Professional Documents
Culture Documents
CHUYÊN ĐỀ 3KINHTEHOC
CHUYÊN ĐỀ 3KINHTEHOC
THẤT NGHIỆP
Mất việc thường được coi là vấn đề nghiêm trọng nhất trong cuộc đời của mỗi người.
Hầu hết mọi người chủ yếu dựa vào thu nhập từ lao động để duy trì cuộc sống. Đối với
nhiều người việc làm không chỉ đem lại thu nhập, mà còn cả cảm nhận về sự thành đạt cá
nhân. Mất việc có nghĩa là mức sống thấp hơn trong hiện tại bất ổn hơn trong tương lai và
lòng tự trọng bị tổn thương. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên khi vận động tranh cử,
các chính khách thường nói rằng họ sẽ thực hiện các chính sách góp phần tạo thêm công
ăn việc làm.
Trong chương trước, chúng ta đã thấy các nhân tố quyết định mức sống và sự cải thiện
mức sống đối với dân cư một nước. Chẳng hạn, một nước tiết kiệm và đầu tư tỷ lệ thu
nhập cao hơn được hưởng sự gia tăng khối lượng tư bản và GDP nhanh hơn một nước có
những điều kiện tương đồng, nhưng tiết kiệm và đầu tư ít hơn. Một nhân tố rõ ràng hơn
quyết định mức sống của mỗi nước là mức độ sử dụng nguồn nhân lực. Những người
muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm, không đóng góp vào việc sản xuất
hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Mặc dù mức thất nghiệp nào đó là không thể tránh
khỏi trong các nền kinh tế hiện đại có hàng vạn doanh nghiệp và hàng triệu công nhân,
nhưng số người thất nghiệp biến động đáng kể theo thời gian và giữa các nước. Khi nhiều
lao động có việc làm hơn, nền kinh tế sẽ tạo ra mức GDP cao hơn so với trường hợp công
nhân bị thất nghiệp.
Trong chương này, chúng ta tìm cách lý giải nguyên nhân tại sao nền kinh tế luôn có
thất nghiệp và những cách thức các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng để đối phó
với vấn đề này. Như chúng ta sẽ thấy, thất nghiệp không thể phát sinh từ một nguồn duy
nhất và do đó không thể sử dụng cùng một giải pháp đối với các loại thất nghiệp khác
nhau. Vì thế, các nhà hoạch định không có cách dễ dàng để cắt giảm thất nghiệp hay
giảm nhẹ những khó khăn mà người thất nghiệp phải chịu.
I. Phân loại thất nghiệp
Tùy theo mục đích nghiên cứu, thất nghiệp được phân loại theo nhiều cách khác nhau.
Kinh tế vĩ mô thường chia thất nghiệp thành hai loại - thất nghiệp dài hạn và thất nghiệp
biến động trong ngắn hạn. Khái niệm thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất
nghiệp tồn tại ngay cả trong dài hạn còn thất nghiệp chu kỳ biểu thị độ lệch của thất
nghiệp thực tế trong ngắn hạn so với mức tự nhiên. Thất nghiệp chu kỳ có cách giải thích
riêng, vì chúng ta sẽ giải thích chi tiết khi nghiên cứu những biến động kinh tế ngắn hạn
trong phần sau của cuốn sách này. Trong chương này, chúng ta bàn nhiều hơn về các
nhân tố quyết định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên của nền kinh tế.
1. Thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế
trải qua. Thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng tỷ lệ thất nghiệp này là đáng mong muốn
không thay đổi theo thời gian hoặc không ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế. Nó đơn giản
chỉ có nghĩa là loại thất nghiệp không tự nhiên bao gồm thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp
cơ cấu và thất nghiệp theo lý cổ điển.
I.1 Thất nghiệp tạm thời
Trong hầu hết các thị trường, giá cả điều chỉnh để cân bằng cung cầu. Trong thị trường
lao động lý tưởng, tiền lương sẽ điều chỉnh để loại trừ tình trạng thất nghiệp. Song thực tế
cho thấy ngay cả khi nền kinh tế vận hành tốt thì thất nghiệp vẫn tồn tại.
Thất nghiệp tạm thời bắt nguồn sự dịch chuyển bình thường của thị trường lao động.
Một nền kinh tế vận hành tốt là nền kinh tế đảm bảo sự ăn khớp giữa lao động và việc
làm. Trong một nền kinh tế phức tạp, chúng ta không thể hy vọng những sự ăn khớp như
vậy xuất hiện tức thì bởi vì trên thực thế người lao động có những sở thích và năng lực
khác nhau, trong khi việc làm cũng có những thuộc tính khác nhau. Hơn nữa các nguồn
thông tin về người lao động muốn tìm việc và chỗ làm việc còn trống không luôn luôn
trùng pha ăn khớp sự cơ động về mặt địa lý của công nhân cũng không diễn ra ngay tức
thì. Như vậy chúng ta cần phải dự tính và coi một mức thất nghiệp nhất định là cần thiết
và đáng mong muốn trong các xã hội hiện đại. Công nhân thường không nhận ngay công
việc đầu tiên được yêu cầu và doanh nghiệp không thuê người công nhân đầu tiên nộp
đơn xin việc. Trái lại họ cần bỏ ra thời gian và sức lực cần thiết để tạo ra sự ăn khớp tốt
nhất giữa doanh nghiệp và công nhân. Ví dụ, sau khi tốt nghiệp đại học cần phải có
khoảng thời gian cần thiết để đi tìm việc làm.Trong thời gian đó bạn được tính là thất
nghiệp. Loại thất nghiệp này được gọi là thất nghiệp tạm thời.
Một nguồn quan trọng của thất nghiệp tạm thời là thanh toán gia nhập lực lượng lao
động. Nguồn khác là những người đang trong quá trình chuyển việc. Một số có thể bỏ
việc do không thỏa mãn với công việc hiện tại hay điều kiện làm việc hiện tại; một số
khác có thể bị sa thải. Bất kể lý do là gì, họ cần phải tìm một công việc mới, điều này cần
có thời gian, và cần phải chấp nhận thất nghiệp tạm thời.
Chính sách công và thất nghiệp tạm thời
Mặc dù một số thất nghiệp tạm thời là tất yếu, tuy nhiên quy mô của thất nghiệp tạm
thời không phải là cố định. Nếu thông tin về việc làm mới và số công nhân hiện có nhu
cầu làm việc được truyền đi nhanh chóng, thì công nhân và doanh nghiệp càng dễ gặp
nhau hơn. Ví dụ, Internet có thể tạo thuận lợi cho quá trình tìm việc và làm giảm thất
nghiệp tạm thời. Ngoài ra, chính sách công cộng có thể đóng vai trò nhất định. Nếu chính
sách có thể làm giảm bớt thời gian mà công nhân thất nghiệp cần thiết để tìm được việc
làm mới, thì nó có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên của nền kinh tế.
Chính sách chính phủ có thể tác động đến thất nghiệp tạm thời theo nhiều cách khác
nhau. Việc thành lập các văn phòng giới thiệu việc làm có chức năng cung cấp thông tin
về những việc làm còn trống và công nhân có nhu cầu tìm việc sẽ tạo thuận lợi cho công
nhân dễ tìm được việc làm hơn. Một số người phê phán các chương trình này. Họ lập
luận rằng tốt nhất hãy để cho thị trường tư nhân đảm bảo cho lao động và việc làm tự
khớp nhau. Trong thực tế hầu hết quá trình tìm kiếm việc làm trong các nền kinh tế thị
trường xảy ra mà không cần tới sự can thiệp của chính phủ. Đăng quảng cáo trên báo, bản
tin về việc làm, trung tâm giới thiệu việc làm và truyền miệng tất cả đều góp phần truyền
bá thông tin về việc làm còn trống và người tìm việc. Những người phê phán này khẳng
định rằng chính phủ không làm tốt hơn thậm chí còn kém hơn trong việc phổ biến thông
tin thích hợp và quyết định loại hình đào tạo công nhân có giá trị nhất. Họ quả quyết
rằng các quyết định như vậy tốt nhất nên để bản thân công nhân và người thuê lao động
đưa ra.
Một chương trình của chính phủ có xu hướng làm tăng quy mô thất nghiệp tạm thời là
chính sách trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp thất nghiệp cho phép công nhân mất việc nhận
được một khoản thu nhập nhất định từ chính phủ khi họ bị mất việc làm. Đây là một
chính sách được thiết kế nhằm hỗ trợ tài chính cho công nhân thất nghiệp. Nó làm giảm
tổn thất cho cá nhân và gia đình những người bị thất nghiệp vốn là một hiện tượng tất yếu
trong một xã hội thường xuyên thay đổi . Tuy nhiên, mọi cái đều có giá trị của nó. Mặt dù
trợ cấp thất nghiệp làm giảm tổn thất gây ra bởi một số loại thất nghiệp, bản thân nó lại
làm tăng thất nghiệp tạm thời trong nền kinh tế. Trợ cấp thất nghiệp cho phép công nhân
mất việc nhận được một khoản thu nhập từ chính phủ trong khi họ không có việc làm.
Điều này làm giảm sức ép đối với các công nhân bị mất việc tìm kiếm việc làm mới và
rất có thể họ không chấp nhận các công việc không hấp dẫn. Tuy nhiên tổn thất này đối
với xã hội chỉ coi là tác động phụ của chính sách trợ cấp thất nghiệp vì mục tiêu chính
của trợ cấp thất nghiệp là nhằm giảm bớt khó khăn về kinh tế cho các cá nhân bị thất
nghiệp, và như vậy nó có mục tiêu phân phối lại.
Những người ủng hộ trợ cấp thất nghiệp nhấn mạnh đến các lợi ích của nó. Những
người phê phán lại nhấn mạnh đến các chi phí của nó. Cũng như với bất kỳ chính sách
nào; đánh giá hợp lý về trợ cấp thất nghiệp đòi hỏi phải cân nhắc một cách toàn diện cả
hai mặt chi phí và lợi ích của nó.
I.2 Thất nghiệp cơ cấu
Quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế cũng có thể gây ra thất nghiệp. Khi cơ
cấu của cầu về hàng hóa thay đổi thì cơ cấu về lao động cũng thay đổi theo. Trước khi
công nhân thích ứng với điều kiện mới, thất nghiệp cơ cấu sẽ xuất hiện. Thất nghiệp như
thế có thể được định nghĩa là thất nghiệp phát sinh do có sự không ăn khớp giữa cơ cấu
cung cầu lao động về kỷ năng ngành nghề hoặc địa điểm.
Sự thay đổi đi kèm với tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu của cầu lao động. Cầu
tăng lên ở khu vực đang mở rộng và giảm ở khu vực đang thu hẹp. Cầu tăng đối với các
công nhân có những kỷ năng nhất định như lập trình viên hay kỹ sư điện tử và giảm đối
với các ngành nghề khác chẳng hạn công nhân cơ khí. Sự thay đổi theo hướng mở rộng
khu vực dịch vụ và tái cơ cấu trong tất cả các ngành trước sự đổi mới về công nghệ có lợi
cho những công nhân có trình độ học vấn cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu thay đổi, cấu trúc
của lực lượng lao động cần thay đổi thích ứng. Một số công nhân đang có việc làm cần
được đào tạo lại và một số người mới ra nhập lực lượng lao động cần nắm bắt được các
kỹ năng lao động phù hợp với yêu cầu mới của thị trường. Tuy nhiên quá trình chuyển
đổi thường tương đối khó khăn, đặc biệt đối với công nhân có tay nghề cao mà kỹ năng
của họ đã trở nên lạc hậu so với yêu cầu mới về phát triển kinh tế. Thất nghiệp cơ cấu
xuất hiện khi những điều chỉnh như vậy diễn ra chậm chạp và thất nghiệp tăng lên ở các
khu vực, các ngành nghề mà cầu về các yếu tố sản xuất giảm nhanh hơn nguồn cung ứng.
Thất nghiệp cơ cấu sẽ tăng nếu có sự gia tăng tốc độ chuyển dịch cơ cấu của cầu về
lao động hay có sự suy giảm tốc độ thích ứng của lao động với những thay đổi đó.
I.3 Thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển
Một nguyên nhân khác góp phần giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy có một số
thất nghiệp ngay cả trong dài hạn là sự cứng nhắc của tiền lương thực tế. Mô hình cổ điển
giả thiết tiền lương thực tế điều chỉnh để cân bằng thị trường lao động, đảm bảo trạng thái
đầy đủ việc làm. Điều này phù hợp với cách tiếp cận cân bằng thị trường: giá cả điều
chỉnh để đảm bảo sự cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thất nghiệp
luôn tồn tại. Vậy các nhà kinh tế cổ điển giải thích thực tế này như thế nào ?
Họ cho rằng các lực lượng khác nhau trên thị truờng lao động –luật , thể chế ,truyền
thống – có thể ngăn cản tiền lương thực tế điều chỉnh đủ mức để duy trì trạng thái đầy đủ
việc làm. Nếu tiền lương thực tế bị mắc ở điểm cao hơn mức đầy đủ việc làm, thì thất
nghiệp sẽ xuất hiện. Loại thất nghiệp này thường được gọi là “thất nghiệp theo lý thuyết
cổ điển”4.
Ba nguyên nhân chủ yếu làm cho tiền lương thực tế có thể bị mắc lâu dài cao hơn mức
cân bằng thị trường trong các nền kinh tế hiện đại bao gồm luật tiền lương tối thiểu, công
đoàn,
4
Trongvà
cuốntiền lương
Principles hiệu quả.
of Economics N.G.Cả ba lý
Mankiw thuyết
gọi loại đều giải
thất nghiệp này là thích tại sao tiền lương thực tế có
thất nghiệp
thể
cơ duy trìthất
cấu hay ở mức
nghiệp “quá
chờ việccao” làm cho một số công nhân có thể bị thất nghiệp.