You are on page 1of 3

Viếng lăng Bác

- Viễn Phương
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Phan Thanh Viễn ( 1928 – 2005 )
- Quê: An Giang
- Bản thân:
+ Thời kì KCCP và M ông hoạt động ở miền Nam và là 1 trong những cây bút sớm nhất của
lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam.
+ Giọng thơ ông nhỏ nhẹ, giàu cảm xúc, đầy chất thơ mộng.
2. Tác phẩm:
a) HCST: Năm 1976, một năm sau khi KCCM kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng
chủ tịch HCM đc khánh thành, Viễn Phương và 1 đoàn cán bộ miền Nam lần đầu ra thăm
miền Bắc, vào lăng viếng Bác. Bài thơ đc sáng tác trong dịp đó và đc in trong tập “Như mây
mùa xuân” ( 1978 )
b) Thể thơ và PTBĐ:
- Thể thơ: tự do
- PTBĐ: MT, BC
c) Chủ đề: Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính tha thiết, lòng biết ơn, tự hào xen lẫn đau
xót khi tác giả vào lăng viếng Bác.
d) Bố cục và mạch cảm xúc:
- Bố cục: 3 phần
+ Khổ 1,2: Cảm xúc trc lăng Bác
+ Khổ 3: Cảm xúc ở trong lăng
+ Khổ 4: Cảm xúc ở khi rời lăng
- Mạch cảm xúc: theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác: Cảm xúc trc cảnh vào lăng -> Cảm
xúc khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác -> Cảm xúc ở trong lăng -> Cảm xúc khi rời
lăng.
-> Trình tự cả ko gian và tgian, chủ yếu là ko gian
II. Tìm hiểu chung
1. Khổ 1,2: Cảm xúc trước lăng Bác
- Mở đầu bài thơ là tấm lòng chân thành tha thiết của tác giả đc thể hiện qua 2 khổ thơ đầu
khi đứng trước lăng Bác.
- Trước hết là khổ 1:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
+ Câu thơ mở đầu khổ thơ như 1 lời thông báo gợi tâm trạng của ng con từ chiến trường
miền Nam qua bao năm mong đợi mới đc ra viếng Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng
Bác”. Từ “con” mở đầu khổ thơ đc tác giả sử dụng thể hiện chân thành tình cảm nhớ
thương, mến yêu Bác. Từ “con” như lời xưng hô của người con đi xa lâu ngày trở về thăm
cha với tâm trạng xúc động dạt dào. Cũng trong khổ thơ này, từ “thăm” với NT nói giảm nói
tránh đã thể hiện sự bất diệt của Bác, đồng thời cũng giảm đi sự đau buồn. Hay nói cách
khác, tác giả thay “thăm” cho “viếng” vì đối với Viễn Phương và toàn thể dân tộc VN, Bác
luôn sống mãi chứ ko phải là viếng ng đã ra đi.
+ Nhưng đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh “hàng tre bát ngát” xuất hiện bất ngờ trong làn
sương mỏng quanh lăng Bác. Đây là hình ảnh tả thực chỉ những hàng tre bình dị, gần gũi
được trồng quanh lăng Bác. Đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ ý nghĩa: mỗi cây tre là mỗi
con người VN bền bỉ, cần cù, đoàn kết, thanh cao… từ mọi miền tổ quốc về đây quây quần
bên Bác.
+ Đặc biệt, thán từ “Ôi!” cho tác dụng thể hiện niềm xúc động, lòng tự hào của tác giả đối
với hàng tre. Ko chỉ vậy, hai từ láy “bát ngát, xanh xanh” đã tô đậm sự trường tồn, bất diệt
của hàng tre trong ko gian mênh mông rộng lớn ấy. Với thành ngữ “bão táp mưa sa” đã
làm nổi bật sức sống bền bỉ của hàng tre bên lăng hay đó chính là của dân tộc VN luôn kiên
cường trước những khó khăn gian khổ thử thách.
- Cạnh đó là khổ 2:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
+ Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã gợi ra hình ảnh mặt trời rực rỡ. “Mặt trời” trong câu 1 là
hình ảnh thực chỉ mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, sưởi ấm cho sự sống trên thế gian. còn
“mặt trời” trong câu 2 là hình ảnh ẩn dụ Bác – người đã lãnh đạo dẫn dắt cho nhân dân VN
giành tự do cho đất nước, Tổ quốc. Hai câu thơ sóng đôi với nhau, hai mặt trời tỏa sáng
cho nhau ko chỉ chỉ sự trường tồn vĩ đại của Bác mà còn thể hiện lòng kính yêu, tôn thờ Bác
của nhân dân VN nói chung, nhà thơ nói riêng. Cụm từ “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình
ảnh đẹp và gợi ý nghĩa sâu xa nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn của
Bác.
+ Ở câu thơ tiếp theo, hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực:
ngày ngày dòng người đi trong nỗi xúc động bồi hồi, niềm thương tiếc, kính cẩn, nỗi nhớ
thương dành cho Bác.
+ Ở câu thơ cuối xuất hiện hình ảnh “tràng hoa”. Phải chăng dòng người ấy kết thành
những tràng hòa vô tận đồng thời còn là hình ảnh ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ: cuộc
đời nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Và những bông hoa tươi thắm ấy dâng lên cho Người
những điều tốt đẹp nhất. Cạnh đó, hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” là để chỉ
Bác, người đã sống 79 tuổi, là cuộc đời đẹp làm nên mùa xuân cho biết bao người khác.
2. Khổ 3: Cảm xúc ở trong lăng
- Ko chỉ vậy, tấm lòng thành kính của Viễn Phương còn được thể hiện khi ở trong lăng. Lúc
này, lòng biết ơn, thành kính trở thành niềm xúc động, nghẹn ngào của tác giả khi nhìn Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Trong lăng, dưới vầng trăng sáng dịu hiền, tác giả liên tưởng tới ánh trăng và Bác đang ngủ
yên, thanh thản dưới vầng trăng dịu hiền ấy. Phép tu từ nói giảm nói tránh “giấc ngủ bình
yên” đã làm giảm đi nỗi xót thương về sự mất mát của Bác. Cạnh đó, phép nhân hóa, hoán
dụ “vầng trăng – dịu hiền” khiến ta liên tưởng tới ko khí yên tĩnh, trang nghiêm và ánh sáng
dịu hiền ở ko gian trong lăng; hay khiến ta liên tưởng tới tâm hồn thanh cao, trong sáng và
những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Bác như “Cảnh khuya”, “Nguyên tiêu”, “Ngắm trăng”
- Ở hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh “trời xanh là mãi mãi” xuất hiện như một lời khẳng định
của tác giả: Bác sống mãi như trời xanh mãi còn:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Hai câu thơ sử dụng NT đối lập, giữa lí trí và tình cảm, khối óc và con tim, đặc biệt cụm từ
“vẫn biết, mà sao” đã khẳng định sự bất tử của Bác, tình cảm mãnh liệt của người con miền
Nam dành cho Bác. Bác hóa thân vào thiên nhiên, đất trời của dân tộc, sống mãi trong sự
nghiệp, tâm trí của nhân dân như trời xanh mãi ở trên cao. Nhưng dẫu biết điều ấy, ta ko
khỏi ko xót xa trước sự ra đi của Người “nghe nhói ở trong tim”. NT ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác “nhói” đã tô đậm sự đau đớn xót xa ở trong tim, quặn thắt trong đáy sâu tâm hồn,
tình cảm sâu nặng kính yêu Bác.
3. Khổ 4: Cảm xúc khi rời lăng
- Bài thơ kết thúc bằng cảm xúc thiết tha, dâng trào khi VP rời lăng Bác:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Khổ thơ mở đầu bằng câu thơ như 1 lời giã biệt: “Mai về miền Nam thương trào nước
mắt.” Lời thơ giản dị mà tình cảm lưu luyến, tiếc thương dâng trào. Từ “trào” diễn tả cảm
xúc mãnh liệt, quyến luyến, bịn rịn, ko muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đây ko chỉ là tâm trạng
của riêng tác giả mà còn là của muôn nghìn trái tim VN dù ở bên Bác trong giây lát nhưng
ko muốn rời xa vì Người ấm áp, rộng lớn quá.
- Vì thế, tác giả nguyện ước mãi ở bên Bác. Ba câu thơ với NT liệt kê cho thấy tác giả ước
làm “con chim” ngày ngày hót ca cho Bác nghe; ước làm “đóa hoa” để tỏa hương sắc
quanh lăng Bác; đặc biệt, tác giả ước làm “cây tre trung hiếu” – NT nhân hóa – giản dị, noi
theo cuộc đời Bác, một cuộc đời dành trọn cho đất nước, trung vs Đảng, hiếu vs dân.

You might also like