tỷ

65
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ trong
Luật hình sự Việt Nam và Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng”,
http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/114?idMenu=79 [truy cập ngày 14/11/2018].
66
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ trong
Luật hình sự Việt Nam và Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng”,
http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/114?idMenu=79 [truy cập ngày 14/11/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 55 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

lệ cao nhất với 48% số vụ và 43,1% số bị cáo; tiếp đến là các tội “Nhận hối lộ”; “Lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”...67.
Qua công tác phòng, chống tham nhũng, các tội phạm về hối lộ đã phát hiện ra nhiều
vụ án nghiêm trọng gây ra hậu quả vô cùng lớn đã được cơ quan tố tụng đem ra xét xử tạo
được sự đồng tình lớn trong nhân dân, điển hình một vài vụ án sau đây:
Vụ án 1: Ngày 21/6/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đưa ra xét xử vụ án
nhận hối lộ và đưa hối lộ lớn nhất từ trước đến nay. Phiên tòa diễn ra trong bốn ngày, các
bị cáo nguyên là cán bộ thanh tra giao thông và hai “cò” ở Cần Thơ trong vụ có liên quan
đến vụ án nhận hối lộ tiền tỷ.
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, 9 bị can, bị truy tố về
hành vi “nhận hối lộ” gồm: Dương Minh Tâm (37 tuổi), nguyên Phó Chánh thanh tra giao
thông thuộc Sở giao thông vận tải thành phố Cần Thơ; Đoàn Vũ Duy (39 tuổi), nguyên
Đội trưởng Đội thanh tra giao thông Bình Thủy; Võ Hoàng Anh (35 tuổi), nguyên Đội
trưởng Đội thanh tra giao thông Ninh Kiều; Nguyễn Trần Lưu (40 tuổi), nguyên Đội trưởng
Đội thanh tra giao thông Thốt Nốt; Lý Hoàng Minh (32 tuổi), nguyên Đội phó thanh tra
giao thông thành phố Cần Thơ; Hồ Công Thiện (40 tuổi), nguyên Phó đội trưởng thanh tra
giao thông huyện Phong Điền; Trần Lập Pháp (31 tuổi), nguyên cán bộ Đội thanh tra giao
thông quận Cái Răng về tội nhận hốp lộ; Nguyễn Văn Cần (30 tuổi, ngụ Vĩnh Long) và
Trần Tường An (39 tuổi, Cần Thơ) bị truy tố về hành vi môi giới hối lộ68.

Tiếp đó, sau hai ngày xét xử, ngày 20-10, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh xét xử phúc thẩm lưu động tại thành phố Cần Thơ đã tuyên án vụ nguyên bảy
cán bộ thanh tra giao thông ở Cần Thơ cùng hai người khác về tội nhận hối lộ.

Theo đó, tòa tuyên án y án sơ thẩm đối với các bị cáo gồm: Đoàn Vũ Duy (nguyên Đội
trưởng Đội thanh tra giao thông quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ) mức án tù chung
thân; Dương Minh Tâm (nguyên Phó chánh thanh tra giao thông) 10 năm tù; Nguyễn Trần
Lưu (nguyên Đội trưởng Đội thanh tra giao thông quận Thốt Nốt), Trần Lập Pháp (nguyên
cán bộ Đội thanh tra giao thông quận Cái Răng), Hồ Công Thiện (nguyên Phó đội trưởng
thanh tra giao thông huyện Phong Điền) và Trần Tường An cùng 7 năm tù; Lý Hoàng Minh
(nguyên Đội phó thanh tra giao thông thành phố Cần Thơ) 9 năm tù; Nguyễn Văn Cần (ngụ

Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “phải chống ngay trong các cơ quan chống tham nhũng”,
67

Thu Hằng, http://www.vksndtc.gov.vn/tin-chi-tiet-4110 [truy cập ngày 10/8/2018].


68
Công an thành phố Hồ Chí Minh, “Hôm nay Cần thơ xét xử vụ nhận hối lộ giao thông quy mô ‘khủng’”, Thiện
Thảo, http://congan.com.vn/vu-an/hom-nay-can-tho-xet-xu-vu-nhan-hoi-lo-giao-thong-quy-mo-khung_40647.html
[truy cập ngày 10/8/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 56 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

quận Ninh Kiều, đối tượng cò hối lộ) 20 năm tù, riêng Võ Hoàng Anh (nguyên Đội trưởng
Đội thanh tra giao thông quận Ninh Kiều) 13 năm tù, giảm hai năm tù do bị cáo đã khắc
phục số tiền thu lợi bất chính hơn 400 triệu đồng và có cha là người có công với cách
mạng69.
Vụ án 2: Sau 10 ngày xét xử sơ thẩm vụ án tham ô tài sản tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Chi nhánh Bến Thành (Agribank Bến Thành), ngày 15/12/2017,
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Hoàng Oanh
(57 tuổi, nguyên Giám đốc Agribank Bến Thành) án tù chung thân về các tội “Tham ô tài
sản”, “Nhận hối lộ”, “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng”70
Qua các vụ án trên và một số vụ án xảy ra thời gian vừa qua cho thấy số lượng các vụ
án liên quan đến nạn tham nhũng, hối lộ ngày càng tăng, số lượng tội phạm tham nhũng,
hối lộ ngày càng nhiều và xảy ra với quy mô lớn. Từ những thực tiễn trên cho thấy một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng các tệ nạn về tham nhũng, trong đó
có các tội về hối lộ diễn ra nhiều với quy mô lớn xuất phát từ những bất cập trong quy định
pháp luật về các tội phạm hối lộ, bên cạnh đó những bất cập trong quá trình phát hiện và
xử lý cũng như những vướng mắc trong công tác áp dụng quy định về các tội phạm hối lộ
vào thực tiễn cũng là những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến tệ nạn này.

3.2. Những bất cập về các tội hối lộ


3.2.1. Bất cập trong quy định pháp luật về các tội hối lộ
Từ khi thành lập đến nay hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật hình sự
nói riêng luôn được Nhà nước ta sửa đổi ngày càng hoàn thiện, từ những văn bản buổi đầu
hình thành nên những quy định đến những pháp lệnh, đến Bộ luật hình sự năm 1999 và
đỉnh cao là Bộ luật hình sự năm 2015. Với sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện nay
thì theo đó pháp luật cũng sửa đổi để phù hợp hơn với thực tiễn. Tuy nhiên, dù đã có những
điều luật mang tính cụ thể và bao hàm các trường hợp phạm tội xảy ra và trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung nhưng Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung vẫn tồn tại nhiều bất
cập, chưa phát huy được tối đa hiệu quả của quy định pháp luật trong công tác phòng,
chống tội phạm. Với mong muốn được góp phần vào việc hoàn thành các chế định hình sự

69
Nhân Dân Điện Tử, “Y án chung thân thanh tra nhận hối lộ”, Thanh Tâm,
http://www.nhandan.com.vn/phapluat/thoi-su-phap-luat/item/34458302-y-an-chung-than-thanh-tra-giao-thong-
nhan-hoi-lo.html [truy cập ngày 10/8/2018].
70
Thể thao & Văn hóa, “Tham ô tài sản, nguyên Giám đốc Agribank chi nhánh Bến Thành lĩnh án tù chung thân”,
Nguyễn Chung, https://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/tham-o-tai-san-nguyen-giam-doc-agribank-chi-nhanh-ben-thanh-
linh-an-tu-chung-than-n20171215161230067.htm [truy cập ngày 06/10/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 57 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

về các tội hối lộ, trong phạm vi nghiên cứu của mình người viết nêu ra một số vấn đề bất
cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm này, để luật hình sự
thật sự là công cụ sắc bén trong công cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này và
đảm bảo sự ổn định xã hội trong tình hình phát triển hiện nay.
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015, người chuẩn bị
phạm tội trong một số tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự, như các tội: Tội phản
bội tổ quốc (Điều 108), Tội gián điệp (Điều 110), Tội cướp tài sản (Điều 168),.. Trong khi
đó, một số loại tội phạm luôn được đánh giá là nguy hiểm và gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nền kinh tế và chế độ chính trị của đất nước, trong đó có các tội phạm về tham nhũng
như: Tội tham ô tài sản (Điều 353), Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
(Điều 355), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
(Điều 358) và có cả các tội phạm về hối lộ, cụ thể là tội nhận hối lộ (Điều 354), tội đưa hối
lộ (Điều 364) và tội làm môi giới hối lộ (Điều 365). Như vậy, các hành vi chuẩn bị phạm
tội đối với các tội phạm về hối lộ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự cho thấy Bộ
luật hình sự năm 2015 còn quá xem nhẹ tội phạm về hối lộ nói riêng và các tội phạm về
tham nhũng nói chung trong khi các nhận định của Đảng và Nhà nước ta về vấn nạn tham
nhũng điều đánh giá là hành vi hết sức nguy hiểm.
Thứ hai, một quy định không cần thiết là “lợi ích vật chất khác” bởi lẽ việc xác định
một lợi ích vật chất khác ngoài tiền và tài sản là điều rất khó, vì đã là lợi ích thì chỉ tồn tại
dưới hai dạng là tiền và tài sản, không có lợi ích vật chất nào gọi là lợi ích vật chất phi tài
sản, ngoài tiền và tài sản ra không thể xác định được lợi ích vật chất nào khác.
Thứ ba, của hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 có “tiền, tài sản”. Tuy
nhiên, với quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Từ đó có thể thấy quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về của hối lộ là “tiền, tài sản” là “có sự chồng lấp” không cần thiết.
Thứ tư, việc quy định giá trị “của hối lộ” để có thể cấu thành tội phạm về hối lộ quá
lớn, chưa đảm bảo tính răn đe cao của quy định pháp luật với thực tế của tội phạm này. So
sánh giữa quy định về của hối lộ trong Bộ luật hình sự năm 2015 với Bộ luật hình sự năm
1999 thì Bộ luật hình sự năm 2015 đã nâng mức giá trị của hối lộ để truy cứu trách nhiệm
hình sự tại tại cả ba loại tội phạm về hối lộ tại các khoản gấp nhiều lần so với quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999, bên cạnh đó mức hình phạt tại các khoản đối với tội đưa hối lộ
và môi giới hối lộ tại bộ luật hiện hành giảm so với quy định cũ. Việc nâng giá trị của hối
lộ lên trong khi một số mức hình phạt vẫn giữ nguyên và nâng giá trị của hối lộ và giảm
hình phạt mà người phạm tội phải chịu là chưa phù hợp, cụ thể ở một số điều khoản như:

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 58 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

• Đối với tội nhận hối lộ: với mức hình phạt vẫn không có sự thay đổi cả quy định
đối với tội phạm này tại Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 354 Bộ luật Hình sự
năm 2015 nhưng mức giá trị của hối lộ lại có phần tăng lên đáng kể. Cụ thể, tại khoản 1
Điều 279 tội phạm nhận hối lộ sẽ bị “phạt tù từ hai năm đến bảy năm” với mức của hối lộ
“năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã
bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương XXI Bộ luật Hình sự năm 1999,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm ” nhưng vẫn với hình phạt này tại khoản 1 Điều
354 Bộ luật hiện hành lại nâng giá trị của hối lộ lên gấp nhiều lần “từ 2.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này
mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”; tại khoản 2 Điều 279 Bộ luật cũ tội phạm nhận
hối lộ sẽ bị “phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” với mức giá trị của hối lộ “từ mười
triệu đến dưới năm mươi triệu” nhưng vẫn với hình phạt này tại khoản 2 Điều 354 Bộ luật
hiện hành mức giá trị của hối lộ nâng lên cao hơn “từ 100.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng”; tại khoản 3 Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999 tội phạm nhận hối lộ
sẽ bị “phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm” với mức giá trị của hối lộ “từ năm
mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng” nhưng vẫn với hình phạt này thì tại khoản
3 Điều 354 Bộ luật hiện hành giá trị của hối lộ được nâng lên “từ 500.000.000 đồng đến
dưới 1.000.000.000 đồng”; tương tự tại khoản 4 đối với tội nhận hối lộ ở quy định tại hai
điều luật này với mức “phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” thì giá trị của
hối lộ được nâng lên “từ ba trăm triệu đồng trở lên” đối với Bộ luật cũ thành
“1.000.000.000 đồng trở lên”. Như vậy, đối với tội này có thể thấy mức hình phạt vẫn
được giữ nguyên nhưng mức giá trị của hối lộ lại có sự tăng lên đáng kể.

• Đối với tội đưa hối lộ: với mức giá trị của hối lộ tại các khoản được quy định giống
với quy định tại hai điều luật của tội nhận hối lộ bên cạnh đó mức hình phạt tại hai quy
định đối với tội đưa hối lộ tại Điều 289 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 364 Bộ luật
Hình sự năm 2015 cũng có sự thay đổi, cụ thể: tại khoản 1 Điều 289 với mức hình phạt “tù
từ một năm đến sáu năm” thì tại khoản 1 Điều 364 mức hình phạt lại có phần được giảm
nhẹ hơn “phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”, qua đó cho thấy với quy định mới
người phạm tội có thể không phải chịu hình phạt tù mà chỉ bị phạt tiền hoặc với hình thức
cải tạo không giam giữ, còn với hình phạt tù vẫn có sự giảm nhẹ đáng kể so với quy định
cũ; với khoản 2 Điều 289 với mức phạt “tù từ sáu năm đến mười ba năm” thì tại khoản 2
Điều 364 mức hình phạt cao nhất chỉ với 07 năm tù “phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”; tại
khoản 3 Điều 289 thì mức phạt người phạm tội phải chịu là “tù từ mười ba năm đến hai

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 59 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

mươi năm” thì tại khoản 3 Điều 364 mức phạt người phạm tội này phải chịu còn “tù từ 07
năm đến 12 năm”; một quy định giảm nhẹ mức hình phạt thay đổi lớn nhất đối với tội này
thể hiện tại khoản 4 Điều 289 với mức hình phạt “tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình”, với mức hình phạt cao nhất mà người phạm tội có thể chịu là tử hình thì với quy
định tại khoản 4 Điều 364 Bộ luật hiện hành thì mức hình phạt cao nhất chỉ còn 20 năm
“tù từ 12 năm đến 20 năm”. Nếu đối với tội nhận hối lộ tại hai bộ luật mức hình phạt vẫn
được giữ nguyên nhưng mức giá trị của hối lộ có sự thay đổi tăng lên thì đối với tội phạm
đưa hối lộ không chỉ gia tăng về giá trị của hối lộ mà mức hình phạt người phạm tội phải
chịu còn được giảm xuống. Điều này là chưa phù hợp với tình hình tội phạm như đã phân
tích và tinh thần đấu tranh kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

• Đối với tội môi giới hối lộ: tương tự với quy định về tội đưa hối lộ tội phạm môi
giới hối lộ tại Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015
cũng có sự thay đổi là tăng giá trị của hối lộ và giảm mức hình phạt mà người phạm tội
phải chịu theo quy định tại bộ luật mới, cụ thể: tại khoản 1 Điều 290 với mức hình phạt “tù
từ sáu tháng đến năm năm” thì tại khoản 1 Điều 365 mức hình phạt lại có phần được giảm
nhẹ hơn “phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”, giống với sự thay đổi tại khoản 1
đối với tội đưa hối lộ giữa hai bộ luật thì với quy định mới người phạm tội có thể không
phải chịu hình phạt tù mà chỉ bị phạt tiền hoặc với hình thức cải tạo không giam giữ, còn
với hình phạt tù vẫn có sự giảm nhẹ đáng kể so với quy định cũ; với khoản 2 Điều 290 với
mức phạt “tù từ ba năm đến mười năm” thì tại khoản 2 Điều 365 mức hình phạt cao nhất
chỉ với 07 năm tù “phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”; tại khoản 3 Điều 290 thì mức phạt
người phạm tội phải chịu là “tù từ tám năm đến mười lăm năm” thì tại khoản 3 Điều 365
mức phạt người phạm tội này phải chịu còn “tù từ 05 năm đến 10 năm”; tương tự tại khoản
4 Điều 290 với mức hình phạt “tù từ mười hai năm đến hai mươi năm” thì người phạm tội
chỉ chịu hình phạt “tù từ 08 năm đến 15 năm” theo quy định tại khoản 4 Điều 365 Bộ luật
hiện hành.
Với việc quy định nâng giá trị của hối lộ lên trong khi khung hình phạt vẫn chưa được
tương xứng là không phù hợp với những nguyên nhân từ thực tế như sau:
Với mức lương cơ sở khá thấp của nước ta hiện nay là 1.390.000 đồng/tháng thì khi giá
trị của hối lộ là 100.000.000 đồng thì gấp 71,9 lần tháng lương tối thiểu chung gần 6 năm
lương tối thiểu, khi của hối lộ là 500.000.000 đồng thì sẽ gấp 359,7 lần tháng lương tối
thiểu chung gần 30 năm lương tối thiểu. Từ đó có thể thấy so với một đất nước đang phát
triển như Việt Nam, với mức lương tối thiểu không cao thì số tiền của hối lộ này là rất lớn.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 60 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Việc nâng mức giá trị của hối lộ ở khoản tối đa lên cao gấp nhiều lần mức tối đa của
Bộ luật hình sự năm 1999 mà không nâng khung hình phạt lên đối với tội nhận hối lộ và
nâng mức giá trị của hối lộ lên cao hơn so với quy định cũ trong khi khung hình phạt thì
giảm xuống đối với tội đưa hối lộ và tội môi giới hối lộ là không phù hợp, chưa thể hiện
được sự kiên quyết trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng, hối lộ
trong khi thực tiễn gần đây rất nhiều vụ án hối lộ bị phát hiện xảy ra với thủ đoạn càng tinh
vi và mức giá trị của hối lộ rất cao nên việc nâng khung hình phạt lên để đảm bảo tính răn
đe là thật sự cần thiết.
Thứ năm, nhằm thực hiện việc đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và
minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
2010, định hướng đến 2020, một trong những hoạt động cần thiết nhằm đảm bảo tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, yêu cầu căn bản trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay là đánh giá tính thống nhất, xem xét
sự phù hợp trong việc quy định các tội phạm về tham nhũng, hối lộ trong Bộ luật hình sự
năm 2015 với việc quy định bản chất và phạm vi tham nhũng của Luật Phòng, chống tham
nhũng năm 2005. Việc đánh giá này là cần thiết xuất phát từ yêu cầu về tính thống nhất
giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định tội phạm với các luật phòng, chống và các luật
chuyên ngành từ đó tìm ra những điểm còn chưa nhất quán, chưa đồng bộ giữa hai đạo luật
này nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật nước ta nói chung và pháp luật hình sự nói
riêng, cụ thể một số diểm chưa nhất quán như sau:
Hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ trong những trường hợp được quy định tại khoản 8
Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng bị xem là hành vi tham nhũng, trong khi những
hành vi này nếu thỏa mãn dấu hiệu định lượng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
lại cấu thành tội phạm theo Điều 364 (Tội đưa hối lộ) hoặc Điều 365 (Tội làm môi giới hối
lộ) là những tội không thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng.
Một điểm thiếu thống nhất nữa về phạm vi của tham nhũng giữa Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2005 và Bộ luật hình sự năm 2015 là việc Bộ luật hình sự năm 2015 đã
mở rộng phạm vi tội phạm ở các tội hối lộ sang khu vực ngoài Nhà nước, trong khi luật
phòng chống tham nhũng chỉ giới hạn điều chỉnh tham nhũng của khu vực công.
Có thể thấy tính kết nối giữa hai đạo luật này hầu như không có, mặc dù tồn tại mối
quan hệ phụ thuộc giữa chúng, không có quy định nào trong Luật Phòng, chống tham nhũng
năm 2005 hoặc trong Bộ luật hình sự năm 2015 viện dẫn tới các quy định có liên quan

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 61 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

trọng đạo luật còn lại, Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn không có quy định nào thể hiện mối
liên hệ với Luật Phòng, chống tham nhũng năm 200571.
Thứ sáu, như đã phân tích ở mục 2.3.3.2 Chương 2 (Quy định về các tội hối lộ trong
Bộ luật Hình sự hiện hành) thì quy định về tội môi giới hối lộ tại Điều 365 Bộ luật Hình
sự quy định dấu hiệu hành vi của tội phạm bằng cụm từ “người nào môi giới hối lộ” là
chưa mô tả được cụ thể hành vi mà người phạm tội thực hiện, theo đó chưa có một quy
định cụ thể nào về hành vi môi giới hối lộ được xác định rõ để vừa giúp cho cơ quan áp
dụng pháp luật nhận diện yếu tố này chính xác nhất, vừa giúp cho việc phân biệt tội phạm
này với tội phạm khác có dấu hiệu cấu thành tương tự. hành vi này được quy định chung
chung và giống với tên của điều luật dẫn đến nhiều khó khăn trong việc định tội, dễ gây
xác định sai tội phạm và xử lý không đúng tội. Theo Từ Điển Luật Học thì hành vi môi
giới là “hành vi làm trung gian cho các bên tiếp xúc, đàm phán và thiết lập các quan hệ
để hưởng thù lao”72, từ đó có thể hiểu môi giới là hoạt động tạo điều kiện, hỗ trợ cho các
bên được môi giới đạt được mong muốn và bản thân người môi giới thực hiện hành vi này
nhằm mục đích là hưởng thù lao từ các bên, trong khi đó cũng theo Từ Điển Luật Học này
thì “môi giới hối lộ” được hiểu là “hành vi làm trung gian giữa người nhận và người đưa
hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc cả hai bên”73, cũng là hành vi tạo điều kiện
và hỗ trợ các bên trong việc thực hiện hành vi hối lộ nhưng với việc mô tả cụ thể hành vi
môi giới hối lộ lại không bắt buộc yếu tố lợi ích mà người môi giới hối lộ có được và phải
đạt được một yếu tố nữa là làm theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đưa hối lộ và nhận
hối lộ. Trong khi đó, theo Thuật ngữ Pháp Lý thì “môi giới hối lộ” được hiểu là “làm trung
gian giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ”74, qua đó có thể hiểu chỉ cần có hành vi
làm trung gian cho hai bên đưa hối lộ và nhận hối lộ thì đã bị coi là tội phạm với tội danh
môi giới hối lộ mà không cần xét đến động cơ, mục đích gì. Theo cách hiểu này thì một
điểm khác biệt cơ bản đối với cách hiểu về môi giới hối lộ trong Từ Điển Luật Học là theo
Thuật ngữ Pháp Lý thì môi giới hối lộ chỉ cần có hành vi làm trung gian cho hai bên mà
không cần phải có sự yêu cầu hoặc đề nghị của bất kỳ chủ thể nào. Từ một số cách hiểu
trên có thể thấy có rất nhiều khái niệm mô tả cụ thể hành vi môi giới hối lộ nhưng theo quy
định của Bộ luật Hình sự lại chưa có một cách hiểu chi tiết và thống nhất về hành vi này
sẽ là một bất cập lớn cho cơ quan áp dụng pháp luật. Vì vậy, cần quy định rõ ràng và cụ

71
Đào Lệ Thu: Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự năm 2015 với Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2005 và những đề xuất, Tạp chí luật học số 2/2018,’2018’, tr.74-77.
72
Nguyễn Đình Lộc, Uông Chi Lưu, Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi, Dương Thanh Mai, Nguyễn Ngọc Hòa: Từ
Điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp, 2006.
73
Nguyễn Đình Lộc, Uông Chi Lưu, Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi, Dương Thanh Mai, Nguyễn Ngọc Hòa: Từ
Điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp, 2006.
74
Nguyễn Manh Hùng: Thuật ngữ Pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 62 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

thể hơn về hành vi của tội môi giới hối lộ, từ đó dễ nhận biết và giúp cơ quan áp dụng pháp
luật dễ dàng xác định tội phạm trong quá trình đấu tranh và phòng chống xử lý loại tội
phạm này.
3.2.2. Bất cập trong áp dụng quy định về các tội hối lộ vào thực tiễn
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, phạm vi chủ thể của các tội phạm về hối
lộ được mở rộng, cụ thể tại khoản 6 các Điều 354 và 364, khoản 7 Điều 365 đã ghi nhận
thêm chủ thể của tội nhận hối lộ và cũng là đối tượng của tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ
là những người làm việc trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước. Theo đó, các trường
hợp hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước được phản ánh trong cùng điều luật về hối lộ ở khu
vực công, điều đó cho thấy Bộ luật hình sự năm 2015 đã đồng nhất đặc điểm pháp lý của
hai loại hình hối lộ này, điểm khác duy nhất là hối lộ tư có chủ thể nhận hối lộ là người có
chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có quy định cũng như giải thích cụ thể về khái niệm “khu vực ngoài Nhà nước”, nên
có thể dẫn đến sự thiếu thống nhất trong thực tiễn xác định tội phạm hối lộ trong khu vực
này, cụ thể theo Dự thảo luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi có đề cập đến khái niệm
cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực Nhà nước bao gồm “cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng tài chính công, tài sản công”75, theo
khái niệm này và trên cơ sở phép loại trừ có thể xác định doanh nghiệp, tổ chức không
thuộc diện này sẽ thuộc phạm vi khu vực ngoài Nhà nước, bên cạnh đó Luật Doanh nghiệp
cũng nêu ra cách hiểu về doanh nghiệp Nhà nước là “Doanh nghiệp nhà nước là doanh
nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”76, tương tự với cách hiểu như trên thì
doanh nghiệp ngoài Nhà nước là các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện tại khoản 7 Điều
4 Luật Doanh nghiệp và không có vốn của Nhà nước. Như vậy, cần một cách hiểu cụ thể
và rõ ràng hơn dưới góc độ pháp luật hình sự về các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.
Vì tội phạm hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước được Bộ luật hình sự năm 2015 quy định
chung với tội phạm hối lộ trong khu vực công nên có thể thấy rằng những dấu hiệu pháp
lý đặc trưng của tội phạm hối lộ ở khu vực ngoài Nhà nước chưa được thể hiện rõ. Đây là
thách thức rất lớn đối với công tác áp dụng luật hình sự khi Bộ luật hình sự năm 2015 đã
có hiệu lực77.

75
Khoản 10 Điều 3 Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi (Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại phiên họp thứ
26 của Ủy ban Thường vụ quốc hội khóa XIV tháng 8/2018).
76
Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
77
Đào Lệ Thu: Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy định về
hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam , Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 (kỳ II tháng 8/2018),
‘2018’, tr.17-19.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 63 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

3.2.3. Bất cập trong quá trình phát hiện và xử lý các tội hối lộ
Hệ thống phòng chống trong quá trình phát hiện và xử lý của Việt Nam khá đồng bộ và
phức tạp. Tuy nhiên, trong công tác phát hiện và xử lý tội phạm về hối lộ còn bộc lộ nhiều
hạn chế. Trước tiên phải kể đến thái độ làm việc không nghiêm túc, lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của người dân để che giấu, qua mặt và thực hiện tội phạm, cho đến nay quyền tiếp cận
thông tin của người dân, doanh nghiệp chưa được bảo đảm, một số cán bộ, công chức lợi
dụng quy định về bí mật nhà nước để che giấu tài sản và việc thực hiện tội phạm về hối lộ
vẫn xảy ra, nhiều quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng về công khai, minh bạch
chưa được thực hiện đầy đủ như: Công khai quy hoạch sử dụng đất; công khai dự phòng
ngân sách; công khai đầu tư, mua sắm công; công khai công tác cán bộ; công khai tài sản
cán bộ; công khai hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kết luận thanh tra;
công khai, minh bạch các quyết định trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án... Một số
thành phần cán bộ Đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, theo đó là sự hạn chế
trong công tác phát hiện xử lý tội phạm này. Thái độ xem thường pháp luật của các chủ thể
phạm tội như việc người đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ cậy quan hệ xảy ra liên quan
đến người có chức vụ, quyền hạn nên việc phát hiện rất khó khăn và nếu có bị phát hiện
cũng sẽ có cách giải quyết hoặc cho qua. Những thiếu sót trong việc xử lý tội phạm này đã
góp phần làm gia tăng tội phạm xảy ra.
Một trong những yếu tố là nguyên nhân gây ra tỷ lệ tội phạm nhiều là do những hạn
chế, thiếu xót của cơ quan bảo vệ pháp luật trong công cuộc đấu tranh với các tội phạm về
hối lộ đạt hiệu quả còn thấp và gặp nhiều khó khăn:
Tình trạng chung trong công tác tổ chức cán bộ trong hệ thống cơ quan của nước ta là
cán bộ còn thiếu về số lượng và trình độ kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, việc quán triệt tư
tưởng cho các cán bộ chưa được chặt chẽ, điều kiện vật chất còn thiếu thốn, lạc hậu trong
khi tội phạm về hối lộ diễn ra hết sức tinh vi và phức tạp.
Tinh thần quyết tâm đấu tranh với tội phạm về hối lộ của một số bộ phận cán bộ trong
cơ quan bảo vệ pháp luật chưa cao. Điều này là kẻ hở quan trọng để tội phạm xảy ra mà
không bị phát giác xử lý.
Sự thiếu chặt chẽ trong việc phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với nhau (cùng
ngành nhưng khác cấp, cùng cấp nhưng khác ngành) và giữa những cơ quan bảo vệ pháp
luật với các cơ quan khác.
Hoạt động của các cơ quan thực hiện việc bảo vệ pháp luật như Thanh tra, Kiểm sát,
Tòa án có nhiều khó khăn về lực lượng cán bộ và phương tiện hoạt động nhất là ở cấp cơ
sở, quận, huyện, thị xã. Tình trạng phổ biến ở hầu hết các cơ quan là thiếu cán bộ được đào

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 64 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

tạo có hệ thống pháp lý, trình độ, năng lực của một số Thanh tra viên, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán lại không đáp ứng được nhu cầu hiện nay.
Việc xử lý hành vi hối lộ trong nhiều trường hợp còn chưa nghiêm, chưa kịp thời; các
biện pháp hỗ trợ hoạt động tư pháp còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là công
tác giám định tư pháp trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, khoa
học công nghệ... Hành vi hối lộ ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy việc phát hiện và xử lý
gặp nhiều khó khăn. Việc tự kiểm tra, phát hiện tội phạm về hối lộ trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị còn rất yếu, một số trường hợp chưa xử lý triệt để, muốn xử lý nhẹ, xử lý nội
bộ, không muốn chuyển cơ quan chức năng xem xét để xử lý theo quy định pháp luật. Một
số vụ việc đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, miễn trách nhiệm hình sự chưa đúng quy định
của pháp luật; việc thay đổi sang tội danh khác nhẹ hơn hoặc không phải tội danh về hối lộ
vẫn còn xảy ra.
Việc thu hồi tài sản hối lộ còn gặp rất nhiều khó khăn do một số nguyên nhân như:
Chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của xã hội nên tài sản có nguồn gốc hối lộ dễ dàng
bị tẩu tán, không thể thu hồi được; đa số các tội phạm hối lộ là tội phạm có tổ chức, người
phạm tội thường là người có chức vụ, có trình độ chuyên môn cao, vì vậy, việc phạm tội
có sự chuẩn bị kỹ càng, thủ đoạn và che giấu tội phạm tinh vi; quá trình xử lý tin báo, tố
giác tội phạm thiếu chặt chẽ, trong nhiều trường hợp để tin quá hạn lâu mà không được xử
lý đã tạo điều kiện cho tội phạm hối lộ cố tình che dấu hành vi, tẩu tán tài sản… Do đó, tỷ
lệ tiền, tài sản thu hồi được rất nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt.
Chẳng hạn, trong các vụ án Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên), Huỳnh Thị Huyền Như, Hà Văn
Thắm, Vinashine, Vinalines… đã gây thiệt hại cho Nhà nước và xã hội rất lớn nhưng sau
khi xét xử việc thu hồi tài sản bị thất thoát không cao, hàng ngàn tỷ đồng của Nhà nước bị
hành vi chiếm đoạt vẫn chưa được thu hồi. Tình trạng lợi dụng truyền thống văn hóa về
tặng quà, cảm ơn để biếu xén, đưa hối lộ vì động cơ vụ lợi còn khá phổ biến. Qua theo dõi
cho thấy, quy định về việc nộp lại quà tặng còn hình thức, chưa có chế tài, thiếu khả thi,
việc thực hiện chưa nghiêm, hiệu quả thấp và trên thực tế cũng rất khó kiểm soát do phụ
thuộc nhiều vào tính tự giác, đạo đức của cán bộ, công chức.
Trường hợp phổ biến nhất là số người đứng đầu bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tình
trạng hối lộ còn ít so với số vụ việc được phát hiện, xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, có
thể khái quát một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như sau:
Chủ thể của tội phạm về hối lộ có người có chức vụ, quyền hạn nên những chủ thể này
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện tội phạm cũng như che giấu việc phát hiện tội
phạm, với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật cao nên nhóm chủ thể
này thường có phương thức thực hiện và che giấu tội phạm tinh vi, xảo quyệt gây khó khăn

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 65 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

cho công tác phát hiện cũng như lợi dụng mối quan hệ, sức ảnh hưởng trong cơ quan để
hành vi phạm tội được bao che, khỏa lấp, theo đó, những nạn nhân và những người biết có
thông tin về hối lộ cũng không dám tố cáo vì sợ trả thù và ảnh hưởng đến những hoạt động
liên quan đến cơ quan mà người bị tố cáo có làm việc.
Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống thấp, tạo
ra các kẽ hở cho nạn hối lộ nảy sinh và phát triển. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của mặt trái
cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá mức giá trị đồng tiền làm cho người
sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công
chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh. Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu
nghèo ngày càng rõ rệt, có những giá trị xã hội bị đảo lộn, mọi người đều phải chịu sức ép
của việc kiếm tiền, làm xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể mua bán. Những nghiên cứu
gần đây cho thấy tác hại to lớn của những yếu tố tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường
thật sự đã đến mức báo động, chính điều này đã góp phần làm gia tăng nạn hối lộ thông
qua việc thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, làm giàu phi pháp,
chiếm đoạt tiền của Nhà nước và nhân dân78.
Đối với hoạt động giám sát, trong mỗi cơ quan luôn có tổ chức Đảng, Công đoàn,
Thanh tra nhân dân; về cơ quan nhân dân thì có các cơ quan như Hội đồng nhân dân, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội thực hiện vai trò giám sát đối với các
hoạt động chuyên môn. Bên cạnh đó, một nguồn lực vô tận và hiệu quả trong hoạt động
giám sát chính là quần chúng nhân dân, đây là lực lượng thực hiện hoạt động giám sát
khách quan, hiệu quả nhất nếu chúng ta phát huy được dân chủ theo đúng phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”. Nhưng bên cạnh những phương châm
mang tính lý thuyết thì thực tế lại diễn ra không ích vụ việc nhân dân phát hiện có dấu hiệu
của hối lộ và đã mạnh dạng đứng ra tố cáo, nhưng đơn thư của họ lại được trả về nơi bị tố
cáo giải quyết và họ trở thành nạn nhân của những hành vi đe dọa, trấn áp, trả thù hoặc
những trường hợp người tố cáo sẽ bị ảnh hưởng sinh mạng, chính trị và vụ việc sẽ bị “lãng
quên” nếu không có sự can thiệp của cơ quan báo chí, cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc cơ
quan cấp trên can thiệp, tiếp sức kiệp thời. Một thực tế không phải là hiếm hoi ở các cơ
quan, đơn vị thường xảy ra tình trạng tham nhũng, hối lộ là sự mất dân chủ hoặc dân chủ
hình thức, không tạo điều kiện hoặc kìm hãm không cho cán bộ, Đảng viên, công chức
thực hiện tốt quyền dân chủ của mình, xảy ra tình trạng điều phối, thâu tóm quyền lực. Vì

78
Chuyên trang giáo dục và đào tạo phòng chống tham nhũng, “Nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng”,
http://thanhtra.gov.vn/ct137/Lists/LTaiLieu/View_Detail.aspx?CatID=1&ItemId=25&LVID=&CapChaId=2 [truy
cập ngày 10/9/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 66 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

vậy, dân chủ bị xâm phạm nghiêm trọng, tình trạng hối lộ ít bị phát hiện hoặc bị phát hiện
nhưng lơ đi nên không bị xử lý và vẫn tồn tại.
Một trong những nguyên nhân làm nãy sinh tham vọng ích kỷ, nhằm có những thu
nhập, lợi ích vật chất không tương xứng với năng lực thực thụ của bản thân nên tìm mọi
cách bòn rút lao động của người khác trong xã hội. Xuất phát từ thu nhập của người lao
động khác nhau do năng lực và trình độ khác nhau. Người lao động trí óc, lao động có tay
nghề thì thu nhập cao hơn lao động chân tay, thủ công đơn giản, người có chức vụ thu nhập
cao hơn nhân viên, cũng như sự khác biệt giữa người lao động ở các vùng, miền, thành
phần kinh tế, tỉnh, thành phố khác nhau cũng có thu nhập khác nhau. Chính vì sự bất hợp
lý trong việc phân phối thu nhập tạo điều kiện cho những kẻ lợi dụng sơ hở đó để hối lộ,
tham ô, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của nhân dân.
Công tác thanh tra bị buông lỏng nên nhiều tội phạm hối lộ không được phát hiện kịp
thời hoặc tuy bị phát hiện nhưng với nhiều lý do khác nhau trong đó có sự bao che nên
hành vi phạm tội bị bỏ qua hoặc chỉ bị xử lý kỷ luật mặc dù trong số này có không ít hành
vi đã cấu thành tội phạm về hối lộ, nguyên nhân là còn thiếu kiên quyết, nể nang, né tránh
trong xử lý.
3.3. Giải pháp cho những bất cập về các tội hối lộ
3.3.1. Giải pháp để hoàn thiện quy định pháp luật về các tội hối lộ
Với tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm của
Bộ luật hình sự thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội
trở thành người có ích cho bản thân gia đình và xã hội, qua đó, nâng cao cho người dân ý
thức, tinh thần thượng tôn pháp luật, tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và
phòng chống tội phạm góp phần làm tốt đẹp hơn cho đất nước ta. Để đảm bảo thực hiện
mong muốn đó, Nhà nước ta luôn không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật hình sự nói riêng, nhằm bắt kịp sự phát triển nhanh chóng của đất nước cũng
như phù hợp với tình hình xã hội hiện nay, nâng cao vai trò của pháp luật, để pháp luật trở
thành công cụ chủ đạo điều chỉnh hoạt động của xã hội. Dưới đây người viết nêu lên một
vài giải pháp hoàn thiện quy định về các tội phạm hối lộ với mong muốn được góp phần
vào công cuộc kiện toàn hệ thống pháp luật hình sự trong thời kỳ mới.
Thứ nhất, với thực tế hiện nay là người phạm tội có chiều hướng tăng lên cả về số lượng
vụ việc lẫn hành vi tinh vi khó đoán nên việc quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự năm
2015 về chuẩn bị phạm tội với cách hiểu như sau “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn
công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành
lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy
định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật
GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 67 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

này”79. Và với hình thức liệt kê các tội phải chịu trách nhiệm hình sự khi chuẩn bị phạm
tội như tội phản bội tổ quốc (Điều 108), Tội gián điệp (Điều 110), Tội cướp tài sản (Điều
168),.. Như vậy, quy định này đã thể hiện sự vướng mắc cho thấy Bộ luật hình sự năm
2015 còn quá xem nhẹ tội phạm về hối lộ. Nhằm thể hiện được quyết tâm phòng, chống
tham nhũng ngay từ đầu của Đảng và Nhà nước ta về vấn nạn này cần bổ sung các tội phạm
về hối lộ vào khoản 2 Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015 để việc phạm tội có thể bị ngăn
chặn và xử lý kịp thời.
Thứ hai, đề xuất bỏ “lợi ích vật chất khác” vì quy định này là không cần thiết. Bởi lẽ,
ngoài tiền hoặc tài sản ra thì khó có thể xác định được lợi ích vật chất nào khác, vì đã là lợi
ích vật chất thì chỉ tồn tại ở hai dạng là tiền hoặc tài sản, không có cái gọi là lợi ích vật chất
phi tài sản. Bên cạnh đó, việc bỏ quy định về của hối lộ là “tiền” ra khỏi quy định cũng góp
phần tống nhất quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 với Bộ luật dân sự năm 2015. Vì
theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 đã thể hiện “tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản” do đó có thể nhận thấy tiền cũng là một trong các loại tài
sản nên đã quy định của hối lộ gồm tài sản thì không cần thiết quy định thêm tiền, như vậy
sẽ thêm dài dòng tạo ra sự dư thừa trong quy định pháp luật.
Thứ ba, nên giảm giá trị “của hối lộ” để nâng cao tính răn đe cũng như tránh được sự
thất thoát lớn về tài sản, bên cạnh đó thể hiện được quyết tâm phòng chống tội phạm về
hối lộ của Đảng và Nhà nước ta. Với thực trạng hiện nay so với giai đoạn 2011-2012, số
tiền trung bình khiến người dân có thể trình báo chuyện hối lộ với công an là khoảng 5
triệu đồng, chỉ sau vài năm con số này đã tăng gấp 5 lần, tức khoảng 27,5 triệu đồng80.
Trong khi đó, theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê thì GDP bình quân đầu người
ở Việt Nam năm 2017 ước tính đạt 53,5 triệu đồng81, với mức bình quân này và so với mức
giá trị tối đa của hối lộ tại cấu thành cơ bản chỉ gần bằng một nữa, cho thấy giá trị của hối
lộ mức giá trị của hối lộ này là quá cao so với thu nhập trung bình của người dân Việt Nam,
trong khi Đảng và Nhà nước luôn nêu cao tinh thần kiên quyết đấu tranh loại tội phạm này
thì đây lại là quy định có lợi cho người phạm tội. Qua đó, cân nhắc dựa vào tình hình phát
triển của đất nước và thu nhập bình quân của đa số nhân dân để định lượng “của hối lộ”
sao cho phù hợp , tránh xảy ra tình trạng số giá trị tài sản hối lộ quá lớn mới bị xử lý hình
sự với khung hình phạt cao.

79
Khoản 1 Điều 14 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
80
Zing.vn, “Vì sao người Việt ‘bạo tay’ chi tiền hối lộ”, Trà My – An Điền, https://news.zing.vn/vi-sao-nguoi-viet-
phai-bao-tay-chi-tien-hoi-lo-post843075.html [truy cập ngày 14/11/2018].
81
Tổng cục thống kê, “Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội năm 2017”,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=&ItemID=18667 [truy cập ngày 14/11/2018].

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 68 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Thứ tư, cần xác định tính chất tham nhũng cho một số tội phạm hiện đã được quy định
trong Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng không bị xem là tội phạm tham nhũng. Trước hết,
cần xác định tính chất tham nhũng đối với các tội: đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ và xếp
các tội này vào nhóm tội tham nhũng trong Bộ luật hình sự. Sửa đổi này một mặt đáp ứng
yêu cầu của chuẩn mực quốc tế (thể hiện rõ nét nhất trong Công ước của Liên hợp quốc về
chống tham nhũng), mặt khác khắc phục sự thiếu thống nhất giữa Bộ luật hình sự năm
2015 với Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Bên cạnh đó, để đảm bảo sự nhất quán
giữa hai đạo luật hình sự và phòng chống tham nhũng và nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật, đảm bảo môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng, tất cả các loại hình đơn vị, tổ
chức kinh tế, tài chính ở khu vực ngoài nhà nước đều nên thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Sau đó, trên cơ sở Luật Phòng, chống tham
nhũng sửa đổi các cơ quan thực thi pháp luật sẽ ban hành văn bản hướng dẫn về chủ thể
của tội phạm tham nhũng thuộc khu vực ngoài nhà nước. Vậy để đảm bảo thống nhất với
Bộ luật hình sự năm 2015 thì Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 cần xác định rõ
trong số các hành vi tham nhũng quy định tại Điều 2 hiện nay có những hành vi nào là vi
phạm (bị xử lý kỷ luật) và những hành vi nào là phạm tội (bị truy cứu trách nhiệm hình sự)
tùy vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Quy định như vậy còn có ý nghĩa thể hiện
tính minh bạch của việc quy định hình thức trách nhiệm pháp lý đối với từng hành vi tham
nhũng82.
Thứ năm, quy định về tội môi giới hối lộ tại Điều 365 Bộ luật Hình sự chỉ nêu hành vi hành
vi “môi giới hối lộ” giống như cách gọi tội danh này mà không có một quy định cụ thể môi
giới hối lộ là hành vi như thế nào. Từ đó, dấu hiệu về hành vi này cần được xác định rõ để
vừa giúp cho cơ quan áp dụng pháp luật nhận diện yếu tố này chính xác hơn, vừa thuận lợi
cho việc phân biệt tội phạm này với tội phạm khác có dấu hiệu cấu thành tương tự. Hành
vi môi giới hối lộ trong tội môi giới hối lộ cần được hiểu là hành vi làm trung gian giữa
người đưa hối lộ và người nhận hối lộ theo yêu cầu của một trong hai bên hoặc cả hai bên.
Với cách hiểu này thì chỉ cần đáp ứng được hành vi làm trung gian đã bị coi là tội phạm vì
phù hợp với các yếu tố sau: (1) theo quy định cụ thể tại Điều 365 có thể hiểu được hành vi
môi giới hối lộ vẫn cấu thành tội phạm khi đạt đủ giá trị của hối lộ theo quy định mà không
cần đến yếu tố người môi giới hối lộ có đạt được lợi ích gì hay không, chỉ cần có hành vi
môi giới cho các bên thực hiện tội phạm; (2) hành vi môi giới hối lộ chỉ được cấu thành
khi người môi giới hối lộ thực hiện một cách khách quan, theo sự yêu cầu của các bên đưa
và nhận hối lộ, thể hiện vai trò làm cầu nối của chủ thể đối với việc đưa và nhận hối lộ.
Đúng với cách gọi là “môi giới”, tức là “người làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc,

82
Đào Lệ Thu: Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự năm 2015 với Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2005 và những đề xuất , Tạp chí luật học số 2/2018, ‘2018’, tr.79.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 69 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

giao thiệp với nhau”83, qua đó, người làm môi giới hối lộ chỉ giữ vai trò ở giữa trong quan
hệ giữa người đưa và nhận hối lộ, chủ yếu nhằm giúp các bên đi đến thỏa thuận hối lộ chứ
không can thiệp vào nội dung thỏa thuận, hành vi của người môi giới hối lộ thể hiện ý chí
của người đưa hối lộ và nhận hối lộ. Như vậy, khoản 1 Điều 365 sẽ được sửa đổi, bổ sung
như sau:
“Người nào làm trung gian giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ theo yêu cầu của
một trong hai bên hoặc cả hai bên mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất”.
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện việc áp dụng quy định về các tội hối lộ vào thực tiễn
Việc xác định phạm vi của doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cần được đặt trong
mối liên hệ với các văn bản pháp luật có liên quan về doanh nghiệp, về tổ chức xã hội.
Khái niệm “khu vực ngoài Nhà nước” chưa hề xuất hiện trong một văn bản pháp luật cụ
thể nào. Gần đây Dự thảo luật Phòng, chóng tham nhũng sửa đổi có đề cập đến khái niệm
cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực Nhà nước bao gồm “cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng tài chính công, tài sản công”84. Dựa
vào khái niệm này và trên cơ sở phép loại trừ có thể xác định những doanh nghiệp, tổ chức
không thuộc diện này sẽ thuộc phạm vi khu vực ngoài Nhà nước. Như vậy, Bộ luật hình
sự năm 2015 đã đặt ra một phạm vi khá rộng các loại hình doanh nghiệp với các quy mô
khác nhau thuộc phạm trù “khu vực ngoài Nhà nước”.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã đặt ra một phạm vi khá rộng các loại hình doanh nghiệp
với các quy mô khác nhau thuộc phạm trù “khu vực ngoài Nhà nước”. Vì vậy, việc giới
hạn bớt phạm vi các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh của
tội phạm về hối lộ là điều cần thiết. Có thể tham khảo quan điểm đưa ra trong một nghiên
cứu thực hiện bởi Thanh tra Chính phủ năm 2016 khi cho rằng, chỉ nên giới hạn các hành
vi tham nhũng ở khu vực tư trong phạm vi các hoạt động kinh doanh, thương mại của một
số loại hình doanh nghiệp ngoài Nhà nước có nguy cơ gây ảnh hưởng lớn tới lợi ích của

83
New Era: Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Từ Điển Bách Khoa, 2013.
84
Khoản 10 Điều 3 Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi (Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại phiên họp thứ
26 của Ủy ban Thường vụ quốc hội khóa XIV tháng 8/2018).

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 70 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

nhiều chủ thể kinh tế85. Một điều cần được chú ý là xác định mục đích của việc đưa và
nhận hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước đó là nhằm tác động dến người có chức vụ, quyền
hạn để họ làm hay không làm một việc trái với chức trách, nhiệm vụ của họ, hành vi chỉ
cấu thành tội phạm khi việc làm hay không làm mà người nhận hối lộ được yêu cầu thực
hiện phải là những việc trái với nhiệm vụ hoặc quyền hạn của người đó, vì chỉ khi đó, hành
vi đưa và nhận hối lộ mới chứa đựng tính bất chính và tính nguy hiểm cho xã hội đối với
sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước. Bên cạnh đó, về đường
lối xử lý, vì hối lộ trong khu vực công và hối lộ trong khu vực ngoài Nhà nước có những
khác biệt về khách thể bị xâm hại, về vai trò và chức năng của các chủ thể và về tính nguy
hiểm cho xã hội của chúng nên cần có sự phân hóa về trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Cụ thể, hối lộ trong khu vực ngoài Nhà nước cần được xem là những hành vi có tính nguy
hiểm cho xã hội thấp hơn, bởi vì hối lộ trong khu vực công xâm hại đến những quan hệ xã
hội quan trọng hơn, việc quyết định hình phạt đối với chủ thể đưa, nhận và môi giới hối lộ
ở khu vực ngoài Nhà nước cần dựa trên quy mô của vụ hối lộ, mức độ thiệt hại gây ra cho
doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước để có việc lựa chọn hình phạt phù hợp86.
3.3.3. Giải pháp trong công tác phát hiện và xử lý các tội hối lộ
Một trong những loại tội phạm nguy hiểm nhất theo thống kê là tội phạm về hối lộ.
Tính nguy hiểm này có thể thấy thông qua việc hối lộ xảy ra xuất phát từ bên trong của bộ
máy nhà nước, làm tha hóa một số cán bộ, Đảng viên, làm mất lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và chế độ làm cho các chính sách, chủ trương bị sai lệch, dẫn đến lệch
hướng Chủ nghĩa xã hội. Mà lòng tin của nhân dân là nguồn sức mạnh quyết định sự thịnh
suy của một đất nước, khi lòng tin của nhân dân bị suy giảm thì sẽ gây bất ổn chính trị - xã
hội, từ đó có thể làm thay đổi bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến
địa phương. Hối lộ bao giờ cũng gắn với những người có chức vụ, quyền hạn, nhất là những
người nắm giữ quyền lực nhà nước. Vì vậy, phải xây dựng, ban hành cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước. Nếu quyền lực nhà nước được kiểm soát tốt thì không thể lợi dụng
quyền lực nhà nước để tham nhũng. xử lý triệt để và nghiêm minh đối với các hành vi hối
lộ.

85
Thanh tra Chính phủ và Vương quốc Anh (2016), Báo cáo nghiên cứu “Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam, thực trạng pháp luật, kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
về phòng chống tham nhũng (sửa đổi)”, được trình bày trong Hội thảo cùng tên tổ chức ngày 22/12/2016 tại Vĩnh
Phúc, tr.75.
86
Đào Lệ Thu: Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối với việc áp dụng quy định về
hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 (kỳ II tháng 8/2018),
‘2018’, tr.18-19.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 71 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Các vụ án hối lộ cần được xét xử nghiêm minh, kịp thời và công khai với những mức
hình phạt thích đáng đối với các hành vi và hậu quả đã gây ra, áp dụng các biện pháp trừng
phạt một cách triệt để đối với các hành vi hối lộ.
Thêm vào đó, cần đào tạo một đội ngũ thẩm phán chuyên xét xử các tội phạm về hối
lộ. Đội ngũ này gồm những người thực sự trung thực, trong sạch, có bản lĩnh chính trị, có
kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn để xử lý nghiêm minh đối với các tội phạm này.
Thực tế vẫn còn những nhận thức lệch lạc, những lực cản trong việc xử lý, vẫn còn có sự
“can thiệp”, sự che chắn từ bên trên, bên ngoài và ngay cả trong các cơ quan chức năng…
tăng cường chế độ, chính sách về tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Đây được xem là một phương án phòng vệ hữu hiệu đối với nạn hối lộ.
Giải pháp về nâng cao, đổi mới và tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra
của các cơ quan có chức năng của cấp trên với cấp dưới của mình, nhất là việc giám sát,
kiểm tra đối với những người đứng đầu cấp dưới và các chức danh chủ chốt cấp dưới. Công
khai, minh bạch là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng. Công khai,
minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước. Với việc công khai minh bạch trong hoạt động tại các cơ quan
nhà nước, người dân sẽ dễ dàng nhận biết được các quyền và nghĩa vụ của mình để chủ
động thực hiện theo các quy định của pháp luật cũng như đòi hỏi cơ quan Nhà nước và các
cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các quy định đó. Công khai, minh bạch sẽ làm cho
công chức nhà nước có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo
đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định, bởi mọi hành vi vi phạm, phiền
hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý. “Công
khai và minh bạch là những chìa khoá then chốt nhằm bảo đảm đấu tranh chống tham
nhũng thành công”87.
Để chống tham nhũng, không có cách gì tốt hơn là tăng cường kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước, cụ thể là tác động vào đội ngũ cán bộ, công chức và quá trình thực hiện
công vụ. Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, cần kiểm soát cả những quan hệ xã hội của họ,
những quan hệ có nguy cơ bị lợi dụng và nảy sinh hối lộ. Quy tắc ứng xử vừa biểu hiện mối
quan hệ giữa công chức với nhà nước, vừa thể hiện mối quan hệ giữa cán bộ, công chức
với xã hội. Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức trong
thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc
không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên
chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của

87
Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - Thanh tra Chính phủ - Đại sứ quán Thụy
Điển tại Việt Nam: Thông cáo báo chí tại cuộc đối thoại về phòng, chống tham nhũng lần thứ ba, tháng 6-2008.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 72 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam

cán bộ, công chức, viên chức. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức được công
khai để nhân dân giám sát việc chấp hành. Để góp phần phòng ngừa hối lộ, việc xây dựng
quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với một số nghề đặc thù, hoạt động có tính chất độc lập như
luật sư, kiểm toán viên, mặc dù đây không phải là những người thuộc đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức làm việc trong cơ quan nhà nước nhưng cũng cần có những quy định về
chuẩn mực đạo đức trong quá trình hành nghề cho phù hợp, nhằm hướng tới một nền văn
hoá phi hối lộ trong toàn xã hội, cả trong khu vực công lẫn khu vực tư. Quy tắc đạo đức
nghề nghiệp là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù của từng nghề bảo đảm sự liêm chính,
trung thực và trách nhiệm trong việc hành nghề.
Phát huy tối đa mọi tiềm năng của đất nước, đặc biệt quan tâm đến việc cải cách tiền
lương tăng thu nhập cao hơn cho cán bộ, công chức để họ có đủ điều kiện yên tâm công
tác, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ của mình. Tiền lương hợp lý được hiểu là
nguồn thu nhập chính của cán bộ, công chức phải đảm bảo đủ cho cuộc sống và đủ chi trả
cho những khoản thu nhập cần thiết, các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày như: ăn, ở, đi lại,
học tập cho bản thân và gia đình,.. Cơ chế tiền lương hợp lý không những góp phần hạn
chế hiệu quả tình trạng hối lộ mà còn thu hút nhân tài vào làm việc và đóng góp công sức
vào sự phát triển của cơ quan nói riêng và đất nước nói chung, từ đó nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, đi đôi với vấn đề tăng tiền lương cũng phải
tăng cường chế độ trách nhiệm và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Một trong những nguyên nhân gây ra hối lộ đó là phẩm chất đạo đức của một bộ phận
cán bộ đảng viên suy thoái trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường bằng việc lạm
dụng chức quyền để làm giàu bất chính, lãng phí của công, tư tưởng trục lợi. Cơ chế “xin
- cho” được nhìn nhận là một trong những nguy cơ của tệ hối lộ khi các cán bộ nhà nước
có hành động ưu ái cung cấp hồ sơ, tiết lộ bí mật để nhận tiền “bồi dưỡng” hoặc sách
nhiễu, gây khó dễ trong thủ tục hành chính để nhận tiền “bôi trơn”. Nguyên nhân sâu xa
của những hiện tượng đó là chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất
hợp lý, chưa đáp ứng được những nhu cầu cơ bản thiết yếu. Cán bộ, công chức, viên chức
có nền tảng học thức cao và có mong muốn cống hiến cho đất nước thì được trả một mức
lương cực kỳ khiêm tốn.

GVHD: ThS. Nguyễn Thu Hương 73 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam
KẾT LUẬN
Các tội phạm về hối lộ đang gây nguy ngại lớn cho hoạt động bình thường của bộ máy
nhà nước, ở Việt Nam tình hình các tội phạm này phản ánh hiện tượng hối lộ đang trở
thành quốc nạn. Xét từ góc độ luật hình sự, bản chất nguy hiểm cho xã hội cũng như dấu
hiệu pháp lý của các tội phạm này và đường lối xử lý đối với chúng cần được nghiên cứu
để luật hình sự phát huy được vai trò trong cuộc đấu tranh chống hối lộ. Vì vậy, việc nghiên
cứu hệ thống lý luận về các tội phạm này là điều cần thiết và có ý nghĩa đối với việc nâng
cao nhận thức về tội phạm về hối lộ ở nước ta. Qua việc nghiên cứu đề tài “Các tội hối lộ
trong pháp luật hình sự Việt Nam” người viết đã phân tích và làm rõ một số vấn đề về lý
luận như khái niệm, đặc điểm cũng như tìm hiểu về quy định của các tội phạm này trong
lịch sử lập pháp nước ta. Qua đó, luận văn cũng đã làm rõ được quy định về các tội phạm
hối lộ trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành chính yếu nhằm tìm ra và làm rõ những
yếu tố cấu thành các tội phạm này cũng như quy định cụ thể về hình phạt của từng tội.
Hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ làm cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự các chủ thể
phạm tội, tránh bỏ sót tội phạm, xử đúng người đúng tội. Tuy Bộ luật Hình sự năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều tiến bộ hơn Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) nhưng vẫn còn một số bất cập, trên cơ sở tìm hiểu cũng như phân tích một
số vướng mắc trong quy định của pháp luật về các tội phạm hối lộ cũng như bất cập trong
việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn và khó khăn trong công tác phát hiện và xử lý tội
phạm này, người viết đã đưa ra một số tồn tại và những nguyên nhân dẫn đến tồn tại đó,
người viết đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện những bất cập còn tồn tại đối với các
tội phạm này. Kiến nghị bổ sung các tội phạm về hối lộ vào các tội phải chịu trách nhiệm
hình sự khi chuẩn bị phạm tội vào khoản 2 Điều 14; kiến nghị bỏ “lợi ích vật chất khác” ra
khỏi của hối lộ; kiến nghị giảm giá trị “của hối lộ”; kiến nghị xác định tính chất tham nhũng
đối với tội đưa hối lộ và nhận hối lộ; kiến nghị mô tả cụ thể hành vi “môi giới hối lộ”; kiến
nghị xác định phạm vi các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước và một số kiến nghị khác
nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý và tinh thần đấu tranh phòng, chống các
tội phạm về hối lộ.
Qua những hạn chế, bất cập còn tồn tại cho thấy bên vai trò của luật hình sự còn khá
mờ nhạt trong công cuộc đấu tranh chống hối lộ vì vậy việc nghiên cứu về các tội phạm
này trong pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ khoa học là một việc cần thiết . Trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và hoàn thiện quy định pháp luật về các tội hối lộ nói
riêng có ý nghĩa to lớn góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả đấu
tranh với tội phạm này.
GVHD: ThS.Nguyễn Thu Hương 73 SVTH: Trần Thị Thuận Anh
Các tội hối lộ trong pháp luật Hình sự Việt Nam
Cuối cùng, các tội phạm về hối lộ cần được ngăn ngừa và đấu tranh bằng sự nổ lực của
tất cả các thành tố xã hội. Pháp luật hình sự giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh
này, bên cạnh đó cần có sự phối hợp với các biện pháp khác như hoàn thiện cơ chế, chính
sách của nhà nước, công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là nâng cao ý thức đấu tranh chống
hối lộ của người dân,.. Cần có sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ để hiệu quả đấu tranh các tội
phạm này được hoàn thiện, nâng cao vai trò quan trọng của pháp luật và người viết tin rằng
trong thời gian sắp tới tình hình hối lộ sẽ được khắc phục, cuộc chiến chống lại loại tội
phạm này sẽ đạt được hiệu quả cao với những diễn biến khả quan hơn.

GVHD: ThS.Nguyễn Thu Hương 74 SVTH: Trần Thị Thuận Anh


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quốc tế
1. Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng năm 2003
Văn bản quy phạm pháp luật
2. Bộ luật Hình sự năm 1985
3. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
4. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
5. Luật cán bộ, công chức năm 2008
6. Bộ luật Lao động năm 2012
7. Luật doanh nghiệp năm 2014
8. Bộ luật Dân sự năm 2015
9. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
10. Nghị quyết hội nghị lần thứ 06 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IV
11. Nghị Quyết Số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tóa án Nhân dân Tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự
12. Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi (Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại
phiên họp thứ 26 của Ủy ban Thường vụ quốc hội khóa XIV tháng 8/2018)
Sách, giáo trình, luận án, luận văn, bài viết
13. Đào Lệ Thu: Các tội phạm về hối lộ theo Luật hình sự Việt nam trong sự so sánh với
Luật hình sự Thụy Điển và Astralia, Nxb. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011
14. Đào Lệ Thu: Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự năm 2015 với Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và những đề xuất, Tạp chí luật học số 2/2018,
2018
15. Đào Lệ Thu: Hối lộ trong khu vực tư theo luật hình sự một số nước và đề xuất đối
với việc áp dụng quy định về hối lộ ở khu vực ngoài nhà nước trong luật hình sự Việt
Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16 (kỳ II tháng 8/2018),2018
16. Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003
17. Hoàng Phê: Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, 2016
18. New Era: Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Từ Điển Bách Khoa, 2013
19. Nguyễn Đình Lộc, Uông Chi Lưu, Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi, Dương Thanh
Mai, Nguyễn Ngọc Hòa: Từ Điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách Khoa, Nxb Tư pháp,
2006
20. Nguyễn Manh Hùng: Thuật ngữ Pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011
21. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh, 2010
22. Phạm Văn Beo, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 (Phần chung), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013
23. Reisman, W.M., Folded lies – Bribery, Crusades, and Reforms, New York: The Free
Press – A Division of Macmillan Publishing CO., Inc, 1979
Trang thông tin điện tử
24. AsianLII, “The Supreme People's Court of Vietnam: Benchbook Online”,
http://www.asianlii.org/vn/other/benchbk/331-vn.html [truy cập ngày 20/8/2018]
25. Báo điện tử Vnexpress, “Quan tham thời phong kiến bị xử phạt như thế nào”, Bảo
Hà, https://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/quan-tham-thoi-phong-kien-bi-xu-phat-
the-nao-3380187.html [truy cập ngày 20/8/2018]
26. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, “Tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Tái phạm,
tái phạm nguy hiểm” trong BL Hình sự 2015 và kiến nghị”, Phạm Thị Hồng Đào,
http://moj.gov.vn.vn/tintuc/pages/nghien-cứu-trao-doi.aspx?ItemID=1995 [ truy
cập ngày 29/10/2018 ]
27. Công an thành phố Hồ Chí Minh, “Hôm nay Cần thơ xét xử vụ nhận hối lộ giao
thông quy mô ‘khủng’”, Thiện Thảo, http://congan.com.vn/vu-an/hom-nay-can-tho-
xet-xu-vu-nhan-hoi-lo-giao-thong-quy-mo-khung_40647.html [truy cập ngày
10/8/2018]
28. Chuyên trang giáo dục và đào tạo phòng chống tham nhũng, “Nguyên nhân và điều
kiện của tham nhũng”,
http://thanhtra.gov.vn/ct137/Lists/LTaiLieu/View_Detail.aspx?CatID=1&ItemId=
25&LVID=&CapChaId=2 [truy cập ngày 10/9/2018]
29. Lao động Thủ đô, “Đoàn luật sư TP Hà Nội”, Trịnh Khánh Toàn,
http://laodongthudo.vn/hanh-vi-doi-hoi-lo-pham-toi-gi-25181.html [truy cập ngày
29/8/2018]
30. Luật Dương gia, “Thế nào được coi là tội phạm có tổ chức theo Luật hình sự”,
https://luatduonggia.vn/the-nao-duoc-coi-la-pham-toi-co-to-chuc-theo-luat-hinh-su/
[truy cập ngày 20/8/2018]
31. Nhân Dân Điện Tử, “Y án chung thân thanh tra nhận hối lộ”, Thanh Tâm,
http://www.nhandan.com.vn/phapluat/thoi-su-phap-luat/item/34458302-y-an-
chung-than-thanh-tra-giao-thong-nhan-hoi-lo.html [truy cập ngày 10/8/2018]
32. Reisman, W.M., Folded lies – Bribery, Crusades, and Reforms, New York: The Free
Press – A Division of Macmillan Publishing CO., Inc, 1979 [truy cập ngày
29/10/2018]
33. Thể thao & Văn hóa, “Tham ô tài sản, nguyên Giám đốc Agribank chi nhánh Bến
Thành lĩnh án tù chung thân”, Nguyễn Chung, https://thethaovanhoa.vn/xa-
hoi/tham-o-tai-san-nguyen-giam-doc-agribank-chi-nhanh-ben-thanh-linh-an-tu-
chung-than-n20171215161230067.htm [truy cập ngày 06/10/2018]
34. Tổng cục thống kê, “Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội năm 2017”,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=&ItemID=18667 [truy cập
ngày 14/11/2018]
35. Trang thông tin điện tử của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “phải chống ngay trong
các cơ quan chống tham nhũng”, Thu Hằng, http://www.vksndtc.gov.vn/tin-chi-tiet-
4110 [truy cập ngày 10/8/2018]
36. Trần Đại Quang Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
http://trandaiquang.org/tu-luat-hong-duc-cua-co-nhan-ma-huong-toi-luat-chong-
tham-nhung-hien-nay.html [truy cập ngày 20/8/2018]
37. TRITHUCVN, “Phần 13: Việt Nam thuộc nhóm có tỷ lệ hối lộ, tham nhũng cao nhất
khu vực châu Á-Thái Bình Dương”, Lưu Giang, https://trithucvn.net/tin-tuc-vn/viet-
nam-thuoc-nhom-co-ty-le-hoi-lo-tham-nhung-cao-nhat-khu-vuc-chau-a-thai-binh-
duong.html [truy cập ngày 20/8/2018]
38. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối
lộ, tội làm môi giới hối lộ trong Luật hình sự Việt Nam và Công ước Liên hợp quốc
về chống tham nhũng”,
http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/114?idMenu=79, [truy cập ngày
14/11/2018]
39. Zing.vn, “Tội tham nhũng bị xử phạt như thế nào qua 3 bộ luật thời phong kiến”,
Nguyễn Thanh Điệp, https://news.zing.vn/toi-tham-nhung-bi-xu-phat-nhu-the-nao-
qua-3-bo-luat-thoi-phong-kien-post810894.html [truy cập ngày 20/8/2018]
40. Zing.vn, “Vì sao người Việt ‘bạo tay’ chi tiền hối lộ”, Trà My – An Điền,
https://news.zing.vn/vi-sao-nguoi-viet-phai-bao-tay-chi-tien-hoi-lo-
post843075.html [truy cập ngày 14/11/2018]
Tài liệu khác
41. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI
42. Thanh tra Chính phủ và Vương quốc Anh (2016), Báo cáo nghiên cứu “Phòng, chống
tham nhũng trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, thực trạng pháp luật, kinh
nghiệm quốc tế và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham
nhũng (sửa đổi)”, được trình bày trong Hội thảo cùng tên tổ chức ngày 22/12/2016
tại Vĩnh Phúc
43. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - Thanh tra Chính
phủ - Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam: Thông cáo báo chí tại cuộc đối thoại về
phòng, chống tham nhũng lần thứ ba, tháng 6-2008

You might also like