You are on page 1of 42

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN HOÀI THU

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BỐ


TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

NGÀNH: LUẬT
NIÊN KHÓA: 2014 -2018

Quảng Bình, năm 2018

i
ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BỐ
TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

Ngành: Luật học


Niên khóa: 2014 - 2018

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN HOÀI THU


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TH.S PHAN PHƯƠNG NGUYÊN

Quảng Bình, năm 2018

ii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khoá luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực
và chưa được công bố trong các công trình khác. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn
về đề tài của mình.
Quảng Bình, ngày 11 tháng 04 năm 2018
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Hoài Thu

iii
iv
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp
đỡ góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Quảng Bình.
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Quảng
Bình, đặc biệt là những thầy cô khoa Lý luận chính trị và những thầy cô đã tận tình
giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu
sắc đến Th.s Phan Phương Nguyên, người thầy đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tận
tình, hướng dẫn nghiên cứu tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đồng thời, cũng xin cảm ơn ban lãnh đạo, các cán bộ tại Phòng Tư pháp huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cảm ơn bạn bè lớp Đại học Luật B - K56, cùng toàn thể
những người đã giúp tôi trong quá trình thu thập số liệu cũng như góp ý kiến để
hoàn thành khóa luận này.
Bản thân tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, tự nghiên cứu với tinh thần chịu khó,
nghị lực và ý chí vươn lên. Tuy nhiên, không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót
nhất định. Kính mong thầy, cô giáo và bạn bè tiếp tục đóng góp ý kiến đề tài để
được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, ngày 11 tháng 04 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hoài Thu

v
BẢNG THỐNG KÊ TRÍCH DẪN

Trang Tần suất


STT Tác giả tài liệu trích dẫn
Khóa luận trích dẫn
1 Chi cục thống kê huyện Bố Trạch (2015) 31,32 02
2 Chính phủ (1998) 9 01
3 Chính phủ (2005) 9 01
4 TS. Hoàng Thúc Trâm (1974) 8 01
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
5 24,25,26 03
(2017)
6 Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) 7 01
7 Nguyễn Hồng Hạnh (2016) 11,12 02
8 Nguyễn Lân (1989) 8 01
9 Nguyễn Như Ý (1998) 8 01
10 Nguyễn Văn Khôn (1960) 8 01
11 Phòng Tư pháp huyện Bố Trạch (2014) 37,38 02
12 Phòng Tư pháp huyện Bố Trạch (2015) 37,38 02
13 Phòng Tư pháp huyện Bố Trạch (2016) 37,38 02
14 Phòng Tư pháp huyện Bố Trạch (2017) 37,38 02
15 Phòng Tư pháp huyện Bố Trạch (2017) 40 01
16 Trường Đại học Luật Hà Nội 19 01
17 Quốc Hội (2014) 10 01
18 Viện Ngôn ngữ học 8 01

vi
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................v
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ..............................................................x
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ........................................................................... xi
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .............................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................4
6. Ý nghĩa và đóng góp của khóa luận........................................................................5
7. Bố cục của khóa luận ..............................................................................................6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HỘ TỊCH .............................................................................................................7
1.1. Cơ sở lý luận về hộ tịch........................................................................................7
1.1.1. Khái niệm hộ tịch ..............................................................................................7
1.1.2. Pháp luật về hộ tịch .........................................................................................11
1.2. Thực hiện pháp luật về hộ tịch ...........................................................................19
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch ...................................19
1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch ......................................................21
1.2.3. Nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch ........................................23
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng THPLVHT .........................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH .....................................30
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến công tác thực hiện pháp luật
về hộ tịch trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình .......................................30
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình .....................................................................34
2.2.1. Về cơ sở pháp lý của công tác THPLVHT tại huyện Bố Trạch .....................34
2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện ....................35

vii
2.2.3. Hoạt động đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Bố trạch .................................38
2.2.4. Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch .............................................41
2.2.5. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ....42
2.2.6. Đánh giá về kết quả đạt được của công tác THPLVHT trên địa bàn huyện Bố
Trạch..........................................................................................................................44
2.3. Những vấn đề tồn tại và nguyên nhân trong công tác thực hiện pháp luật về hộ
tịch trên địa bàn huyện Bố Trạch ..............................................................................45
2.3.1. Những tồn tại trong công tác THPLVHT trên địa bàn huyện Bố Trạch .........45
2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến tồn tại trong công tác THPLVHT trên địa bàn huyện
Bố Trạch ....................................................................................................................51
2.3.3. Bài học kinh nghiệm trong công tác THPLVHT qua thực tiễn tại địa bàn
huyện Bố Trạch .........................................................................................................53
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BỐ TRẠCH TỈNH QUẢNG BÌNH. 56
3.1. Giải pháp chung .................................................................................................56
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực về hộ tịch....................................................56
3.1.2. Thường xuyên quan tâm đến công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn huyện ..................................................................................................................57
3.1.3. Thay đổi nhận thức của người dân trong việc đăng ký hộ tịch .......................57
3.2. Giải pháp riêng ...................................................................................................58
3.2.1. Kịp thời rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật
phù hợp với Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành. ................................58
3.2.2. Đẩy mạnh, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành để nâng cao ý thức và thay đổi nhận thức
của người dân ............................................................................................................59
3.2.3. Tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền đối với công tác THPLVHT ...........60
3.2.4. Kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch bảo đảm đủ tiêu chuẩn
được quy định trong Luật hộ tịch ..............................................................................61
3.2.5. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, tiếp tục đầu tư ứng dụng phần mềm
công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch ..............................................63

viii
3.2.6. Các giải pháp hỗ trợ khác để nâng cao chất lượng THPLVHT trên địa bàn
huyện Bố Trạch .........................................................................................................64
3.2.7. Tăng cường kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm trong THPLVHT
trên địa bàn huyện Bố trạch ......................................................................................64
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác THPLVHT .......................65
3.3.1. Đối với cơ quan Trung ương ...........................................................................65
3.3.2. Đối với UBND tỉnh .........................................................................................66
3.3.3. Đối với Ủy ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn ............67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................72

ix
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ được viết tắt


THPLVHT Thực hiện pháp luật về hộ tịch

UBND Ủy ban nhân dân

HN-GĐ Hôn nhân và gia đình


BLDS Bộ luật Dân sự

TTPBPLVHT Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch

x
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu Tên bảng Trang

Tình hình dân số huyện Bố Trạch giai đoạn 2014-


Bảng 2.1 31
2017.
Tình hình biến động dân số huyện Bố Trạch giai
Bảng 2.2 32
đoạn 2014-2017.
Thực trạng đăng ký, thực hiện hộ tịch trong nước
Bảng 2.3 tại UBND cấp xã trên địa bàn huyện Bố Trạch 37
(năm 2014-2017).

Thực trạng đăng ký, thực hiện hộ tịch có yếu tố


nước ngoài tại UBND cấp huyện trên địa bàn
Bảng 2.4 38
huyện Bố Trạch. Bắt đầu có hiệu lực từ ngày
01/01/2016.

Bảng tổng hợp rà soát đội ngũ công chức tư pháp


Bảng 2.5 – hộ tịch cấp xã và cấp huyện trên địa bàn huyện 40
Bố Trạch.

xi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người từ khi sinh ra đến khi chết đi có các sự kiện cơ bản như khai sinh,
kết hôn, ly hôn, khai tử… Những sự kiện đó được gọi là hộ tịch, nhằm xác nhận
tình trạng nhân thân của một con người. Ở Việt Nam, vấn đề hộ tịch luôn được quan
tâm và chú trọng ngay từ các thời kỳ phong kiến, thực dân. Bước vào thời kỳ đổi
mới, Chính phủ đã ban hành các Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch. Thực hiện
các văn bản nêu trên, các hoạt động về lĩnh vực hộ tịch ở nước ta đã có những bước
phát triển ổn định, đạt được những kết quả quan trọng từ công tác xây dựng thể chế,
hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch và đặc biệt là công tác triển khai thực
hiện pháp luật về hộ tịch.
Thực hiện pháp luật về hộ tịch có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp Nhà nước
thực hiện quản lý dân cư và quản lý các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh.
Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận và bảo hộ các quyền nhân thân
phi tài sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản của cá nhân. Bên cạnh đó,
THPLVHT còn liên quan đến cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan
Nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý. Vì thế, THPLVHT có vai trò hết sức quan trọng, thể hiện trình độ
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
Nhận thức được vị trí và vai trò của công tác THPLVHT, trong thời gian qua
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ những nhiệm vụ cần thiết, tiến hành thường
xuyên, liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật về hộ tịch của cán bộ và nhân dân, tăng cường hiệu quả
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Điều đó được thể hiện qua hơn 10 năm từ khi
thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký
và quản lý hộ tịch, trên địa bàn huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực, các sự kiện
đăng ký hộ tịch của nhân dân cơ bản được thực hiện kịp thời và đúng quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch vẫn còn một số tồn tại,

1
bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư pháp trong
giai đoạn mới.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý, lâu dài, ổn định và thống nhất, khắc phục những hạn
chế và bất cập như trên, nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm
2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hướng từng
bước chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, hội
nhập quốc tế ngày càng diễn ra sâu rộng. Ngày 20 tháng 11 năm 2014, tại Kỳ họp
thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7 Chương, 77 Điều, và có
hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta ban
hành văn bản Luật điều chỉnh riêng lĩnh vực này sau hơn 60 năm thực hiện bằng các
Nghị định của Chính phủ và Thông tư của các Bộ. Luật Hộ tịch ra đời là bước hoàn
thiện khá căn bản về thể chế đăng ký và quản lý hộ tịch của Việt Nam với nhiều quy
định mới, mang tính đột phá. Bên cạnh những điểm mới của Luật hộ tịch, thì vẫn
tồn tại một số hạn chế về thể chế gây khó khăn cho cơ quan hộ tịch khi áp dụng,
người dân cũng khó phân biệt việc hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản
nào.
Đối với huyện Bố Trạch - một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng
Bình, là huyện có diện tích lớn nhất tỉnh với tỷ lệ gia tăng dân số cao. Trong những
năm qua, công tác THPLVHT nhìn chung đã được cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương quan tâm, đã từng bước đổi mới và thu được một số kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, công tác THPLVHT trên địa bàn huyện vẫn còn bộc lộ không ít khó
khăn, hạn chế ở nhiều mặt đang đặt cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như
đội ngũ làm công tác về lĩnh vực hộ tịch của huyện trước những băn khoăn, trăn trở.
Tôi muốn làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn công tác THPLVHT của huyện Bố Trạch,
từ đó đưa những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác THPLVHT trên địa
bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Tôi chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ
tịch trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.

2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về hộ tịch không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo mà còn
là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học và các nhà quản lý. Cho đến nay đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về hộ tịch với nhiều góc độ khác nhau, ở
nhiều địa bàn khác nhau với các hình thức như: đề tài khoa học, luận án, luận văn,
khóa luận tốt nghiệp... Đáng chú ý có các công trình sau:
- Phạm Trọng Cường: Quản lý nhà nước về hộ tịch - Lý luận, thực trạng và
phương hướng đổi mới, Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2003; tác giả tiến hành khảo sát thực trạng việc quản lý hộ tịch ở Việt Nam
trong thời gian qua và nêu những ưu nhược điểm của công việc này đồng thời đưa
ra một số quan điểm, phương hướng đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về hộ tịch.
- Nguyễn Hữu Đính: Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2008; tác giả trình bày thực trạng công tác tư pháp - hộ tịch, phân
tích ưu điểm và hạn chế trong công tác tư pháp - hộ tịch cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang và đưa ra một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác tư pháp - hộ tịch.
- Bùi Thị Tư: Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ
luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; tác giả đã nêu thực trạng công tác
quản lý hộ tịch, phân tích ưu điểm và hạn chế trong quản lý hộ tịch ở thành phố Hải
Phòng và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hộ
tịch ở thành phố Hải Phòng.
- Trương Thị Vân Anh: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, thực tiễn ở
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2015; tác giả phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch và đưa ra
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch ở huyện Mê Linh.
Tuy nhiên, hiện nay tại huyện Bố trạch chưa có công trình nghiên cứu nào đề
cập và luận giải một cách có hệ thống, toàn diện về THPLVHT trong bối cảnh Luật hộ
tịch 2014 có hiệu lực. Vì vậy, Khóa luận này người viết tập trung nghiên cứu những

3
vấn đề về phương diện lý luận chung về hộ tịch được quy định trong hệ thống các tài liệu,
văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam và thực tiễn THPLVHT tại một địa phương cụ thể
là huyện Bố Trạch. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao, hoàn thiện hoạt
động THPLVHT nói chung và trên địa bàn huyện Bố Trạch nói riêng trong tình hình
mới hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu một cách cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp
luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở đó rút ra những kết luận, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch tại địa phương.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích khái niệm hộ tịch, thực hiện pháp luật về hộ tịch, cơ sở lý luận và
cơ sở pháp lý thực hiện pháp luật về hộ tịch tại địa phương.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện
pháp luật về hộ tịch tại địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề thực hiện pháp luật về hộ tịch cấp huyện và
cấp xã trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian nghiên cứu: Trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2014 đến năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
+ Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng về Nhà nước và pháp
luật trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

4
+ Khóa luận cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học liên
quan đến lĩnh vực hộ tịch.
- Phương pháp nghiên cứu riêng:
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương
pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, xã hội học… để giải quyết nhiệm vụ
đặt ra của Khóa luận.
+ Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp: quan sát, phỏng vấn;
+ Phương pháp thu thập thông tin gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu;
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo.
6. Ý nghĩa và đóng góp của khóa luận
- Khóa luận góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của công tác THPLVHT tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, là cơ sở khoa học và
thực tiễn giúp huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình nói riêng và các địa phương cấp
huyện nói chung nâng cao chất lượng công tác THPLVHT.
- Khóa luận góp phần đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hộ
tịch và thực hiện pháp luật hộ tịch.
- Khóa luận là công trình khoa học nghiên cứu chuyên biệt và toàn diện về
công tác THPLVHT tại một địa phương - đơn vị hành chính cấp huyện là huyện Bố
Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình. Khóa luận đánh giá thực trạng và đưa ra các giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THPLVHT ở huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình. Các giải pháp đề ra trong khóa luận có thể được áp dụng trong
thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Bố Trạch trong thời gian tới.
- Khóa luận có tính thời sự khi đóng góp ý kiến giúp cho việc thực hiện Luật
hộ tịch được hiệu quả trên địa bàn huyện.
- Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, ban, ngành, tổ
chức, cá nhân làm công tác thực tiễn hoặc làm công tác nghiên cứu để đề xuất những
mô hình THPLVHT hiệu quả, đặc trưng, phù hợp với mỗi địa phương, cũng như là
nguồn tư liệu tham khảo cho những người nghiên cứu các đề tài liên quan đến hộ
tịch.

5
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỘ TỊCH

1.1. Cơ sở lý luận về hộ tịch


1.1.1. Khái niệm hộ tịch
Hộ tịch là một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm
thực hiện. Từ trước đến nay, nhìn nhận dưới nhiều góc độ về ngôn ngữ học, khía
cạnh pháp lý hay các quan niệm về hộ tịch ở nước ta đã đưa ra những quan điểm,
khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều có sự tương đồng và thể hiện những
dấu hiệu cơ bản của hộ tịch, từ đó dẫn đến một cách hiểu thống nhất và toàn diện về
khái niệm hộ tịch.
Xét về góc độ ngôn ngữ học, “Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào
ngôn ngữ tiếng Việt nhưng rất khó xác định thời điểm xuất hiện. Khảo cứu qua các
bộ sử liệu như “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Việt
sử thông giám cương mục”... có thể thấy thuật ngữ “hộ tịch” đã xuất hiện từ rất
sớm, bên cạnh nó còn các từ cổ có liên quan và cùng nằm trong phạm trù quản lý
dân cư như “trướng tịch”, “hộ khẩu”, “sổ dân bạ”, “tiểu điển”, “đại điển”, “phụ
tịch”, “chính hộ”, “khách hộ”,… Tuy nhiên, theo “Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ
điển của tác giả Huỳnh Tịnh Paulus Của1 được biên soạn từ năm 1895 với phương
pháp “tham dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì trong bộ
chữ “hộ” chưa có từ “hộ tịch” [7;425].
“Hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ, được ghép bởi hai thành tố có
nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Xét về mặt từ loại thì đây là một
danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm trừu tượng. Nếu tìm hiểu riêng từng

1
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp văn. Năm
1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách các công việc dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt
Nam.

7
thành tố thì có thể thấy, các từ điển Tiếng Việt hiện nay khá thống nhất trong cách
hiểu về từng từ đơn này. Theo đó, từ “hộ” - khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa
khác nhau, nhưng trong đó có một nghĩa trực tiếp là “dân sự” hoặc “nhà ở”, hiểu
rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương
tự, từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Bên
cạnh đó, khi khảo cứu qua các từ điển Tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa
từ “hộ tịch” rất khác nhau. Dưới đây là một số cách giải nghĩa:
“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng
người” [11;404];
“Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả toàn quốc, trong có ghi rõ
tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [5;296];
"Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người
trong một địa phương” [9;321];
Xét thấy những cách giải nghĩa từ “hộ tịch” của các từ điển Hán - Việt nói trên
có những nét khá tương đồng. Bên cạnh đó, lại có một số từ điển giải nghĩa từ “hộ
tịch” ở khía cạnh khác. Một số ví dụ sau:
"Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương mình
theo từng hộ" [20;442];
"Hộ tịch: Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của
pháp luật" [10;835];
Xét về góc độ pháp lý, ở Việt Nam, thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định
nghĩa trong các giáo trình giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ
Việt Nam Cộng hoà, trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:
Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là người đầu tiên trình bày quan niệm “hộ
tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau:
“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công dân
trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan trọng nhất
của con người: sinh, giá thú và tử".
Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn “Danh từ pháp luật lược giải” - vốn

8
được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên - không
đưa ra định nghĩa về khái niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa khái niệm “chứng thư
hộ tịch”:
“Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh một
cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ tên, con
trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách vợ chồng... tóm lại tình trạng
xã hội của con người từ lúc sinh ra đến khi chết...”.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành, khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường
hợp đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý tiếng Việt. Các nhà xây dựng pháp
luật đã dung hoà bằng giải pháp mà Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho
phép, đó là sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định
nghĩa trong văn bản.
Quy định tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/10/1998 về đăng ký hộ tịch thì: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình
trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.
Tuy nhiên, khái niệm này chưa xác định rõ nội hàm của khái niệm, bởi trong
cuộc đời một con người từ khi sinh ra cho đến khi chết có rất nhiều sự kiện liên
quan đến tình trạng thân nhân và trong tất cả các sự kiện đó không phải sự kiện nào
cũng thuộc lĩnh vực hộ tịch. Chính vì vậy, Nghị định 158/2005NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch còn nêu thêm khái niệm
“đăng ký hộ tịch” như sau:
“Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền:
- Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha,
mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác
định lại dân tộc;
- Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ
tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn
trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.”

9
Ngày 20/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật hộ tịch. Ngày 04/12/2014, Chủ tịch nước đã
ký Lệnh số 18/2014/L-CTN về việc công bố Luật hộ tịch, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2016. Theo quy định tại Điều 1 Luật hộ tịch 2014, xác định rõ hơn các
sự kiện: “Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định
tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết.”
Điều 3 Luật này quy định về nội dung đăng ký hộ tịch
“1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch:
a) Khai sinh;
b) Kết hôn;
c) Giám hộ;
d) Nhận cha, mẹ, con;
đ) Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ
tịch;
e) Khai tử.
2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
a) Thay đổi quốc tịch;
b) Xác định cha, mẹ, con;
c) Xác định lại giới tính;
d) Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi;
đ) Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn;
e) Công nhận giám hộ;
g) Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch;
khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài.

10
4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của
pháp luật.”
Luật hộ tịch 2014 đã quy định rõ ràng về khái niệm “hộ tịch” để các chủ thể
xác định được những sự kiện thuộc lĩnh vực hộ tịch.
Qua những khái niệm trên tác giả rút ra kết luận: Hộ tịch là những sự kiện hộ
tịch như khai sinh, kết hôn, nhận cha, mẹ, con, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định
lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử,… Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá
nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và
thực hiện quản lý về dân cư.
1.1.2. Pháp luật về hộ tịch
1.1.2.1. Khái niệm và khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về hộ
tịch ở nước ta
Pháp luật về hộ tịch là một bộ phận của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật về hộ tịch là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch nhằm
bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và góp phần trong công tác
quản lý dân cư của Nhà nước.
Ở nước ta, việc đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử lâu đời từ thời phong
kiến nhà Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo. Thời kỳ phong kiến, thực dân,
bên cạnh vấn đề quản lý đất đai (“điền”), thì vấn đề quản lý hộ tịch - con người
(“đinh”) là vấn đề trọng yếu của Nhà nước, luôn được quan tâm quản lý, thực hiện.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước ta tiếp tục duy trì và ban hành văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Đầu tiên là Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Bản Điều lệ hộ tịch năm 1956 ban hành
kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Chính phủ. Tiếp theo đó là
Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày
16/01/1961. Bản điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/4/1961 có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP

11
ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch ra đời. Từ năm 1987, sau khi
Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng có hiệu lực thì
công tác đăng ký hộ tịch được chuyển giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và
UBND các cấp.
Ngày 27/12/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng
ký hộ tịch. Nghị định 158/2005/NĐ-CP thay thế Nghị định 83/1998/NĐ-CP sau 7
năm có hiệu lực. So với Nghị định 83/1998/NĐ-CP thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP
đã tháo gỡ những vướng mắc trên thực tế mà Nghị định 83/1998/NĐ-CP chưa giải
quyết được đó là: đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết công việc phù hợp
với tinh thần cải cách hành chính, thuận tiện cho người dân. Nghị định
158/2005/NĐ-CP có nhiều điểm mới, đặc biệt việc phân cấp cho UBND cấp xã,
UBND cấp huyện thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch trước đó thuộc thẩm quyền
của UBND cấp trên.
Trong giai đoạn này, căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự (năm 1995,
2005), Luật Hôn nhân và gia đình (năm 1986, 2000, 2014) và các luật liên quan
khác, đến trước năm 2015, Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực
hộ tịch, cả việc hộ tịch trong nước và việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài: Nghị định
số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết
hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn
nhân và gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy
định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị
định số 68/2002/NĐCP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số
06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số
24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số

12
điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài [8;19-21].
Tuy Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã quy định, nhưng thời gian qua bộc lộ
nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng vừa không ổn định, thiếu chuyên nghiệp, không
đáp ứng kịp thời yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân. Vì vậy, việc ban hành Luật
Hộ tịch là rất cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, khắc phục những tồn tại, bất cập và tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp
với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Ngày 20/11/2014, tại Kỳ họp thứ
8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật hộ tịch với 7 Chương, 77 Điều, và có hiệu
lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ban hành văn
bản Luật quy định riêng về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực
hiện bằng các văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành. Luật có nhiều quy định
mới, mang tính đột phá, “cách mạng” về lĩnh vực hộ tịch.
1.1.2.2. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về hộ tịch
a. Quy phạm pháp luật về hộ tịch
Quy phạm pháp luật về hộ tịch được hiểu là những quy tắc xử sự chung do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ
tịch, có thể được phân thành hai nhóm sau:
Một là, nhóm quy phạm về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các chủ thể
trong quan hệ quản lý hộ tịch và quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong quan hệ
quản lý hộ tịch;
Hai là, nhóm quy phạm về thủ tục hành chính (thủ tục đăng ký hộ tịch hoặc
giải quyết khiếu, nại tố cáo về hộ tịch).
Ngày trước, các quy phạm về quản lý hộ tịch nằm rải rác trong nhiều văn bản
khác nhau. Xét từ khía cạnh giá trị pháp lý có thể thấy, các quy phạm pháp luật về
quản lý hộ tịch là các Nghị định, có thứ bậc không cao trong thang giá trị quy phạm;
một bộ phận không nhỏ quy phạm do Bộ Tư pháp ban hành trong các Thông tư
mang tính chất hướng dẫn nghiệp vụ. Ngoài ra, quy định của pháp luật hiện hành về

13
phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch còn nhiều bất cập. Cả ba cấp chính quyền (tỉnh,
huyện, xã) đều có thẩm quyền đăng ký hộ tịch dẫn đến chồng chéo, không rõ ràng
giữa chức năng quản lý và đăng ký hộ tịch. Trình tự, thủ tục đăng ký các việc hộ
tịch theo pháp luật hiện hành còn rườm rà. Việc tồn tại nhiều loại sổ sách, giấy tờ về
hộ tịch đã gây bất lợi, tạo nhiều áp lực cho cả cơ quan nhà nước và người dân trong
việc lưu giữ, bảo quản, sử dụng.
Tuy nhiên từ khi Luật hộ tịch ra đời thì hiện nay các quy phạm pháp luật về hộ
tịch đã nằm tập trung trong các văn bản pháp luật chính: Luật hộ tịch, Nghị định
123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch
và Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ
tịch đã tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn chế như trên,
nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định
mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng bộ, thống
nhất với các luật liên quan (như Bộ luật dân sự 2015, Luật quốc tịch, Luật nuôi con
nuôi, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật căn cước công dân).
b. Quan hệ pháp luật về hộ tịch
Quan hệ pháp luật về hộ tịch là những quan hệ phát sinh trong hoạt động chấp
hành - điều hành được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về hộ tịch. Khách thể
của quan hệ pháp luật về hộ tịch là trật tự quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch.
Chủ thể của quan hệ pháp luật về hộ tịch gồm hai nhóm:
Một là, các cá nhân và cơ quan nhà nước có chức năng quản lý về hộ tịch.
Hai là, các cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.
Các quan hệ pháp luật hình thành trong lĩnh vực quản lý hộ tịch rất đa dạng,
diễn ra theo nhiều chiều giữa các chủ thể khác nhau như: quan hệ giữa cơ quan có
thẩm quyền quản lý chung với cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý
cấp trên với cơ quan quản lý cấp dưới, quan hệ giữa các cơ quan cùng cấp, quan hệ
giữa cơ quan quản lý hộ tịch với công dân,... Trong đó nhóm quan hệ phát sinh
trong hoạt động đăng ký hộ tịch là nhóm quan hệ phổ biến và thể hiện nhiều yếu tố

5638017
14
đặc thù. Các quan hệ pháp luật về đăng ký hộ tịch là các quan hệ thủ tục phát sinh
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký hộ tịch với các cá nhân công dân,
người nước ngoài hoặc người không quốc tịch có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ
tịch. Các quan hệ này được thiết lập trên cơ sở sáng kiến, đề nghị chủ động của cá
nhân và nó thường gắn liền với việc thực hiện một quyền dân sự hoặc xác lập một
quan hệ hôn nhân và gia đình.
1.1.2.3. Luật hộ tịch và những điểm mới cơ bản của Luật hộ tịch
a. Luật hộ tịch
Luật hộ tịch 2014 gồm có 7 chương và 77 điều, được bố cục như sau:
Chương I. Những quy định chung (gồm 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12)
Chương II. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã (gồm 7 mục, 22 điều,
từ Điều 13 đến Điều 34)
Chương III. Đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện (gồm 7 Mục, 18
điều, từ Điều 35 đến Điều 52).
Chương IV. Đăng ký hộ tịch tại cơ quan đại diện (gồm 4 điều, từ Điều 53 đến
Điều 56)
Chương V. Cơ sở dữ liệu hộ tịch, cấp trích lục hộ tịch (gồm 2 Mục, 08 điều, từ
Điều 57 đến Điều 64)
Chương VI. Trách nhiệm quản lý Nhà nước về hộ tịch, công chức làm công
tác hộ tịch (gồm 2 Mục, 10 điều, từ Điều 65 đến Điều 74).
Chương VII. Điều khoản thi hành (gồm 03 điều, từ Điều 75 đến Điều 77)
b. Những điểm mới cơ bản của Luật hộ tịch
So với các quy định hiện hành, Luật Hộ tịch có nhiều điểm mới tích cực và
được đánh giá là một "cuộc cách mạng” trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói
riêng và quản lý dân cư nói chung:
Thứ nhất, quy định về các nội dung đăng ký hộ tịch
Luật Hộ tịch đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn các nội dung đăng ký hộ
tịch; đã phân định rõ sự kiện nào là Xác nhận vào Sổ hộ tịch, sự kiện nào là Ghi vào
Sổ hộ tịch. Theo đó:

15
1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch là xác nhận các sự kiện hộ tịch sau: Khai sinh; Kết
hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con;Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,
bổ sung thông tin hộ tịch; Khai tử.
2. Ghi vào Sổ hộ tịch là việc ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá
nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: Thay
đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt
việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn;
Công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch;
khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài.
4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền đăng ký hộ tịch
Với quan điểm thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền cơ sở, kể từ ngày
01/01/2016, thẩm quyền đăng ký các sự kiện hộ tịch được thực hiện ở 02 cấp (cấp
huyện và cấp xã), cụ thể:
Thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Ủy ban nhân dân cấp xã:
a) Đăng ký Khai sinh; Kết hôn; Giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Khai tử ; Thay
đổi, cải chính hộ tịch cho người chưa đủ 14 tuổi ; bổ sung thông tin hộ tịch cho
công dân Việt Nam cư trú ở trong nước;
b) Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha,
mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly
hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ;
Tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự.

16
c) Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của
pháp luật.
d) Đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công
dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới, còn người kia là công dân của nước
láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ,
con của công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước
láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam; khai tử cho người nước
ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.
Thẩm quyền đăng ký của Ủy ban nhân dân cấp huyện:
Trước đây, việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền của
UBND cấp tỉnh, theo Luật Hộ tịch, vấn đề này được giao về cho UBND cấp huyện
thực hiện nhằm cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người
dân. Theo đó khoản 2 Điều 7 của Luật quy định UBND cấp huyện đăng ký hộ tịch
trong các trường hợp:
1) Đăng ký sự kiện hộ tịch về: khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;
khai tử có yếu tố nước ngoài;
2) Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở
lên cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc;
3) Thực hiện các việc hộ tịch về: ghi vào sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn;
ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi
con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ
quan có thẩm quyền ở nước ngoài.
Thứ ba, thủ tục đăng ký hộ tịch đơn giản, cắt giảm tối đa các giấy tờ không
cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho người có quyền lựa chọn nơi đăng ký và
phương thức đăng ký các sự kiện hộ tịch
Theo đó, Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy
chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký
người yêu cầu đăng ký hộ tịch được cấp Trích lục hộ tịch tương ứng với từng sự
kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch được chứng thực bản sao.

17
Cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phải
phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây. Theo quy định của Luật, cá nhân có thể
được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi
đang sinh sống và có quyền lựa chọn phương thức đăng ký như nộp hồ sơ trực tiếp,
qua bưu chính hoặc thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến trong điều kiện cơ sở hạ
tầng công nghệ thông tin cho phép.
Thứ tư, quy định việc cấp Số định danh cá nhân khi đăng ký khai sinh
Số định danh cá nhân là số được cấp cho mỗi công dân Việt Nam khi đăng ký
khai sinh không lặp lại ở người khác và đây cũng là một trong những nội dung cơ
bản trong Giấy khai sinh, Sổ đăng ký khai sinh, cơ sở dữ liệu hộ điện tử hộ tịch và
Cơ sở dữ liệu về dân cư. Số này cũng chính là số thẻ căn cước công dân được cấp
khi đủ 14 tuổi. Tới đây, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định quy định cấu trúc số định
danh cá nhân; trình tự, thủ tục cấp số định danh cá nhân.
Thứ năm, quy định rõ việc miễn phí đăng ký hộ tịch cho người thuộc gia đình
có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người khuyết tật; đăng ký khai sinh,
khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam cư trú trong nước.
Thứ sáu, quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử
Đây là một bước đột phá của Luật Hộ tịch để hướng đến Chính phủ điện tử.
Theo đó, Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tài sản quốc gia, lưu giữ toàn bộ thông tin hộ tịch
của mọi cá nhân đã đăng ký, làm cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, phục vụ yêu cầu tra cứu thông tin, quản lý, hoạch định chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Cơ sở dữ liệu hộ tịch bao gồm Sổ hộ tịch và Cơ sở dữ
liệu hộ tịch điện tử là căn cứ để cấp bản sao trích lục hộ tịch. Cơ sở dữ liệu hộ tịch
điện tử được lập để lưu giữ, cập nhật, quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu
cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; được kết nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch
cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Thứ bảy, quy định rõ tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch
Công chức Tư pháp - hộ tịch phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên, được
bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch và có trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc.

18
Có thể nói rằng, Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của công
tác hộ tịch, bảo đảm một cách thuận lợi cho người dân thực hiện quyền, nghĩa vụ
đăng ký hộ tịch theo quy định của Bộ luật Dân sự, các luật chuyên ngành khác, góp
phần tăng cường quản lý dân cư trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
1.2. Thực hiện pháp luật về hộ tịch
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch
1.2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch
Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã ban hành một hệ thống pháp luật về
hộ tịch tương đối đầy đủ cả về nội dung và hình thức, quy định khá bao quát về
những vấn đề của hộ tịch. Đây sẽ là cơ sở tiền đề quan trọng để việc THPLVHT
trên thực tế đạt kết quả tốt. Trước khi đi tìm hiểu khái niệm THPLVHT, chúng ta
cùng làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật nói chung:
Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật - Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội thì “thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi và cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Theo giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật của Đại học Luật Hà Nội thì “thực hiện pháp luật là hoạt động có mục
đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc
sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Như vậy, những quan
niệm thực hiện pháp luật trên có nét tương đồng và thống nhất với nhau.
Qua việc tìm hiểu khái niệm và các đặc điểm của việc thực hiện pháp luật như
trên, chúng ta có thể rút ra được khái niệm THPLVHT như sau: Thực hiện pháp luật
về hộ tịch là một quá trình hoạt động có mục đích của các cơ quan nhà nước và mọi
công dân nhằm đưa các quy phạm pháp luật về hộ tịch trở thành những hành vi
thực tế hợp pháp.
1.2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch
Một số đặc điểm chủ yếu của thực hiện pháp luật về hộ tịch như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch là các cơ quan nhà nước và
cá nhân trong xã hội.

19
Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, THPLVHT phải thông qua hành vi của
một chủ thể nhất định. Tùy vào từng quan hệ cụ thể của pháp luật về hộ tịch, mà
chủ thể đó có thể là cơ quan nhà nước hoặc bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Do đặc
thù của hộ tịch là liên quan trực tiếp và thường xuyên đến quyền và nghĩa vụ của
mọi cá nhân trong xã hội nên chủ thể THPLVHT có phạm vi rộng lớn về số lượng,
cụ thể như: Nếu trong quan hệ xử lý vi phạm hành chính thì chủ thể là các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (thực hiện thông qua hành vi của cán bộ, công chức được
giao thẩm quyền xử phạt), nhưng nếu trong quan hệ pháp luật về đăng ký hộ tịch thì
chủ thể thực hiện pháp luật có thể là bất kỳ cá nhân nào trong xã hội...
Thứ hai, thực hiện pháp luật về hộ tịch là một quá trình hoạt động có mục
đích xác lập quan hệ pháp luật hành chính về hộ tịch.
Thực hiện pháp luật nói chung và THPLVHT nói riêng luôn là hoạt động có
mục đích của các chủ thể. Khi tiến hành các hành vi trên thực tế, các chủ thể pháp
luật luôn mong muốn đạt được một kết quả cụ thể, nhất định trước khi thực hiện
hành vi. Trong nhận thức, các chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện pháp luật
về hộ tịch. Mục đích đó có thể là mục đích lâu dài, mục đích trước mắt, mục đích
chung cho toàn bộ quá trình hoặc được xác định theo từng nội dung cụ thể. Đăng ký
hộ tịch là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận và ghi vào hệ thống đăng
ký các thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân, tạo cơ sở để xác lập mối quan hệ giữa
cá nhân với Nhà nước (quan hệ Nhà nước - công dân), là cơ sở pháp lý quan trọng
để cá nhân thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự khác của mình. Chẳng hạn, đối với
chủ thể THPLVHT là một công dân đăng ký khai sinh. Hoạt động tuân thủ pháp
luật về hộ tịch của công dân này nhằm mục đích là được cấp giấy khai sinh để phục
vụ các công việc của bản thân.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về hộ tịch là nhằm hiện thực hóa các quy phạm
pháp luật về hộ tịch đưa pháp luật vào đời sống.
Các quy định của pháp luật về hộ tịch muốn phát huy được hiệu lực, hiệu quả
trên thực tế đòi hỏi phải có hành vi THPLVH của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

20
Thông qua hành vi của mình, có thể bằng hành động hoặc không hành động, các
chủ thể pháp luật đã đưa pháp luật về hộ tịch vào đời sống.
Ví dụ cụ thể như pháp luật về hộ tịch nghiêm cấm các hành vi: cung cấp thông
tin, tài liệu sai sự thật, làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ của người khác để đăng
ký hộ tịch, đe dọa, cưỡng ép, cản trở việc thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ
tịch, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký hộ tịch, cam đoan, làm chứng
sai sự thật để đăng ký hộ tịch, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ
tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch, đưa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi
ích vật chất, tinh thần để được đăng ký hộ tịch, lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc
trốn tránh nghĩa vụ đăng ký hộ tịch nhằm động cơ vụ lợi, hưởng chính sách ưu đãi
của Nhà nước.
1.2.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về hộ tịch
THPLVHT có vai trò hết sức quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu
quả quản lý nhà nước, quản lý, đảm bảo trật tự xã hội; đồng thời bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho mỗi công dân, cụ thể:
Đăng ký hộ tịch thể hiện việc nhà nước công nhận một con người tồn tại với
tất cả đầy đủ tính pháp lý của nó. Quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động
về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình
khi tham gia vào các quan hệ xã hội như quyền được kết hôn khi công dân đủ tuổi
theo quy định của pháp luật, quyền được giám hộ, quyền được thừa kế… góp phần
xây dựng các chính sách về phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số,
kế hoạch hóa gia đình. Trên cơ sở theo dõi biến động về hộ tịch mà các cơ quan nhà
nước xây dựng chính sách phù hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính, nguồn
nhân lực từ đó có phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở để hoạch định các chính sách
về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở y tế, trường
học, bố trí giáo viên…, chăm sóc sức khỏe trong nhân dân, đảm bảo cân bằng giới
tính phục vụ an ninh quốc phòng.

21
THPLVHT thể hiện rõ ràng nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực
hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự 2015, ví dụ như quyền đối với họ tên, quyền thay
đổi họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch,... THPLVHT chính là
phương tiện để người dân thực hiện, hưởng thụ các quyền nhân thân đó. Các dữ liệu
về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thư hộ tịch (giấy khai sinh, giấy
chứng nhận kết hôn…) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân
của mỗi người, mà qua đó các cơ quan tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người
đó có khả năng điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay
không.
Hành vi đăng ký khai sinh của cơ quan đăng ký hộ tịch đánh dấu điểm khởi
đầu của hoạt động quản lý nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là điểm
khởi đầu cho mọi mối quan hệ giữa công dân với nhà nước. Từ góc độ lý luận về
Nhà nước và pháp luật ở phương diện này có thể khẳng định, THPLVHT là một
lĩnh vực hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước. Với ý nghĩa
quan trọng như vậy việc nhà nước tổ chức THPLVHT chính là sự bảo hộ đối với
việc thực hiện các quyền con người. Điều này chỉ có trong các xã hội mà nền dân
chủ được mở rộng và phát huy, khi mà các giá trị quyền con người được nhà nước
tôn trọng và có trách nhiệm bảo hộ.
Việc THPLVHT của các cơ quan nhà nước còn có vai trò to lớn đối với việc
đảm bảo trật tự xã hội. Đặc biệt sau khi Luật hộ tịch ra đời, hệ thống cơ sở dữ liệu
hộ tịch có thể giúp truy tìm nguồn gốc của cá nhân một cách dễ dàng. Trong lĩnh
vực hoạt động tư pháp khi cần đánh giá năng lực chủ thể của một cá nhân các cơ
quan tiến hành tố tụng luôn cần đến giấy khai sinh của cá nhân đó. Giấy khai sinh
chứa đựng các dữ liệu gốc của cá nhân như ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, dân tộc,
quốc tịch, họ tên cha mẹ,… có thể được sử dụng với tính cách là chứng cứ, các
thông tin thể hiện trên giấy khai sinh có thể giúp cơ quan tố tụng đánh giá nhiều vấn
đề trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính,…

22
Bởi ý nghĩa quan trọng như vậy, nên trong sự phát triển của mỗi quốc gia, vấn
đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác hiệu quả của nó phục vụ cho
công tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm.
1.2.3. Nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch
1.2.3.1. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch
Các quy phạm pháp luật về hộ tịch được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Luật hộ tịch, Nghị định
123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch,
Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch
và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật hộ tịch, Nghị định 111/2011/NĐ-CP về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa
lãnh sự đối với những trường hợp có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền cấp
huyện.
Tuy vậy, có thể khái quát nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch trên 2 vấn
đề chủ yếu đó là thực hiện quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch và thực hiện
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về hộ tịch.
Đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân dưới
đây tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
thực hiện quản lý về dân cư. Đồng thời Luật hộ tịch đã chỉ rõ bốn nhóm hành vi của
đăng ký hộ tịch:
Thứ nhất, xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ
sung thông tin hộ tịch; khai tử.
Thứ hai, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: thay đổi quốc tịch; xác định cha,
mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn,
hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên

23
bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
Thứ ba, ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết
hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ
tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài.
Thứ tư, xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định
của pháp luật.
Quản lý nhà nước về hộ tịch tập trung chủ yếu vào các hoạt động: ban hành
hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hộ
tịch, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch, quản lý hệ thống tổ chức và hoạt động
của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn
nghiệp vụ về đăng ký hộ tịch, kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động đăng ký hộ tịch, tổng kết hoạt động hộ tịch,
báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên về hoạt động đăng ký hộ tịch.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch. Bộ Tư pháp giúp Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch. Ngoài ra, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an,
UBND các cấp, cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là
những cơ quan khác tham gia quản lý nhà nước về hộ tịch với những trách nhiệm
nhất định. Việc thực hiện đúng quy định, đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình
trong quản lý nhà nước sẽ có tác động tích cực đến hiệu quả của hoạt động quản lý
hộ tịch. Ngược lại, nếu việc thực hiện không đúng quy định, chậm hoặc không đầy
đủ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động quản lý hộ tịch.
1.2.3.2. Hình thức thực hiện pháp luật về hộ tịch
Dựa trên lý luận chung về nhà nước và pháp luật hiện nay và những đặc trưng
của pháp luật hộ tịch, có bốn hình thức THPLVHT sau đây:
Thứ nhất, sử dụng pháp luật về hộ tịch là hình thức thực hiện các quy phạm
pháp luật về hộ tịch, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền, tự do pháp lý
của mình trong giới hạn cho phép của pháp luật. Nhà nước tạo khả năng cho các

24
chủ thể có thể được hưởng những quyền nào đó và chủ thể thực hiện các quyền này
hay không là tùy thuộc vào mong muốn, ý chí của chủ thể. Những quy phạm pháp
luật quy định về các quyền và tự do pháp lý của các tổ chức, cá nhân được thực hiện
ở hình thức này. Tuy nhiên, Nhà nước cũng yêu cầu các chủ thể pháp luật phải thực
hiện các quyền pháp lý một cách đúng đắn, chỉ được tiến hành những hành vi nhất
định trong phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật.
Ví dụ như quy định pháp luật tại Điều 13 Luật hộ tịch thẩm quyền đăng ký
khai sinh:“Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người cha hoặc người mẹ thực
hiện đăng ký khai sinh”. Đây chính là quyền người đi đăng ký khai sinh được lựa
chọn nơi đăng ký khai sinh, tự do lựa chọn theo mong muốn của mình nhưng vẫn
trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Thứ hai, thi hành pháp luật về hộ tịch là một hình thức thực hiện các quy
phạm pháp luật bắt buộc, các chủ thể thi hành pháp luật bằng việc chủ động, tích
cực thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Ví dụ như Điều 73 Luật hộ tịch (nhiệm vụ, quyền hạn của công chức làm công
tác hộ tịch) thể hiện dưới hình thức này. Luật hộ tịch quy định công chức làm công
tác hộ tịch có nghĩa vụ tuân thủ quy định của Luật hộ tịch và các quy định khác của
pháp luật có liên quan về hộ tịch có nghĩa là bằng hành vi chủ động của mình công
chức làm công tác hộ tịch phải tuân thủ nguyên tắc đã được pháp luật quy định. Nếu
công chức đó không tuân thủ quy định của pháp luật, sẽ dẫn tới vi phạm pháp luật.
Thứ ba, tuân thủ pháp luật về hộ tịch là một hình thức thực hiện các quy phạm
pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động
mà pháp luật ngăn cấm. Những quy phạm pháp luật cấm quy định tại Điều 12 (Các
hành vi bị nghiêm cấm) của Luật hộ tịch được thực hiện dưới hình thức này. Để
hình thức này đi vào cuộc sống, các chủ thể pháp luật hộ tịch (công chức Tư pháp -
Hộ tịch, người yêu cầu đăng ký hộ tịch, người làm chứng, cơ quan nhà nước, cá
nhân) phải kiềm chế không thực hiện hành vi bị nghiêm cấm.
Ví dụ như Luật hộ tịch quy định "công chức làm công tác hộ tịch không được
cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì hoãn, gây khó khăn, phiền hà, nhận hối lộ khi

25 5638017
đăng ký, quản lý hộ tịch". Tuy nhiên, nội dung của quy định phải rõ ràng, dễ thực
hiện, thực tế cho thấy thế là "gây khó khăn, phiền hà" không quy định hành vi cụ
thể, do đó chủ thể khó có thể thực hiện được.
Thứ tư, áp dụng pháp luật về hộ tịch là hình thức thực hiện các quy phạm pháp
luật quy định sự tham gia, can thiệp của Nhà nước trong quá trình cá nhân, tổ chức
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Các chủ thể bao gồm: UBND cấp xã,
UBND cấp huyện, công chức làm công tác hộ tịch bao gồm công chức tư pháp - hộ
tịch ở cấp xã; công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp
huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện,…
Ví dụ cho hình thức áp dụng pháp luật: Quy phạm pháp luật quy định tại
khoản 2 Điều 16 (Thủ tục đăng ký khai sinh): “ Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo
quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông tin khai sinh đầy đủ và phù hợp,
công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai sinh theo quy định tại khoản 1 Điều
14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở
dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân. Công chức tư pháp - hộ tịch
và người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ tịch. Chủ tịch UBND cấp xã
cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai sinh” thể hiện dưới hình thức này.
Để hình thức này đi vào cuộc sống đòi hỏi phải nâng cao ý thức pháp luật, trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn của các cán bộ, công chức, làm công tác hộ tịch
để áp dụng pháp luật nhanh chóng, kịp thời và chính xác.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng THPLVHT
Việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của công tác THPLVHT
có ý nghĩa quan trọng. Đây là cơ sở để các chủ thể hoạch định chính sách, lập pháp,
quản lý và thực hiện hoạt động thực tế trong lĩnh vực hộ tịch nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác THPLVHT trong thực tiễn đời sống xã hội. Về phương diện lý luận
cũng như trên cơ sở thực tiễn có thể khẳng định chất lượng của công tác THPLVHT chịu
ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhận thức pháp luật về hộ tịch. Nhận thức là khâu đầu tiên, quan
trọng (thậm chí là có tính quyết định) đối với mọi công tác THPLVHT. Nếu nhận
- Tải bản FULL (file word 84 trang): https://bit.ly/37cGnPx
- Dự phòng: https://bit.ly/3l68gwc
26
thức chung của xã hội cũng như nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, một số
ngành, địa phương về công tác THPLVHT chưa thực sự đầy đủ và tương xứng với
vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này thì rất khó có sự đầu tư thích đáng,
đúng mức về cả nhân lực, vật lực, thời gian, phương pháp thực hiện công tác
THPLVHT. Điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả
thực hiện công tác THPLVHT.
Thứ hai, sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền và hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động THPLVHT
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động
THPLVHT ở nước ta ngày càng hoàn thiện. Các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ
sở quan trọng để các cấp, các ngành triển khai mạnh mẽ công tác THPLVHT; tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của lãnh đạo các bộ, ngành,
địa phương về vai trò của pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, chỉ đạo thực hiện các
công tác đăng ký, quản lý hộ tịch. Trên cơ sở Luật hộ tịch, Ban lãnh đạo các bộ,
ngành, địa phương đều đã xây dựng, ban hành các văn bản chỉ đạo và tổ chức thực
hiện.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch chính là “hành lang” pháp
lý cho các hoạt động THPLVHT. Quy định của pháp luật về hộ tịch ngày càng được
hoàn thiện đồng nghĩa với vị trí công tác THPLVHT được khẳng định, chất lượng
công tác này ngày càng được nâng cao.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch. Đây là yếu tố quan trọng quyết
định trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả thực hiện công tác THPLVHT. Họ là
những người trực tiếp đưa pháp luật và thực hiện bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
đến với nhân dân. Chính vì vậy, việc xây dựng và củng cố về tổ chức và đội ngũ cán
bộ làm công tác giáo dục pháp luật từ trung ương đến địa phương là đặc biệt quan
trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch (gồm cả chuyên trách và bán chuyên
trách) nhất thiết phải được tăng cường về mặt số lượng và nâng cao chất lượng
chuyên môn. Muốn vậy, cần duy trì thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức pháp luật cũng như nghiệp vụ THPLVHT. Đồng thời, để đảm bảo chất lượng,

27
hiệu quả hoạt động của đội ngũ này tất yếu phải có cơ chế quản lý và sử dụng họ
một cách quy chuẩn, rõ ràng, minh bạch.
Thứ tư, cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động THPLVHT. Ngoài yếu tố con
người thì yếu tố vật chất, kinh phí đảm bảo cho hoạt động THPLVHT cũng là yếu
tố rất quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện THPLVHT trên thực tế. Các quy định
của pháp luật sẽ chỉ nằm trên văn bản nếu công tác THPLVHT không được quan
tâm đầu tư. Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc dành cho công tác, nhất
là ở các địa phương cơ sở cần phải được đầu tư tương xứng với vị trí và vai trò của
công tác THPLVHT.
Thứ năm, cơ chế phối hợp hoạt động. Như chúng ta đã biết, chủ thể
THPLVHT khá đa dạng, phong phú; hoạt động THPLVHT đòi hỏi phải có sự tham
gia của nhiều chủ thể khác nhau. Công tác THPLVHT không chỉ là trách nhiệm
riêng của ngành Tư pháp mà là trách nhiệm chung của tất cả các ngành, cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các
chủ thể, trong đó ngành Tư pháp là đầu mối, là trung tâm phối hợp vô cùng quan
trọng nhằm phát huy tốt nhất vai trò của các chủ thể tham gia vào hoạt động
THPLVHT nhằm tránh sự chồng chéo, buông lỏng hoạt động là yếu tố cần đặc biệt
chú trọng.
Ngoài các yếu tố mang tính quyết định ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục
pháp luật như trên thì còn có một số yếu tố như điều kiện xã hội, địa lý, phong tục,
tập quán,... cũng có tác động đến chất lượng và hiệu quả công tác THPLVHT.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong Chương 1, khóa luận tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về hộ tịch và
thực hiện pháp luật về hộ tịch. Khóa luận đã khái quát rõ về các khái niệm liên quan
đến hộ tịch và pháp luật về hộ tịch. Từ đó đi sâu vào nghiên cứu hệ thống pháp luật
hộ tịch ở nước ta, đặc biệt là Luật hộ tịch năm 2014 vừa có hiệu lực ngày 01/
01/2016. Bên cạnh đó, tác giả đánh giá mối quan hệ giữa hộ tịch và các ngành khác

28
nhằm xác định tầm quan trọng của việc THPLVHT. Trong chương này, tác giả chỉ
ra các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng THPLVHT, là cơ sở để hoạch định chính
sách lập pháp, quản lý và thực hiện hoạt động thực tế trong lĩnh vực hộ tịch. Từ
những cơ sở lý luận nêu trên, có thể thấy rằng, vai trò của việc THPLVHT hết sức
quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý đảm
bảo trật tự xã hội; đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mỗi công dân.

- Tải bản FULL (file word 84 trang): https://bit.ly/37cGnPx


- Dự phòng: https://bit.ly/3l68gwc

29
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến công tác thực hiện pháp
luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
- Vị trí địa lý
Huyện Bố Trạch nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Đồng Hới, trung tâm tỉnh
lỵ Quảng Bình có chiều rộng từ Tây sang Đông chiếm toàn bộ chiều ngang của Việt
Nam với tọa độ: 17014’39’’ đến 17043’48” vĩ độ bắc. 105058’3” đến 106035’573”
kinh độ đông. Phía Bắc giáp huyện Quảng Trạch, huyện Tuyên Hóa và huyện Minh
Hóa; phía Nam giáp thành phố Đồng Hới và huyện Quảng Ninh, phía Đông giáp
biển đông; phía Tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Toàn huyện có 30 xã, thị trấn với 295 thôn, bản, tiểu khu; trong đó có 09 xã
miền núi và 02 xã miền núi rẻo cao, 04 xã ven biển.
Bản đồ hành chính huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình

Nguồn: https://botrach.quangbinh.gov.vn/3cms/ban-do-hanh-chinh.htm
- Điều kiện tự nhiên

30
Địa hình của huyện Bố Trạch có độ nghiêng từ Tây sang Đông (từ biên giới
Việt – Lào xuống đến Biển Đông và được chia làm nhiều dạng địa hình bao gồm:
Địa hình núi đá vôi, địa hình gò đồi, địa hình đồng bằng và địa hình ven biển.
Thời tiết khí hậu của huyện Bố Trạch mang đậm đặc trưng khí hậu nhiệt đới
gió mùa của vùng ven biển miền Bắc Trung Bộ. Hàng năm thường có nhiều trận bão
lụt, nước biển dâng xảy ra gây thiệt hại không nhỏ đến sản xuất, đời sống và con người
trên địa phận huyện Bố Trạch.
Tài nguyên của huyện Bố Trạch có đường bờ biển dài trên 24km. Toàn huyện
có tổng diện tích đất tự nhiên là 211.548,88 ha. Du lịch dịch vụ ở Bố Trạch rất phát
triển, huyện được thiên nhiên ưu đãi có điều kiện sinh thái đa dạng, bao gồm đầy đủ
các cảnh quan sinh thái núi rừng, bờ biển, đồng bằng, đồi, hấp dẫn khách du lịch
trong nước và quốc tế. Các địa điểm nổi tiếng như: hệ thống hang động Phong nha –
Kẻ bàng, động Thiên Đường, Suối nước mọoc, Hang tối, Khu du lịch bãi tắm Đá
Nhảy...
- Tình hình kinh tế
Tình hình kinh tế của huyện trong giai đoạn 2014-2017 đã đạt được nhiều kết
quả tương đối tốt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 11,95%/năm (Cơ cấu
kinh tế: nông, lâm, nghiệp, thủy sản: 29,6%; Công nghiệp – xây dựng: 23,5%; Dịch
vụ: 46,9%). Các loại hình dịch vụ tiếp tục được đầu tư và phát triển khá nhanh. Du
lịch từng bước khẳng định là ngành kinh tế chiến lược, số lượng khách du lịch trên
địa bàn bình quân hàng năm đạt 36,2 ngàn lượt. Các lĩnh vực dịch vụ khác như vận
tải, bưu chính, viễn thông,… phát triển mạnh.
Sản xuất CN - TTCN và ngành nghề nông thôn tốc độ tăng trưởng khá. Các
ngành nghề có lợi thế về nguyên liệu tại chỗ được chú trọng phát triển như: sản xuất
vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
- Tình hình văn hóa - xã hội
Văn hóa - xã hội có bước phát triển. Chất lượng giáo dục và đào tạo được
nâng lên, cơ sở vật chất được tăng cường, mạng lưới trường lớp được củng cố phù
hợp với điều kiện của từng địa phương, trong đó có có 100% số xã có trường tiểu

31 5638017

You might also like