Professional Documents
Culture Documents
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, hơi nước là một trong những công chất được sử dụng rộng
rãi trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Ta có thể nhận thấy sự có
mặt của hơi nước trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ
những ứng dụng công nghiệp nặng như sản xuất năng lượng, gia công
chế tạo... đến những nhu cầu hàng ngày của con người như hâm nóng,
sấy sưởi... Một số liệu thống kê về năng lượng cho thấy tính trên toàn
thế giới, 80 – 90% điện năng sản xuất được là từ việc sử dụng hơi
nước. Sở dĩ hơi nước phổ biến như vậy là do nó có rất nhiều ưu điểm
như: tính kinh tế, sẵn có, không độc hại, có khả năng giãn nở lớn, sinh
công lớn...
Nói riêng về lĩnh vực kỹ thuật tàu thủy, từ thế kỷ 17 – 18 hơi nước đã
được ứng dụng rất phổ biến trên các con tàu để phục vụ cho hệ động
chính lai chân vịt. Ngày nay, tuy hệ động lực Diesel gần như đã được
trang bị cho toàn bộ đội tàu thế giới, hơi nước vẫn được sử dụng cho
nhiều mục đích cần thiết dưới tàu như: sinh công trong các máy phụ,
phục vụ sinh hoạt của thuyền viên, là chất công tác trong các thiết bị
trao đổi nhiệt...
Nồi hơi là thiết bị sinh hơi chính trong hệ động lực hơi nước. Với hệ
động lực hơi nước ở trên bờ, hơi nước được cấp cho tua bin hơi để lai
máy phát điện. Với hệ động lực hơi nước dưới tàu biển, hơi nước được
cấp cho tua bin hơi để lai chân vịt tàu thủy. Hiện nay, ở những tàu sử
dụng hệ động lực Diesel, khi mà động cơ Diesel là thiết bị động lực
chính lai chân vịt tàu thủy thì nồi hơi được sử dụng như một thiết bị
phụ phục vụ cho những mục đích như: hâm dầu, sấy không khí... Nói
chung, nồi hơi là một trong những thiết bị năng lượng quan trọng dưới
tàu thủy. Một kỹ sư khai thác máy tàu biển để có thể hoàn thành tốt
1
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
công việc thì cần phải hiểu và nắm vững nguyên lý hoạt động cũng
như cách thức khai thác vận hành thiết bị này.
“Nồi hơi tàu thủy” là giáo trình được biên soạn để phục vụ cho môn
học “Nồi hơi – Tua bin hơi” trong chương trình đào tạo kỹ sư khai
thác máy tàu biển của Khoa Máy tàu biển, Trường Đại học Hàng hải
Việt Nam. Đây cũng là môn học chuyên ngành đầu tiên được giảng
dạy vào năm thứ ba. Do đó, để giúp sinh viên tiếp cận kiến thức
chuyên môn được tốt, nhóm tác giả gồm TS. Lê Văn Điểm và KS.
Hoàng Anh Dũng đã biên soạn và xuất bản giáo trình này. Sách được
trình bày một cách lô-gíc, dễ hiểu với nội dung được chia làm các
chương mục rõ rệt. Để học tốt môn học này, sinh viên cần nắm vững
kiến thức cơ sở chuyên ngành về nhiệt động học kỹ thuật và cần rèn
luyện kỹ năng đọc bản vẽ kỹ thuật.
Chúng tôi tin rằng cuốn sách sẽ là tài liệu bổ ích và đem lại hiệu quả
cho việc học tập của sinh viên. Tuy nhiên, do lần đầu tiên xuất bản và
do bản thân tác giả còn hạn chế về kinh nghiệm thực tế nên thiếu sót là
điều không thể tránh khỏi. Trong quá trình sử dụng, chúng tôi mong
nhận được và xin chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp của độc giả
để sách ngày một hoàn thiện hơn.
Tác giả
2
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
MỤC LỤC
3
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
4
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
5
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
6
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
7
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
(1-1)
Trong đó, a và b là các hệ số phụ thuộc vào bản chất chất khí.
8
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hơ
n
iq
Rắ
lỏng
Lỏng
uá
nh
Rắn+
i
ệt
0
x=
x=
1
Hình 1.1. Các trạng thái của hơi nước trên đồ thị p-v và T-s.
9
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Nước nói chung có thể tồn tại ở ba thể: thể rắn (solid), thể lỏng (liquid)
và thể hơi (vapor). Nước ở thể lỏng được hiểu là trạng thái nước chưa
sôi (compressed water) còn nước ở thể hơi được hiểu là trạng thái hơi
quá nhiệt (superheated vapor). Đó là những trạng thái một pha cân
bằng. Tùy theo điều kiện nhiệt độ và áp suất, nước còn có thể ở các
trạng thái hai pha (trạng thái cân bằng động) như nước bão hòa (nước
sôi), hơi bão hòa... Những trạng thái này không bền và có xu hướng
chuyển sang trang thái cân bằng.
Nước bão hòa (saturated water): là nước đã đạt đến trạng thái nhiệt độ
và áp suất bão hòa, lúc này quá trình hóa hơi bắt đầu diễn ra. Nước tồn
tại ở cả hai pha lỏng và hơi nhưng thành phần lỏng chiếm đa số.
Hơi bão hòa (saturated steam): là hơi ở trạng thái nhiệt độ và áp suất
bão hòa. Giống như trạng thái nước bão hòa, hơi bão hòa gồm hai
thành phần lỏng và hơi nhưng thành phần hơi chiếm đa số. Hơi bão
hòa có thể ở trạng thái bão hòa chưa hoàn toàn, gọi là hơi bão hòa ẩm
hoặc trạng thái bão hòa hoàn toàn, gọi là hơi bão hòa khô.
Hơi bão hòa ẩm (liquid-vapor): là hơi bão hòa mà còn chứa các
hạt lỏng nhỏ li ti chưa kịp bay hơi hết.
Hơi bão hòa khô (saturated vapor): là hơi bão hòa mà không
còn chứa thành phần lỏng nào.
10
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
khác, khắc phục được lực tương tác giữa các phần tử, thắng
được lực căng của bề mặt chất lỏng để tách ra và bay vào
không khí. Cường độ bay hơi phụ thuộc vào nhiệt độ và diện
tích mặt thoáng.
Sôi (boiling): khi cung cấp nhiệt lượng cho nước, nhiệt độ của
nước tăng cao, cường độ bay hơi tăng. Đến một nhiệt độ nào đó
hiện tượng hoá hơi xảy ra trong lòng chất lỏng tạo lên các bọt
hơi nước. Các bong bóng hơi này đi lên, lớn dần và được tạo
thành trong toàn bộ thể tích nước. Ta gọi đó là sự sôi. Quá trình
sôi diễn ra tại áp suất và nhiệt độ không đổi. Nhiệt độ ứng với
trạng thái sôi gọi là nhiệt độ sôi ts (boiling point).
Ngưng tụ (condensation): quá trình ngược lại với quá trình hoá
hơi gọi là quá trình ngưng tụ, hơi nước biến thành nước và nhả
nhiệt. Quá trình ngưng tụ cũng diễn ra tại áp suất và nhiệt độ
không thay đổi.
Nóng chảy (melting): là quá trình nước chuyển từ pha rắn
(nước đá) sang pha lỏng khi được cấp nhiệt lượng.
Đông đặc (solidification): là quá trình ngược lại với quá trình
nóng chảy, tức là nước từ pha lỏng chuyển sang pha rắn và nhả
nhiệt.
Thăng hoa (sublimation): là quá trình nước chuyển trực tiếp từ
pha rắn sang pha hơi. Quá trình này chỉ diễn ra tại áp suất và
nhiệt độ rất cao hoặc khi nhiệt lượng cấp là vô cùng lớn.
Ngưng kết (crystallization): là quá trình ngược lại với quá trình
thăng hoa, tức là nước từ pha hơi chuyển trực tiếp sang pha rắn
và nhả nhiệt.
11
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
(1-2)
Trong đó: Gh là khối lượng hơi khô trong ẩm; Gn là khối lượng
của nước trong hơi ẩm.
Nước sôi có x = 0; hơi ẩm có 0 < x < 1 và hơi khô có x = 1.
Độ ẩm (humidity): là tỷ số giữa khối lượng của phần nước
trong hơi bão hòa ẩm và khối lượng hơi bão hòa ẩm. Ký hiệu y.
(1-3)
1.2. Chu trình nhiệt động của thiết bị động lực hơi nước
12
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
2. Quá trình 2-3: Ngưng tụ đẳng áp, hơi nước sau khi giãn nở sinh
công trong tua bin sẽ đi về bầu ngưng để ngưng tụ thành nước,
nhiệt lượng q2 thải của hơi được trao cho công chất làm mát.
3. Quá trình 3-4: Nén đoạn nhiệt, nước ngưng tụ được bơm nén
đoạn nhiệt để cấp trở lại nồi hơi.
4. Quá trình 4-1: Hóa hơi đẳng áp, nước được đun sôi, nhận nhiệt
lượng q1 từ quá trình cháy trong nồi hơi để hóa thành hơi tiếp
tục một chu trình sinh công mới.
4' 4 1
3'
x=
0 3 2
1
x=
v
4 1
4'
3'
3 2 x=
1
0
x=
Hình 1.2. Chu trình Carnot của thiết bị động lực hơi nước.
13
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Trên đồ thị, thực chất trạng thái của hơi nước ở điểm 3 là trạng thái hơi
bão hòa ẩm, hay nói cách khác, một phần hơi vẫn chưa ngưng tụ thành
nước. Chu trình 123’4’ là chu trình ứng với trường hợp ngưng tụ hoàn
toàn (toàn bộ hơi ngưng tụ thành nước).
Nhiệt lượng cấp, nhiệt lượng thải và hiệu suất nhiệt của chu trình được
xác định như sau:
Nhiệt cấp:
(1-5)
Hiệu suất nhiệt của chu trình Carnot là lớn nhất trong tất cả các chu
trình thiết bị động lực hơi nước. Tuy nhiên, chu trình Carnot chỉ là chu
trình lý thuyết lý tưởng, không được dùng trong thực tế. Sau đây,
chúng ta sẽ nghiên cứu chu trình Rankine – chu trình đơn giản nhất của
thiết bị động lực hơi nước được áp dụng rộng rãi trong thực tế.
14
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hình 1.3. Sơ đồ nguyên lý và đồ thị nhiệt động của chu trình Rankine.
Các quá trình nhiệt động trong chu trình gồm có:
1. Quá trình 1-2: Dãn nở đoạn nhiệt (adiabatic expansion), hơi
quá nhiệt được cấp vào tua bin và giãn nở sinh công trong tua
bin.
2. Quá trình 2-3: Ngưng tụ đẳng áp (constant pressure
condensation), hơi nước sau khi giãn nở sinh công trong tua bin
sẽ đi về bầu ngưng để ngưng tụ thành nước, nhiệt lượng q2 thải
của hơi được trao cho công chất làm mát.
15
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Các thông số cơ bản của chu trình được xác định như sau:
Nhiệt cấp: bao gồm nhiệt đun nóng qn, nhiệt hóa hơi r và nhiệt
quá nhiệt qh.
Nhiệt thải:
Công có ích:
(1-6)
Ở đây, công có ích là hiệu số giữa công sinh ra từ tua bin ltb và
công tiêu tốn cho bơm lb. Tuy nhiên, công bơm thường rất nhỏ,
có thể bỏ qua.
Hiệu suất nhiệt:
(1-7)
16
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Chu trình Rankine nói trên là loại chu trình kín. Hệ động lực hơi nước
còn có thể làm việc theo chu trình hở. Chu trình hở khác với chu trình
kín ở chỗ: hơi sau khi công tác trong tua bin sẽ được xả trực tiếp ra
ngoài khí quyển. Như vậy, ở chu trình hở, bầu ngưng không được sử
dụng (không có quá trình ngưng tụ đẳng áp) và nước cấp cho nồi hơi
chỉ được bơm từ két chứa. Hình 1.4 là sơ đồ nguyên lý của chu trình
hở.
x=
1
Hình 1.4. Sơ đồ nguyên lý và đồ thị nhiệt động của chu trình hở.
Hệ động lực hơi nước làm việc với chu trình hở chỉ được sử dụng
trong những ứng dụng nhỏ hoặc khi thông số hơi thấp. So với chu trình
hở thì chu trình kín có nhiều ưu điểm hơn hẳn như: hiệu suất lớn hơn;
có khả năng tận dụng lại hơi nước sau khi công tác (điều này đặc biệt
quan trọng ở dưới tàu vì nếu chu trình hở được sử dụng thì phải có một
17
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
lượng dự trữ nước khá lớn, làm giảm tải trọng có ích của con tàu). Do
đó, ở dưới tàu thủy, chỉ có hệ động lực hơi nước làm việc theo chu
trình kín được áp dụng.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất chu trình Rankine
Tăng áp suất ban đầu p1 mà nhiệt độ đầu T1 và áp suất sau p2 không đổi
thì có những ưu điểm sau:
Nhiệt độ sôi ts và nhiệt độ trung bình của quá trình cấp nhiệt
tăng làm cho hiệu suất nhiệt của chu trình tăng. tăng nhanh ở
vùng p1 < 90bar; tăng chậm ở vùng p1 > 90bar vì ở vùng này
18
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
nhiệt độ trung bình tăng chậm. Áp suất đầu p1 có thể lên đến
300bar.
Thể tích riêng của hơi giảm. Điều này có ý nghĩa trong việc chế
tạo thiết bị vì khi đó thiết bị có kích cỡ nhỏ gọn hơn, chi phí giá
thành vật tư chế tạo cũng giảm theo.
Tuy nhiên, áp suất đầu tăng lại dẫn tới nhược điểm là:
Độ khô của hơi ở cuối quá trình giãn nở giảm làm cho độ ẩm
tăng lên, có nhiều hạt nước chuyển động lớn ở tầng cánh cuối
của tua bin, gây ra mài mòn, ăn mòn các tầng cánh cuối của tua
bin hơi.
Áp suất hơi cao đòi hỏi phải chế tạo các bộ phận sinh hơi, bộ
sấy hơi bằng các vật liệu có độ bền cao, chịu áp lực tốt, đắt
tiền.
19
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
20
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Việc giảm áp suất cuối bị hạn chế bởi nhiệt độ bão hoà tương ứng do
phải duy trì nhiệt độ này không nhỏ hơn nhiệt độ môi trường thì hơi
nước mới có thể ngưng tụ được trong bầu ngưng.
Nếu áp suất cuối p2 quá thấp, độ khô của hơi giảm thì tốc độ hơi ở
phần sau của tua bin lớn gây ra ăn mòn, xói mòn các tầng cánh cuối.
1.2.4. Chu trình hồi nhiệt và chu trình có quá nhiệt trung gian
Như đã trình bày, chu trình Rankine là chu trình cơ bản nhất của thiết
bị động lực hơi nước. Để tăng cường hiệu quả làm việc của hệ động
lực, giảm kích cỡ các thiết bị và tăng hiệu suất nhiệt của chu trình,
người ta sử dụng chu trình hồi nhiệt (regenerative Rankine cycle) và
chu trình có quá nhiệt trung gian (reheat Rankine cycle).
21
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
22
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hơi ra khỏi tua bin cấp 1 một phần được đưa vào bình hòa trộn
để gia nhiệt cho nước cấp nồi, phần còn lại được cấp vào tua
bin cấp 2 để tiếp tục sinh công.
Như vậy, nếu như ở chu trình Rankine cơ bản, toàn bộ nhiệt của hơi ra
khỏi tua bin được nhả ra ngoài tại bầu ngưng thì ở chu trình hồi nhiệt,
một phần nhiệt lượng đó được tận dụng để hâm nóng sơ bộ nước cấp
nồi. Nghĩa là một phần nhiệt thải q2 được bổ sung vào nhiệt cấp q1. Do
đó, hiệu suất nhiệt của toàn bộ hệ động lực được cải thiện. Chu trình
hồi nhiệt có thể có một lần hồi nhiệt (Hình 1.8) hoặc nhiều lần hồi
nhiệt (kích cỡ hệ động lực và số lượng trang thiết bị tương ứng sẽ tăng
lên).
Với chu trình hồi nhiệt ở Hình 1.8, bình hòa trộn đóng vai trò như một
bầu ngưng trung gian. Trên đồ thị T-s, quá trình ab được gọi là quá
trình hồi nhiệt. Thực chất quá trình này chính là quá trình ngưng tụ
đẳng áp diễn ra trong bình hòa trộn nhưng nhiệt lượng nhả ra được tận
dụng để cấp cho nước.
23
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
trong bộ quá nhiệt, quá trình b2 là quá trình dãn nở sinh công của hơi
đã được quá nhiệt lần thứ hai trong tua bin cấp 2.
24
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
ở cuối tua bin, qua đó cải thiện hiệu quả làm việc của thiết bị, nâng cao
hiệu suất nhiệt của toàn bộ hệ động lực.
Với những hệ động lực hơi nước cỡ lớn, hơi nước có thể được quá
nhiệt trung gian nhiều lần. Nếu chu trình hồi nhiệt được sử dụng thì
quá trình hồi nhiệt cũng được thực hiện nhiều lần. Trên thực tế, với hệ
động lực hơi nước trên bờ dùng cho các nhà máy điện nguyên tử thì
người ta thường áp dụng chu trình kết hợp, nghĩa là có cả quá trình hồi
nhiệt và quá nhiệt trung gian.
25
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của nồi hơi dưới tàu thủy
Nồi hơi tàu thủy nói chung có thể được dùng để sinh hơi phục vụ các
mục đích như lai máy phát điện, lai các máy phụ, dùng để hâm sấy
nhiên liệu, phòng ở hoặc dùng cho động cơ tua bin hơi lai chân vịt.
Vào những năm giữa thế kỷ 20 rất nhiều tàu thủy được trang bị tua bin
hơi làm động lực chính lai chân vịt, khi đó nồi hơi chính và tua bin hơi
chính lai chân vịt là hai thiết bị trung tâm trong hệ động lực hơi nước
tàu thủy. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng dầu mỏ (từ năm 1973) đã
đẩy giá dầu trên thế giới lên rất cao. Điều này khiến các nhà sản suất
buộc phải cải tiến công nghệ và thay thế công nghệ cũ bằng các thiết bị
26
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
công nghệ mới có hiệu suất cao hơn. Vì vậy hầu hết các tàu thủy gần
đây đều được trang bị hệ động lực Diesel, có hiệu suất cao hơn. Trên
các tàu thủy hiện nay hầu như chỉ còn sử dụng các nồi hơi phụ, dùng
để cung cấp hơi cho mục đích hâm sấy nhiêu liệu và các mục đích sinh
hoạt khác, một số cung cấp hơi cho tua bin hơi lai máy phát điện, bơm
hoặc các máy phụ khác. Ngoại trừ một số loại tàu đặc thù như tàu chở
khí tự nhiên hoá lỏng (LNG Carrier) thì hệ động lực tua bin hơi vẫn
được áp dụng.
27
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Nồi hơi trung và cao áp thường là các nồi hơi chính, sản suất hơi quá
nhiệt có thông số cao, cung cấp cho tua bin hơi lai chân vịt.
Hình 2.1. Nồi hơi ống nước và nồi hơi ống lửa.
28
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Nồi hơi sử dụng năng lượng điện (electric boiler): nhiệt cấp
cho nồi hơi được biến đổi từ điện năng. Loại nồi hơi này có
công suất nhỏ, chủ yếu phục vụ sinh hoạt của thuyền viên trên
tàu.
Nồi hơi sử dụng năng lượng nguyên tử (nuclear boiler): nhiệt
cấp cho nồi hơi sinh ra từ phản ứng hạt nhân. Loại nồi hơi này
thường được sử dụng cho tàu quân sự, đặc biệt là tàu ngầm.
Nồi hơi sử dụng năng lượng từ khí xả của các máy nhiệt
(exhaust gas boiler, economizer): nồi hơi loại này tận dụng
năng lượng nhiệt từ khí xả của động cơ Diesel chính, của động
cơ Diesel lai máy phát điện hoặc của tua bin khí để sinh hơi.
Hơi sinh ra từ nồi hơi khí xả (hay còn gọi là nồi hơi kinh tế)
chủ yếu dùng để phục vụ nhu cầu hâm sấy nhiên liệu và các
nhu cầu sinh hoạt khác trên tàu. Tàu thủy cũng có thể được
trang bị các tua bin phụ, được cung cấp hơi bởi nồi hơi khí xả,
nồi hơi liên hợp, đặc biệt là đối với các tàu hàng rời, tàu dầu cỡ
lớn (có trọng tải từ vài vạn đến vài chục vạn tấn). Nồi hơi loại
này có thể được chế tạo chung thân với nồi hơi phụ và được gọi
là nồi hơi liên hợp phụ - khí xả (composite boiler), hiện đang
được sử dụng rộng rãi dưới tàu biển.
29
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
phụ - khí xả thường là loại thẳng đứng, rất thuận tiện cho việc
lắp đặt trên phần ống khói (funnel) của thượng tầng tàu.
Hình 2.2. Nồi hơi đặt nằm và nồi hơi đặt đứng.
30
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
nhất. Nồi hơi ống lửa cũng là nồi hơi không tuần hoàn do nước
được chứa toàn bộ trong bầu nồi.
Hình 2.3. Nồi hơi tuần hoàn tự nhiên, tuần hoàn cưỡng bức và
nồi hơi không tuần hoàn.
2.4.1. Áp suất
Đối với nồi hơi tàu thủy, các thông số áp suất (pressure) cần quan tâm
gồm có: áp suất nồi hơi (áp suất làm việc), áp suất hơi sấy, áp suất hơi
giảm sấy và áp suất nước cấp. Đơn vị đo thường được sử dụng đối với
các loại áp suất này là kG/cm2 hoặc bar. 1 kG/cm2 = 1at = 0,981bar.
Áp suất nồi hơi pN là áp suất của nước và hơi bão hòa chứa
trong thân (bầu) nồi hơi.
Áp suất hơi sấy phs là áp suất của hơi ra khỏi bộ sấy hơi (bộ quá
nhiệt). Áp suất hơi sấy thấp hơn áp suất pN trong nồi hơi
khoảng 14kG/cm2.
31
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Áp suất hơi giảm sấy pgs là áp suất của hơi sau khi ra khỏi bộ
giảm sấy. Áp suất hơi giảm sấy thấp hơn áp suất hơi sấy.
Áp suất nước cấp pnc là áp suất của nước được bơm cấp vào nồi
hơi. Để nước có thể được nén vào nồi hơi, áp suất nước cấp
phải cao hơn áp suất pN 36kG/cm2 để thắng được sức cản trên
đường ống cấp nước, tại bầu hâm nước cấp nồi, tại bầu hâm
nước tiết kiệm...
2.4.2. Nhiệt độ
Các thông số nhiệt độ (temperature) đối với nồi hơi tàu thủy gồm có:
nhiệt độ hơi sấy, nhiệt độ hơi bão hòa, nhiệt độ nước cấp, nhiệt độ
khói, nhiệt độ không khí cấp.
Nhiệt độ hơi sấy ths là nhiệt độ của hơi quá nhiệt ra khỏi bộ sấy
hơi.
Nhiệt độ hơi bão hòa tS là nhiệt độ của hơi bão hòa trong thân
(bầu) nồi.
Nhiệt độ nước cấp tnc là nhiệt độ của nước được bơm cấp vào
nồi, đây là giá trị áp suất được đo trước bộ tận dụng nhiệt hâm
nước.
Nhiệt độ khói kl là nhiệt độ của khí lò ra khỏi nồi hơi, đo tại vị
trí khí lò đi vào ống khói.
Nhiệt độ không khí cấp kk là nhiệt độ của không khí được cấp
vào trong buồng đốt để thông gió cũng như duy trì quá trình
cháy.
dài. Sản lượng hơi ký hiệu là D, có thể được đo bằng kg/h hoặc t/h
(tấn/giờ).
Sản lượng hơi chung DN là tổng của sản lượng hơi sấy Dhs, sản lượng
hơi giảm sấy Dgs và sản lượng hơi bão hòa Dx.
(2-1)
DN = Dhs + Dgs + Dx (kg/h)
Chú ý rằng Dx là lượng hơi bão hòa cung cấp cho máy phụ và hệ thống
(chứ không phải là lượng hơi bão hòa sinh ra trong bầu nồi), ta gọi là
tải của nồi hơi. Khi cần thiết, nồi hơi có thể quá tải đến sản lượng lớn
nhất Dmax trong một số giờ qui định:
(2-2)
Dmax = 125140%DN
33
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Mặt hấp nhiệt bức xạ Hb: là mặt hấp nhiệt cạnh buồng đốt, trực
tiếp tiếp xúc với ngọn lửa. Ở đây hình thức trao nhiệt chủ yếu
là bức xạ nhiệt.
Mặt hấp nhiệt đối lưu Hđl: là mặt hấp nhiệt ở xa buồng đốt và
được khí lò quét qua. Hình thức trao nhiệt chính ở đây là tỏa
nhiệt đối lưu.
Mặt hấp nhiệt bốc hơi Hbh: là bề mặt hấp nhiệt của khí lò làm
cho nước sôi và bốc hơi, bao gồm mặt hấp nhiệt của vách ống
và ống nước sôi.
Mặt hấp nhiệt tiết kiệm Htk: là bề mặt hấp nhiệt của các thiết bị
tận dụng nhiệt như bộ tận dụng nhiệt hâm nước và bộ tận dụng
nhiệt sấy không khí.
34
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
(2-3)
Trong đó: Bt – Lượng tiêu hao nhiên liệu trong một giờ (kg/h).
QH – Nhiệt trị thấp của nhiên liệu (kCal/kg).
Nhiệt tải dung tích buồng đốt đặc trưng cho mức độ tập trung nhiệt
lượng trong không gian buồng đốt. Trị số qv quá cao có thể làm hỏng
gạch chịu lửa, hỏng vách buồng đốt.
Với nồi hơi đốt dầu có diện tích vách lớn, qv = 0,60,7.106
kCal/m3h.
Với nồi hơi tàu chiến, qv = 3.106 kCal/m3h.
Ngoài ra, qv còn đặc trưng cho độ lâu dài của chất cháy lưu lại trong
buồng đốt.
35
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Chú ý rằng trong không gian nước (nhất là đối với nồi hơi ống nước)
luôn có lẫn hơi nước, lượng hơi nước ấy thay đổi tuỳ theo tải trọng của
nồi hơi. Vì vậy, giá trị của Gn tính như trên luôn lớn hơn giá trị thực tế
một lượng nhất định.
(2-5)
Chú ý rằng N tính như trên chưa xét tới lượng nhiệt tiêu hao cho bản
thân nồi hơi như việc cấp nhiên liệu, cấp nước, thông gió, thổi muội
cho nồi hơi...
Hiệu suất nồi hơi là một thông số quan trọng, trực tiếp cho ta biết hiệu
quả hoạt động của nồi hơi. Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về hiệu suất
nồi hơi, các yếu tố ảnh hưởng cũng như các biện pháp cải thiện thông
số này ở chương tiếp theo.
Ngoài ra, nồi hơi còn có rất nhiều thông số khác như: bội số tuần hoàn,
chu kỳ không cấp nước, suất trọng lượng nồi hơi... Các thông số này
chủ yếu được sử dụng trong thiết kế, chế tạo hay tính nghiệm nhiệt nồi
hơi. Với kỹ sư khai thác máy tàu biển, chúng ta chỉ cần nắm được
những thông số chính nói trên để có thể khai thác nồi hơi một cách
hiệu quả, an toàn và kinh tế.
36
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
2.5. Nguyên lý hoạt động của nồi hơi và hệ thống nồi hơi
Nước trong bầu nồi hoặc trong các ống nước (chỉ có ở nồi hơi ống
nước) nhận nhiệt để sôi và bay hơi. Hơi sinh ra tập trung trong không
gian hơi của nồi hơi. Khi áp lực hơi đủ lớn, ta mở van hơi chính để đưa
hơi nước đi sử dụng.
Do nồi hơi là một thiết bị chịu áp lực nên mọi nồi hơi đều được lắp van
an toàn. Van an toàn là một thiết bị có chức năng bảo vệ, tránh nổ vỡ
cho nồi hơi khi áp suất trong nồi tăng quá giới hạn cho phép. Áp suất
này được chỉ báo trên áp kế.
Như vậy, một nồi hơi muốn hoạt động được bao giờ cũng phải có
nguồn nhiệt (hệ thống nhiên liệu); nguồn nước (chất nhận nhiệt); thiết
bị trao đổi nhiệt (các trống, ống, bộ sấy hơi...); thiết bị phân phối hơi
(van, ống dẫn hơi...); thiết bị chỉ báo, báo động và bảo vệ an toàn. Đây
là nguyên lý cơ bản đối với mọi chủng loại nồi hơi.
Quá trình 1234 là quá trình sinh hơi của một nồi hơi có thông số
20kG/cm2, 212oC (nồi hơi thông số thấp); 12’3’4’ là quá trình sinh hơi
của một nồi hơi có thông số 180kG/cm2, 356oC (nồi hơi thông số cao).
38
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
I (kcal/kg)
4
p=1at 4’
ish1
700 20
40
3
80
120
ish2
x=1 180
600 0.9 3’
0.8
0.7 K
500
ibh2
i bh1
i
400 2’
300 0.3
iđs2
0.2
2
200
iđs1
0.1
100 1
x=0
t (o C)
100 200 300 400
Hình 2.5. Quá trình sinh hơi của nồi hơi trên đồ thị i-t.
Từ đồ thị ta thấy rằng: biến thiên enthalpy trong quá trình đun sôi iđs2
> iđs1, nghĩa là diện tích bề mặt hấp nhiệt đun sôi Fđs1 < Fđs2. Trong
quá trình bốc hơi ibh1 > ibh2 nên diện tích hấp nhiệt bốc hơi Fbh1 >
Fbh2. Mặt khác, trên thực tế giá thành chế tạo một đơn vị diện tích bề
mặt bốc hơi cao hơn giá thành chế tạo một đơn vị diện tích bề mặt đun
sôi. Như vậy, dùng nồi hơi thông số cao sẽ tăng tính kinh tế do có diện
tích bốc hơi nhỏ hơn.
39
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Chú ý rằng quá trình sinh hơi thực tế có phần khác quá trình biểu diễn
trên đồ thị do nhiệt độ nước ra bộ tận dụng nhiệt hâm nước chưa đạt
tới độ sôi, nhiệt bốc hơi cũng thấp hơn trị số lý thuyết.
40
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
điện từ, van một chiều... và các thiết bị tự động điều chỉnh quá
trình làm việc của nồi hơi.
Các thiết bị chỉ báo, báo động và bảo vệ (indicators, alarm
system and protection equipment): bao gồm ống thủy, kính
nhìn, áp kế, nhiệt kế, đèn báo động, chuông báo động, van an
toàn, rơle áp lực...
Dưới đây là ví dụ về hệ thống nồi hơi điển hình dưới tàu hiện nay.
Nồi hơi sử dụng ở hệ thống này là kiểu nồi hơi hình trụ đứng ống nước
đứng. Dầu đốt sử dụng cho nồi hơi có thể là dầu nặng (FO) hoặc dầu
nhẹ (DO). Khi cần chuyển đổi loại nhiên liệu, ta chỉ cần đóng mở các
van tương ứng.
Trên sơ đồ này, ta có thể nhận thấy và phân biệt các hệ thống phục vụ
cho nồi hơi, đó là: hệ thống nhiên liệu (bao gồm phin lọc dầu, bơm dầu
tuần hoàn, bầu hâm dầu, van điện từ, súng phun...), hệ thống nước cấp
(bao gồm két nước cấp, két nước ngưng, hai bơm cấp nước nối song
song, bầu ngưng, van một chiều...), hệ thống phối hơi (bao gồm van
hơi chính, bình tích năng, van tắt...) và một số thiết bị phục vụ khác.
Bơm dầu luôn chạy ngay cả khi nồi hơi đang tắt, dầu đốt được bơm
cấp liên tục qua bầu hâm, vào súng phun. Giả sử lúc này nồi hơi đang
dừng, van điện từ trên đường dầu về sẽ mở, do đó, dầu từ súng phun
trở về luôn cửa hút của bơm, tạo thành một mạch dầu tuần hoàn. Điều
này giúp cho dầu đốt luôn được hâm ở một nhiệt độ nhất định để có
thể sẵn sàng cho việc đốt nồi bất kỳ lúc nào. Khi có tín hiệu đốt nồi
hơi, van điện từ sẽ đóng, áp lực dầu vào súng phun tăng vọt và dầu
được phun vào buồng đốt, hòa trộn với không khí tạo thành hỗn hợp
nhiên liệu dưới dạng sương mù. Cùng lúc đó, thiết bị đánh lửa hoạt
động và quá trình cháy bắt đầu.
41
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
42
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Khi nồi hơi hoạt động, mức nước trong nồi sẽ liên tục thay đổi. Việc
duy trì một mức nước phù hợp được thực hiện bởi các bơm cấp nước
kết hợp với thiết bị cảm ứng mức nước nồi. Các bơm này được bật/tắt
thông qua các rơle điều khiển. Tín hiệu mức nước được truyền tới rơle
từ thiết bị cảm ứng mức nước đặt trong ống thủy. Khi mức nước nồi
cạn dưới mức cho phép, rơle điều khiển sẽ đưa tín hiệu bật bơm để bổ
sung. Các bơm có thể hoạt động độc lập hoặc song song. Thông
thường, chỉ có một bơm hoạt động, bơm còn lại để dự phòng. Bơm có
thể hút nước từ két nước cấp hoặc két nước ngưng. Nước trong két
nước ngưng chính là nước ngưng tụ từ hơi về bầu ngưng. Trên đường
cấp nước tới nồi hơi, một van một chiều được lắp để tránh hiện tượng
trào ngược khi áp suất trong nồi hơi tăng cao. Khi mức nước nồi cao
quá mức cho phép, rơle điều khiển sẽ đưa tín hiệu dừng bơm.
Khi áp suất trong nồi đủ cao, hơi nước sinh ra có nhiệt độ đủ lớn, ta
mở van hơi chính để đưa hơi đi sử dụng. Ngay trước van hơi chính là
một bình tích năng, thiết bị này có nhiệm vụ duy trì áp lực hơi ở một
giá trị không đổi. Một van tắt được bố trí giữa đường cấp hơi đi công
tác và đường hơi về. Van tắt có chức năng điều chỉnh lượng hơi đi sử
dụng, ví dụ như khi muốn giảm lượng hơi đi công tác, ta mở van tắt
đến một độ mở nhất định để trích một phần hơi về thẳng bầu ngưng.
Đây là một hệ thống nồi hơi cơ bản, khá đơn giản và nhỏ gọn. Với nồi
hơi cỡ lớn, ở những hệ thống lớn, nhiều thiết bị, phụ kiện khác được
trang bị. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu cụ thể kết cấu của từng loại
nồi hơi, các thiết bị cũng như hệ thống phục vụ ở những chương tiếp
theo.
2.6. Yêu cầu đối với nồi hơi sử dụng dưới tàu thủy
Nồi hơi đốt dầu sử dụng dưới tàu thủy cần thỏa mãn những yêu cầu
sau đây:
43
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
1. An toàn khi sử dụng. Đây là yêu cầu quan trọng nhất vì nếu có
sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động của nồi hơi, sự làm việc
bình thường của máy móc xung quanh sẽ bị ảnh hưởng, gây tai
nạn cho thuyền viên, làm ảnh hưởng đến hoạt động của tàu, các
hệ thống phục vụ. Với nồi hơi chính, sự cố nồi hơi có thể làm
cho tàu dừng. Do đó, ở dưới tàu chỉ có các kiểu nồi hơi có cấu
tạo bền, chắc, đã qua thử nghiệm kỹ lưỡng mới được sử dụng.
2. Kích thước nhỏ, gọn nhẹ, dễ bố trí trên tàu. Điều này nhằm
tăng trọng tải, mở rộng tầm xa hoạt động của tàu. Do đó, nồi
hơi tàu thủy thường là loại có nhiệt tải dung tích buồng đốt lớn,
suất bốc hơi lớn, lưu tốc khí lò nhanh, số bầu nồi ít, đường kính
bầu nồi và ống bé để giảm độ dày và trọng lượng.
3. Cấu tạo đơn giản, thuận tiện cho việc khai thác, sửa chữa. Yêu
cầu này cần được đảm bảo do thuyền viên trên tàu thường thay
đổi liên tục. Ngoài ra, nồi hơi tàu thủy phải là loại phù hợp với
trình độ của kỹ sư máy trên tàu.
4. Tính kinh tế cao. Yêu cầu này thể hiện ở chỗ: đảm bảo hiệu
suất ở toàn tải, hiệu suất giảm ít khi nhẹ tải; suất tiêu hao nhiên
liệu thấp; tuổi thọ cao; chu kỳ bảo dưỡng, sửa chữa dài...
5. Tính cơ động cao. Tính cơ động cao thể hiện ở chỗ: thời gian
đốt nồi lấy hơi nhanh, có thể nhanh chóng tăng giảm tải để
thích ứng với sự thay đổi chế độ làm việc của tuan bin hơi (với
hệ động lực hơi nước); có năng lượng tiềm tàng lớn, buồng đốt
ít quán tính; khi cần thiết có khả năng quá tải 2545%; các mặt
hấp nhiệt không bị nhô lên khỏi mặt nước (với nồi hơi ống lửa)
khi tàu lắc ngang 30o hoặc chúi mũi 12o; thích hợp với nhiều
loại dầu đốt...
Chú ý rằng yêu cầu đối với nồi hơi của các loại tàu không giống nhau.
Tàu khách, tàu hàng chạy định tuyến được cung cấp đều đặn một loại
44
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
dầu đốt, có điều kiện kiểm tra sửa chữa ở cảng, thời gian điều động tàu
(manouvering) ít, hầu hết thời gian làm việc đều ở chế độ toàn tải nên
cần bảo đảm hiệu suất cao khi tàu chạy bình thường (tốc độ định mức).
Tàu kéo, tàu cá, tàu công trình... làm việc ở chế độ tải hay thay đổi, đôi
khi lại cần lai dắt nên yêu cầu tính cơ động tốt và bảo đảm hiệu suất
cao kể cả khi nhẹ tải. Tàu chiến yêu cầu thời gian đốt nồi lấy hơi thật
ngắn và tính cơ động rất cao.
Chúng ta nên biết rằng nồi hơi cũng được sử dụng ở trên bờ. Tuy
nhiên, yêu cầu đối với nồi hơi tàu thủy rất khác so với nồi hơi trên bờ:
kích thước, trọng lượng, cấu tạo phải gọn nhẹ, đơn giản hơn, chất đốt
tốt hơn. Song nồi hơi tàu thủy không phải lúc nào cũng hoạt động nên
có điều kiện thường xuyên rửa nồi và sửa chữa. Nồi hơi trên bờ thông
thường trên một năm mới dừng lò và tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa.
Các yêu cầu kể trên mang tính chất tương đối và có thể không hoàn
toàn thống nhất với nhau. Ví dụ, lượng nước nồi ít sẽ rút ngắn được
thời gian đốt nồi lấy hơi, giảm trọng lượng nồi hơi, song mực nước nồi
và áp suất hơi nước có thể kém ổn định.
45
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Lưu huỳnh bốc Sb là hợp chất sunfua của kim loại như FeS2. Nó có
tính bốc cháy được và sinh ra khí SO2, SO3. Lưu huỳnh không bốc Skb
ở thể sunfat không cháy được vì nó ở dạng ôxy hóa tới hạn (SO3).
Thành phần cháy được càng nhiều thì lượng sinh nhiệt của dầu đốt
càng cao.
Ví dụ: 1kg cácbon cháy hoàn toàn sẽ tỏa ra 8100kCal, nhiệt lượng đó
sẽ là 28700kCal với 1kg H2 và 2130kCal với 1kg Sb.
46
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Chất tro tồn tại là do quặng lẫn trong dầu đốt như ôxít silic, ôxít sắt,
ôxít nhôm, sunfat lưu huỳnh, sunfat magiê. Chất tro nhiều sẽ làm giảm
lượng sinh nhiệt của dầu đốt. Hạm lượng chất tro trong dầu đốt nồi hơi
thường dưới 1%.
Ôxy không thể sinh ra nhiệt, mà còn ôxy hóa các nguyên tố cháy được,
hạ thấp lượng sinh nhiệt của dầu đốt. Nitơ là khí trơ, không tham gia
vào phản ứng cháy, dễ bay lên cùng khí lò khi đốt dầu. Lượng N2 trong
dầu đốt càng ít càng tốt, thường không đến 2%.
Chất ẩm trong dầu đốt làm giảm lượng sinh nhiệt vì không những nó
không cháy được mà còn hấp nhiệt để bốc thành hơi trong quá trình
đốt dầu.
a) Nhiệt trị
Nhiệt trị của nhiên liệu (heating value) là nhiệt lượng mà 1kg nhiên
liệu đó tỏa ra khi được đốt cháy hoàn toàn. Nhiệt trị gồm có nhiệt trị
cao và nhiệt trị thấp.
Nhiệt trị cao (high heating value) là nhiệt lượng mà 1kg nhiên
liệu đó tỏa ra khi được đốt cháy hoàn toàn, trong đó phần nước
của bản thân nhiên liệu và nước do hyđrô sinh ra chưa biến
thành hơi. Ký hiệu: QB (kJ/kg hoặc kCal/kg).
Nhiệt trị thấp (low heating value) là nhiệt lượng mà 1kg nhiên
liệu đó tỏa ra khi được đốt cháy hoàn toàn, trong đó phần nước
của bản thân nhiên liệu và nước do hyđrô sinh ra đã biến thành
hơi. Ký hiệu: QH (kJ/kg hoặc kCal/kg).
Như vậy, nhiệt trị thấp chính là nhiệt trị cao của nhiên liệu trừ đi phần
nhiệt lượng tiêu tốn để bay hơi thành phần nước có trong 1kg nhiên
liệu và nước tạo thành từ hyđrô trong 1kg nhiên liệu đó. Một cách gần
47
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
đúng, có thể tính nhiệt trị cao và nhiệt trị thấp bằng công thức của
Meldelyyv:
(3-1)
(3-2)
c) Nhiệt độ tự cháy
Nhiệt độ tự cháy (autoignition temperature/kindling point) của dầu là
nhiệt độ mà tại đó dầu có khả năng tự bốc cháy mà không cần mồi lửa
từ bên ngoài.
48
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
3.1.3. Yêu cầu đối với nhiên liệu dùng cho nồi hơi tàu thuỷ
Nhiên liệu sử dụng cho nồi hơi tàu thủy phải đảm bảo những yêu cầu
sau:
1. Nhiệt trị lớn: để tăng thêm trọng tải có ích và tăng thêm bán
kính hoạt động của tàu.
2. Không tự bén cháy trong két chứa trên tàu: để đảm bảo an toàn
cho con tàu và thuyền viên.
3. Không bị biến chất.
4. Ít tro bụi, ít lưu huỳnh và chất độc: để ít tổn hại đến sức khỏe
thuyền viên trên tàu, ít làm mục rỉ ống khói, bộ tận dụng nhiệt
hâm nước, bộ sưởi không khí...
5. Giá thành rẻ vì chi phí về dầu đốt có thể chiếm tới 3040% chi
phí sử dụng tàu thủy.
a) Giai đoạn nung nóng, bốc hơi (giai đoạn chuẩn bị cháy)
Nhiệt lượng xung quanh buồng đốt truyền tới hạt sương dầu, nung
nóng nó, làm nó bốc hơi, tạo thành một tầng hơi dầu bao lấy hạt sương
dầu. Lúc này, trên bề mặt của hạt sương dầu có các hợp chất cao phân
tử, là phần còn lại của lớp dầu ngoài cùng bị nung nóng đã bốc thành
hơi dầu. Các hợp chất cao phân tử này làm giảm năng lực khuyếch tán
của ôxy tới hạt dầu, tạo điều kiện hóa cốc. Sở dĩ hiện tượng hóa cốc
xảy ra là do tốc độ bốc hơi của hạt sương dầu chậm hơn tốc độ phân
49
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
giải các hợp chất cao phân tử. Giai đoạn này diễn ra mãnh liệt ở nhiệt
độ 200300oC.
50
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
cách khác các thành phần cháy được đã cháy hết và tỏa nhiệt ra hết
trong buồng đốt.
Ngược lại, khi cung cấp không đủ không khí, không khí không được
trộn đều với dầu đốt, cung cấp quá nhiều không khí làm cho nhiệt độ
buồng đốt thấp, hoặc dung tích buồng đốt quá hẹp thì quá trình cháy sẽ
diễn ra không hoàn toàn (incomplete combustion). Trong khói lò ngoài
H2O, N2, O2 ra còn có các khí cháy chưa kịp cháy như CO, H2, CH4,
CmHn, đồng thời trên bề mặt hấp nhiệt còn có muội (muội là cácbon
thuần tuý và hyđrô, hyđrô cháy hết còn lại cácbon ở dạng muội). Do
đó, mọi quá trình cháy thực tế trong nồi hơi đều là cháy không hoàn
toàn.
Ngọn lửa đốt dầu được cung cấp không khí vào với số lượng vừa phải
sẽ có màu vàng nhạt, có thể lờ mờ nhìn thấy vách sau của buồng đốt.
Nếu thiếu không khí ngọn lửa sẽ có màu vàng, thiếu nhiều không khi
sẽ có màu da cam, rất thiếu không khí sẽ có màu đỏ. Nếu cung cấp quá
nhiều không khí, có thể nhìn thấy rõ vách sau của buồng đốt qua ngọn
lửa.
Trong trường hợp khí cháy chưa cháy hết đã đi lên tiếp xúc với thành
vách buồng đốt, các bề mặt trao nhiệt có nhiệt độ cao, nó sẽ tiếp tục
cháy (hiện tượng cháy muộn, hay còn gọi là cháy rớt) và có thể tạo
muội bẩn, gây hư hỏng buồng đốt cũng như các mặt hấp nhiệt.
Để giảm bớt tổn thất về cháy trong buồng đốt, cần tạo ra các điều kiện
để đưa quá trình cháy thực tế gần với quá trình cháy hoàn toàn. Các
điều kiện đó là:
1. Cung cấp đầy đủ không khí. Quá ít không khí hoặc quá nhiều
không khí đều không có lợi. Quá thừa không khí không những
tốn thêm năng lượng cho việc thông gió của nồi hơi mà còn hạ
thấp nhiệt độ trong buồng đốt, làm tăng nhiệt lượng tổn thất do
khói lò mang đi .
51
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
2. Trộn đều không khí với dầu đốt, nói cách khác là đảm bảo cho
hỗn hợp dầu - không khí tơi, mịn, có khả năng phun sương tốt.
Áp dụng các biện pháp để phun nhiên liệu thành dòng xoáy lốc
trong buồng đốt là cách làm rất hiệu quả.
3. Đảm bảo nhiệt độ trong buồng đốt đủ cao và phân bố đều đặn.
Nhiệt độ buồng đốt quá cao (>2000oC) sẽ tạo điều kiện cho quá
trình phân giải diễn ra và hấp thụ bớt một phần nhiệt lượng.
Nhiệt độ buồng đốt quá thấp sẽ kéo dài giai đoạn chuẩn bị
cháy, thậm chí làm tắt nồi. Nên duy trì nhiệt độ trong buồng đốt
vào khoảng 10002000oC.
4. Buồng đốt đủ dung tích để cháy hết nhiên liệu, hạn chế hiện
tượng cháy muộn.
52
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
số không khí thừa vừa phải, phù hợp với kiểu buồng đốt, loại dầu đốt
và tải trọng nồi hơi. Do đó, ngoài cách thường xuyên quan sát màu
ngọn lửa và màu khói lò, cần định kỳ phân tích khói lò để biết hệ số
không khí thừa có được thích hợp không.
Đối với nhiên liệu là dầu, thành phần khí không cháy hết trong khói
chủ yếu là CO, các thành phần khác rất ít, không đáng kể nên hệ số
không khí thừa α được tính theo công thức rút gọn sau:
(3-3)
Trong đó, O2, CO, RO2 là thành phần ôxy, cácbon ôxit và khí hai
nguyên tử (CO2, SO2) có trong khói.
Khi nhẹ tải, lượng dầu đốt cung cấp vào buồng đốt giảm nên hệ số
không khí thừa tăng lên, ngay cả khi đã điều chỉnh quạt gió để giảm
lượng gió cung cấp vào. Ngược lại, khi quá tải giảm vì phải đốt thêm
dầu. Giá trị ở mỗi tải trọng tùy thuộc vào lượng tiêu thụ nhiên liệu
và khả năng cung cấp (điều chỉnh) quạt gió ở tải trọng ấy.
Khi nồi hơi hoạt động ở 75 100% tải, có thể coi const.
Khi nhẹ tải (dưới 75%), ta có thể xác định giá trị phù hợp bằng công
thức quy đổi sau:
(3-4)
Trong đó:
', D' – Hệ số không khí thừa và lượng sinh hơi khi nhẹ tải.
, D – Hệ số không khí thừa và lượng sinh hơi khi toàn tải.
53
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
3.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cháy trong nồi hơi
a) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cháy trong nồi hơi
Thời gian chuẩn bị cháy ảnh hưởng rất nhiều đến toàn bộ quá trình
cháy trong nồi hơi. Thời gian chuẩn bị cháy chủ yếu phụ thuộc vào các
yếu tố sau:
1. Loại dầu đốt. Dầu đốt có ít chất bốc, hàm lượng tro, ẩm cao,
nồng độ của thành phần cháy được không cao sẽ kéo dài thời
gian chuẩn bị cháy. Ngược lại, với dầu đốt có nhiều chất bốc, ít
tro, ẩm, nồng độ của thành phần cháy được cao, thời gian
chuẩn bị cháy sẽ ngắn hơn. Dầu DO có tốc độ cháy rất nhanh vì
trong giai đoạn chuẩn bị cháy, dầu lỏng được biến hoàn toàn
thành khí cháy.
2. Kết cấu và tình trạng kỹ thuật của thiết bị đốt dầu (súng phun,
quạt gió...). Kích thước hạt dầu càng bé, khả năng tiếp xúc với
khí nóng trong trong buồng đốt càng cao, do đó thời gian chuẩn
bị cháy sẽ ngắn hơn. Điều này phụ thuộc vào chất lượng súng
phun và khả năng hòa trộn, tán nhỏ nhiên liệu. Kết cấu thiết bị
buồng đốt cũng ảnh hưởng tới tốc độ tương đối giữa dầu đốt
với không khí. Khi tốc độ này nhanh và hỗn hợp lưu động kiểu
xoáy lốc, không khí sẽ hòa trộn với dầu tốt hơn, giúp cho quá
trình khuếch tán không khí tới các hạt dầu nhanh chóng hơn.
3. Nhiệt độ và áp suất buồng đốt. Nhiệt độ và áp suất trong buồng
đốt càng cao, nhiệt độ bén cháy của dầu càng thấp, thời gian
chuẩn bị cháy càng ngắn.
4. Nhiệt độ, áp suất và mật độ của không khí cấp vào. Không khí
cấp vào có nhiệt độ, áp suất và mật độ cao sẽ làm cho hạt dầu
nhanh chóng được sấy khô và nung nóng, làm tăng nhiệt độ
bình quân của buồng đốt.
54
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
5. Vị trí tương đối giữa dầu đang cháy với dầu mới cấp vào. Điều
này được quyết định bởi kiểu kết cấu buồng đốt.
6. Hệ số không khí thừa α. Hệ số không khí thừa tốt nhất là vào
khoảng 1,05÷1,25. Với nồi hơi cũ, có thể chọn α lên đến 1,5 để
đảm bảo dầu đốt được hoà trộn hết với không khí.
7. Tốc độ phản ứng cháy hóa học. Tốc độ này phụ thuộc vào áp
suất và nhiệt độ tuyệt đối. Áp suất hay nhiệt độ tuyệt đối càng
cao thì nồng độ các chất tham gia phản ứng càng tăng, do đó
tốc độ phản ứng cháy hoá học càng nhanh và quá trình cháy
diễn ra nhanh hơn.
55
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Cơ chế:
S + O2 → SO2
2SO2 + O2 → 2SO3
SO3 + H2O → H2SO4
H2SO4 + Fe → FeSO4 + H2↑
3H2SO4 + Fe2O3 → Fe2(SO4) 3 + 3H2O
3H2O + Fe2O3 → 2Fe(OH)3
Do đó, để hạn chế hiện tượng ăn mòn điểm sương, cần duy trì nhiệt độ
khói lò cao hơn nhiệt độ điểm sương ở áp suất tương ứng.
b) Mục gỉ vanađi
Vanađi cháy sinh ra penta ôxít vanađi (V2O5) có nhiệt độ nóng chảy
tương đối thấp, khoảng 675oC nhưng còn có thể giảm đến 550580o C
nếu cũng có Na2SO4 và K2SO4 được tạo thành bởi sự kết hợp giữa K2O,
Na2O với SO3 khi cháy lưu huỳnh. Ở nhiệt độ nóng chảy, V2O5 bám
trên các bề mặt kim loại sẽ làm mục gỉ các bề mặt ấy.
Cơ chế:
V + O2 → V2O3
Trên 450oC: V2O3 + O2 → V2O5
550675oC: 3V2O5 + 4Fe → 2Fe2O3 + 3V2O3↑
V2O3 lại hấp thụ khí lò để trở thành V2O5, quá trình mục rỉ cứ thế tiếp
diễn.
Thí nghiệm cho thấy, V2O5 bám lên bề mặt có nhiệt độ trên 550oC
trong 2000 giờ có thể ăn mòn bề mặt ấy sâu khoảng 1mm.
56
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
(3-6)
Trong đó:
Vk – Lượng khí lò (kể cả hơi ẩm trong khí lò ) do đốt 1kg chất
đốt sinh ra (m3tc/kg).
Ckh – Nhiệt dung riêng của khói lò,
Ckh = 0,323 + 0,000018kh (kCal/m3tcđộ)
tkkl – Nhiệt độ không khí lạnh (oC).
kh – Nhiệt độ khói lò (oC).
57
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Đối với nồi hơi đốt dầu, khi có số liệu phân tích khói lò, ta có thể tính
Q2 như sau:
(3-7)
Tổn thất nhiệt q2 là tổn thất nhiệt lớn nhất, nó vào khoảng 512%
nhiều khi tới 2025%. Trị số của q2 phụ thuộc vào nhiệt độ khói lò, hệ
số không khí thừa, tải trọng, thiết bị buồng đốt, các biện pháp làm
giảm bớt q2 là:
1. Nếu có điều kiện nên tăng diện tích mặt hấp nhiệt tiết kiệm (bộ
tận dụng nhiệt hâm nước và bộ sưởi không khí). Đây là biện
pháp chính.
2. Giữ cho bề mặt hấp nhiệt sạch cáu cặn và muội.
3. Đốt lò với hệ số không khí thừa thích hợp cho kiểu buồng đốt,
loại chất đốt và tải trọng nồi hơi.
4. điều chỉnh thiết bị buồng đốt cho phù hợp, đốt nồi đúng cách.
5. Bố trí các tấm dẫn khí (với nồi hơi ống nước) sao cho khí lò
quét qua khắp các mặt hấp nhiệt đối lưu và phải sửa chữa ngay
khi bị cháy hỏng.
Bảng 3.1. Nhiệt độ khói lò kh của nồi hơi tàu thủy.
58
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Giảm được nhiệt độ khói lò sẽ giảm được tổn thất nhiệt do khói lò q2.
Song nếu hạ thấp kh đến dưới điểm sương, sẽ làm cho hơi nước trong
khói lò ngưng đọng trên mặt hấp nhiệt tiết kiệm, làm mục rỉ nhanh
chóng các bộ phận này.
Để đảm bảo cho khi nhẹ tải nhất tức là lúc nhiệt độ khói lò thấp nhất
kh vẫn không được nhỏ hơn điểm sương, nói chung thường chọn kh
lớn hơn 155oC cho khi tải trọng bình thường.
Riêng một số nồi hơi cho phép kh nhỏ hơn 155oC, khi ấy các bộ phận
hấp nhiệt tiết kiệm được chế tạo bằng vật liệu khó mục rỉ hoặc được
rắc hóa chất (ví dụ: hỗn hợp 34% CaO, 20,8% MgO, 38,6% CO2) vào
chất đốt hoặc vào dòng khí lò trước bộ sưởi không khí ở chế độ nhẹ tải.
59
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Với nồi hơi đốt dầu, khi thay đổi tải q3 biến đổi rất ít nên có thể lấy
cùng một trị số q3 cho mọi tải trọng.
(3-9)
Trong đó:
F – diện tích bề mặt ngoài nồi hơi (m2).
400 – nhiệt lượng tổn thất trên 1m2 bề mặt ngoài của nồi hơi
(kCal/m2h).
30000 – nhiệt lượng tổn thất tại các bề mặt bầu nồi hộp ống
(kCal/h).
60
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
(3-10)
Trong đó:
q5, Bt – tổn thất nhiệt ra ngoài và lượng chất đốt ở 100% tải.
, – tổn thất tản nhiệt ra ngoài và lượng tiêu chất đốt ở nhẹ
tải.
61
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
4.1.1. Nồi hơi hình trụ ống lửa nằm (Scotch boiler)
1. Thân nồi hơi; 2. Đinh chằng dài; 3. Ống lửa chằng; 4. Ống lửa thường;
5. Buồng đốt; 6. Vị trí lắp thiết bị buồng đốt; 7. Cửa thăm; 8. Đinh chằng ngắn; 9.
Thiết bị buồng đốt; 10. Hộp lửa; 11. Ống thủy; 12. Mã đỉnh hộp lửa;
13. Cửa lấy hơi ra; 14. Ống khói.
Hình 4.1. Nồi hơi Scotch.
62
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Trong nhiều năm trước đây, nồi hơi Scotch được sử dụng rộng rãi dưới
tàu thủy do cấu tạo đơn giản, dễ sử dụng. Hiện nay loại nồi hơi này
thường được sử dụng trên bộ do kích thước cồng kềnh, không thuận lợi
bố trí dưới tàu thủy và tính cơ động không cao (thời gian từ khi đốt lò
đến khi sinh hơi đủ áp suất định mức dài).
Các bộ phận chính của nồi hơi bao gồm vỏ hình trụ nằm ngang, bên
trong có buồng đốt, hộp lửa và cụm ống lửa nằm. Buồng đốt dạng hình
trụ có vách gợn sóng để bù giãn nở nhiệt khi đốt. Số lượng buồng đốt
phụ thuộc vào kích thước nồi hơi. Nồi hơi có đường kính tới 4m có thể
được trang bị hai buồng đốt, những nồi hơi lớn hơn có thể lắp ba
buồng đốt.
Hộp lửa vừa là nơi diễn ra quá trình cháy của nhiên liệu, vừa là nơi
phân phối khí lò vào các ống lửa. Hộp lửa có dạng hình hộp bán
nguyệt, hoặc hai nửa hình hộp bán nguyệt, phía dưới nối với cuối
buồng đốt, phía trên là mặt sàng nối với các ống lửa. Trên đỉnh hộp lửa
có mã đỉnh hộp lửa vừa làm kín hộp lửa vừa có tác dụng bảo vệ nồi hơi
khi bị cạn nước nhờ nút bằng kim loại dễ nóng chảy. Hộp lửa được gia
cố với vỏ nồi nhờ các đinh chằng ngắn.
Các ống lửa nằm là nơi dẫn khói lò đi qua để trao nhiệt cho nước. Một
đầu ống lửa nối với mặt sàng của hộp lửa, đầu kia nối với mặt sàng
trước. Có hai loại ông lửa: ống lửa thường và ống lửa chằng. Các ống
lửa thường có đường kính vào khoảng 65mm và độ dày 5mm. Chúng
được nong chặt hai đầu vào hai mặt sàng, đầu phía hộp lửa sau khi
nong được làm loe miệng, hoặc có thể được hàn từng điểm với vách
hộp lửa (Hình 3.2). Đầu phía mặt sàng trước thường được nong để có
đường kính lớn hơn, điều này cho phép dễ dàng rút ống về phía này
khi sửa chữa, ngay cả khi có lớp cáu cặn bám ở bề mặt ngoài ống. Một
số trường hợp đầu phía mặt sàng trước được làm dài ra một đoạn
khoảng 12mm. Điều này cho phép nong lại ống khi đầu phía hộp lửa bị
cháy làm mỏng mối ghép với hộp lửa. Khi đó người ta rút ống ra, vệ
63
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
sinh sạch sẽ, cắt bỏ phần mối ghép bị cháy hỏng, đẩy ống sâu về phía
hộp lửa và nong lại.
Các ống lửa chằng có nhiệm vụ chằng giữ các mặt sàng với nhau. Hai
đầu các ống lửa chằng có đường kính ngoài lớn hơn và có ren để bắt
vào các lỗ ren trên các mặt sàng. Sau khi bắt ren đồng thời vào hai mặt
sàng, hai đầu ống lửa chằng được nong chặt, đầu phía mặt sàng trước
thường được lắp êcu.
Hình 4.2.Mối lắp ráp ống lửa thường và ống lửa chằng.
Thiết bị buồng đốt được lắp ở mặt trước buồng đốt. Nhiên liệu được
phun sương vào trong buồng đốt, hoà trộn với không khí, cháy, sinh
nhiệt. Một phần nhiệt được truyền cho nước bao bên ngoài buồng đốt.
Hỗn hợp khí cháy sau đó đi vào hộp lửa, ở đây nhiên liệu tiếp tục cháy,
một phần nhiệt được truyền cho nước bao xung quanh hộp lửa. Khí
cháy sau đó được chia vào trong các hộp lửa, ở đây quá trình truyền
nhiệt cho nước tiếp tục diễn ra, khí lò lưu động một lượt dọc theo các
ống lửa rồi thoát ra ống khói. Nước trong nồi hơi bao xung quanh
buồng đốt, hộp lửa và các ống lửa nhận nhiệt của khí cháy, sôi và sinh
hơi, lượng hơi sinh ra nổi lên, tách ra ở không gian hơi phía trên và
được đưa đi sử dụng. Nước được bổ xung định kỳ cho nồi hơi nhờ
bơm cấp nước. Trên thân nồi hơi và mặt trước được bố trí các nắp cửa
thăm để kiểm tra không gian nước.
Nồi hơi Scotch ở Hình 3.1 còn được gọi là nồi hơi ống lửa quét hai lần,
có nghĩa là khí lò có hai lần trao nhiệt cho nước, lần thứ nhất ở bu`ồng
đốt cùng với hộp lửa và lần thứ hai là ở các ống lửa. Với nồi hơi cỡ
64
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
lớn, số lần trao nhiệt có thể tăng lên bằng cách bố trí thêm các cụm ống
và hộp lửa như thể hiện trên Hình 3.3.
Hình 4.3. Nồi hơi ống lửa quét ba lần và nồi hơi ống lửa quét bốn lần.
Ở nồi hơi ống lửa quét ba lần, khí lò sau khi đi qua cụm ống lửa thứ
nhất sẽ đi vào hộp lửa thứ hai rồi tiếp tục đi qua cụm ống lửa thứ hai
trước khi vào ống khói. Với nồi hơi ống lửa quét bốn lần, số cụm ống
lửa và số hộp lửa tăng lên một so với nồi hơi ống lửa quét ba lần. Nồi
hơi ống lửa quét bốn lần cũng là nồi hơi có số lần trao nhiệt tối đa,
kích cỡ và công suất là lớn nhất.
65
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Nồi hơi Scotch thường được ứng dụng làm nồi hơi phụ phục vụ hâm
sấy nhiên liệu và sinh hoạt cho một số tàu Diesel. Do có kích thước
dạng hình trụ đặt nằm nên loại nồi hơi này không thuận tiện cho việc
bố trí ở khu vực thượng tầng ống khói. Khi sử dụng trên tàu thủy, loại
nồi hơi này thường được dùng làm làm nồi hơi phụ trong hệ thống liên
hợp nồi hơi phụ - bộ tận dụng nhiệt khí xả (xem phần sau). Trong
trường hợp này nồi hơi phụ có thể bố trí ở nơi thuận tiện, không phụ
thuộc vào vị trí của bộ tận dụng nhiệt khí xả (đặt trên đường khí xả của
động cơ Diesel chính).
66
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
4.1.2. Nồi hơi thẳng đứng ống lửa nằm (Cochran boiler)
Nồi hơi Cochran có dạng hình trụ đặt đứng (Hình 4.4). Đây là loại nồi
hơi phổ biến, rất phù hợp cho nhu cầu sinh hơi bão hoà thông số thấp,
phục vụ các nhu cầu hâm sấy nhiên liệu và sinh hoạt trên tàu.
1. Vỏ nồi hơi; 2. Cửa thăm; 3. Mã nối; 4. Cửa kiểm tra; 5. Ống lửa;
6. Buồng đốt; 7. Ống khói; 8. Cửa hộp khói; 9. Đất chịu lửa;
10. Vị trí lắp thiết bị buồng đốt.
Hình 4.4. Nồi hơi Cochran.
Buồng đốt nồi hơi được bố trí ở phía dưới. Mặt trước buống đốt lắp
thiết bị đốt dầu (oil burner). Vách phần dưới buồng đốt được cách
nhiệt bởi lớp gạch chịu lửa. Lớp gạch chịu lửa có tác dụng bảo vệ lớp
vỏ kim loại ở phần dưới buồng đốt khỏi bị quá nhiệt. Điều này rất quan
trọng bởi phần vách phía dưới buồng đốt tiếp xúc với phần không gian
nước hẹp, lưu động kém và là nơi lắng đọng cáu cặn nên cường độ trao
đổi nhiệt kém. Vách phần trên buồng đốt có dạng hình bán cầu tiếp xúc
trực tiếp với nước nồi, tạo nên bề mặt trao đổi nhiệt, nên không cần bố
67
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
trí lớp gạch cách nhiệt. Phía trên buồng đốt có cửa nối với hộp lửa. Các
ống lửa được lắp ghép thành cụm nhờ hai mặt sàng và được đặt nằm
ngang phía trên buồng đốt. Để gia cường cụm ống lửa và hai mặt sàng,
người ta sử dụng các ống lửa chằng được lắp ren với hai mặt sàng.
Thân nồi hình trụ, phần đỉnh có hình bán cầu, cùng với buồng đốt hình
bán cầu tạo nên cấu trúc cứng vững, ổn định, không cần bố trí các
thanh chằng. Các ống lửa thẳng và tương đối ngắn, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc vệ sinh ống. Phần đỉnh bán cầu là không gian hơi, có trang
bị lắp cửa thăm để có thể kiểm tra bề mặt trao đổi nhiệt phía không
gian nước, phần phía dưới có thăm để kiểm tra bề mặt trao đổi nhiệt
phía dưới. Phần mặt trước hộp lửa có bố trí cửa thăm để vệ sinh các
ống lửa. Cửa này có thể mở ra dễ dàng nhờ khớp bản lề. Nắp hộp khói
cũng có thể tháo ra để vệ sinh và kiểm tra phần mặt sàng sau.
Nhiên liệu là không khí được đưa vào buồng đốt nhờ bộ đốt dầu. Ban
đầu hỗn hợp nhiên liệu cháy nhờ tia lửa điện do bộ đánh lửa tạo ra. Sau
khi đã cháy, nhiên liệu và không khí tiếp tục được phun vào buồng đốt
và cháy nhờ ngọn lửa duy trì trong buồng đốt. Khí lò tạo ra trao một
phần nhiệt cho nước bao phía ngoài buồng đốt. Khí lò sau đó đi vào
hộp lửa, chia vào các ống lửa nằm ngang, lưu động một lượt dọc theo
các ống lửa rồi thoát ra ngoài hộp khói và theo ống khói xả ra ngoài.
Nước bao phủ toàn bộ các bề mặt buồng đốt, hộp lửa, ống lửa và hộp
khói. Phần nước tiếp xúc với các bề mặt trao nhiệt nhận nhiệt từ khí lò,
sinh ra hơi, phần hơi sinh ra thoát lên không gian hơi và được đưa đi
sử dụng. Lượng nước đã hoá thành hơi được bổ xung vào phần không
gian nước nhờ bơm cấp nước nồi.
Loại nồi hơi này có các ưu nhược điểm sau:
Cấu tạo các bề mặt trao đổi nhiệt đơn giản nên không yêu cầu
chất lượng nước nồi hơi cao.
68
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Các cụm ống lửa ngắn, bố trí thuận tiện cho việc vệ sinh, bảo
dưỡng.
Lượng nước trong nồi hơi không lớn nên thời gian đốt lò sinh
hơi tương đối ngắn, an toàn khi gặp sự cố.
Có cấu tạo thẳng đứng, thuận lợi cho việc bố trí trên tàu thủy.
Chiều cao không gian hơi cao nên chất lượng hơi bão hoà sinh
ra tốt.
Loại nồi hơi này không có bộ sấy hơi và các bộ hấp nhiệt tiết kiệm,
nên chỉ phù hợp cho việc sử dụng làm nồi hơi phụ trên các tàu có động
cơ Diesel chính lai chân vịt. Nồi hơi Cochran còn có thể được thiết kế
thêm phần ống lửa sử dụng khí xả để trở thành nồi hơi liên hợp
(composite boiler).
69
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Trên thân nồi, ở một vài vị trí được bố trí các nắp cửa thăm, cửa kiểm
tra để thuận lợi cho việc kiểm tra, vệ sinh các bề mặt trao đổi nhiệt khi
nồi hơi dừng.
Bộ đốt dầu được bố trí ở mặt trước buồng đốt. Hỗn hợp nhiên liệu và
không khí được phun vào buồng đốt và đốt cháy. Khí lò tạo ra trao
nhiệt cho nước bao bên ngoài buồng đốt. Khí lò được chia vào các ống
lửa thẳng đứng, tiếp tục trao nhiệt cho nước bao bên ngoài các ống lửa
rồi thoát ra ống khói. Nước bao bên ngoài buồng đốt, các ống lửa, nhận
nhiệt của khí lò, sinh hơi. Phần hơi tạo ra nổi lên không gian hơi và
được đưa đi sử dụng. Phần nước đã sinh hơi được bổ xung vào phần
không gian nước nhờ bơm cấp nước nồi hơi.
1. Đất chịu lửa; 2. Buồng đốt; 3. Màn vách ống; 4. Vỏ nồi hơi;
5. Ống nước xuống; 6. Ống lửa; 7. Ống thủy; 8. Miệng ống khói;
9. Đường hơi ra; 10. Van an toàn; 11. Cửa kiểm tra; 12. Thiết bị buồng đốt.
Hình 4.5. Nồi hơi thẳng đứng ống lửa đứng.
70
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Ngoài phiên bản nồi hơi phụ đốt dầu như trên, loại nồi hơi này còn có
thể được thiết kế làm nồi hơi khí xả hoặc nồi hơi liên hợp đốt dầu-khí
xả để lắp đặt trên các tàu có động lực chính là Diesel (xem phần nồi
hơi liên hợp). Khi dùng làm nồi hơi khí xả, khoang buồng đốt không
được lắp bộ đốt dầu mà bố trí cửa nối với đường khí xả của động cơ
Diesel chính. Trường hợp dùng làm nồi hơi liên hợp khoang buồng đốt
được chia làm hai phần: một phần làm buồng đốt; một phần nối với
đường khí xả của động cơ Diesel. Như vậy sẽ có hai cụm ống lửa
đứng: một cụm cho nồi hơi phụ; một cụm cho nồi hơi khí xả, mỗi cụm
có đường ống khói riêng. Cấu tạo như vậy cho phép nồi hơi phụ và nồi
hơi khí xả có thể hoạt động đồng thời.
71
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
trong buồng đốt, sinh hơi, lượng hơi sinh ra thoát lên khoang nước.
Nước trong khoang nước cũng như trong các ống nước thẳng đứng tiếp
tục nhận nhiệt của khí lò, sinh hơi. Lượng hơi sinh ra thoát lên khoang
hơi và được đưa đi sử dụng. Nước ở phần dưới của khoang hơi theo
các ống xuống, được bố trí ở bên ngoài nồi hơi, đi xuống ống góp để
bổ xung cho lượng nước đã sinh hơi.
1. Ống góp; 2. Màn vách ống; 3. Vỏ nồi hơi; 4. Thanh chằng dọc;
5. Ống dẫn khí; 6. Ống nước; 7. Ống khói; 8. Ống nước xuống;
9. Vị trí lắp thiết bị buồng đốt; 10. Đất chịu nhiệt.
Hình 4.6. Nồi hơi thẳng đứng ống nước đứng.
Loại nồi hơi này có các đặc điểm sau:
Cấu tạo đơn giản, dễ sử dụng.
Tuần hoàn đơn giản, các ống nước thẳng đứng nên không đòi
hỏi chất lượng nước cao.
72
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Các ống nước thẳng đứng, lại bố trí các ống xuống bên ngoài
nên thuận lợi cho tuần hoàn tự nhiên.
Các ống nước tạo nên diện tích bề mặt trao đổi nhiệt lớn, nên
kích thước nồi hơi tương đối gọn nhẹ.
Có cấu tạo thẳng đứng, thuận lợi cho việc bố trí trên tàu thủy.
Loại nồi hơi này được dùng làm nồi hơi phụ, sinh hơi phục vụ cho các
nhu cầu trên các tàu động lực Diesel. Trong nhiều trường hợp nồi hơi
này được sử dụng kết hợp với một bộ tận dụng nhiệt khí xả trong hệ
thống liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả (xem phần sau).
Khi đó nồi hơi phụ (khoang hơi) sẽ đóng vai trò là khoang tách hơi cho
bộ tận dụng nhiệt khí xả khi tàu chạy hành trình (bộ tận dụng nhiệt khí
xả làm việc).
Hình 4.7 mô tả cấu tạo của một loại nồi hơi thẳng đứng ống nước đứng
khác: Nồi hơi của hãng Muira, Nhật bản. Loại nồi hơi này được sử
dụng rất phổ biến làm nồi hơi phụ trong hệ thống liên hợp nồi hơi phụ-
bộ tận dụng nhiệt khí xả trên các tàu do Nhật bản thiết kế.
Thân nồi hơi có dạng hình trụ đứng, phía dưới là trống nước, phía trên
là trống hơi. Trống nước và trống hơi đều có dạng vành khăn có thiết
diện chữ nhật. Hai hàng ống nước thẳng đứng nồi liền trống nước và
trống hơi. Hai hàng ống nước hình thành hai màn ống hình trụ có hai
cung hở đối xứng nhau tạo ra đường đi của khói lò. Thiết bị buồng đốt
được bố trí phía trên nồi hơi. ống khói được bố trí ở bên vách, phía có
bố trí cung hở của hàng ống bên ngoài.
Nguyên lý hoạt động như sau:
Phía khí lò: Nhiên liệu và không khí được cấp vào buồng đốt từ phía
trên, cháy và trao nhiệt bức xạ cho nước trong ống của hàng ống tiếp
xúc với buồng đốt. Sau đó thoát qua cung khuyết của hàng ống phía
trong quét qua khe hở giữa hai hàng ống, trao nhiệt cho nước bên trong
73
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
hai hàng ống. Sau đó khí lò lưu động tới cung khuyết của hàng ống bên
ngoài rồi thoát ra ngoài qua ống khói.
1. Quạt gió; 2. Bướm gió; 3. Nắp nồi hơi; 4. Trống hơi; 5. Mặt sàng trên;
6. Loa gió; 7. Đất chịu lửa; 8. Trống nước; 9. Bulông nối; 10. Biến áp đánh lửa;
11. Súng phun; 12. Hộp gió; 13. Vỏ ngoài; 14. Vỏ trong; 15. Ống nước;
16. Hộp ống khói; 17. Mặt sàng dưới.
Hình 4.7. Nồi hơi thẳng đứng ống nước đứng của hãng MIURA.
74
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Phía nước: Nước trong các ống nước đứng nhận nhiệt của khí lò quét
bên ngoài. Hàng ống phía trong do tiếp xúc với buồng đốt, nhận nhiệt
bức xạ, sôi và sinh hơi. Hỗn hợp nước, hơi có tỷ trọng nhẹ đi lên trống
hơi. Nước trong hàng ống phía ngoài nhận nhiệt ít hơn, chưa đủ sôi
nên có tỷ trọng nặng hơn chảy xuống khoang nước, bù vào lượng nước
đã sinh hơi tạo thành vòng tuần hoàn. Tại không gian hơi, hơi nước
được tách ra và được dẫn đi sử dụng. Nước bổ xung cho phần nước đã
sinh hơi được bơm cấp nước nồi cấp vào trống nước.
Đặc điểm kết cấu và ứng dụng:
Các ống nước thẳng đứng nên thuận lợi cho việc vệ sinh ống.
Không cần chất lượng nước nồi hơi cao do ống nước to, thẳng,
tuần hoàn đơn giản.
Năng suất, thông số hơi thấp do tỷ lệ bề mặt trao đổi nhiệt thấp.
Lượng nước trong nồi hơi lớn lên nổ khi nổ vỡ nguy hiểm.
Do chiều cao không gian hơi khá lớn nên chất lượng hơi bão
hoà sinh ra khá tốt.
Thường ứng dụng làm nồi hơi phụ trong hệ thống liên hợp nồi hơi
phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả, phục vụ hâm sấy nhiên liệu và sinh hoạt
cho một số tàu Diesel.
Thân nồi hơi thường có dạng hình trụ, là nơi đặt buồng đốt và các cụm
ống nước. Các cụm ống nước thường được uốn thành tựng cuộn, đặt
bên trong thân nồi. Một số trường hợp sử dụng các cuộn ống đặt chồng
lên nhau, nối chung vào các ống góp thẳng đứng.
1. Bướm gió; 2. Quạt gió; 3. Đất chịu nhiệt; 4. Buồng đốt; 5. Cuộn ống nước;
6. Vỏ nồi hơi; 7. Ống khói; 8. Két nước cấp; 9. Van hơi chính; 10. Van an toàn; 11.
Ống thủy; 12. Bầu hơi; 13. Van xả đáy; 14. Súng phun;
15. Đường cấp nhiên liệu; 16. Van xả cặn; 17. Bơm tuần hoàn;
18. Bơm nước cấp.
Hình 4.8. Nồi hơi tuần hoàn cưỡng bức.
Nhiên liệu và không khí được cấp vào và đốt cháy trong buồng đốt.
Khí lò tạo ra quét dọc qua các chồng ống nước, trao nhiệt cho nước ở
trong ống, rồi thoát ra ống khói. Nước trong các ống lưu động cưỡng
bức nhờ bơm tuần hoàn hút nước từ phía dưới của bầu tách hơi. Nước
được cấp cho các cụm ống từ phía trên để đảm bảo nhiệt độ nước tăng
dần. Dọc theo đường lưu động của nước trong ống, nhiệt độ nước tăng
76
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
dần, sôi và sinh hơi. Hỗn hợp nước và hơi được đưa tới bầu tách hơi, ở
đây phần hơi được tách ra, nổi lên phía trên và được đưa đi sử dụng.
Lượng nước ở phía dưới tiếp tục được bơm tuần hoàn hút và đưa đến
cụm ống nước. Bơm cấp nước có nhiệm vụ cấp nước vào bầu tách hơi
(phần không gian nước) để bổ xung cho lượng nước đã sinh hơi.
Loại nồi hơi này không cần trống nước, nên lượng nước trong nồi hơi
tương đối nhỏ. Vì vậy chúng an toàn hơn nhiều so với các loại nồi hơi
khác. Nhờ lượng nước nhỏ cộng với cường độ trao đổi nhiệt cao do
tuần hoàn cưỡng bức, nên loại nồi hơi này thường có trọng lượng, kích
thước nhỏ hơn nhiều so với các nồi hơi tuần hoàn tự nhiên có cùng
công suất. Lượng nước nhỏ cũng giúp cho thời gian sinh hơi nhanh,
điều này là đặc biệt hữu ích trong các trường hợp cần cung cấp hơi
nhanh. Nhờ tuần hoàn cưỡng bức, loại nồi hơi này cho phép sử dụng
các ống nước cong và có đường kính nhỏ hơn, nên tăng diện tích bề
mặt trao nhiệt trên một đơn vị thể tích, tăng cường độ trao đổi nhiệt
nhờ đối lưu cưỡng bức. Nhờ sử dụng tuần hoàn cưỡng bức, con cho
phép sử dụng buồng đốt tăng áp, tăng nhiệt tải dung tích buồng đốt,
giảm trọng lượng, kích thước của nồi hơi. Tuy nhiên, do các cụm ống
nước cong, nhỏ, cường độ bay hơi trên một đơn vị diện tích bề mặt
trao đổi nhiệt cao, nên đòi hỏi chất lượng nước nồi hơi cao. Đồng thời
cần đặc biệt chú ý cấp nước cho các cụm ống nước khi nồi hơi làm
việc ở các chế độ quá độ hay khi khởi động. Để đảm bảo hoạt động an
toàn, loại nồi hơi này thường được trang bị một hệ thống tự động điều
khiển, giám sát và bảo vê. Hệ thống này tự động đưa bơm tuần hoàn
vào hoạt động khi đốt nồi hơi và tự động dừng nồi hơi khi nhiệt độ các
cụm ống nước quá cao.
77
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
dụng động cơ Diesel chính lai chân vịt, nguồn nhiệt thải từ khí xả có
thể tới 30%. Việc sử dụng các thiết bị tận dụng nhiệt khí xả để sinh hơi
(nồi hơi khí xả - exhaust gas boiler, bộ tận dụng nhiệt khí xả - exhaust
gas economizer) cho phép tận dụng từ 20% đến 60% nguồn nhiệt khí
thải từ động cơ Diesel chính. Mức độ tận dụng nhiệt phụ thuộc vào cấu
hình và độ phức tạp của hệ thống tận dụng nhiệt. Những hệ thống tận
dụng nhiệt đơn giản chỉ sản xuất hơi cho mục đích hâm sấy nhiên liệu
nặng, hâm nước nóng hoặc các mục đích sinh hoạt khác. Những hệ
thống phức tạp có thể sử dụng hơi từ nồi hơi khí xả cho việc lai các tua
bin phụ để cung cấp điện phục vụ con tàu hoặc lai các bơm (bơm
ballast, bơm hàng lỏng). Những hệ thống tận dụng nhiệt khí xả có tua
bin phụ thường có chi phí ban đầu khá lớn, do vậy chỉ phù hợp cho các
tàu chuyên dụng, có trọng tải lớn (các tàu hàng rời, tàu dầu, tàu hoá
chất, tàu khí hoá lỏng, dàn khoan, …). Các tàu này thường được thiết
kế với thời gian hoạt động trên biển chiếm tỷ lệ lớn hoặc để chạy các
tuyến xa. Thông thường công suất sinh hơi của các hệ thống tận dụng
nhiệt khí xả là đủ lớn cho các tiêu dùng thông thường của con tàu khi
chạy biển. Việc sử dụng nồi hơi phụ (nồi hơi đốt dầu) chỉ cần thiết khi
tàu đậu ở các cảng, hoặc trong các trường hợp đặc biệt, khi hệ thống
tận dụng nhiệt khí xả không cung cấp đủ cho nhu cầu tiêu dùng hơi.
Một tác dụng khác khi lắp đặt hệ thống tận dụng nhiệt khí xả trên các
tàu là chúng đóng vai trò như một bộ tiêu âm cho các động cơ Diesel.
Các hệ thống tận dụng nhiệt khí xả thường được bố trí theo hai dạng:
Nồi hơi liên hợp phụ-khí xả và hệ thống liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận
dụng nhiệt khí xả.
Ở dạng thứ nhất, hệ thống tận dụng nhiệt khí xả là một nồi hơi có hai
phần: nồi hơi phụ đốt dầu và nồi hơi khí xả. Hai nồi hơi này được bố
trí chung trong một thân, có cùng chung không gian hơi, không gian
nước, chúng có thể hoạt động độc lập hoặc đồng thời. Do cả phần nồi
hơi phụ đốt dầu và phần nồi hơi khí xả được bố trí trong cùng một
78
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
thân, nên nồi hơi liên hợp luôn được bố trí ở tầng trên, nơi bố trí đường
ống khí thải của động cơ Diesel chính.
Ở dạng thứ hai, hệ thống liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả
bao gồm một nồi hơi phụ đốt dầu và một bộ tận dụng nhiệt khí xả được
bố trí độc lập. Nồi hơi phụ có thể bố trí ở vị trí phù hợp trong buồng
máy, còn bộ tận dụng nhiệt khí xả được bố trí trên đường khí thải của
động cơ Diesel chính. Hai phần này được nối với nhau nhờ hệ thống
đường ống và các thiết bị phục vụ khác.
Phần dưới sẽ nghiên cứu một vài dạng nồi hơi liên hợp và hệ thống
liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả.
79
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
1. Nắp nồi hơi; 2. Cửa thăm; 3. Ống lửa; 4. Cửa kiểm tra;
5. Đường khí xả Diesel vào; 6. Buồng đốt; 7. Ống khói;
8. Cửa kiểm tra ống khói; 9. Đất chịu lửa; 10. Vị trí lắp thiết bị buồng đốt.
Hình 4.9. Nồi hơi liên hợp ống lửa nằm kiểu Cochran.
80
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
81
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
thấp. Như vậy, phần nồi hơi phụ có thể tự động làm việc để hỗ trợ
phần nồi hơi khí xả khi động cơ Diesel chính chạy ở các chế độ tải
thấp (khi manơ, điều động), hoặc thay thế khi động cơ chính dừng.
Một số nồi hơi kiểu này có thể được thiết kế với hai cụm ống của nồi
hơi khí xả, khi đó khí xả từ động cơ chính sẽ quét hai lượt, qua hai cụm
ống, trước khi thoát ra ống khói.
Đặc điểm kết cấu:
Cấu tạo đơn giản, dễ sử dụng.
Có kích thước gọn nhẹ, do bố trí hai nồi hơi trong một thân và
theo chiều thẳng đứng.
Không đòi hỏi chất lượng nước cao.
Năng suất sinh hơi thấp do tỷ lệ bề mặt trao đổi nhiệt thấp.
Thông số hơi thấp nhưng chất lượng hơi tốt do chiều cao không
gian hơi lớn.
Thời gian lấy hơi lâu do lượng nước trong nồi khá lớn. Tuy
nhiên năng lực tiềm tàng lớn.
82
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
1. Vỏ nồi hơi; 2. Đất chịu lửa; 3. Buồng đốt; 4. Ống nước của nồi hơi phụ;
5. Cửa kiểm tra; 6. Đường khí xả Diesel vào; 7. Ống nước của nồi hơi khí xả;
8. Thanh chằng dọc ; 9. Mặt sàng; 10. Ống khói của nồi hơi khí xả;
11. Ống thông không gian nước; 12. Ống khói của nồi hơi phụ;
13. Vị trí lắp thiết bị buồng đốt.
Hình 4.10. Nồi hơi liên hợp ống nước đứng kiểu Aalborg.
Nồi hơi phụ: Khi làm việc với nồi hơi phụ, nhiên liệu và không khí
được đốt cháy trong buồng đốt nồi hơi, theo ống nối thoát lên khoang
ống nước. Tại đây, khí lò quét ngang qua các ống nước thẳng đứng,
trao nhiệt cho nước trong ống rồi thoát ra ngoài qua ống khói. Nước
83
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
trong các ống nước nhận nhiệt của khí lò sôi, bốc hơi. Hỗn hợp nước,
hơi có tỷ trọng nhẹ thoát lên không gian hơi qua các ống nước của nồi
hơi khí xả. Phần hơi tách ra trên không gian hơi và được đưa đi sử
dụng. Phần nước bổ xung cho lượng nước đã sinh hơi theo ống nước to
đi xuống.
Nồi hơi khí xả: Khi tàu chạy hành trình, nồi hơi khí xả được đưa vào
làm việc. Khí xả từ động cơ Diesel chính được dẫn vào nồi hơi, quét
một lượng ngang các ống nước đứng, trao nhiệt cho nước trong ống,
sau đó thoát ra ngoài qua ống khói. Nước trong các ống nước nhận
nhiệt của khí xả sôi, bốc hơi. Hỗn hợp nước, hơi có tỷ trọng nhẹ thoát
lên không gian hơi. Phần hơi tách ra trên không gian hơi và được đưa
đi sử dụng. Phần nước bổ xung theo ống nước to đi xuống phía dưới
cụm ống nước nồi hơi phụ, bù cho lượng nước đã sinh hơi.
Đặc điểm kết cấu:
Cấu tạo đơn giản, dễ sử dụng.
Không đòi hỏi chất lượng nước cao.
Năng suất sinh hơi thấp do tỷ lệ bề mặt trao đổi nhiệt thấp.
Thông số hơi thấp nhưng chất lượng hơi tốt do chiều cao không
gian hơi lớn.
Thời gian nhóm lò lấy hơi lâu do lượng nước trong bầu nồi lớn.
Tuy nhiên năng lực tiềm tàng lớn.
Nồi hơi khá cao do chiều cao của hai cụm ống nước đứng.
4.2.3. Hệ thống liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả
Một hệ thống liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả bao gồm
một nồi hơi phụ và một bộ tận dụng nhiệt khí xả. Khác với nồi hơi liên
hợp, ở hệ thống này nồi hơi phụ được bố trí độc lập so với bộ tận dụng
nhiệt khí xả. Điều này cho phép dễ dàng bố trí nồi hơi phụ ở vị trí
84
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
thuận lợi trong buồng máy. Nồi hơi phụ sử dụng trong hệ thống liên
hợp có thể là dạng ống lửa hoặc ống nước.
1. Nồi hơi phụ ; 2. Ống nước; 3. Bơm tuần hoàn; 4. Đường nước cấp;
5. Đường hơi đi sử dụng; 6. Bầu phân ly hơi; 7. Bộ tận dụng nhiệt khí xả;
8. Ống góp vào; 9. Ống góp ra; 10. Khí xả từ động cơ Diesel vào;
11. Cụm ống sinh hơi của bộ tận dụng nhiệt khí xả; 12. Cánh tản nhiệt.
Hình 4.11. Hệ thống liên hợp nồi hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả.
Các bộ tận dụng nhiệt khí xả thường có dạng cụm ống nước (Hình
4.11), được bố trí ngay trên đường ống xả của động cơ Diesel chính
mà không có bướm hướng khí xả. Để tăng cường trao đổi nhiệt, các
cụm ống của bộ tận dụng nhiệt khí xả có thể được bố trí cánh tản nhiệt.
Với kết cấu như vậy hệ thống liên hợp nồi hơi khá gọn nhẹ, dễ bố trí
trong buồng máy. Tuy nhiên, cần chú ý cấp nước tuần hoàn cho bộ tận
dụng nhiệt, ngay cả khi máy chính hoạt động ở chế độ điều động, để
tránh cháy hỏng cụm ống. Thông thường các bộ tận dụng nhiệt được
chế tạo để có thể thay thế từng cụm ống hoặc thay toàn bộ khi các ống
bị cháy hỏng. Một số bộ tận dụng nhiệt còn bố trí bộ sấy hơi để sản
xuất hơi sấy dùng cho các tua bin phụ lai các máy phụ. Những hệ
thống như vậy thường được bố trí để khoang hơi của nồi hơi phụ cũng
đồng thời là bầu tách hơi của bộ tận dụng nhiệt khí xả.
85
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Những hệ thống liên hợp sản xuất hơi bão hoà thường được ứng dụng
trên các tàu sử dụng động cơ Diesel chính lai chân vịt. Hơi bão hoà
sinh ra chỉ để phục vụ mục đích hâm sấy nhiên liệu nặng, hâm nước,
sưởi ấm và các mục đích sinh hoạt khác.
Hình 4.11 cũng mô tả nguyên lý chung của một hệ thống liên hợp nồi
hơi phụ-bộ tận dụng nhiệt khí xả sản xuất hơi bão hoà. Hệ thống bao
gồm nồi hơi phụ và bộ tận dụng nhiệt khí xả, lắp đặt trên đường khí xả
của động cơ Diesel chính. Hệ thống thường được trang bị bơm tuần
hoàn (hai bơm) để cung cấp nước cho các cụm ống của bộ tận dụng
nhiệt khí xả.
Nồi hơi phụ: Nồi hơi phụ được đưa vào hoạt động khi động cơ Diesel
chính không hoạt động. Khi ấy không cần chạy bơm tuần hoàn cấp
nước cho bộ tận dụng nhiệt khí xả. Hơi nước sinh ra từ nồi hơi phụ
được đem đi sử dụng phục vụ các mục đích trên tàu. Nồi hơi phụ sử
dụng trong hệ thống có thể là nồi hơi ống nước hoặc nồi hơi ống lửa.
Bộ tận dụng nhiệt khí xả: Khi động cơ Diesel chính làm việc, khí xả
quét qua cụm ống của bộ tận dụng nhiệt khí xả, trao nhiệt cho nước
trong ống rồi thoát ra ống khói. Nước trong cụm ống được cấp qua ống
góp nước nhờ bơm tuần hoàn hút nước từ khoang nước nồi hơi phụ.
Nước trong cụm ống nhận nhiệt của khí lò ngoài ống, sôi, bốc hơi. Hỗn
hợp nước, hơi qua ống góp ra trở về trống hơi. Tại đây hơi được tách
ra và được đưa đi sử dụng. Phần nước chảy xuống trống nước và lại
được bơm tuần hoàn cấp tới bộ tận dụng nhiệt khí xả. Như vậy ở chế
độ làm việc với bộ tận dụng nhiệt khí xả, nồi hơi phụ đóng vai trò như
một bầu phân ly nước-hơi.
Hệ thống này có ưu điểm là bộ tận dụng nhiệt khí xả rất nhỏ gọn, dễ bố
trí trên đường ống xả của động cơ Diesel. Tuy nhiên bộ tận dụng nhiệt
khí xả có mật độ cụm ống khá dày đặc nên tăng sức cản trên đường xả
của động cơ Diesel. Để tránh sức cản lớn và tăng cường độ trao đổi
86
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
nhiệt cần tuyệt đối tuân thủ chế độ thổi muội cho bộ tận dụng nhiệt khí
xả.
87
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Các thiết bị, hệ thống phục vụ nồi hơi đóng vai trò trung tâm trong việc
đảm bảo sự hoạt động an toàn của nồi hơi. Chúng không những cung
cấp các công chất phục vụ cho sự hoạt động của nồi hơi như nhiên
liệu, nước mà còn điều khiển, giám sát, và bảo vệ nồi hơi, đảm bảo cho
hệ thống nồi hơi hoạt động an toàn, tin cậy, tính kinh tế cao. Các thiết
bị, hệ thống phục vụ nồi hơi có thể được chia ra: nhóm thiết bị buồng
đốt; nhóm thiết bị chỉ báo mức nước, cấp nước; và các thiết bị phụ
khác. Các hệ thống thiết bị phụ của các nồi hơi được điều khiển nhờ
một bộ điều khiển trung tâm (Burner controller). Bộ điều khiển trung
tâm này ở các nồi hơi hiện đại được thiết kế dạng một bộ vi xử lý đã
được lập trình sẵn (Programmable Logic Controller – PLC). Bộ xử lý
này có nhiệm vụ điều khiển các hoạt động của nồi hơi như: tự động
điều chỉnh việc cấp nhiên liệu, không khí, tự động điều khiển quá trình
cháy theo tải của nồi hơi (theo áp suất hơi); tự động điều chỉnh việc
hâm nhiên liệu; tự động điều chỉnh mức nước nồi hơi; tự động giám sát
các thông số của nồi hơi để đưa ra các tín hiệu báo động, bảo vệ nồi
hơi. Dưới đây sẽ trình bày chi tiết các hệ thống thiết bị này.
88
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
89
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Hình 5.1: Thiết bị cấp không khí và sự phân bố ngọn lửa trong buồng đốt.
90
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
bao gồm: các két nhiên liệu, phin lọc, bơm tuần hoàn nhiên liệu, bầu
hâm nhiên liệu, súng phun nhiên liệu, van điện từ. Dưới đây trình bày
hai hệ thống nhiên liệu tiêu biểu.
91
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
92
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Một số nồi hơi có thể được thiết kế cháy ở hai chế độ: cháy thấp và
cháy cao (low/high flame). Khi ấy trình tự hoạt động của hệ thống
nhiên liệu là: NGẮT - CHÁY THẤP - CHÁY CAO - CHÁY THẤP -
NGẮT (OFF/LOW/HIGH/LOW/OFF). Việc chuyển từ cháy thấp sang
cháy cao thực chất là tăng lượng nhiên liệu cấp vào buồng đốt nồi hơi.
Thông thường có hai cách để thay đổi lượng nhiên liệu cấp: sử dụng
hai súng phun; sử dụng hai chế độ áp suất phun nhiên liệu. Với trường
hợp đầu tiên bơm cấp nhiên liệu đồng thời tới hai súng. Hai súng phun
này được điều khiển độc lập: ở chế độ cháy thấp chỉ một súng phun
được đưa vào làm việc; khi chuyển sang cháy cao, cả hai súng phun
đều cấp nhiên liệu vào buồng đốt. Trường hợp thứ hai chỉ có một súng
phun nhưng hệ thống được trang bị thiết bị phun nhiên liệu đặc biệt: ở
chế độ cháy thấp hệ thống được điều chỉnh để làm việc với áp suất
nhiên liệu thấp (ví dụ: 2MPa), khi ấy một lượng nhiên liệu được hồi trở
lại; khi chuyển sang cháy cao hệ thống sẽ tăng áp suất phun nhiên liệu
lên (ví dụ: 4MPa), khi ấy lượng nhiên liệu cấp vào cũng tăng theo.
93
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
van điện từ đóng, áp suất nhiên liệu tăng, nhiên liệu được phun vào
buồng đốt. Lượng nhiên liệu tiêu hao được bổ sung từ vòng ngoài qua
lưu lượng kế. Việc điều chỉnh áp suất phun nhiên liệu được thực hiện
nhờ điều chỉnh van điều chỉnh áp suất 18 trên bơm nhiên liệu. Khi làm
việc với nhiên liệu nhẹ (DO) bơm tuần hoàn vòng ngoài dừng, nhiên
liệu được cấp tới qua van đi tắt (by-pass).
94
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
95
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
c) Súng phun
Súng phun là thiết bị đảm nhận nhiệm vụ cung cấp nhiên liệu vào
trong buồng đốt nồi hơi với chất lượng tốt. Do quá trình cháy trong
buồng đốt nồi hơi là quá trình cháy liên tục, nên người ta sử dụng súng
phun hở. Các nồi hơi trước đây thường sử dụng súng phun áp lực, súng
phun kiểu quay, súng phun hơi nước hoặc súng phun không khí nén,
hoặc súng phun áp lực. Súng phun hơi nước, súng phun không khí nén
có cùng nguyên lý là sử dụng công chất có áp lực cao là hơi nước hoặc
không khí nén để xé tan dòng nhiên liệu. Do đặc điểm như vậy nên
chất lượng phun sương khá tốt và ổn định. Tuy nhiên, súng phun hơi
nước và súng phun không khí nén hiện nay ít được sử dụng do tốn
công chất phun. Chúng hiện được ứng dụng ở một số thiết bị đốt dầu
thải (incinerator) do ưu điểm là phun được cả dầu lẫn nước và tạp chất
rắn.
Dưới đây trình bày cấu tạo của một súng phun sử dụng hơi nước hoặc
không khí nén làm công chất phun.
Hình 5.4. Súng phun hơi nước hoặc không khí nén.
96
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Nguyên lý hoạt động của súng phun như sau: Nhiên liệu được dẫn tới
đầu phun qua các rãnh dầu, công chất phun (hơi nước hoặc khí nén)
với áp suất cao (0.5 – 1.0 MPa) được đưa tới trước các lỗ phun hơi.
Nhờ có kết cấu rãnh xoáy lốc ở phía đầu phun, mà dòng công chất
phun chuyển động xoáy với tốc độ cao ra khỏi đầu phun. Dòng xoáy
lốc này hoà trộn với dòng nhiên liệu chảy vào. Nhờ có động năng lớn
và chuyển động xoáy lốc của dòng công chất phun mà nhiên liệu bị xé
tan thành những hạt sương nhiên liệu, đảm bảo cho sự cháy có thể diễn
ra.
Đối với các súng phun kiểu này, chất lượng phun sương phụ thuộc chủ
yếu vào áp suất của công chất phun và động năng tạo ra khi chúng
chuyển động xoáy lốc ra khỏi đầu phun mà không phụ thuộc vào áp
suất của nhiên liệu cấp. Vì vậy đối với dạng súng phun này, hệ thống
nhiên liệu chỉ cần cung cấp nhiên liệu áp suất thấp đến súng phun.
97
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
nhiên liệu nhờ áp lực cao. Một súng phun dạng này thường bao gồm
ống dẫn dầu, van tuần hoàn và đầu phun. Hình 5.5 mô tả một cụm súng
phun áp lực.
Nhiên liệu áp suất cao từ bơm được dẫn tới trước van tuấn
hoàn. Van tuần hoàn (nozzle circulating valve) đóng hay mở phụ thuộc
vào áp suất nhiên liệu đưa tới nấm van (xem phần sau). Nếu van tuần
hoàn mở, dầu sẽ được đưa tới đầu phun và phun vào buồng đốt. Dầu sẽ
chảy qua cụm cơ cấu vành xoáy lốc và hình thành nên dòng chảy xoáy
tại buồng xoáy lốc. Dầu phun ra từ lỗ phun với chuyển động xoáy giúp
cho khả năng hòa trộn với ôxy được tốt hơn, hỗn hợp cháy vẫn đảm
bảo cháy tốt mà không cần công chất phun như đối với súng phun hơi
nước.
Nếu van tuần hoàn đóng, nhiên liệu trở về qua ống dầu hồi rồi qua van
điện từ trở về cửa hút của bơm. Với cách bố trí như vậy, nhiên liệu có
nhiệt độ cao được tuần hoàn tới tận đầu phun. Điều này cho phép đốt
trực tiếp nhiên liệu FO mà không cần chuyển sang đốt bằng DO khi
khởi động nồi hơi.
98
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
99
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
e) Đầu phun
3
5 1
4
1. Thân; 2. Mặt côn; 3. Đai ốc hãm; 4. Buồng xoáy lốc; 5. Rãnh tiếp tuyến.
Hình 5.3. Đầu phun nhiên liệu.
Đầu phun (burner nozzle) có nhiệm vụ cung cấp nhiên liệu vào buồng
đốt với chất lượng phun sương tốt. Để tạo ra chất lượng phun sương
tốt, đầu phun thường được chế tạo có dạng rãnh tiếp tuyến và buồng
xoáy lốc. Dòng nhiên liệu với áp suất cao đi tới súng phun được tăng
tốc khi lưu động qua rãnh tiếp tuyến rồi chảy vào buồng xoáy lốc theo
phương tiếp tuyến. Nhờ vậy nhiên liệu được phun dưới dạng chùm tia
nhiên liệu hình nón (Hình 5.8).
100
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
1. Vành chắn; 2. Vành hướng gió; 3. Bép phun; 4. Đầu phun; 5. Sứ cách điện;
6. Điện cực đánh lửa; 7. Thân súng phun; 8. Đường dẫn dầu.
Hình 5.9. Thiết bị hướng gió, súng phun và thiết bị đánh lửa.
Thiết bị đánh lửa có nhiệm vụ cung cấp tia lửa điện để đốt cháy nhiên
liệu ở thời kỳ nồi hơi khởi động. Thiết bị đánh lửa thường bao gồm hai
điện cực đánh lửa, biến áp đánh lửa và các dây dẫn, cọc đấu dây. Hai
điện cực đánh lửa được nối với nguồn có điện áp cao (khoảng 10000V)
tạo ra từ biến áp đánh lửa.
Để chất lượng tia lửa điện tốt, cần giữ sạch các điện cực đánh lửa và
điều chỉnh khoảng cách giữa các điện cực phù hợp. Khác với các động
cơ đốt trong cháy theo chu kỳ nhờ tia lửa điện (bugi), nồi hơi là thiết bị
có quá trình cháy liên tục. Vì vậy, thiết bị đánh lửa của nồi hơi chỉ hoạt
động để cung cấp tia lửa điện ở thời kỳ bắt đầu đốt nồi hơi - khoảng
101
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
15-25 giây khi bắt đầu cung cấp nhiên liệu (xem phần chương trình
điều khiển thiết bị buồng đốt). Hình 5.9 mô tả dạng bố trí thiết bị
buồng đốt và các thông số hiệu chỉnh thiết bị đánh lửa.
102
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
103
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
đưa tín hiệu đến bộ điều khiển trung tâm để điều khiển quá trình cháy.
Ví dụ một nồi hơi được tự động điều khiển ON/OFF theo áp suất trong
khoảng 0.6/0.8 MPa thì rơle áp suất hơi sẽ được đặt đóng/ngắt tiếp
điểm ở hai giá trị áp suất tương ứng là 0.6 và 0.8 MPa.
Khi có tín hiệu khởi động nồi hơi, bộ điều khiển sẽ tự động đưa các
thiết bị vào hoạt động theo chương trình được đặt sẵn. Trước tiên quạt
gió và bơm nhiên liệu được đưa vào làm việc để thổi hết khí sót, hơi
dầu trong buồng đốt và tuần hoàn nhiên liệu qua súng phun. Một số nồi
hơi có quạt gió và bơm nhiên liệu được lai bởi cùng một động cơ điện.
Sau 30 giây, giai đoạn thông gió trước kết thúc, thiết bị đánh lửa được
đưa vào hoạt động để chuẩn bị đốt cháy nhiên liệu. Từ giây thứ 35 van
điện từ được đưa tín hiệu điều khiển đóng đường dầu hồi. Áp suất
nhiên liệu trong hệ thống lập tức tăng lên, mở thông van tuần hoàn và
cấp nhiên liệu đến đầu phun. Nhiên liệu phun vào buồng đốt được đốt
cháy nhờ tia lửa điện đã có sẵn từ giây thứ 30. Thiết bị đánh lửa được
điều khiển để chỉ cấp tia lửa điện trong thời gian đầu (khoảng 15-25
giây). Khi đã cháy nồi hơi hoạt động tự động nhờ chương trình điều
khiển tự động quá trình cháy theo áp suất hơi: khi áp suất hơi tăng đến
giá trị đặt trước thì hệ thống tự động dừng việc cấp nhiên liệu, nồi hơi
trở về trạng thái sẵn sàng; khi áp suất hơi giảm xuống dưới giá trị đặt
trước, nồi hơi được tự động đưa vào hoạt động theo chương trình mô tả
trên. Một số nồi hơi được thiết kế để hoạt động ở hai chế độ cháy:
CHÁY THẤP/CHÁY CAO, khi ấy nồi hơi sẽ làm việc ở chế độ
CHÁY THẤP khi mới khởi động và tự động chuyển sang chế độ
CHÁY CAO sau một khoảng thời gian nhất định.
Sau khi đã đốt thành công, quá trình cháy được duy trì cho đến khi áp
suất nồi hơi tăng đến giá trị định mức được đặt trước. Khi đó tiếp điểm
của rơle áp suất hơi thay đổi trạng thái, đưa tín hiệu đến bộ điều khiển
trung tâm để dừng nồi hơi. Khi ấy van điện từ được đưa tín hiệu mở
thông đường dầu hồi, áp suất nhiên liệu giảm xuống, van tuần hoàn
104
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
đóng lại, kết thúc phun nhiên liệu. Quạt gió được duy trì chạy thêm 30
giây để quét sạch lượng khí sót trong buồng đốt.
Trong suốt quá trình làm việc, tế bào quang điện được đưa vào hoạt
động từ khi có tia lửa điện (bắt đầu đốt nồi hơi) cho đến khi mở van
điện từ (dừng cấp nhiên liệu, kết thúc quá trình cháy) để giám sát quá
trình cháy. Nếu nồi hơi bị tắt, dây cảm ứng CdS sẽ thay đổi trạng thái
đưa tín hiệu đến bộ điều khiển trung tâm mở van điện từ, ngắt nhiên
liệu, đồng thời đưa tín hiệu đến báo động nồi hơi không cháy. Các nồi
hơi hiện đại còn kết hợp điều khiển đóng mở bướm gió. Thông thường
bướm gió được điều khiển tự động đóng bớt ở thời kỳ khởi động và
khi dừng để thuận lợi cho quá trình cháy.
Ngoài bảo vệ quá trình cháy nhờ tế bào quang điện, các nồi hơi còn
được thiết kế để bảo vệ các thông số làm việc khác như: tự động dừng
nồi hơi khi mức nước nồi hơi qúa thấp; khi áp suất phun nhiên liệu
thấp, nhiệt độ hâm nhiên liệu thấp, quạt gió bị ngừng,….
Một kiểu chương trình điều khiển tự động khác được mô tả ở hình
dưới đây:
105
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
106
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
107
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
a. Kiểu gắn trực tiếp; b. Kiểu gắn vào ống đo trung gian.
1. Van thông hơi; 2. Van thông nước; 3. Van chặn trên; 4. Van chặn dưới;
5. Ống thủy tinh; 6. Mặt kính bảo vệ; 7. Van xả nước; 8. Ống đo trung gian.
Hình 5.4. Ống thủy sáng và các phương án bố trí ống thủy.
108
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Thiết bị chỉ báo tại chỗ hay còn gọi là ống thủy sáng hay ống thủy đặt
cao. Theo quy định mỗi nồi hơi phải có ít nhất hai ống thủy sáng độc
lập. Chúng phải được bố trí ở vị trí thuận lợi cho việc quan sát. Ống
thủy sáng có cấu tạo dạng một ống thủy tinh, phía trên nối với không
gian hơi, phía dưới nối với không gian nước. Theo nguyên tắc bình
thông nhau, mức nước nhìn thấy trong ống thủy bằng mức nước trong
nồi hơi. Thực tế mức nước trong ống thủy thấp hơn trong nồi hơi một
chút do chênh lệch nhiệt độ giữa cột nước trong nồi hơi và cột nước
trong ống thủy. Do nồi hơi làm việc với áp suất cao, nên trong thực tế,
mặt thủy tinh của ống thủy được bảo vệ để có thể chịu được áp suất
cao. Các ống thủy có thể được nối trực tiếp với thân nồi hơi hoặc nối
vào một ống trung gian (Hình 5.13). Trường hợp sau thường được áp
dụng trong trường hợp các thiết bị cảm ứng mức nước được bố trí
trong ống trung gian này. Để thuận lợi cho việc vệ sinh, bảo dưỡng,
các ống thủy bao giờ cũng được nối với thân nồi qua các van. Trong
trường hợp hư hỏng ống thủy (ví dụ mặt thủy tinh bị vỡ), có thể đóng
các van này để cách ly ống thủy khỏi nồi hơi.
Để ống thủy chỉ báo chính xác mức nước trong nồi hơi, cần giữ cho
các đoạn ống nối không bị tắc bằng cách định kỳ xả ống thủy. Khi làm
việc các van 1, 2 luôn mở, van 7 đóng. Khi cần xả ống thủy ta đóng
van 1, 2, mở van 7 sau đó mở lần lượt các van 1, 2 để thông các đoạn
ống trên, dưới.
109
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
ống chữ U chứa một chất lỏng nặng. Một nhánh của chữ U nối với
khoang hơi luôn chứa đầy nước cảm ứng một cột áp tĩnh không đổi,
nhánh còn lại nối với không gian nước cảm ứng một cột áp tĩnh thay
đổi theo mức nước nồi hơi. Nhờ vậy bằng cách xem mức chất lỏng
nặng trong ống chữ U có thể suy ra mức nước nồi hơi.
110
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Tuy nhiên loại thiết bị này hiện nay hầu như không được sử dụng vì
cồng kềnh, khó lắp đặt và không có khả năng tổ hợp làm thiết bị cảm
ứng mức nước phục vụ cho việc tự động điều khiển mức nước nồi hơi.
1. Bảng điều khiển nồi hơi; 2. Két chứa; 3. Thiết bị làm mềm nước;
4. Bầu ngưng; 5. Két vách; 6. Phin lọc; 7. Động cơ điện; 8. Bơm cấp nước nồi;
111
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
9. Van một chiều; 10. Nồi hơi; 11. Thiết bị cảm ứng mức nước.
Hình 5.15. Hệ thống cấp nước nồi hơi.
Một số nồi hơi thông số cao có thể được trang bị hệ thống cấp nước
liên tục nhờ van điện từ. Trong hệ thống này, bơm cấp nước được thiết
kế để hoạt động liên tục trong thời gian nồi hơi hoạt động. Việc tự
động cấp nước được thực hiện bằng đóng, mở van điện từ. Van điện từ
được điều khiển đóng/mở bởi bộ điều khiển trung tâm, lấy tín hiệu từ
thiết bị cảm ứng mức nước nồi hơi. Lượng nước thừa chảy trở lại két
vách qua lỗ tiết lưu.
Thiết bị cảm ứng có thể ứng dụng một trong ba dạng sau:
112
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
1. Cán giữ; 2. Vỏ hộp; 3. Thanh cảm ứng; 4. Bích nối với van xả cặn
113
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Hình 5.17. Thiết bị cảm ứng mức nước kiểu que cảm ứng.
Thiết bị bao gồm một số que cảm ứng đặt thẳng đứng trong một ống
hình trụ nối với khoang nồi hơi (Hình 5.17). Các que cảm ứng có chiều
dài khác nhau cảm biến mức nước khác nhau phù hợp với chức năng
của từng que. Khi mức nước nồi hơi thay đổi, tuỳ theo mức nước mà
các que này nhúng trong nước hoặc nhô ra khỏi mặt nước nhờ đó thay
đổi tín hiệu điều khiển đưa tới bộ điều khiển để điều khiển bơm cấp
nước nồi và giám sát mức nước nồi hơi.
Hình 5.18. Hoạt động của thiết bị cảm ứng kiểu que cảm ứng.
Thiết bị cảm ứng kiểu này có thể hoạt động theo nguyên lý cảm biến
điện dung hoặc điện trở. Các que cảm ứng sẽ cảm ứng các mức nước
khác nhau để thự hiện các chức năng cơ bản sau:
AA: Báo động mực nước cao, bơm nước cấp không hoạt động.
aa: Mực nước cao, không báo động.
114
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
115
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
116
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hình 5.19. Sơ đồ lôgic tự động điều khiển quá trình cháy nồi hơi phụ tàu thủy.
117
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
118
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hình 5.20. Sơ đồ lôgic tự động điều khiển quá trình hâm nhiên liệu.
119
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Cảm biến mức nước số 1: tự động khởi động bơm cấp nước;
Cảm biến mức nước số 3: tự động báo động mức nước cao;
Chú ý:
Mức báo động cao (cảm biến số 3) được đặt cao hơn mức
dừng bơm cấp nước (cảm biến số 1);
Mức báo động thấp (cảm biến số 4) được đặt thấp hơn mức
khởi động bơm cấp nước (cảm biến số 1);
Mức bảo vệ (cảm biến số 5) được đặt thấp hơn mức báo
động thấp (cảm biến số 4).
Hình 5.21. Sơ đồ lôgic tự động điều khiển, giám sát và bảo vệ mức nước nồi hơi.
Mức nước nồi hơi là thông số hết sức quan trọng, nồi hơi phải luôn
được đảm bảo đủ nước để tránh quá nhiệt, gây cháy hỏng các bề mặt
trao đổi nhiệt và cháy nổ nồi hơi. Việc tự động điều khiển cung cấp
nước, tự động giám sát và bảo vệ mức nước nồi hơi ở các nồi hơi phụ
tàu thủy thường được thực hiện theo sơ đồ lôgic ở Hình 5.21. Ngay sau
khi cấp nguồn cho hệ thống điều khiển nồi hơi, hệ thống cung cấp
nước được tự động đưa vào làm việc để luôn duy trì mức nước trong
nồi hơi trong vùng cho phép. Việc tự động điều khiển bơm cấp nước
nồi hơi được thực hiện nhờ tín hiệu cảm biến tại các cảm biến mức
120
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
nước. Các hệ thống nồi hơi phụ tàu thủy thường được trang bị các chức
năng tự động điều khiển bơm cấp nước nồi, tự động báo động mức
nước nồi hơi cao, thấp và tự động bảo vệ (dừng nồi hơi) khi mức nước
nồi hơi quá thấp.
121
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
(5-1)
(p - p)(F + F) = R + R
Trong đó p là độ giảm áp suất hơi tác dụng lên đĩa van khi van mở;
R là độ tăng sức căng lò xo khi đĩa van bị nâng lên. Ngoài ra nhờ có
vòng điều chỉnh 6 và van tiết lưu 20 mà lợi dụng phản lực của dòng
hơi thoát ra đồng thời lợi dụng phản lực tác dụng lên đĩa van giúp van
đóng mở ổn định.
Các thông số làm việc của van như: áp suất mở van; độ nâng đĩa van,
thời gian van mở; và áp suất đóng van hay độ chênh giữa áp suất mở
và đóng van có thể điều chỉnh được.
Điều chỉnh áp suất mở van:
Áp suất mở van được điều chỉnh nhờ thay đổi sức căng ban đầu của lò
xo. Nới lỏng êcu hãm và vặn vít điều chỉnh 12 ngược chiều kim đồng
hồ sẽ giảm áp suất mở. Ngược lại nếu vặn vít điều chỉnh cùng xchiều
kim đồng hồ sẽ tăng áp suất mở. Tuy nhiên không nên điều chỉnh quá
10% giá trị quy định do nhà chế tạo.
Điều chỉnh khi độ chênh áp suất đóng, mở quá lớn:
Độ chênh quá lớn là do lực nâng đĩa van quá lớn so với lực ép xuống.
Việc điều chỉnh có thể thực hiện bằng cách chỉnh van tiết lưu phản áp
20 cùng chiều kim đồng hồ: như vậy sẽ tăng phản áp ép nấm van
xuống. Hoặc có thể kết hợp chỉnh vòng điều chỉnh cùng chiều kim
đồng hồ để giảm lực tác dụng nâng đĩa van (vòng điều chỉnh có rãnh
dọc theo chu vi nên có thể xoay bằng cách sử dụng tuốc nơ vít).
122
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
123
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
124
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
125
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
126
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Công việc gạn mặt, xả đáy được thực hiện hàng ngày theo quy trình
sau:
1. Cấp nước nồi hơi đến mức cao;
2. Mở van gạn mặt để xả nước lẫn các tạp chất lơ lửng đến cho
đến mức nước bình thường;
3. Cấp lại nước nồi hơi đến mức cao;
4. Mở van xả đáy để xả cặn bùn lắng đọng phía dưới;
5. Công việc gạn mặt, xả đáy nên thực hiện khi nồi hơi dừng hoặc
ở chế độ nhẹ tải. Tổng cột nước xả ra khỏi nồi hơi vào khoảng
150 – 200 mm (xem trên ống thủy).
127
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Khi nồi hơi hoạt động các van trên hệ thống gạn xả luôn được giữ
đóng, chúng chỉ được mở khi thực hiện gạn mặt, xả đáy. Các van gạn
mặt, xả đáy được bố trí ngay cạnh nồi hơi, thường xuyên tiếp xúc với
môi trường nước có áp suất, nhiệt độ cao, nên rất dễ bị dò lọt. Để bảo
vệ các van này nên mở chúng trước khi mở van chặn trung gian trên
đường nước xả ra mạn tàu. Việc dò lọt các van của hệ thống gạn xả sẽ
dẫn đến mất nước nồi hơi. Có thể phát hiện sự dò lọt bằng cách sờ vào
đường ống gạn xả.
128
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Thiết bị thổi muội được bố trí tại các điểm thổi muội quanh nồi hơi,
khi hoạt động sẽ phun hơi quá nhiệt (trích ra từ đường hơi chính) vào
đánh tan lớp muội bám quanh điểm thổi muội đó.
Khi có tín hiệu thổi muội, động cơ điện quay và làm quay bánh răng
dẫn động quay qua một loạt cơ cấu truyền động. Bánh răng dẫn động
sẽ làm quay trục vít, đẩy ống dẫn hơi tịnh tiến từ trái sang phải đi vào
trong nồi hơi. Ống dẫn hơi chuyển động cho đến khi vấu cam tác động
vào cơ cấu mở van cấp hơi. Lúc này, ống dẫn hơi dừng lại, đồng thời
van cấp hơi mở để cho hơi đi vào ống dẫn hơi. Hơi quá nhiệt sẽ được
phun ra từ đầu phun và làm bong lớp muội bám trên các bề mặt gần
đó. Trong quá trình thổi muội, khí làm mát được cấp vào vừa để làm
mát ống dẫn hơi vừa có tác dụng vệ sinh, làm sạch phần muội bẩn sót
trên đầu phun. Ở dưới tàu thủy, công việc thổi muội thường được tiến
hành định kỳ mỗi ca trực ít nhất một lần.
Ngoài kết cấu như Hình 5.26 ra, thiết bị thổi muội có thể là loại quay
bằng tay, loại có nhiều lỗ phun… tùy theo kiểu nồi hơi, kích cỡ và
công suất.
129
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Hình 5.27. Hệ thống phân phối và tuần hoàn hơi trên tàu Golden Bear.
130
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
131
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
còn gây lên ăn mòn vật liệu chế tạo nồi hơi và các chi tiết kim loại
khác trong hệ thống tiêu dùng hơi.
Hầu hết các nồi hơi thông số thấp, sử dụng trên tàu thủy, sử dụng nước
công nghiệp (nước sinh hoạt), nước sinh hoạt đã được làm mềm hoặc
nước chưng cất. Hầu hết các loại nước sử dụng đều chứa các thành
phần gây ra độ cứng (hàm lượng Ca, Mg) hoặc silica. Các chất này gây
ra đóng cáu cặn trên các bề mặt trao đổi nhiệt. Lượng ôxy hòa tan thì
gây ăn mòn kim loại trong nồi hơi, trong khi khí CO2 hòa tan thì gây
ăn mòn kim loại trên đường nước ngưng. Trong nước nồi hơi thường
có lẫn những tạp chất sau:
Các tạp chất vô cơ không hoà tan như bùn, đất sét, cát, rỉ sắt; các tạp
chất hữu cơ như xác động vật, thực vật, các loại dầu, chất béo. Các tạp
chất này có thể kết tủa hoặc không kết tủa, chúng có thể gây ra hiện
tượng bùng sôi, một số loại dầu và chất béo có thể gây ăn mòn kim
loại.
Các khí hoà tan gồm có ôxy, nitơ, ôxít cácbon, trong đó ôxy và ôxít
cácbon gây ra ăn mòn kim loại.
Các tạp chất dễ hoà tan thường là các muối, các hydrôxit.
Các muối calcium bicarbonate (Ca(HCO3)2), magnesium
bicarbonate (Mg(HCO3)2) tạo lên độ cứng tạm thời, chúng giải
phóng khí CO2 khi bị đun nóng và tạo thành các kết tủa mềm
có thể xả ra ngoài.
Muối calcium chloride (CaCl2) gây đóng cáu nhưng thường tác
dụng với MgSO4 sinh ra MgCl2 gây ăn mòn kim loại.
Calcium nitrate (CaNO3) gây ăn mòn khi xuất hiện với hàm
lượng lớn.
Magnesium chloride (MgCl2) gây đóng cáu cặn và ăn mòn kim
loại mạnh.
132
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
133
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Bảng 6.1. Tiêu chuẩn nước cho các nồi hơi thấp và trung áp.
Áp suất khai thác lớn nhất (MPa) tới 1MPa 1MPa - 2MPa
Loại nước bổ xung dùng cho nồi hơi Nước chưng cất và nước ngưng tụ
Độ cứng (mgCaCO3/l) 5 5
Nước cấp
134
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Độ kiềm (alkalility): là đại lượng biểu thị lượng axít cần thiết
để đưa nước đến trạng thái có giá trị độ pH nào đó. Độ kiềm
được chia ra độ kiềm tổng (M-alkalility hay T-alkalility) và độ
kiềm phenol (P-alkalility). Trong đó độ kiềm tổng là lượng axít
cần thiết để đạt được điểm trung hòa có độ pH là 4.8, còn độ
135
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
6.2. Ảnh hưởng của tạp chất đến sự hoạt động của nồi hơi
Ảnh hưởng của tạp chất gây ra cho nồi hơi có thể chia ra làm ba nhóm:
gây cáu cặn trên các bề mạt trao đổi nhiệt (scale problem); ăn mòn kim
loại (corrosion) ; và gây ra hiện tượng tạp chất cuốn theo hơi (carry-
over problem). Phần dưới sẽ nghiên cứu cơ chế gây ra các hiện tượng
trên.
Các tác hại do tạp chất trong nước nồi hơi được tóm tắt trong Bảng 6.2.
136
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Bảng 6.1. Các tác hại do tạp chất trong nước nồi hơi gây ra.
Loại
Tác hại Hiện tượng Nguyên nhân
nồi hơi
- Hình thành cáu cặn do các - Do chất lượng nước kém, nước
thành phần cứng (Ca, Mg) không được làm mềm, không xử lý
hoặc silica trên các bề mặt trao đổi ion.
Hình Thấp trao đổi nhiệt. - Do không xả mặt, xả đáy định kỳ.
thành áp - Có thể làn giòn hặc nổ vỡ - Do không áp dụng xử lý nước
cáu cặn các ống bay hơi bằng hóa chất.
- Đóng cáu cặn của các ôxít - Do không áp dụng xử lý nước
Cao áp kim loại như ôxít sắt trên bằng hóa chất.
các vùng tải nhiệt cao, có
thể gây giòn hoặc nổ vỡ
ống.
- Ăn mòn các bề mặt trao - Không xử lý thỏa đáng độ pH và
đổi nhiệt trong nồi hơi và lượng khí hòa tan.
ăn mòn trên đường nước - Không loại trừ các sản phẩm gây
Thấp ngưng, nước cấp do các khí ăn mòn từ phần ngưng tụ và nước
áp hòa tan (O2, CO2). cấp.
- Ăn mòn do cáu cặn của các - Ăn mòn xảy ra ở các chế độ không
ôxít kim loại trên các bề ổn định (khi mới đốt hoặc khi
Ăn mòn mặt trao đổi nhiệt. dừng).
kim - Ăn mòn do cáu cặn của các - Do các chất gây ăn mòn từ nước
loại ôxít kim loại trên các bề ngưng và nước cấp mang vào nồi
mặt trao đổi nhiệt. hơi.
Cao áp - Ăn mòn do xuất hiện các - Không xử lý thỏa đáng độ pH,
chất gốc bazơ (xút). lượng khí hòa tan và hàm lượng
- Ăn mòn trên đường nước kiềm Phênol (xem phần hóa
ngưng và nước cấp do các nghiệm nước).
khí hòa tan. - Ăn mòn xảy ra ở các chế độ không
ổn định.
- Giảm độ tinh khiết của hơi. - Do tăng tải đột ngột (mở nhanh
- Ảnh hưởng đến sự làm van hơi chính).
việc của thiết bị tiêu dùng - Do không xử lý nước tốt, hàm
Thấp hơi. lượng tạp chất lơ lửng nhiều.
áp - Do hư hỏng bộ phân tách hơi.
137
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Tạp - Xảy ra do hư hỏng hoặc - Chất lượng nước nồi hơi kém, đặc
chất thủng bộ sấy hơi. biệt hàm lượng silica quá cao.
cuốn - Gây đóng cáu cặn trên - Các tạp chất lơ lửng và các hydrat
theo hơi cánh tua bin hơi, giảm hiệu kim loại trong nước cấp mang vào
Cao áp suất tua bin. nồi hơi do xử lý nước cấp không
tốt.
- Do xử lý hoá chất không hợp lý.
138
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Đối với các nồi hơi cao áp, tải nhiệt càng cao thì khả năng đóng cáu
cặn càng tăng. Vì vậy những nồi hơi này nên sử dụng nước chưng cất,
là nước có chất lượng cao. Khi đó các chất gây đóng cáu cặn thường là
các thành phần mang theo từ nước cấp và nước ngưng tụ như các ôxit
sắt và các chất như đồng, nikel, kẽm và hợp kim của chúng. Các thành
phần này lẫn vào nước cấp do quá trình ăn mòn, xói mòn tại các thiết
bị sử dụng trong hệ thống như đường ống, bầu ngưng ... Cáu cặn hình
thành từ các ôxit sắt có hệ số dẫn nhiệt rất nhỏ (khoảng 1 kcal/m.h.oC).
Chúng làm ngăn cản quá trình truyền nhiệt, tăng nhiệt độ kim loại, gây
quá nhiệt các bề mặt trao đổi nhiệt, giảm tuổi thọ nồi hơi. Đối với các
nồi hơi cao áp có tải nhiệt lớn, để đảm bảo kim loại sản suất các bề mặt
trao đổi nhiệt không bị quá nhiệt, cần đảm bảo rằng độ dày lớp cáu cặn
không quá 0.15 – 0.2 mm. Để giảm tác hại do cáu cặn gây nên ở nồi
hơi cao áp cần thực hiện các biện pháp sau:
Cần giảm tối đa lượng tạp chất mang theo từ nước cấp và nước
ngưng bằng cách sử dụng các biện pháp xử lý nước cấp nồi như
độ pH (hàm lượng axít), các chất loại bỏ sắt.
Định kỳ kiểm tra các bề mặt trao nhiệt tại những nơi có tải
nhiệt cao, xem xét mức độ đóng cáu cặn để áp dụng các hoá
chất tẩy rửa phù hợp.
139
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
ba vùng: ăn mòn trên đường nước cấp; ăn mòn trong nồi hơi; và ăn
mòn trên đường nước ngưng.
Ăn mòn trên đường nước cấp: Thường là ăn mòn điện hoá. Nếu nước
cấp nồi là trung tính hoặc có tính kiềm nhưng chứa các khí hoà tan như
ôxy thì kim loại sẽ bị ăn mòn theo các phản ứng sau:
Fe Fe2+ + 2e (1)
Hydroxit sắt hai (Fe(OH)2 hay ferrous) tạo ra sẽ tác dụng tiếp với ôxy
hoà tan để tạo thành hydroxit sắt ba (Fe(OH)3 hay ferric) còn được gọi
là rỉ vàng.
Fe(OH)2 + O2 + 2H2O 4 Fe(OH)3 (4)
Ăn mòn bên trong nồi hơi: Ở các nồi hơi thấp áp thường gây ra bởi
lượng ôxy hoà tan, các chất gây ăn mòn khác hoặc do nồng độ kiềm
cao. Cơ chế ăn mòn do lượng ôxy hoà tan như sau (Hình 6.1):
Bình thường bề mặt kim loại được bao phủ bởi một lớp ôxit sắt rất
mỏng, chúng đóng vai trò như là lớp màng bảo vệ. Nếu do lý do nào
đó lớp màng này bị phá vỡ (do chất lượng nước kém, ứng suất nhiệt),
bề mặt thép sẽ tiếp xúc trực tiếp với nước. Khi đó các phân tử sắt sẽ bị
ôxy hoá thành ion sắt Fe2+. Nếu trong nước có ôxy, sắt sẽ bị ăn mòn
như các phản ứng (3), (4). Hydroxit sắt tạo thành sẽ bám lên bề mặt bị
ăn mòn. Khi đó nồng độ ôxy tại bề mặt bị ăn mòn sẽ nhỏ hơn nồng độ
ôxy ở các vùng lân cận và hình thành 'pin nồng độ ôxy' cục bộ. Khi đó
vùng có nồng độ ôxy cao (cathode) có trữ lượng điện cao hơn và xuất
hiện dòng điện từ vùng có nồng độ ôxy cao đến vùng có nồng độ ôxy
thấp (anode), các điện tử tự do thì bị hút đến vùng có nồng độ ôxy cao
(cathode). Kết quả là các phân tử sắt ở vùng có nồng độ ôxy thấp sẽ
tiếp tục bị ăn mòn sâu vào phần vách trao nhiệt. Còn ở vùng có nồng
độ ôxy cao sẽ có phản ứng sau:
140
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
2H+ + 2e = H2 (5)
Nếu trong nước nồi hơi tồn tại các ion âm gây ăn mòn như Cl-, SO42-,
quá trình ăn mòn sẽ tăng lên nếu có sự xuất hiện của lượng ôxy hòa
tan.
Cathode Cathode
Cathode Fe2+ Cathode Fe2+
Nước màng bảo vệ Nước
màng bảo vệ
Fe Fe
Fe Anode Fe
2e Anode 2e
2e 2e
Hình 6.6. Cơ chế ăn mòn bên trong nồi hơi do lượng ôxy hòa tan.
Ăn mòn ở nồi hơi thấp áp cũng có thể do sự xuất hiện của các chất gây
ăn mòn trong nước cấp. Các chất gây ăn mòn như ôxit sắt, ôxit đồng
sinh ra trên đường nước cấp, chúng được đưa vào nồi hơi và lắng đọng
ở các vùng kém tuần hoàn, dưới đáy nồi hơi, bám thành cáu cặn trên
các bề mặt trao nhiệt có tải nhiệt cao. Điều này gây ra ăn mòn do sự
hình thành 'pin nồng độ ôxy' khi xuất hiện lượng khí ôxy hòa tan như
đã nêu trên.
Khi các bề mặt bốc hơi chịu tải nhiệt cao, chúng có thể bị quá nhiệt
cục bộ. Khi đó bề mặt kim loại có thể bị ăn mòn kiềm nếu nồng độ
kiềm cao. Tuy nhiên, hiện tượng ăn mòn kiềm hiếm khi xảy ra đối với
các nồi hơi thấp áp.
Để hạn chế ăn mòn các bề mặt trao đổi nhiệt ở nồi hơi thấp áp, cần áp
dụng các biện pháp sau:
Áp dụng các biện pháp hạn chế lượng ôxy hòa tan trong nước
cấp.
141
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Điều chỉnh độ pH và hạm lượng kiềm trong nước nồi hơi hợp
lý.
Tránh sự xâm nhập của các chất gây ăn mòn vào trong nước
nồi hơi bằng cách khai thác hợp lý các thiết bị phụ trên đường
nước ngưng và nước cấp.
Ăn mòn trên đường nước ngưng: Thường xảy ra do sự xuất hiện của
ôxit cácbon. Khi trong nước cấp nồi hơi có các muối carbonate và
bicarbonate, chúng sẽ bị phân rã dưới tác dụng của nhiệt độ cao sinh ra
khí ôxit cacbon.
2NaHCO3 Na2CO3 + H2O + CO2 (7)
Khí ôxit cacbon này đi cùng với hơi nước và cuối cùng hoà tan vào
nước ngưng tạo thành carbonic axít (H2CO3).
CO2 + H2O H2CO3 (9)
Nếu trong nước ngưng có ôxy, quá trình ăn mòn sẽ tiếp tục như sau:
Fe(HCO3)2 + 1/2O2 Fe2O3 + 4CO2 + 2H2O (13)
142
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
mòn trên đường nước cấp cần phải làm tốt việc xử lý nước cấp nhằm
điều chỉnh độ pH, lượng ôxy hoà tan và các tạp chất rắn gây ăn mòn.
Ăn mòn bên trong nồi hơi ở nồi hơi cao áp có thể do lượng ôxy hoà
tan, các tạp chất rắn hoặc do hàm lượng kiềm cao.
Vì nồi hơi cao áp sử dụng nước chưng cất có qua bộ khử khí nên
thường ít xảy ra ăn mòn do lượng ôxy hoà tan. Tuy nhiên ăn mòn
thường xảy ra ở thời gian khởi động hay khi tải nồi hơi thấp vì khi đó
hoạt động của bộ khử khí bị hạn chế. Để giảm hiện tượng ăn mòn này
nên điều chỉnh độ pH của nước nồi hơi tăng lên khi khởi động hoặc ở
chế độ nhỏ tải vì sự ăn mòn giảm khi độ pH tăng. Đồng thời tăng liều
lượng hoá chất xử lý ôxy hoà tan.
Cơ chế gây ăn mòn do lượng kiềm cao ở nồi hơi cao áp như sau: nếu
có bề mặt trao nhiệt nào đó bị quá nhiệt do tải nhiệt cao, tại đó các tạp
chất có khả năng hoà tan thấp lắng đọng trên bề mặt, còn các tạp chất
dễ hoà tan như NaOH tập trung xung quanh. Khi mật độ của chúng đạt
xấp xỉ 20% thì quá trình ăn mòn kim loại xảy ra mạnh theo phản ứng
sau:
Fe + 2NaOH Na2FeO2 + H2 (14)
Các hợp chất kiềm khác như K3PO4, K2HPO4 cũng gây ăn mòn. Để
tránh ăn mòn do kiềm gây ra cần xử lý hàm lượng phosphate để trung
hoà lượng kiềm dư.
Khi các tạp chất gây ăn mòn được mang vào từ nước cấp hoặc khi
nước biển làm mát dò lọt thì quá trình ăn mòn kim loai sẽ xảy ra.
Trường hợp thứ nhất, các chất gây ăn mòn bám vào các bề mặt có tải
nhiệt cao, chúng gây ăn mòn kim loại khi xuất hiện hàm lượng kiềm
cao, hoặc gây ăn mòn do xuất hiện pin nồng độ ôxy, nếu trong nước
tồn tại ôxy hòa tan. Trường hợp nước biển dò lọt vào nước cấp, ăn
143
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
mòn kim loại diễn ra như sau: magnesium chloride có trong nước biển
sẽ tác dụng với nước:
MgCl2 + 2H2O Mg(OH)2 + 2HCl (17)
Hai hợp chất tạo thành lại hoá hợp với nhau giải phóng MgCl2, và quá
trình ăn mòn diễn ra lặp đi lặp lại.
FeCl2 + Mg(OH)2 MgCl2 + Fe(OH)2 (19)
Khi này nếu trong nước có nồng độ kiềm nhất định, thì lượng kiềm này
sẽ trung hòa axít clohydric sinh ra. Tuy nhiên, hàm lượng kiềm dư này
không nhiều và sẽ hết nếu quá trình dò lọt nước biển xảy ra trong thời
gian dài.
6.2.3. Hiện tượng tạp chất và các hạt nước cuốn theo vào hơi
Hiện tượng tạp chất và nước cuốn theo vào hơi (carry-over) có thể xảy
ra trong hai trường hợp: bốc hơi mãnh liệt (priming) và bùng sôi
(foaming).
Bốc hơi mãnh liệt là hiện tượng xảy ra khi có sự bốc hơi mãnh liệt bên
trong nồi hơi. Điều này dẫn đến những hạt nước và bong bóng nước bị
cuốn theo, lẫn vào lượng hơi đưa đi tiêu dùng. Hiện tượng này thường
xảy ra khi tăng tải tiêu dùng hơi đột ngột (ví dụ khi mở nhanh van hơi
chính). Khi tải tiêu dùng hơi tăng đột ngột, áp suất trong không gian
hơi bị giảm đột ngột, gây ra sôi trào, làm cho một lượng nước bị cuốn
theo lẫn vào hơi nước.
Bùng sôi là hiện tượng̣ hóa hơi trong nồi hơi kèm theo sự suất hiện
nhiều bong bóng hơi. Các bóng hơi này kéo theo một lượng nước và
các tạp chất cuốn vào lượng hơi nước đưa đi sử dụng. Hiện tượng này
thường xảy ra khi trong nước lẫn váng dầu hoặc hàm lượng các tạp
chất lơ lửng trên hoặc gần khu vực mặt phân cách nước-hơi quá lớn.
144
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Cả hai hiện tượng trên đều gây ra lẫn nước vào trong hơi công tác và
có thể gây ra các tác hại sau:
Gây ra biến động mạnh mức nước nồi hơi và thường khó xác
định mức nước nồi trên ống thủy.
Các tạp chất và nước có thể cuốn vào các thiết bị như van an
toàn, ống thủy, thiết bị chỉ báo mức nước từ xa, ống nối áp kế
gây sai số các thiết bị trên.
Một lượng nước cuốn theo hơi đọng lại trên các đoạn ống, thiết
bị gây hiện tượng búa nước (water hammer – xem thêm chương
Khai thác nồi hơi) làm tắc các ống, thậm chí vỡ ống.
Khi xảy ra bùng sôi mức nước nồi hơi có thể sụt bất ngờ và
không ổn định. Điều này có thể làm cho các thiết bị bảo vệ mức
nước hoạt động, gây báo động hoặc dừng nồi hơi.
Ở các nồi hơi áp suất cao cấp hơi cho tua bin, các tạp chất và
nước cuốn theo hơi gây đóng cáu cặn trên cánh tua bin, làm
giảm hiệu suất tua bin, gây ra hiện tượng thủy kích, phá hỏng
tua bin. Hơi lẫn nước và tạp chất có thể tràn vào bộ sấy hơi,
gây đóng cáu cặn trên các cụm ống. Lượng nước cuốn theo vào
bộ sấy hơi tiếp tục nhận nhiệt, hóa thành hơi, có thể làm tăng
áp suất đột ngột ở bộ sấy hơi, gây nổ van an toàn của bộ sấy
hơi.
Để tránh các hiện tượng trên cần chú ý không thay đổi tải nồi hơi đột
ngột, không khai thác nồi hơi với mức nước nồi quá cao. Đặc biệt cần
tuân thủ chặt chẽ quy trình giám sát, xử lý nước nồi hơi, thực hiện gạn
mặt, xả đáy thường xuyên để xả cáu cặn và các tạp chất lơ lửng trên bề
mặt phân cách.
Khi xảy ra hiện tượng sôi trào hoặc bùng sôi trên cần làm các bước
sau:
145
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Nếu mức nước nồi quá cao cần xả bớt để duy trì mức nước bình
thường.
Đóng van hơi chính sau đó mở từ từ. Nếu hiện tượng gây ra do
tăng tải nồi hơi đột ngột, cần giảm cường độ đốt nhiên liệu để
mức nước ổn định sau đó tăng từ từ (chỉ áp dụng với các nồi
hơi có thể thay đổi chế độ cấp nhiên liệu).
Nếu mật độ tạp chất trong nước quá cao, cần tăng cường gạn
mặt, xả đáy để giảm mật độ tạp chất.
Kiểm tra lại sự hoạt động của van an toàn, xả nước đến áp kế,
ống thủy để khẳng định sự làm việc bình thường của chúng.
146
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hình 6.7. Lọc nước cấp nồi hơi trong két vách.
147
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Ở các nồi hơi thấp áp, các thành phần gây cáu cặn chủ yếu là các ion
cứng Ca2+, Mg2+. Vì vậy thường chỉ áp dụng các bộ làm mềm nước
thông thường để loại bỏ chúng. Mục đích của việc làm mềm nước là
loại bỏ các ion cứng như Ca2+, Mg2+ trong nước cấp. Để loại bỏ các ion
cứng này, người ta sử dụng biện pháp thay thế chúng bằng các ion
khác, thường là Na+. Vì vậy các chất sử dụng để làm mềm nước cho
nồi hơi thấp áp thường có gốc sodium như đá bọt, một số loại nhựa.
Mg2+ HCO-3
Ca2+ Cl- NaCl
Na+ SO-4
SiO2
HCO-3
+
Na Cl-
SO-4
SiO2
148
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Hình 6.8. Trao đổi ion làm mềm nước nồi hơi
Hình 6.3 mô tả mô hình làm mềm nước bằng trao đổi ion. Ví dụ, nếu
trong nước có chứa Ca2+, phản ứng trao đổi ion dương natri sẽ xảy ra
như sau:
CaSO4 + R-Na2 R-Ca + Na2SO4 (phản ứng làm mềm) (20)
Trong phản ứng trên, thành phần cứng, Ca2+, đã được thay thế bằng ion
Na+, muối Na2SO4 hình thành không gây cáu cặn bên trong nồi hơi.
Thành phần R-Ca được giữ lại ở thiết bị làm mềm nước.
Khi các ion Ca2+ được thay thế bởi các ion Na+ và được giữ lại ở thiết
bị làm mềm, có thể dùng NaCl để tái sinh chất trao đổi ion như sau:
R-Ca + 2NaCl R-Na2 + CaCl2 (phản ứng tái sinh) (21)
149
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
150
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
(khoảng 105 – 125oC). Ở nhiệt độ này, lượng khí hòa tan sẽ tách ra và
được xả ra ngoài cùng với một lượng nhỏ hơi nước. Nước đã được khử
khí có nồng độ khí hoà tan nhỏ hơn 0.007mg/l.
Bảng 6.2. Một số hóa chất xử lý nước nồi hơi tàu thủy
Hoá chất
Chức năng
Tên Công thức
Hoá chất điều chỉnh độ pH, nồng độ kiềm Sodium hydroxide NaOH
trong nước cấp và nước nồi hơi, tránh cáu
cặn, ăn mòn Sodium carbonate Na2CO3
Sodium phosphate Na3PO4
Sodium dihydrogen phosphate NaH2PO3
Sodium hexametaphosphate (NaPO2)6
Phosphoric acid H3PO4
Sodium tripolyphosphate
Sulfuric acid H2SO4`
Hoá chất làm mềm: chống cáu cặn bằng Sodium hydroxide NaOH
cách làm mất độ cứng, tạo thành các chất
không hoà tan lắng xuống đáy Sodium phosphate Na3PO4
Potasium phosphate K3PO4
Sodium hydrogenphosphate Na2HPO4
Sodium polyphosphate
151
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Hoá chất hoà tan cặn: hoà tan cặn để cặn Synthetic polymer
lắng xuống và xả ra ngoài, tránh đóng cáu
cặn Tannin
Lignin
Starch
Hoá chất khử khí: khử các khí hoà tan Sodium sulfite Na2SO4
trong nước, tránh ăn mòn
Sodium hydrogen sulfite NaHSO4
Hydrazine N2 H4
Saccharoid
Tannin
Hoá chất chống bùng sôi Surfactant
Việc xử lý nước bằng hoá chất nhằm đạt được các mục đích sau:
Các thành phần dễ đóng cáu cặn được chuyển thành cặn bùn xả
ra ngoài bằng con đường xả đáy.
Độ pH của nước nồi hơi được điều chỉnh để có nồng độ kiềm
phù hợp tránh ăn mòn kim loại.
Loại trừ các khí không hoà tan như ôxy, ôxit cacbon tránh ăn
mòn kim loại.
Loại trừ ăn mòn trên đường nước ngưng do khí ôxit cacbon và
ôxy.
Tránh các tạp chất lẫn vào hơi, đảm bảo chất lượng hơi.
Các hoá chất gốc phosphate dùng cho nồi hơi thấp áp:
Các hoá chất gốc phosphate xử lý nước dùng cho nồi hơi thấp áp bao
gồm: sodium phospate (Na3PO4); sodium hydrogenphosphate
152
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Các thành phần CaCO3, CaSiO3, MgSiO3 dễ dàng kết tủa bám trên các
bề mặt trao đổi nhiệt tạo thành cáu cặn.
Nếu dùng các hoá chất gốc phosphate, sẽ có các phản ứng sau:
10Ca(HCO3)2 + 6Na3PO4 + 2NaOH [Ca3(PO4)2]3.Ca(OH)2+10CO2+10H2O (27)
Các sản phẩm tạo thành từ các phương trình trên đều là những chất hoà
tan. Trong các phương trình trên, các chất có gạch chân là các hoá chất
sử dụng. Các phương trình trên cũng cho phép xác định lượng hoá chất
cần sử dụng nếu biết hàm lượng các tạp chất cần phải xử lý trong nước
nồi hơi.
Các hoá chất hoà tan cặn bùn:
153
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Khi sử dụng hoá chất các chất tạo thành sau phản ứng đều là các chất
hoà tan và được xả ra ngoài bằng xả đáy. Tuy nhiên một phần nhỏ có
thể vẫn lắng đọng trên các bề mặt trao nhiệt, đặc biệt là ở các vùng ít
lưu động như đáy nồi hơi. Để tránh hiện tượng này người ta dùng một
số hoá chất hoà tan cặn như tannin, starch, synthetic polymer.
Các chất khử ôxy:
Các chất khử ôxy nhằm làm giảm lượng ôxy hoà tan, tránh ăn mòn.
Các hoá chất khử ôxy phổ biến là sodium sulfite (Na2SO3) và
hydrazine (N2H4).
Với sodium sulfite phản ứng khử ôxy như sau:
2Na2SO3 + O2 2Na2SO4 (32)
Phản ứng này diễn ra chậm ở nhiệt độ thấp nhưng tăng nhanh khi nhiệt
độ đạt trên 500C. Tuy nhiên sodium sulfite bị phân rã ở nhiệt độ cao
tạo thành Na2S và SO2 là các chất gây ăn mòn nồi hơi và đường nước
ngưng. Phản ứng phân rã như sau:
Na2SO3 + H2O 2NaOH + SO2 (33)
Vì vậy sodium sulfite không được dùng cho các nồi hơi cao áp.
Với hydrazine phản ứng khử ôxy như sau:
N2H4 + O2 N2 + 2H2O (35)
Hoặc:
6Fe2O3 + N2H4 4Fe3O4 + N2 + H2O (36)
Sản phẩm của các phản ứng trên đều là khí nitơ và nước nên lượng tạp
chất rắn hoà tan không tăng. Do vậy hydrazine được sử dụng rất tốt
cho nồi hơi cao áp và cả nồi hơi thấp áp. Tuy nhiên ở nhiệt độ khoảng
2200C, hydrazine bị phân hủy theo phản ứng sau:
154
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
Sản phẩm ammonia gây ăn mòn các vật liệu đồng sử dụng trong hệ
thống và trên đường nước ngưng. Vì vậy cần chú ý không sử dụng quá
liều lượng hydrazine.
155
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
chỉnh, từ đó quyết định phương pháp xử lý nước. Dưới đây trình bày
một số thao tác và một số bài hoá nghiệm cũng như liều lượng một số
hóa chất dùng xử lý nước. Các bài hoá nghiệm này được đưa ra bởi
hãng ASHLAND CHEMICAL AMEROID và đang được áp dụng rộng
rãi cho các nồi hơi phụ trên các tàu thủy hiện nay với áp suất làm việc
đến 32kG/cm2.
156
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
157
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Vì vậy có ký hiệu độ kiềm "P" và độ kiềm "M" (độ kiềm "M" đôi khi
còn được gọi là độ kiềm "T" - Total Alkalinity).
1. Lấy 50ml mẫu nước đã được lọc, làm mát rồi đổ vào bát thử.
2. Nhỏ vào bát 4 giọt phenolphthalein.
3. Nếu nước chuyển sang màu hồng là có tính kiềm; nếu không
thì không mang tính kiềm.
4. Nhỏ từ từ axít sulfuric N/10 vào hỗn hợp và liên tục khuấy đều
cho đến khi màu hồng biến mất. Hỗn hợp trở về trạng thái
trung tính.
5. Xác định lượng axit sulfuric đã sử dụng (xem trên ống buret)
rồi suy ra hàm lượng kiềm theo bảng dưới. Giữ mẫu thử để xác
định hàm lượng kiềm tổng.
Sau khi có kết quả, sử dụng hoá chất xử lý hàm lượng kiềm GCTM theo
liều lượng ghi trong bảng. GCTM là một hợp chất kiềm cô đặc ở dạng
lỏng dùng để trung hoà axit, chống ăn mòn. GCTM tạo ra môi trường có
độ pH hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các phản ứng giữa các chất
cứng với các hoá chất xử lý phosphate.
158
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
159
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
AMERZINE là một hoá chất khử ôxy ở dạng lỏng dùng để khử ôxy
tráng ăn mòn nồi hơi và đường nước ngưng. AMERZINE giúp tránh
ăn mòn sắt, đồng và giúp hình thành lớp oxit sắt, oxit đồng bảo vệ. Để
đạt được tác dụng bảo vệ cần phải luôn duy trì một lượng dư hydrazine
trong nước nồi hơi.
160
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
4. Đổ từng thìa axit gallic và khuấy đều cho đến khi màu hồng
biến mất.
5. Đặt pin thử vào trong xilanh thử.
6. Đo nhiệt độ mẫu thử và chỉnh nút bù nhiệt độ theo cùng giá trị
nhiệt độ.
7. Đo độ dẫn điện theo bằng cách xoay nút điều chỉnh độ dẫn
điện tới vị trí cả đèn đỏ và đèn xanh cùng sáng.
8. Sau khi hoàn thành, tắt thiết bị thử và nhúng pin thử vào nước
sạch để dùng cho các lần thử sau.
SLCC-ATM là một hợp chất amin hữu cơ dùng để giảm ăn mòn trên
đường nước ngưng. Hợp chất này ngưng tụ cùng với hơi nước, tạo ra
môi trường có độ pH phù hợp, trung hoà sự ăn mòn do oxit cacbon.
161
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Một hãng cung cấp hoá chất xử lý nước nổi tiếng khác, UNITOR
CHEMICALS, Na uy, cũng cung cấp một số bài hoá nghiệm cho các
nồi hơi phụ nư sau.
6.5. Bài hoá nghiệm nưóc nồi hơi của hãng Unitor Chemicals
162
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
5. Để đảm bảo độ chính xác, các hoá chất dùng cho hoá nghiệm
phải được bảo quản cẩn thận trọng các lọ kín, để nơi khô ráo,
mát.
6. Trước khi điền kết quả hoá nghiệm vào mẫu có sẵn cần ghi đầy
đủ các thông tin cần thiết như: tên tàu, chủ tàu; kiểu loại nồi
hơi, áp suất công tác; loại nước sử dụng; hoá chất xử lý nước;
tháng, năm vào các ô có sẵn.
7. Sử dụng bút bi mực đen hoặc bút chì để tô đen các ô chữ nhật
nhỏ trên bảng kết quả hoá nghiệm có sẵn. Kết quả hoá nghiệm
sẽ được in ra ba bản. Một bản lưu tại tàu, một bản gửi cho chủ
tàu, bản màu xanh gửi cho hãng.
163
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
164
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
5. Điền kết quả vào mẫu theo dõi có sẵn. Hàm lượng ion Cl lớn
nhất cho phép là 200 ppm. Nếu lớn hơn 200 ppm cần tăng
cường gạn xả nước nồi hơi.
6. Nếu hàm lượng ion Cl quá lớn có thể giảm lượng mẫu thử
xuống 25ml khi ấy kết quả thực tế sẽ tăng thêm 40 ppm cho
mỗi viên thuốc thử sử dụng. Nếu hàm lượng quá nhỏ có thể
tăng mẫu thử lên 100ml, và kết quả sẽ giảm xuống 10 ppm cho
mỗi viên thuốc thử.
165
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
166
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
nồi hơi với nhiên liệu nặng cần phải đưa hệ thống hâm nhiên
liệu vào hoạt động. Khi ấy nhiên liệu sẽ được tuần hoàn qua
bầu hâm nhờ bơm tuần hoàn nhiên liệu. Nhiệt độ hâm nhiên
liệu được điều khiển tự động nhờ rơle nhiệt. Hệ thống hâm
nhiên liệu còn được trang bị chức năng bảo vệ nhiệt độ hâm
nhiên liệu (không cho phép phun nhiên liệu ở nhiệt độ thấp vào
trong buồng đốt nồi hơi và báo động khi nhiệt độ hâm nhiên
liệu quá cao).
Kiểm tra sự chỉ báo của áp kế áp suất hơi: van chặn tới áp kế
phải được mở hoàn toàn, kim chỉ báo áp suất phải chỉ 0 hoặc
lớn hơn không một chút trong trường hợp áp kế đặt thấp hơn
mức nước trong nồi hơi.
Kiểm tra các van nối với khoang nồi hơi như các van xả mặt,
xả đáy, van lấy mẫu. Các van này phải ở trạng thái đóng.
Kiểm tra van hơi chính bằng cách mở van sau đó đóng lại.
Kiểm tra cơ cấu mở van an toàn sự cố.
Mở van xả khí để xả khí đọng trong nồi hơi ra ngoài khi đốt nồi
hơi.
Kiểm tra sự hoạt động của các thiết bị chỉ báo, cảm ứng, bảo vệ
khác theo hướng dẫn của nhà chế tạo.
Các công việc chuẩn bị trên cần được thực hiện đầy đủ khi mới đốt nồi
hơi lần đầu, hoặc sau khi sửa chữa, sau khi dừng lâu ngày. Khi nồi hơi
đang trong tình trạng khai thác bình thường, tuỳ theo điều kiện cụ thể
mà các công việc trên có thể không cần thực hiện đầy đủ.
167
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
chế độ tự động. Chế độ đốt nồi hơi bằng tay chỉ sử dụng để đốt thử sau
khi thực hiện các công việc sửa chữa, bảo dưỡng hoặc trong các trường
hợp đặc biệt. Sau khi thực hiện các công việc chuẩn bị, việc đưa nồi
nơi về chế độ tự động hoạt động được thực hiện bằng cách cấp nguồn
điều khiển và chọn vị trí tự động cho thiết bị tự động điều khiển nồi
hơi. Khi ấy bộ tự động điều khiển nồi hơi sẽ được đưa vào hoạt động
và tự động đưa các thiết bị vào làm việc như: quạt gió, bướm gió, bơm
nhiên liệu tuần hoàn, hệ thống hâm nhiên liệu, thiết bị đánh lửa, van
điện từ cấp nhiên liệu theo chương trình đã được định trước.
Trong trường hợp đốt nồi hơi bằng tay, cần thực hiện điều khiển các
thiết bị theo theo các bước sau:
Bật công tắc lựa chọn về vị trí điều khiển bằng tay
(MANUAL).
Khởi động quạt gió và bơm nhiên liệu.
Sau khoảng 30 giây (giai đoạn thông gió trước), bật thiết bị
đánh lửa.
Sau 1-2 giây bật công tắc điều khiển van cấp nhiên liệu. Nhiên
liệu phun vào buồng đốt và cháy khi gặp tia lửa điện.
Trong suốt quá trình khởi động cần quan sát để khẳng định các thiết bị
được đưa vào hoạt động đúng thời điểm và hoạt động tốt; nhiên liệu
cháy ngay khi được phun vào buồng đốt. Nếu việc đốt không thành
công, hệ thống tự động bảo vệ nồi hơi sẽ tự động dừng việc cấp nhiên
liệu và thực hiện thông gió sau trước khi dừng. Thông thường các nồi
hơi phụ tàu thủy được thiết kế để bảo vệ một số thông số sau: nhiệt độ
nhiên liệu thấp (khi dùng dầu FO); áp suất nhiên liệu thấp; mức nước
nồi hơi thấp; nồi hơi không cháy. Các thông số trên được tự động giám
sát và bảo vệ trong suốt thời kỳ đốt nồi hơi cũng như khi hệ thống
đang làm việc. Nếu một trong các thông số bảo vệ bị vi phạm, hệ thống
168
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
sẽ tự động dừng, đồng thời kích hoạt tín hiệu báo động dừng nồi hơi
(đèn, còi). Khi ấy cần xác định nguyên nhân bằng cách quan sát các
đèn tín hiệu bảo vệ, khắc phục nguyên nhân và ấn nút hoàn nguyên
(RESET) để xoá tín hiệu bảo vệ trước khi khởi động lại nồi hơi.
169
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
phục rò rỉ bằng cách xiết lại các mặt bích, cần phải dừng nồi
hơi để xử lý.
Thường xuyên theo dõi mức nước nồi hơi. Khi đốt nồi hơi từ
trạng thái nguội, mức nước nồi sẽ tăng dần lên khi nhiệt độ
nước tăng. Nếu mức nước quá cao, cần xả bớt qua các van xả
mặt, xả đáy. Nếu không xả kịp thời, hệ thống có thể sẽ báo
động mức nước nồi hơi cao.
Theo dõi sự tăng áp suất hơi.
Khi áp suất hơi tăng tới khoảng ¼ áp suất định mức, thực hiện
gạn mặt, xả đáy nồi hơi để xả váng tạp chất và cặn lắng ra khỏi
nồi hơi (xem quy trình xả ở chương trước).
Thực hiện sấy đường ống hơi. Khi áp suất hơi tăng tới khoảng
½ áp suất định mức, có thể thực hiện việc sấy đường ống dẫn
hơi bằng cách hé mở van hơi chính để cấp hơi sấy. Trong quá
trình sấy phải mở các van xả nước đọng trong hệ thống đường
ống cho đến khi thấy hơi thoát ra. Việc cấp hơi đến hệ thống
mà không tiến hành sấy đường ống sẽ có thể gây ra hiện tượng
búa chất lỏng (water hammer). Hiện tượng này xảy ra khi hơi
có áp suất cao được cấp tới hệ thống đường ống còn nguội.
Khi đó sẽ xảy ra chuyển động va đập của dòng hơi với lượng
nước ngưng tụ trong đường ống. Điều này gây ra các xung thủy
lực có thể làm vỡ ống hơi hoặc xé rách các gioăng đệm và cản
trở chuyển động của dòng hơi trong ống.
Mở hoàn toàn van hơi chính để cấp hơi đi tiêu dùng khi áp suất
hơi đạt tới giá trị định mức. Việc mở van hơi chính để cấp hơi
đi công tác phải được thực hiện từ từ để tránh giảm áp suất đột
ngột bên trong nồi hơi. Điều này có thể gây ra hiện tượng sôi
trào, gây hư hỏng cho hệ thống (xem chương trước).
170
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
171
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
thường cứ mỗi ba tháng cần kiểm tra các thiết bị an toàn và lập
báo cáo. Trong báo cáo cần có các thông tin sau: kết quả kiểm
tra các chức năng bảo vệ (mức nước, quá trình cháy, nhiệt độ
nhiên liệu, áp suất nhiên liệu), kết quả hóa nghiệm nước nồi hơi
và phương án xử lý nước.
Định kỳ thổi muội các bề mặt trao đổi nhiệt phía khí lò. Thông
thường, hơi bão hòa lấy từ trống hơi được sử dụng để thổi
muội. Các hệ thống nồi hơi phụ tàu thủy thường được trang bị
cơ cấu thổi muội bằng tay. Việc thổi muội được thực hiện bằng
cách cấp hơi đến cơ cấu thổi muội và xoay đều đầu phun hơi để
thổi sạch muội trên các bề mặt trao nhiệt.
7.2. Một số hư hỏng thường gặp khi khai thác nồi hơi
Khi khai thác nồi hơi có thể gặp một số sự cố. Dưới đây trình bày một
số sự cố tiêu biểu khi khai thác nồi hơi.
172
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
nồi hơi thấp. Cạn nước nồi chưa nghiêm trọng xảy ra khi hệ thống cấp
nước nồi hơi không đảm bảo cấp đủ nước cho nồi hơi. Ví dụ khi bơm
cấp nước nồi hơi hỏng, hết nước trong két nước cấp, thiết bị cảm ứng
mức nước nồi hơi và điều khiển bơm cấp nước hoạt động không chính
xác.
Khi gặp hiện tượng này cần kiểm tra lại chính xác mức nước trong các
ống thủy bằng cách xả nước thông các ống thủy. Nếu mức nước cạn
cần kiểm tra hệ thống cấp nước để xác định chính xác nguyên nhân và
tìm cách khắc phục. Nếu cạn nước nồi mà hệ thống không báo động
mức nước nồi hơi thấp, cần kiểm tra và khôi phục sự hoạt động của
thiết bị báo động mức nước nồi hơi thấp.
thường xuyên kiểm tra sự hoạt động của thiết bị tự động bảo vệ khi
mức nước nồi hơi thấp và sửa chữa ngay nếu chúng hoạt động không
tin cậy.
174
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
175
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
Các hệ thống nồi hơi hiện nay đều được thiết kế để tự động điều khiển,
bảo vệ các thông số làm việc. Khi các thông số không đảm bảo, hệ
thống sẽ tự động dừng nồi hơi (dừng phun nhiên liệu) và phát tín hiệu
báo động. Khi đó cần xác định thông số được bảo vệ bằng cách quan
sát bảng đèn báo động bảo vệ nồi hơi kết hợp xem xét các hệ thống để
tìm ra nguyên nhân. Sau khi khắc phục cần nhấn nút hoàn nguyên để
xoá tín hiệu bảo vệ, đưa hệ thống trở lại trạng thái tự động làm việc.
Khi cần thiết có thể đốt lại nồi hơi bằng tay để phát hiện chính xác
nguyên nhân và sửa chữa nếu cần thiết.
176
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
2. Trước khi dừng, cần tiến hành thổi muội các bề mặt trao đổi
nhiệt.
3. Khi áp suất nồi hơi giảm xuống khoảng 0.4 MPa, cần mở các
van xả để xả hết cáu cặn trong nồi hơi.
4. Để nồi hơi nguội tự nhiên cho đến khi có thể tiến hành các
công việc tháo, vệ sinh.
5. Cần cách ly hoàn toàn nồi hơi khỏi các hê thống phục vụ trước
khi thực hiện các công việc tháo lắp.
Sau khi nồi hơi đã nguội, nước đã xả hết, công việc vệ sinh phía không
gian nước có thể thực hiện như sau:
1. Tháo các cửa kiểm tra ở khu vực không gian hơi, không gian
nước, cửa xả bùn để quan sát tình trạng các bề mặt trao đổi
nhiệt.
2. Nếu cần thiết vệ sinh, có thể cạo cáu cặn bằng phương pháp cơ
khí. Khi cần thiết có thể tẩy rửa cáu cặn bằng hóa chất.
3. Sau khi cạo rửa cáu cặn, cần rửa sạch các bề mặt trao đổi nhiệt
bằng nước sạch, kiểm tra các ống nước bằng bi thông ống hoặc
que thông. Trường hợp không thể dùng que thông thì sử dụng
vòi nước hoặc khí nén để kiểm tra.
4. Kiểm tra kỹ bên trong trước khi lắp ráp.
5. Thay thế các giăng làm kín, lắp lại các cửa kiểm tra
Công việc vệ sinh phía không gian khí lò có thể tiến hành như sau:
1. Tháo các cửa thăm phía khí lò để chuẩn bị cho việc vệ sinh.
2. Có thể sử dụng các que thông để vệ sinh các ống lửa, hoặc kết
hợp sử dụng vòi nước. Để hòa tan muội và thổi sạch cáu cặn,
nên sử dụng nước nóng với áp suất cao. Việc rửa bằng nước
177
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
nóng phải được thực hiện liên tục cho đến khi kết thúc, vì nếu
dừng lại nửa chừng, phần cáu cặn chưa được thổi sạch có xu
hướng biến cứng. Điều này gây khó khăn cho việc vệ sinh sau
này.
3. Sau khi vệ sinh sạch cáu muội, cần tiến hành thông gió để sấy
khô không gian khí lò. Nếu có thể, sử dụng không khí được
sưởi nóng để sấy.
4. Lắp lại các cửa thăm.
178
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
hơi cũ do cơ quan Đăng kiểm quy định tùy theo tình trạng kỹ thuật
hiện tại, nhưng ít nhất cũng phải bằng giá trị áp suất công tác thiết kế.
Thông thường sau khi tiến hành các công việc sửa chữa như thay ống,
việc thử thủy lực có thể thực hiện ở áp suất bằng 1.25 lần giá trị áp
suất công tác.
Việc thử thủy lực được thực hiện như sau:
1. Tháo, bịt tất cả các đường nối với khoang nồi hơi để cô lập nồi
hơi.
2. Tháo tất cả các cơ cấu chằng giữ nồi hơi, lắp các cơ cấu để đo
giãn nở, chuyển vị tại một số nơi xung quanh nồi hơi như
buồng đốt, các phía của nồi hơi.
3. Cấp nước vào đầy nồi hơi, sử dụng nước nóng nếu có thể.
4. Nối bơm tạo áp suất, áp kế (thường sử dụng bơm tay kiểu
piston).
5. Ghi lại giá trị của các đồng hồ chỉ báo chuyển vị.
6. Nâng dần áp suất thử lên giá trị quy định. Cần chắc chắn rằng
áp suất thử sẽ tăng đều và nhanh. Nếu áp suất thay đổi theo
động tác bơm có nghĩa là trong hệ thống còn không khí, cần
phải xả hết không khí.
7. Trong thời gian tăng áp suất, cần chú ý theo dõi toàn bộ nồi hơi
để kịp thời phát hiện dò lọt hoặc biến dạng các thành phần kết
cấu nồi hơi. Nếu phát hiện rò lọt, cần khắc phục trước khi thử
lại.
8. Khi đã đạt giá trị áp suất thử cần đọc và ghi lại giá trị tại các
đồng hồ đo chuyển vị.
9. Duy trì giá trị áp suất thử liên tục theo yêu cầu của đăng kiểm
viên, hoặc trong mọi trường hợp không ít hơn 10 phút.
180
NỒI HƠI TÀU THỦY TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng
10. Khi đã thỏa mãn, xả nước khỏi nồi hơi và ghi lại giá trị chuyển
vị. Cần chắc chắn rằng các giá trị chuyển vị này trở về đúng
trạng thái trước khi thử.
11. Sau khi kết thúc thử thủy lực, có thể xả hết nước khỏi nồi hơi
để tiến hành các kiểm tra cần thiết.
181
TS. Lê Văn Điểm - KS. Hoàng Anh Dũng NỒI HƠI TÀU THỦY
[1] Nguyễn Hồng Phúc, Nguyễn Đại An. Hệ động lực hơi nước. NXB
Trường Đại học Hàng hải. 2000
[2] Đỗ Văn Thắng. Hỏi đáp về vận hành thiết bị lò hơi. NXB Giáo
dục. 2008
[3] Phạm Lê Dần. Nguyễn Công Hân. Công nghệ lò hơi và mạng
nhiệt. NXB Khoa học và Kỹ thuật. 2007
182