You are on page 1of 104

GIÁO TRÌNH

Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt

Chương 1
RÈN KĨ NĂNG ĐỌC

1.1 . Mục đích yêu cầu rèn kĩ năng đọc


Đọc là hoạt động nhận tin thực hiện được nhờ sự tham gia đồng thời của trung
ương thần kinh, thị giác và bộ máy phát âm. Đọc là dùng mắt để chuyển kí hiệu
chữ viết trong văn bản thành dòng âm thanh ngôn ngữ (vang lên trong không khí
hoặc trong trí não). Sau đó dùng các thao tác tư duy để người đọc thông hiểu nội
dung văn bản.
Dựa vào những tiêu chí khác nhau có cách gọi tên hoạt động đọc khác nhau.
Dựa vào tiêu chí âm thanh vang hay không vang trong không khí có hình thức đọc
thành tiếng, đọc thầm. Dựa vào số người tham gia hoạt động đọc có hình thức đọc
cá nhân, đọc đồng thanh (nhóm, tổ, lớp). Dựa vào chất lượng của hoạt động đọc có
hình thức đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Dù đọc với hình thức nào, đích cuối
cùng của hoạt động đọc vẫn là để hiểu nội dung những điều đã đọc. Khi đọc, người
đọc phải nhận ra hình thức âm thanh của từng tiếng, từng từ, từng câu hiểu được ý
nghĩa của từ, câu… đồng thời bộ máy phát âm phải phát ra tiếng để người đọc và
những người khác cùng nghe.
Hoạt động đọc góp phần thúc đẩy xã hội loài người không ngừng phát triển.
Thông qua hoạt động đọc, con người tiếp thu được các sản phẩm văn hóa tinh thần
của lớp người đi trước, làm giàu kiến thức, kinh nghiệm cá nhân, có cơ sở để kế
thừa, sáng tạo, đổi mới. Đồng thời, đọc cũng là một hoạt động giúp mỗi cá nhân
biết tự học, tự hoàn thiện bản thân, có nhiều điều kiện cống hiến cho xã hội.
Đọc là hình thức giao tiếp bằng chữ viết, tồn tại ở mọi nơi mọi lúc. Đối với
người đi học, đọc là hoạt động học tập để tích lũy kiến thức. Đối với nhà khoa học,
đọc là một hoạt động nghiên cứu, khám phá. Đối với phát thanh viên, đọc là hoạt
động truyền tin. Đối với một số người, đọc là một nhu cầu giải trí.
Trong nhà trường, công việc giảng dạy, giáo dục phần lớn dựa vào sách. Sách
là người thày thứ hai đối với học sinh. Các trang sách mở ra cho người học những
hiểu biết phong phú về thiên nhiên, xã hội, đất nước, con người… Thông qua việc
đọc sách, năng lực sử dụng ngôn ngữ, tư duy của học sinh được phát triển. Học
sinh được bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ, hình thành nhân cách, phát triển toàn diện.
Để dạy học có hiệu quả, giáo viên phải có năng lực đọc và biết hướng dẫn
học sinh rèn luyện kĩ năng đọc. Ở trường Tiểu học, kĩ năng đọc của học sinh được
rèn luyện chủ yếu khi học các phân môn: Học vần, Tập đọc, Kể chuyện… Yêu cầu
đối với người giáo viên là phải biết đọc mẫu và hướng dẫn cho học sinh tập đọc.
Đọc mẫu là một hoạt động đặc thù để hình thành kĩ năng đọc cho học sinh. Vì vậy

1
người giáo viên Tiểu học cần kiên trì, tự giác rèn luyện thường xuyên để có giọng
đọc hay cho học sinh noi theo.

1.2 . Luyện kĩ năng đọc thành tiếng


1.2.1. Kĩ thuật đọc thành tiếng
1.2.1.1. Khái niệm
Đọc thành tiếng là hoạt động dùng mắt để nhận biết một văn bản viết và
đồng thời sử dụng cơ quan phát âm phát ra thành âm thanh để người khác nghe
được, là hoạt động chuyển ngôn bản viết thành ngôn bản nói.
Căn cứ vào yêu cầu và chất lượng đọc, hình thức đọc thành tiếng được chia
thành hai mức độ: đọc đúng và đọc diễn cảm. Sự phân chia này chỉ có ý nghĩa
tương đối, bởi vì muốn đọc diễn cảm, trước hết phải đọc đúng, trong đọc đúng
đã có yêu cầu diễn cảm.
1.2.1.2. Đọc đúng
- Đọc rõ tiếng, rõ lời, đúng chính âm
Đọc đúng chính âm là phát âm đúng hệ thống âm chuẩn của tiếng Việt. Hệ
thống phụ âm đầu, hệ thống nguyên âm giữa vần, hệ thống âm cuối vần, hệ
thống thanh điệu.
Ví dụ:
+ Tránh nhầm âm đầu l/n, vần ưu/iu; ươu/iêu... (Học sinh Bắc Bộ)
+ Tránh nhầm âm cuối n/ng; t/c, âm đầu v/d, vần ươu/ưu… (Học sinh
Nam Bộ)
+ Tránh nhầm thanh hỏi/ngã; hỏi/ nặng… (Học sinh Trung Bộ)
- Ngắt nghỉ hơi đúng chỗ theo dấu câu và ngữ nghĩa
Ngắt giọng (ngừng hơi, nghỉ hơi) dựa vào dấu câu gọi là ngắt giọng logic.
Kí hiệu nghỉ hơi ngắn (/), kí hiệu nghỉ hơi dài (//). Các dấu câu có vai trò rất lớn
trong việc mách bảo ta ngắt hơi ở chỗ nào, ngắt hơi dài hay ngắn. Ở vị trí dấu
phẩy, ý của câu chưa hoàn chỉnh, lời văn còn tiếp tục khi đọc ngắt hơi ngắn. Ở
vị trí dấu chấm, lời nói đã trọn vẹn, khi đọc nghỉ hơi dài hơn so với dấu phẩy.
Dấu chấm hết đoạn nghỉ dài hơn so với dấu chấm hết câu. Dấu chấm lửng, khi
đọc nghỉ lâu hơn ngắt giọng dấu chấm một chút. Ngắt hơi ở chỗ có dấu chấm
phẩy thường lâu hơn ở chỗ có dấu phẩy nhưng ngắn hơn ngắt hơi ở dấu chấm.
Ví dụ: Ở mảnh đất ấy, tháng giêng/ tôi đi đốt bãi, đào ổ chuột; tháng tám nước
lên, tôi đánh giậm, úp cá, đơm tép; tháng chín, tháng mười, đi móc con
da dưới vệ sông.
(Nguyễn Khải)
Trong khi đọc, nhiều khi không có dấu câu vẫn cần phải ngắt giọng. Vì
ngắt giọng mới làm rõ nghĩa của văn bản.
+ Giữa hai nhóm chủ ngữ và vị ngữ của một câu dài:
Ví dụ: Nhân dân Việt Nam anh hùng/ luôn yêu chuộng hòa bình.
+ Trước các liên từ làm nhiệm vụ nối các thành phần câu:
Ví dụ: Nó từ từ tỉnh dậy/ và mở cặp mắt sưng mọng nhìn ra
xung quanh.
+ Khi có thành phần phụ:

2
Ví dụ: Một lần/ đã lâu rồi/ tôi qua Hồ Gươm.
+ Câu văn dài, có nhiều tầng ý nghĩa. Ngắt hơi có tác dụng tách câu thành nhiều
phần có mối quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp với nhau.
Ví dụ: Nhân dân các địa phương/ đều phấn khởi// vì rừng ngập mặn
phục hồi/ đã góp phần đáng kể tăng thêm thu nhập /và bảo vệ vững chắc
đê điều.
(Phan Nguyên Hồng)
+ Một số câu văn ngắn, ngắt giọng thích hợp góp phần thể hiện nội dung.
Ví dụ: Ăn cơm không/ được uống rượu.
Ăn cơm không được/ uống rượu.
Ăn cơm/ không được uống rượu.
Khi đọc các văn bản thơ ca, việc ngắt giọng không chỉ phụ thuộc dấu câu
mà còn căn cứ vào ý nghĩa, nhịp điệu của thơ ca. Đó là ngắt giọng thơ ca.
- Đọc đúng kiểu câu. Câu kể đọc xuống giọng cuối câu. Câu hỏi, câu cảm, câu
khiến thường đọc cao giọng cuối câu. Câu cảm thán thường đọc cao hơn so với
câu khiến, câu hỏi.
1.2.1.3. Đọc diễn cảm
a. Khái niệm
Đọc diễn cảm là cách đọc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, kết hợp với
sự biểu hiện của nét mặt, ánh mắt, cử chỉ… để biểu đạt đúng ý nghĩ, tình cảm
của tác giả gửi gắm trong tác phẩm, đồng thời thể hiện được sự cảm thụ của
người đọc đối với tác phẩm, nhằm truyền cảm đến người nghe.
Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao. Đọc diễn cảm chỉ có
thể được tiến hành trên cơ sở đọc đúng, đọc hiểu. Đọc diễn cảm có tác dụng
tạo tâm thế tích cực cho người học. Giúp người học bước đầu hiểu tác phẩm.
Khi trực tiếp nghe đọc diễn cảm, cảm nhận của thị giác kết hợp với cảm nhận
của thính giác làm cho sự cảm thụ tác phẩm tăng lên. Trí tưởng tượng của
người nghe được kích thích, bay bổng.
b. Ngữ điệu đọc
- Ngữ điệu, hiểu theo nghĩa hẹp, là sự thay đổi của giọng đọc, sự lên cao hoặc
hạ thấp của giọng trong khi đọc. Nghĩa rộng là sự phối hợp hài hòa giữa
những yếu tố của cảm xúc với những yếu tố của âm thanh.
- Các yếu tố tạo nên ngữ điệu
+ Sắc thái giọng đọc là sự thể hiện, sự thay đổi của tình cảm trong khi đọc.
Lúc vui tươi trong sáng, lúc dí dỏm hài hước, lúc buồn xa xót…
Ví dụ:
Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa- đàn lợn con nằm trên cao
(Trần Đăng Khoa)
Đoạn thơ trên cần đọc với tình cảm trong sáng, thiết tha để gợi nên vẻ
đẹp tươi tốt, tràn đầy sức sống của cây dừa.

3
+ Tốc độ đọc là sự nhanh hay chậm của giọng trong khi đọc. Tốc độ đọc
phải tạo điều kiện cho người nghe hiểu kịp nội dung. Tốc độ đọc chấp nhận
được là trùng với tốc độ của lời nói.
Khi miêu tả những công việc khẩn trương, dồn dập… cần đọc với nhịp
nhanh. Những cảnh cuộc sống thanh bình, diễn tả những kỉ niệm êm dịu…
cần đọc với nhịp chậm. Những chỗ thay đổi tốc độ đọc sẽ gây sự chú ý, có
giá trị biểu cảm tốt.
Ví dụ: Cần đọc hơi nhanh khi mô tả sự sum suê, bừng nở của hoa phượng
vào mùa hè: Phượng không phải là một đóa, không phải vài cành;
phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực.
(Xuân Diệu)
+ Ngắt giọng là sự ngừng hơi chốc lát trong khi đọc. Giúp người đọc lấy hơi,
người nghe có thời gian lĩnh hội thông tin, nghĩa của văn bản được xác định,
nhạc điệu của câu văn câu thơ được thể hiện. Để đọc diễn cảm, người đọc
phải biết sử dụng ngắt giọng biểu cảm bên cạnh ngắt giọng logic. Ngắt giọng
biểu cảm là chỗ ngừng hơi lâu hơn bình thường, hoặc chỗ ngừng không do
logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc.
Đây là những chỗ ngừng, chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm, tạo
sự chú ý của người nghe, đạt hiệu quả giao tiếp.
Ví dụ:
Mẹ/ là ngọn gió của con/ suốt đời.//
(Trần Quốc Minh)
Cách ngắt nghỉ trên thể hiện được lòng biết ơn, sự tự hào của người
con đối với mẹ. Hình ảnh thơ trở nên đẹp nhất, khái quát nhất. Tình
thương yêu, sự chăm sóc tận tình của mẹ theo con suốt cả cuộc đời,
mẹ là điểm tựa nâng đỡ đời con.
+ Ngân giọng (lơi giọng): Kéo giọng dài hơn mức bình thường một chút. Kí
hiệu ( ). Cao giọng là nâng giọng cao hơn mức bình thường. Thường cao
giọng ở những từ, những câu cảm thán, cầu khiến, câu hỏi. Kí hiệu (↑). Hạ
giọng khi thể hiện suy nghĩ thầm của nhân vật, khi kết thúc bài. Kí hiệu (↓).
Ví dụ: Một hôm↓, bỗng đâu trên những cành cây báo một tin thắm: Mùa hoa
phượng bắt đầu. Đến giờ chơi, cậu học trò ngạc nhiên trông lên: Hoa
nở lúc nào mà bất ngờ vậy? ↑
(Xuân Diệu)
+ Nhấn giọng là luồng hơi ra mạnh ở những từ, câu quan trọng. Kí hiệu (─)
Ví dụ: Để gợi nên vẻ đẹp thanh bình, trù phú của đất nước, đọc đoạn thơ sau
cần nhấn giọng ở những từ ngữ có tác dụng gợi tả, gợi cảm:
Những cánh đồng/
thơm mát//
Những ngả đường/
bát ngát//
Những dòng sông/ đỏ
nặng phù sa//
(Nguyễn Đình Thi)

4
+ Cường độ: Độ mạnh hay nhẹ của giọng trong khi đọc. Cường độ phối hợp
với cao độ tạo ra giọng vang hay giọng lắng.
Ví dụ: Cây đứng im lìm cao lớn, hiền lành, làm tiêu cho những con đò cập
bến và cho những đứa con về thăm quê mẹ.

(Vũ Tú Nam)
Câu văn trên cần đọc với giọng lắng để gợi cảnh thanh bình, những
cảm xúc trữ tình của tác giả.
+ Âm lượng là độ to hay nhỏ của giọng. Khi đọc, giọng đọc cần đủ nghe.
c. Sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ
Tư thế, nét mặt ánh mắt, cử chỉ điệu bộ của người đọc là những yếu tố
kèm lời kết hợp với ngữ điệu tạo nên sự giao cảm giữa người đọc và người
nghe. Sử dụng các yếu tố kèm ngôn ngữ sẽ tác động lên cả thính giác, thị giác
của người nghe, tạo nên hiệu quả tiếp nhận văn bản.
1.2.2. Luyện đọc các loại văn bản
1.2.2.1. Đọc thơ
a. Khái niệm
Thơ là tiếng nói của cảm xúc trào dâng, của trí tưởng tượng bay bổng. Ngôn
ngữ của thơ hàm súc, giàu hình ảnh, âm thanh.
b. Đặc điểm:
Thơ có cấu trúc âm thanh, vần điệu tương đối chặt chẽ. Mỗi thể thơ có
những niêm luật riêng. Thơ ca phản ánh cuộc sống thông qua những cảm xúc chủ
quan của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ có những nét riêng khác ngôn ngữ văn
xuôi.
+ Dòng thơ có một khuôn khổ nhất định. Có dòng chỉ có 2 tiếng, 3 tiếng, 4
tiếng, có dòng có 6 tiếng, 8 tiếng…Mỗi dòng thơ thường có một ý tương đối hoàn
chỉnh. Trong thơ vắt dòng, có thể vài dòng thơ mới tạo nên một ý thơ. Dòng thơ
cũng là đơn vị của nhịp điệu.
+ Nhịp thơ là sự láy lại một cách đều đặn và nhịp nhàng những đoạn tiết tấu
của câu thơ. Mỗi dòng thơ thường là một nhịp. Đồng thời mỗi dòng lại có cách
ngắt nhịp riêng phụ thuộc vào thể thơ, ý nghĩa của câu thơ. Thơ thất ngôn, nhịp
chủ yếu là nhịp 4/3; thơ lục bát chủ yếu là nhịp 2/2/2; 2/4; 4/4.
+ Vần thơ là bộ phận của tiếng, được coi như mắt xích nối những câu thơ
với nhau tạo nên âm hưởng trọn vẹn cho nhịp thơ, góp phần nâng cao cảm xúc
thẩm mĩ.
+ Thơ thường sử dụng phép lặp từ ngữ nhấn mạnh ý thơ và tạo nên nhạc
điệu cho bài thơ. Biện pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ… được sử dụng tạo ra cách
diễn đạt hàm súc, sinh động.
c. Cách đọc:
Khi đọc thơ cần tìm ra mạch cảm xúc để thể hiện rõ sắc thái giọng đọc. Cần
ngắt giọng dựa vào nhịp thơ ý thơ, nhấn giọng ở những tiếng mang vần, những từ
ngữ, hình ảnh quan trọng của bài.
Ví dụ: Đoạn thơ sau cần đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết; ngắt nhịp 2/4; nhấn
giọng ở những từ ngữ gợi nên nét riêng độc đáo của cửa sông:

5
Là cửa/ nhưng không then khóa//
Cũng không khép lại bao giờ//
Mênh mông/ một vùng sông nước//
Mở ra/ bao nỗi đợi chờ//

(QuangHuy)
1.2.2.2. Đọc văn miêu tả
a. Khái niệm
Văn miêu tả là loại văn dùng để gợi nên sự vật, hiện tượng, con người… một
cách sinh động cụ thể như đang hiện ra trước mắt người đọc.
b. Đặc điểm:
Bài văn miêu tả thường có bố cục ba phần: Mở bài, thân bài, kết luận. Thân
bài gồm một số đoạn văn để tả những bộ phận, các phương diện của đối tượng
cần tả. Văn miêu tả thường sử dụng các từ gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh,
nhân hóa… vẽ nên đường nét, màu sắc, âm thanh… của sự vật, hiện tượng được
nói đến. Từ loại được sử dụng nhiều là từ loại tính từ, động từ.
c. Cách đọc
Đọc văn miêu tả, cần sử dụng sắc thái giọng phù hợp với nội dung văn bản.
Ngắt giọng để làm rõ bố cục của bài, ngắt nghỉ theo dấu câu và theo nhịp cảm
xúc. Nhấn giọng vào những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Đọc bài “Sầu riêng” cần đọc với tình cảm trong sáng, tha thiết; tốc độ chậm
rãi; nhấn giọng ở những từ ngữ ca ngợi vẻ đặc sắc của cây sầu riêng về hương,
hoa, quả, dáng cây; ngắt giọng làm rõ bố cục ba phần của bài, ngắt giọng ở một
số câu dài. Ví dụ: Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín/ quyện với hương bưởi,
béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn.
(Mai Văn Tạo)
1.2.2.3. Đọc văn kể chuyện
a. Khái niệm:
Văn kể chuyện là loại văn phản ánh hiện thực khách quan thông qua cốt
truyện và nhân vật.
b. Đặc điểm:
Cốt truyện là hệ thống sự kiện, biến cố liên kết để tạo nên câu chuyện. Cốt
truyện có thể đơn giản, ít tình tiết, ít nhân vật, bao quát phạm vi không gian hẹp,
sự việc diễn ra trong thời gian ngắn. Cốt truyện cũng có thể phức tạp, các sự kiện,
biến cố xảy ra trong một không gian lớn, thời gian dài. Cốt truyện đầy đủ gồm
năm phần: Phần giới thiệu, phần mở mối, phần phát triển, phần đỉnh điểm, phần
kết thúc. Cốt truyện đơn giản gồm ba phần: Phần mở đầu, phần phát triển, phần
kết thúc.
Nhân vật là yếu tố cơ bản của văn kể chuyện. Nhân vật chủ yếu trong văn kể
chuyện là con người. Ngoài ra có thể là con vật, đồ vật, cây cối, các hiện tượng tự
nhiên… nhưng được nhân hóa. Nhân vật luôn có diện mạo, tính cách, có cách
nghĩ, cách nói riêng. Tính cách được thể hiện là người hiền lành hay độc ác, cao
thượng hay hèn nhát…

6
Trong văn kể chuyện có lời kể của tác giả (lời dẫn chuyện) và lời của nhân
vật. Người dẫn chuyện giữ vai trò xâu chuỗi các sự kiện, các nhân vật, thể hiện
cách nhìn, cách đánh giá của tác giả. Các nhân vật trong truyện có ngôn ngữ, cử
chỉ riêng mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, tuổi tác, địa phương
Mỗi truyện thường chứa đựng một ý nghĩa nào đấy, là điều muốn nói qua sự
việc. Có khi là một triết lí về đời sống, có khi là một vấn đề xã hội, có khi là một
tình cảm cao đẹp người kể muốn khẳng định, ngợi ca
c. Cách đọc:
Khi đọc văn kể chuyện cần biết ngắt giọng làm rõ bố cục của truyện, làm rõ
diễn biến của sự việc; ngắt nghỉ ở những câu văn dài. Cần phân biệt giọng người
dẫn chuyện với giọng các nhân vật, giọng giữa các nhân vật với nhau. Khi đọc lời
dẫn chuyện cần đọc với giọng nhỏ hơn, thấp hơn những lời nói trực tiếp của nhân
vật. Cần phân biệt giọng các nhân vật dựa vào tính cách, trạng thái tâm lí, mối
quan hệ của các nhân vật… Cần biết nhấn giọng ở những từ ngữ quan trọng, biết
lên cao hạ thấp giọng phù hợp. Sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ cho giọng
đọc.
Ví dụ: Đoạn văn sau cần phân biệt giữa giọng người dẫn chuyện với giọng bà mẹ,
Thần Chết. Giọng người dẫn chuyện thiết tha thể hiện sự sẵn lòng hi sinh
của người mẹ trên đường tìm con. Giọng Thần Chết ngạc nhiên. Giọng
người mẹ khi nói câu “Vì tôi là mẹ” điềm đạm, tự tin; dứt khoát khi yêu
cầu Thần Chết trả lại con:
Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào lòng/ để sưởi ấm nó. Gai đâm vào da thịt
bà, máu nhỏ xuống từng giọt đậm. Bụi gai đâm chồi, nảy lộc/ và nở hoa
ngay giữa ngày đông buốt giá. Bụi gai chỉ đường cho bà.
Thấy bà, Thần Chết ngạc nhiên, hỏi:
- Làm sao/ ngươi có thể tìm đến tận nơi đây?↑
Bà mẹ trả lời:
- Vì tôi là mẹ. Hãy trả con cho tôi! ↑
(An-đec-xen)
1.2.2.4. Đọc kịch
a. Khái niệm:
Kịch là thể loại văn học phản ánh cuộc sống thông qua những mâu thuẫn,
xung đột, là nghệ thuật tổng hợp giữa nghệ thuật văn học và nghệ thuật sân khấu
b. Đặc điểm:
Hiện thực phản ánh trong kịch không bao quát một phạm vi rộng, phức tạp
như trong văn xuôi. Kịch thường lựa chọn những hiện thực trong đó có chứa
đựng kịch tính. Nhân vật trong kịch luôn có tính cách rõ ràng. Ngôn ngữ kịch
ngắn gọn, gần gũi cuộc sống. Chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại. Trong vở kịch,
ngoài ngôn ngữ các nhân vật còn có những chỉ dẫn của tác giả. Những chỉ dẫn
này nói rõ ngôn ngữ đối thoại thuộc về nhân vật nào, hoặc chỉ dẫn về tâm trạng,
tình cảm, hành động của nhân vật, cách bài trí sân khấu. Kịch diễn trên sân khấu
phải thông qua hành động, bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ…
c. Cách đọc:

7
Khi đọc kịch, khả năng tưởng tượng đặc biệt cần thiết. Người đọc kịch bản
cần phải nhìn thấy, nghe thấy điều diễn ra trên sân khấu trong tưởng tưởng của
mình, hình dung ra các nhân vật nói năng, hành động như thế nào. Ngôn ngữ của
nhân vật cần phải thể hiện điều tác giả muốn nói trực tiếp. Nhờ bối cảnh, tình
huống của hành động kịch, đặc điểm bên trong và bên ngoài của nhân vật được
bộc lộ. Tránh cách đọc đơn điệu, không có sắc thái đối thoại, không có sự phân
biệt giữa các nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại phải tự nhiên. Cần ngắt giọng giữa
những lời chỉ dẫn với lời của nhân vật. Nhấn giọng ở những từ ngữ, câu quan
trọng. Tóm lại, đọc kịch đòi hỏi sự thay đổi ngữ điệu hết sức linh hoạt kết hợp với
sự diễn xuất.
Ví dụ: Khi đọc vở kịch “Ở Vương quốc Tương Lai” (Mát-tec-lich), cần ngắt
giọng làm rõ bố cục hai màn của vở kịch, ngắt giọng phân biệt tên nhân vật
với lời của nhân vật. Biết đọc vở kịch với giọng rõ ràng, hồn nhiên, thể
hiện được tâm trạng háo hức, ngạc nhiên, thán phục của Tin-tin và Mi-tin;
thái độ tự tin, tự hào của những chú bé ở Vương quốc tương lai. Biết đổi
giọng để thể hiện lời của các nhân vật khác nhau trong vở kịch.
Đoạn kịch sau cần phân biệt giọng của ba nhân vật, ngắt giọng giữa
vai nhân vật và lời thoại, nhấn giọng ở những từ ngữ thể hiện sự ngạc
nhiên, tò mò của Tin-tin và Mi-tin, sự tự tin của em bé ở Vương quốc
tương lai:
Tin-tin// - Cậu đang làm gì/ với đôi cánh xanh ấy?
Em bé thứ nhất// - Mình sẽ dùng nó/ vào việc sáng chế trên
trái đất.
Tin-tin// - Cậu sáng chế cái gì?
Em bé thứ nhất// - Khi nào ra đời, mình sẽ chế ra một vật/
làm cho con người hạnh phúc.
Mi-tin// - Vật đó ăn ngon chứ? Nó có ồn ào không.
1.2.2.5. Đọc văn nghị luận
a. Khái niệm:
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết đưa những lí lẽ, dẫn chứng về
một vấn đề nào đó nhằm làm cho người đọc hiểu, tin, tán thành những ý kiến của
mình và hành động theo những điều mình đề xuất.
b. Đặc điểm
Văn nghị luận được chia thành hai loại lớn: nghị luận xã hội, nghị luận văn
học. Nghị luận xã hội là nghị luận về một vấn đề nào đó nảy sinh trong thực tế
đời sống. Có thể là những vấn đề về chính trị, kinh tế, giáo dục… Nghị luận xã
hội được chia thành nghị luận xã hội kiểu giải thích và nghị luận xã hội kiểu
chứng minh. Nghị luận văn học là nghị luận một vấn đề liên quan đến tác giả, tác
phẩm văn học.
Bố cục một bài văn nghị luận thường có ba phần, liên kết chặt chẽ với nhau:
Phần nêu vấn đề, phần giải quyết vấn đề, phần kết thúc vấn đề.
Trong bài văn nghị luận, lí lẽ và dẫn chứng là những yếu tố quan trọng tạo
nên nội dung nghị luận. Lí lẽ dùng để giải thích, lập luận, bày tỏ quan điểm, thái
độ. Dẫn chứng làm sáng tỏ, chặt chẽ thêm cho các lập luận. Vì vậy, văn nghị luận

8
có khả năng thuyết phục người đọc, người nghe tin vào những điều được trình
bày trong văn bản là đúng và hành động theo hướng người viết đề xuất.
c. Cách đọc
Đọc văn nghị luận, giọng đọc phải rắn rỏi, dứt khoát (thể hiện tính bàn bạc,
tranh luận, thuyết phục). Cần nhấn giọng ở những câu chủ đề, các từ ngữ quan
trọng nêu bật được lí lẽ dẫn chứng của bài văn, các từ có tác dụng liên kết. Cần
ngắt giọng làm rõ bố cục, các phần trong giải quyết vấn đề, các câu dài.
Ví dụ: Đoạn văn sau trong bài “Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục” (Hồ Chí Minh)
cần đọc với giọng kêu gọi, rành mạch, dứt khoát; nhấn giọng ở những từ ngữ nói
lên tầm quan trọng của sức khỏe, bổn phận phải bồi bổ sức khỏe của mỗi người
dân yêu nước; ngắt giọng ở câu văn dài.
Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh
khỏe là cả nước mạnh khỏe. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là nhiệm
vụ của mỗi người dân yêu nước.

(SGK – Tiếng Việt 3)


1.2.2.6. Đọc văn bản nhật dụng (Văn bản thông thường)
a. Khái niệm
Văn bản nhật dụng là những văn bản được sử dụng hàng ngày trong đời sống sinh
hoạt, mang phong cách hành chính công vụ.
b. Đặc điểm:
Văn bản nhật dụng được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học rất đa
dạng. Có loại văn bản dùng để trao đổi thông tin hai chiều như thư từ, bưu thiếp,
sổ liên lạc…; có loại để trình bày, lưu giữ thông tin như tự thuật, thời khóa biểu,
thời gian biểu, nội quy, mục lục sách…; có loại đóng vai trò quảng bá thông tin
như bản tin thời tiết, quảng cáo… ; có loại giấy tờ của cá nhân hoặc tập thể gửi
đến một cá nhân hay tập thể, tổ chức có thẩm quyền đề đạt nguyện vọng, yêu cầu
hay khiếu nại, có loại văn bản dùng để trình bày kết quả các công việc đã làm
hoặc đang làm của cá nhân hoặc của một tập thể. Một số loại văn bản nhật dụng
được giới thiệu gián tiếp trong các văn bản có hình thức văn học (Ví dụ: “Thông
báo của thư viện vườn chim”, “Nội quy đảo Khỉ…”)
c. Cách đọc:
Đọc văn bản nhật dụng cần đọc với giọng rõ ràng, khúc chiết, biết ngắt
giọng sau những đề mục, biết nhấn giọng vào những từ ngữ quan trọng…
Ví dụ: Khi đọc “Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” (SGK-Tiếng Việt lớp
5), cần đọc với giọng thông báo rõ ràng; ngắt giọng làm rõ từng điều
luật,từng khoản mục; nhấn giọng ở tên các điều luật, những từ ngữ quan
trọng:
Điều 15//
1. Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe.
2. Trẻ em dưới sáu tuổi/ được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được
khám bệnh, chữa bệnh/ nhưng không phải trả tiền/ tại các cơ sở y
tế công lập.
Điều 16//

9
1. Trẻ em có quyền được học tập.
2. Trẻ em học bậc Tiểu học/ trong các cơ sở giáo dục công lập/ không
phải trả học phí.

1.3. Luyện kĩ năng đọc thầm (đọc hiểu)


1.3.1. Khái niệm
Đọc hiểu là hoạt động giao tiếp, người đọc lĩnh hội lời nói đã được viết thành văn
bản làm thay đổi những hiểu biết, tình cảm hoặc hành vi của mình. Đọc hiểu là thông
hiểu những gì mình đọc, là cách đọc phân tích.
1.3.2. Kĩ năng đọc hiểu
- Kĩ năng tìm hiểu đề tài, tên của văn bản. Đề tài trả lời cho câu hỏi văn bản viết về
ai, về việc gì… Để xác định đề tài của văn bản cần dựa vào chủ điểm, tranh minh
họa, tên bài, tên người, tên vật được nói tới. Tên bài thường ngắn nhưng giúp
chúng ta xác định được đề tài và phần nào đoán được nội dung văn bản.
- Kĩ năng đọc hiểu từ ngữ. Đó là nhận diện các từ mới, phát hiện những từ quan
trọng (các từ chìa khóa) trong các loại văn bản khác nhau và làm rõ nghĩa các từ
này bằng ngữ cảnh, bằng trực quan, bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa… Những
từ quan trọng là những từ mang ý nghĩa cơ bản giúp ta hiểu nội dung văn bản.
Trong văn bản nghệ thuật đó là các từ giàu màu sắc biểu cảm như các từ láy,
những từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng, có sự chuyển nghĩa, những từ có
kết hợp bất thường, những từ bộc lộ cảm xúc. Trong văn bản khoa học, văn bản
hành chính công vụ… từ ngữ cần giải nghĩa là các thuật ngữ.
Ví dụ: Trong đoạn cuối bài “Hạt gạo làng ta” (Trần Đăng Khoa), người đọc cần
hiểu nghĩa của từ “hạt vàng” (Em vui em hát. Hạt vàng làng ta). Hạt gạo
được ví như hạt vàng không chỉ ở màu sắc bên ngoài mà bởi ý nghĩa lớn
lao của hạt gạo. Hạt gạo làng ta kết tinh trong đó sự ưu đãi của thiên nhiên,
của con người quê hương. Hạt gạo được làm ra từ mồ hôi công sức, sự hi
sinh dũng cảm của người lao động trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hạt
gạo còn được làm ra từ sự cố gắng, chăm chỉ của các em thiếu nhi. Hạt gạo
nhỏ bé có tác dụng nuôi quân ăn no đánh thắng giặc Mĩ, chi viện cho các
chiến trường, thắt chặt thêm tình cảm quốc tế. Hạt gạo làng ta thể hiện
được sức mạnh tinh thần, lòng yêu nước của con người Việt Nam trong
chiến tranh nên nó chính là “hạt vàng” của thời đại.
- Kĩ năng đọc hiểu câu. Kĩ năng phát hiện câu hay, hình ảnh đẹp và làm rõ nội
dung của câu trong đoạn, trong bài. Câu quan trọng thường có nghĩa hoàn chỉnh,
mang tính độc lập cao. Những câu quan trọng thường bộc lộ tư tưởng chủ đề của
tác phẩm. Trong văn bản nghệ thuật, các câu sử dụng biện pháp tu từ, có nghĩa
hàm ẩn là những câu quan trọng. Trong văn bản tự sự, đặc biệt truyện kể, những
câu nêu tình tiết, chi tiết đánh dấu sự phát triển của cốt truyện là những câu quan
trọng.
Ví dụ: Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! (Nguyễn Thế Hội)
Câu trên là câu quan trọng trọng trong bài, thể hiện được sự thích thú, cách
đánh giá của người viết với đối tượng miêu tả.
- Kĩ năng đọc hiểu đoạn

10
Đoạn là yếu tố trực tiếp cấu tạo thành bài. Ý của đoạn có thể được thể hiện
tường minh ở câu chủ đề. Vì vậy xác định đúng cấu trúc của đoạn sẽ giúp ta tìm
được câu chủ đề. Xác định nghĩa của các câu chủ đề giúp ta nắm được ý nghĩa
của đoạn. Trong chương trình Tập đọc ở Tiểu học các đoạn văn thường được cấu
trúc theo kiểu diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, song song…Các đoạn không có
câu chủ đề, người đọc phải tìm được các nhóm câu cùng thể hiện nội dung, tổng
hợp ý của nhiều nhóm câu thành ý chính của đoạn.
Ví dụ: Bài “Sầu riêng” (Mai Văn Tạo), các ý chính của đoạn được xác định như
sau: Đoạn 1: nói về hương vị đặc biệt của trái sầu riêng; đoạn 2: nói về hình dáng,
màu sắc của hoa, trái sầu riêng; đoạn 3: nói về dáng cây sầu riêng.
- Kĩ năng đọc hiểu bài (văn bản)
Mỗi văn bản viết ra đều có một mục đích nào đó. Để đạt được mục đích,
người viết sẽ lựa chọn nội dung, cách diễn đạt, cách kết cấu văn bản… Đích của
văn bản có thể được trình bày một cách tường minh, cũng có thể được trình bày
một cách hàm ẩn. Khi đọc hiểu văn bản, ngoài ý nghĩa tường minh là các thông
tin được biểu hiện bằng các từ ngữ trong văn bản và bằng cấu trúc ngữ pháp của
cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản, người đọc còn phải biết phân tích, khái quát, suy
ý để rút ra thông tin hàm ẩn của văn bản.
Ví dụ: Bài “Tre Việt Nam” (Nguyễn Duy), bên cạnh nội dung nói về phẩm chất
của cây tre cần thấy được phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam siêng năng,
cần cù, sống ngay thẳng, trung thực, biết yêu thương đoàn kết, bất khuất kiên
cường trong đấu tranh.
Quá trình đọc hiểu một văn bản thường diễn ra theo hai cách. Tùy theo vốn
sống, trình độ văn hóa, kĩ thuật đọc, để lựa chọn cách đọc phù hợp. Có thể đi từ
nghĩa chung, nghĩa khái quát của văn bản đến nghĩa của từng bộ phận trong văn
bản, sau đó khái quát lên chủ đề, tư tưởng của văn bản. Cũng có thể đi từ nghĩa
của bộ phận (từ ngữ, câu, đoạn) đến nghĩa chung của văn bản.
Ví dụ: Khi đọc bài “Cửa Tùng”( Thụy Chương) có thể đi từ nội dung khái quát
nói về vẻ đẹp của Cửa Tùng với những biểu hiện cụ thể. Cửa Tùng là nơi dòng
sông Bến Hải gặp biển, từ cầu Hiền Lương tới đó khoảng sáu cây. Vẻ đẹp của
Cửa Tùng là vẻ đẹp của sắc trời, nước biển, của bờ biển uốn cong như chiếc lược
đồi mồi. Cũng có thể đi từ nhũng biểu hiện cụ thể vẻ đẹp dọc hai bờ sông Bến
Hải, vẻ đẹp của những bãi cát, của ba sắc màu nước biển mỗi ngày, của bờ biển
để khái quát lên vẻ đẹp thơ mộng của Cửa Tùng. Qua bài văn thấy được sự quan
sát thể hiện độc đáo của tác giả. Cửa Tùng không chỉ là một cảnh đẹp thiên nhiên
ban tặng mà Cửa Tùng còn đẹp hơn bởi nơi đây ghi lại những dấu ấn của thời
đánh Mĩ. Cảm thụ bài văn, người đọc học tập được cách quan sát cảnh vật từ
những góc độ (từ xa tới gần), từ những thời điểm khác nhau (sáng, trưa, chiều),
những liên tưởng bay bổng.
- Kĩ năng hồi đáp văn bản
Kĩ năng hồi đáp văn bản là kĩ năng người đọc thể hiện sự đánh giá tính đúng
đắn, tính thuyết phục, hiệu quả của nội dung văn bản, tính hấp dẫn, hiệu quả giao
tiếp của hình thức văn bản, những bài học rút ra được sau khi đọc văn bản.

11
Ví dụ: Sau khi đọc bài “Con sẻ” (Tuốc-ghê-nhép), học sinh có thể trả lời một số
câu hỏi dưới bài thể hiện những điều mình đã tiếp nhận từ bài đọc:
Con sẻ
Tôi đi dọc lối vào vườn. Con chó chạy trước tôi. Chợt nó dừng chân
và bắt đầu bò, tuồng như đánh hơi thấy vật gì. Tôi nhìn dọc lối đi và thấy
một con sẻ non mép vàng óng, trên đầu có một nhúm lông tơ. Nó rơi từ
trên tổ xuống.
Con chó chậm rãi lại gần. Bỗng từ trên cây cao gần đó, một con sẻ
già có bộ ức đen nhánh lao xuống như hòn đá rơi trước mõm con chó.
Lông sẻ già dựng ngược, miệng rít lên tuyệt vọng và thảm thiết. Nó nhảy
hai ba bước về phía cái mõm há rộng đầy răng của con chó.
Sẻ già lao đến cứu con, lấy thân mình phủ kín sẻ con. Giọng nó yếu ớt
nhưng hung dữ và khản đặc. Trước mắt nó, con chó như một con qủy
khổng lồ. Nó sẽ hi sinh. Nhưng một sức mạnh vô hình vẫn cuốn nó xuống
đất.
Con chó của tôi dừng lại và lùi… Dường như nó hiểu rằng trước mắt
nó có một sức mạnh. Tôi vội lên tiếng gọi con chó đang bối rối ấy tránh ra
xa, lòng đầy thán phục.
Vâng, lòng tôi đầy thán phục, xin bạn đừng cười. Tôi kính cẩn
nghiêng mình trước con chim sẻ bé bỏng dũng cảm kia, trước tình yêu của
nó.
(Tuốc-ghê-nhép)
Các câu hỏi cần trả lời:
1. Trên đường đi con chó thấy gì? Theo em, nó định làm gì?
2. Việc gì đột ngột xảy ra khiến con chó dừng lại?
3. Hình ảnh con sẻ mẹ dũng cảm lao xuống cứu con được miêu tả như
thế nào?
4. Vì sao tác giả bày tỏ lòng kính phục đối với con sẻ nhỏ bé?

Tóm tắt chương 1


Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông nói chung, ở bậc Tiểu học nói riêng có nhiệm
vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ
được thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với 4 kĩ năng: đọc, nghe, nói, viết.
Đọc trở thành nhu cầu đầu tiên, quan trọng đối với người đi học. Biết đọc con người
mới tiếp thu được nền văn minh nhân loại, nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, có
khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa giúp họ giao tiếp được với thế giới bên
trong của người khác, làm phong phú đời sống tinh thần của bản thân, có công cụ để
học tập các môn học khác và tự học suốt đời.
Dựa vào tiêu chí âm thanh vang hay không vang trong không trung, có hai hình
thức đọc là đọc thành tiếng và đọc thầm. Đọc thành tiếng là hoạt động chuyển ngôn bản
viết thành ngôn bản nói (thành ngôn ngữ âm thanh). Đọc thầm là hình thức đọc không
phát ra âm thanh mà chuyển trực tiếp từ kí tự sang nghĩa để hiểu văn bản.
Căn cứ vào chất lượng đọc, hình thức đọc thành tiếng được chia thành hai mức độ:
đọc đúng, đọc diễn cảm. Đọc đúng là tái hiện mặt âm thanh của văn bản một cách chính

12
xác, thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn của tiếng Việt, đọc đúng kiểu câu, ngắt nghỉ
đúng. Đọc đúng đã bao hàm trong đó kĩ thuật đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm là cách đọc
thể hiện được tình cảm của tác giả, của người đọc qua ngữ điệu. Đồng thời biết kết hợp
với các yếu tố phi ngôn ngữ góp phần diễn tả nội dung bài đọc và truyền cảm đến người
nghe. Khi đọc diễn cảm cần phải biết làm chủ ngữ điệu. Ngữ điệu đọc là sự phối hợp
nhịp nhàng giữa những yếu tố của cảm xúc với những yếu tố của âm thanh. Trong đọc
diễn cảm ngoài kĩ thuật ngắt giọng đúng cần sử dụng ngắt giọng có dụng ý nghệ thuật.
Đọc hiểu (đọc thầm) là cách đọc phân tích tác phẩm nhằm thông hiểu những gì
được đọc. Có thể đi từ nội dung khái quát đến nội dung chi tiết hoặc ngược lại. Đọc hiểu
bao gồm các hoạt động nhận diện, cắt nghĩa, hồi đáp văn bản. Nhận diện, cắt nghĩa về
từ ngữ, câu, đoạn, bài… để làm rõ nội dung thông báo và nội dung liên cá nhân (quan
niệm, tư tưởng, thái độ của người viết), đích của văn bản. Hồi đáp giữ vai trò hoàn
thiện quá trình đọc hiểu. Người đọc đánh giá văn bản về tính đúng đắn, tính đầy đủ, tính
cập nhật… theo quan điểm riêng của người tiếp nhận. Hồi đáp văn bản giúp cho người
đọc có khả năng chủ động, sáng tạo trong việc lĩnh hội văn bản, tư duy phê phán được
phát triển.
Câu hỏi và bài tập
Câu hỏi:
1. Phân tích các yếu tố tạo nên ngữ điệu đọc. Cho ví dụ minh họa.
2. Phân tích các kĩ năng cần có trong quá trình đọc hiểu. Cho ví dụ minh họa.
3. Trình bày cách đọc văn bản thơ, văn bản miêu tả, văn bản truyện, văn bản
kịch, văn bản nhật dụng. Cho ví dụ minh họa. (Thêm cả cách đọc văn nghị luận)
Bài tập:
• Luyện đọc thành tiếng

Bài tập 1: Đọc đúng văn bản sau:


Đầm sen
Đầm sen ở ven làng. Lá sen màu xanh mát. Lá cao, lá thấp chen nhau, phủ
kín khắp mặt đầm.
Hoa sen đua nhau vươn cao. Khi nở, cánh hoa đỏ nhạt xòe ra, phô đài sen
và nhị vàng. Hương sen ngan ngát, thanh khiết. Đài sen khi già thì dẹt lại, xanh
thẫm.
Suốt mùa sen, sáng sáng lại có những người ngồi trên thuyền nan rẽ lá, hái
hoa.
(SGK-Tiếng Việt lớp 1)

Bài tập 2: Đọc diễn cảm bài thơ sau:


Lũy tre
Mỗi sớm mai
thức dậy
Lũy tre xanh rì
rào
Ngọn tre cong
gọng vó

13
Kéo mặt trời lên
cao.

Những trưa đồng


đầy nắng
Trâu nằm nhai
bóng râm
Tre bần thần nhớ
gió
Chợt về đầy tiếng
chim
(Nguyễn Công Dương)

Bài tập 3: Đọc diễn cảm bài thơ sau:


Tre Việt Nam
Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ
tre xanh.

Thân gầy guộc, lá mong manh


Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi


Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?
Có gì đâu có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hóa nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành.
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm.
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con.
Măng non là búp măng non

14
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu.

Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
(Nguyễn Duy)

Bài tập 4 : Đọc diễn cảm bài văn sau:


Sầu riêng
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc
biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa, lâu tan trong không khí. Còn hàng chục mét mới
tới nơi để sầu riêng, hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi. Sầu riêng thơm mùi
thơm của mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị
của mật ong già hạn. Hương vị quyến rũ đến kì lạ.
Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương
cau, hương bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh
hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những
cánh hoa. Mỗi cuống hoa ra một trái. Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành
trông giống những tổ kiến. Mùa trái rộ vào dạo tháng tư, tháng năm ta.
Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về cái dáng cây kì lạ này.
Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng
nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng, hơi
khép lại, tưởng như lá héo. Vậy mà khi trái chín, hương tỏa ngào ngạt, vị ngọt
đến đam mê.
(Mai Văn Tạo)

Bài tập 5 : Đọc diễn cảm câu chuyện sau:


Người mẹ
Bà mẹ chạy ra ngoài, hớt hải gọi con. Suốt mấy đêm ròng thức trông
con ốm, bà vừa thiếp đi một lúc,Thần Chết đã bắt nó đi.
Thần Đêm Tối đóng giả một bà cụ mặc áo choàng đen, bảo bà :
- Thần Chết chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ trả lại những
người lão đã cướp đi đâu.
Bà mẹ khẩn khoản cầu xin Thần chỉ đường cho mình đuổi theo Thần
Chết. Thần Đêm Tối chỉ đường cho bà.
Đến một ngã ba đường, bà mẹ không biết phải đi lối nào. Nơi đó có
một bụi gai băng tuyết bám đầy. Bụi gai bảo :
- Tôi sẽ chỉ đường cho bà, nếu bà ủ ấm tôi.
Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào lòng để sưởi ấm nó. Gai đâm vào da thịt
bà, máu nhỏ xuống từng giọt đậm. Bụi gai đâm chồi, nảy lộc và nở hoa ngay
giữa mùa đông buốt giá. Bụi gai chỉ đường cho bà.

15
Bà đến một hồ lớn. Không có một bóng thuyền. Nước hồ quá sâu.
Nhưng bà nhất định vượt qua hồ để tìm con. Hồ bảo:
- Tôi sẽ giúp bà, nhưng bà phải cho tôi đôi mắt. Hãy khóc đi, cho
đến khi đôi mắt rơi xuống!
Bà mẹ khóc, nước mắt tuôn rơi lã chã, đến nỗi đôi mắt theo dòng lệ
rơi xuống hồ, hoá thành hai hòn ngọc. Thế là bà được đưa đến nơi ở lạnh lẽo của
Thần Chết.
Thấy bà, Thần Chết ngạc nhiên, hỏi :
- Làm sao ngươi có thể tìm đến tận nơi đây?
Bà mẹ trả lời;
- Vì tôi là mẹ. Hãy trả con cho tôi!

(An-đéc-xen)

Bài tập 6: Đọc vở kịch sau:


Lòng dân
Nhân vật : Dì Năm-29 tuổi
An -12 tuổi, con trai dì Năm
Chú cán bộ
Lính
Cai
Cảnh trí: Một ngôi nhà nông thôn Nam Bộ. Cửa nhà quay vào phía trong
sân khấu. Bên trái kê một cái bàn, hai cái ghế. Bên phải là một chõng tre, trên có mâm
cơm.
Thời gian: Buổi trưa.
Má con dì Năm đang ăn cơm thì một chú cán bộ bị địch rượt bắt chạy vô.
Dì Năm chỉ kịp đưa chú một chiếc áo để thay, rồi bảo chú ngồi xuống chõng vờ ăn
cơm. Vừa lúc ấy, một tên cai và một tên lính chạy tới.

Cai: - Anh chị kia !


Dì Năm: - Dạ cậu kêu chi ?
Cai: - Có thấy một người mới chạy vô đây không ?
Dì Năm: - Dạ, hổng thấy.
Cán bộ: - Lâu mau rồi cậu ?
Cai: - Mới tức thời đây.
Cai: - Thiệt không thấy chớ? Rõ ràng nó quẹo vô đây (vẻ bực
dọc). Anh nầy là...
Dì Năm: - Chồng tui. Thằng nầy là con.
Cai: - (Xẵng giọng) Chồng chị à?
Dì Năm: - Dạ, chồng tui.
Cai: - Để coi. (Quay sang lính) Trói nó lại cho tao (chỉ dì Năm).
Cứ trói đi. Tao ra lịnh mà (lính trói dì Năm lại).
An: - (Ôm dì Năm, khóc òa) Má ơi má !
Cán bộ: - (Buông đũa dứng dậy) Vợ tôi...

16
Lính: - Ngồi xuống (Chĩa súng vào chú cán bộ) Rục rịch tao bắn.
Dì Năm: - Trời ơi! Tui có tội tình chi?
Cai: - (Dỗ dành) Nếu chị nói thiệt, tôi thưởng. Bằng chị nhận anh
này là chồng, tôi bắn chị tức thời, đốt luôn cái nhà này nữa.
Dì Năm: - Mấy cậu... để tui…
Cai: - Có thế chớ! Nào, nói lẹ đi!
Dì Năm: - (Nghẹn ngào) An… (An “dạ”). Mầy qua bà Mười… dắt con
heo về…, đội luôn năm giạ lúa. Rồi… cha con ráng đùm bọc lấy nhau.
Cai: - Hừm! Thằng nhỏ, lại đây. Ông đó có phải tía mầy không?
Nói dối, tao bắn.
An: - Dạ, hổng phải tía…
Cai: - (Hí hửng) Ờ, giỏi! Vậy là ai nào?
An: - Dạ, cháu… kêu bằng ba, chứ hổng phải tía.
Cai: - Thằng ranh! (Ngó chú cán bộ) Giấy tờ đâu, đưa coi!
Cán bộ: - (Giọng miễn cưỡng) Để tôi đi lấy (chú toan đi, cai cản lại).
Cai: - Để chị này đi lấy. (Quay sang lính) Mở trói tạm cho chỉ. (Dì
Năm vào buồng).
Dì Năm: - (Nói vọng ra) Ba nó để chỗ nào?
Cán bộ: - Thì coi đâu đó.
Cai: - Trời ơi, con ruồi bay qua là tao biết ngay con cái hay con
đực mà. Qua mặt tao không nổi đâu!
Cán bộ: - Có không, má thẳng An?
Dì Năm: - Chưa thấy.
Cai: - Thôi, trói lại dẫn đi (lính toan trói chú cán bộ thì dì Năm
trong buồng nói to).
Dì Năm: - Đây rồi nè (ra). Mấy cậu coi. Làng này ai hổng biết Lâm
Văn Nên, 31 tuổi, con ông Dừa (đưa giấy cho cai, cai chuyển cho lính).
Cai: - Nè đọc coi!
Lính: - Anh tên…
Cán bộ: - Lâm Văn Nêm, 31 tuổi, con ông…
Cai: - (Vẻ ngượng ngập) Thôi… Thôi được rồi.
(Ngó dì Năm, đổi giọng ngọt ngào) Nhà có gà vịt gì không,
chị Hai? Cho một con nhậu chơi hà!
(Nguyễn Văn Xe)

Bài tập 7: Đọc văn bản sau:


Sự sụp đổ của chủ nghĩa A-pác-thai
Nam phi là một nước nổi tiếng nhiều vàng, kim cương, nhưng cũng
nổi tiếng về nạn phân biệt chủng tộc. Chế độ phân biệt chủng tộc ở đây được
toàn thế giới biết đến với tên gọi A-pác-thai.
Ở nước này, người da trắng chiếm 1/5 dân số, nhưng lại nắm gần
9/10 đất trồng trọt, 3/4 tổng thu nhập và toàn bộ hầm mỏ, xí nghiệp, ngân
hàng… Ngược lại, người da đen phải làm những công việc nặng nhọc, bẩn thỉu;
lương chỉ bằng 1/7 hay 1/10 lương của công nhân da trắng. Họ phải sống, chữa

17
bệnh, đi học ở những khu riêng và không được hưởng một chút tự do dân chủ
nào.
Bất bình với chế độ A-pác-thai, người da đen đã đứng lên đòi bình
đẳng. Cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ của họ được sự ủng hộ của những
người yêu chuộng tự do và công lí trên toàn thế giới, cuối cùng đã giành được
thắng lợi. Ngày 17-6-1991, chính quyền Nam Phi buộc phải hủy bỏ sắc lệnh
phân biệt chủng tộc. Ngày 27-4-1994, cuộc tổng tuyển cử đa sắc tộc đầu tiên
được tổ chức. Luật sư da đen Nen-xơn Ma-đê-la, người từng bị giam cầm suốt
27 năm vì đấu tranh chống chế độ A-pác-thai, được bầu làm Tổng thống. Chế
độ phân biệt chủng tộc xấu xa nhất hành tinh đã chấm dứt trước khi nhân loại
bước vào thế kỉ XXI.
(Những mẩu chuyện lịch sử thế giới)

Bài tập 8: Đọc văn bản sau:


Danh sách học sinh tổ 1, lớp 2A
(Năm học 2003 – 2004)
Số Nam,
Họ và tên Ngày sinh Nơi ở
thứ tự nữ
1 Nguyễn Vân Anh Nữ 5-3-1996 5 phố Quang Trung
2 Lê Phú Bình Nữ 8-1-1996 43 đường Trường Chinh
3 Hoàng Định Công Nam 25-6-1996 9 ngõ Bảo Khánh
4 Trần Bạch Dương Nữ 12-2-1996 11 phố Tràng Thi
5 Vũ Huy Đông Nam 4-5-1996 55 phố Hàng Trống
6 Nguyễn Thị Én Nữ 7-5-1996 112 phố Hàng Gai
7 Phạm Hương Giang Nữ 20-3-1996 36 phố Nhà Chung
8 Bùi Thu Hiền Nữ 8-3-1996 28 ngõ Hội Vũ
9 Trần Xuân Ích Nam 16-7-1996 24 phố Lương Văn Can
10 Vũ Hoàng Khuyên Nữ 19-8-1996 22 phố Quán Sứ

(SGK – Tiếng Việt lớp 2)

* Luyện đọc hiểu


Bài tập 1: Đọc bài “Mùa xuân đến”, chỉ ra những nét đặc sắc về nội dung, nghệ
thuật.
Mùa xuân đến
Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng
vàng ngày càng rực rỡ. Vườn cây lại đâm chồi, nảy lộc. Rồi vườn cây ra hoa. Hoa
bưởi nồng nàn. Hoa nhãn ngọt. Hoa cau thoảng qua. Vườn cây lại đầy tiếng chim
và bóng chim bay nhảy. Những thím chích chòe nhanh nhảu. Những chú khướu
lắm điều. Những anh chào mào đỏm dáng. Những bác cu gáy trầm ngâm.
Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong
trí thơ ngây của chú còn mãi sáng ngời hình ảnh một cành hoa mận trắng, biết nở
cuối đông để báo trước mùa tới.
(Nguyễn Kiên)

18
Bài tập 2: Đọc bài thơ sau nêu lên những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật,
đích tác động của văn bản:
Dòng sông mặc áo
Dòng sông mới điệu làm sao
Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha
Trưa về trời rộng bao la
Áo xanh sông mặc như là mới may
Chiều trôi thơ thẩn áng mây
Cài lên màu áo hây hây ráng vàng
Rèm thêu trước ngực vầng trăng
Trên nền nhung tím trăm ngàn sao lên
Khuya rồi, sông mặc áo đen
Nép trong rừng bưởi lặng yên đôi bờ…
Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ
Dòng sông đã mặc bao giờ áo hoa
Ngước lên bỗng gặp la đà
Ngàn hoa bưởi đã nở nhòa áo ai.
(Nguyễn Trọng Tạo)

Bài tập 3: Đọc văn bản sau và trình bày cách hiểu:
Chuỗi ngọc lam
Chiều hôm ấy có một em gái nhỏ đứng áp trán vào tủ kính cửa hàng
của Pi-e, nhìn từng đồ vật như muốn kiếm thứ gì. Bỗng em ngửng đầu lên:
- Cháu có thể xem chuỗi ngọc lam này không ạ?
Pi-e lấy chuỗi ngọc, đưa cho cô bé. Cô bé thốt lên:
- Đẹp quá! Xin chú gói lại cho cháu!
Pi-e ngạc nhiên:
- Ai sai cháu đi mua?
- Cháu mua tặng chị cháu nhân lễ nô-en. Chị cháu đã nuôi cháu từ khi
mẹ cháu mất.
- Cháu có bao nhiêu tiền?
Cô bé mở khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm xu:
- Cháu đã đập con lợn đất đấy!
Pi-e trầm ngâm nhìn cô bé. Rồi vừa lúi húi gỡ mảnh giấy ghi giá tiền,
anh vừa hỏi:
- Cháu tên gì?
- Cháu là Gioan.
Anh đưa Gioan chuỗi ngọc gói trong bao lụa đỏ:
- Đừng đánh rơi nhé!
Cô bé mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt đi. Cô đâu biết chuỗi ngọc này Pi-e
dành để tặng vợ chưa cưới của mình, nhưng rồi một tai nạn giao thông đã cướp
mất người anh yêu quý.

19
Ngày lễ nô-en tới. Khách hàng ai cũng vui làm cho Pi-e càng đau
lòng. Khi người khách cuối cùng bước ra, anh thở phào. Thế là qua được năm
nay! Nhưng anh đã lầm.
Cửa lại mở, một thiếu nữ bước vào. Cô lấy trong túi xách ra chuỗi
ngọc lam :
- Chuỗi ngọc này có phải của tiệm ông không ạ?
- Phải.
- Thưa... Có phải ngọc thật không?
- Không phải thứ ngọc quý nhất, nhưng là ngọc thật.
- Ông có nhớ đã bán cho ai không?
- Một cô bé tên là Gioan mua tặng chị của mình.
- Giá bao nhiêu ạ?
- Tôi không khi nào nói giá tiền của quà tặng.
- Gioan chỉ có ít tiền tiêu vặt. Làm sao em mua nổi chuỗi ngọc này?
Pi-e gói lại chuỗi ngọc và đáp :
- Em đã trả giá rất cao. Bằng toàn bộ số tiền em có.
Hai người đều im lặng. Tiếng chuông từ một giáo đường gần đó bắt
đầu đổ.
- Nhưng sao ông lại làm như vậy?
Pi-e vừa đưa chuỗi ngọc cho cô gái vừa nói:
- Hôm nay là ngày nô-en. Tôi không có ai để tặng quà. Cho phép tôi
đưa cô về nhà và chúc cô một Nô-en vui vẻ nhé!
Trong tiếng chuông đổ hồi, Pi-e và thiếu nữ cùng nhau bước qua một
năm mới hi vọng tràn trề.
(Phun-tơn O-xlơ)

Tài liệu tham khảo chính

1. Giáo trình Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt - NXB Giáo dục - 1997.
2. Giáo trình Tiếng Việt thực hành - NXB Đại học Sư phạm - NXB Giáo dục - 2007.
3. Giáo trình Rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm Tiểu học - NXB Đại học Sư phạm-2001.
4. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2- NXB Đại học Sư phạm- NXB Giáo
dục-2007.
5. Nguyễn Thị Hạnh, Dạy đọc hiểu ở Tiểu học, NXB Đại học Quốc gia, 2002.
6. Trần Mạnh Hưởng, Luyện tập cảm thụ văn học ở Tiểu học, NXB Giáo dục, 2001.
7. Nguyễn Trọng Hoàn - Nguyễn Thị Thu Hương, Rèn kĩ năng Tập đọc cho học sinh
lớp 5, NXB Giáo dục, 2006.
8. Lê Phương Nga, Dạy Tập đọc ở Tiểu học, NXB Giáo dục, 2001.
9. Hoàng Tuấn - Kim Lân, Phương pháp đọc diễn cảm (Bản dịch từ tiếng Nga), NXB
Giáo dục, 1979.
10. Vũ Nho, Nghệ thuật đọc diễn cảm, NXB Thanh niên, 1999.
11. Nhiều tác giả, Cảm thụ văn Tiểu học 4, 5, NXB Hà Nội, 2007.
12. Nhiều tác giả, Hỏi đáp dạy học Tiếng Việt 1, 2, 3, 4, 5, NXB Giáo dục-2007.

20
21
Chương 2
RÈN KĨ NĂNG VIẾT CHỮ

2.1. Mục đích, yêu cầu rèn kĩ năng viết chữ


Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đồ họa được sử dụng để cố định hóa ngôn ngữ
âm thanh.
Con đường hình thành và phát triển của chữ viết là cả một bề dày lịch sử mấy
nghìn năm. Ở thời tiền sử, con người đã biết dùng hình vẽ để diễn đạt ý nghĩ và lưu lại
lời nói của mình. Giai đoạn tiếp theo, con người sử dụng các dấu hiệu để tạo ra những
thông báo. Các nhà nghiên cứu gọi các dấu hiệu ấy là “chữ biểu đạt ý nghĩ”. Khoảng
thế kỉ thứ IV trước Công nguyên, “chữ tượng hình từng từ” được hình thành. Bằng
cách chuyển những dấu diễn đạt ý nghĩ, đơn giản hóa thành những hình mà mỗi hình là
một từ. Về sau, để viết và đọc dễ hơn, họ lại tìm cách giảm dần các dấu hiệu, những từ
phát âm giống nhau được sử dụng cùng một dấu hiệu. “Chữ tượng thanh từng từ” ra
đời. Vào thế kỉ thứ XVI trước Công nguyên, người Xê-mít (phía nam Xu-me và Bắc
Phi) trong quá trình phát âm hóa đã viết các lời nói của mình, lúc đầu theo vần, sau đó
theo âm, mỗi âm được biểu hiện bằng một kí hiệu. Tổng cộng có 22 kí hiệu. 22 kí hiệu
này được xem là “bộ chữ cái của chữ tượng thanh”.
Chữ viết tiếng Việt (chữ Quốc ngữ) được xây dựng trên cơ sở hệ thống chữ cái La
tinh. Với 29 chữ cái, 10 tổ hợp chữ cái, 5 dấu ghi thanh có thể ghi được tất cả các âm
tiết tiếng Việt. Chữ Quốc ngữ được chế tác sau nên cách viết và cách phát âm khá
trùng khít, thuận lợi trong cách đọc, cách viết.
Chữ viết là một phương tiện giao tiếp của con người bên cạnh lời nói. Nhờ có chữ
viết, tri thức của nhân loại mới được lưu giữ. Chữ viết trở thành một công cụ vô cùng
quan trọng trong việc hình thành, phát triển văn hóa, văn minh của từng dân tộc. Mỗi
cá nhân biết đọc, biết viết là có được những phương tiện để giao tiếp với cộng đồng, để
tự học suốt đời.
Trong trường Tiểu học, phân môn Tập viết truyền thụ cho học sinh những kiến
thức cơ bản về chữ viết, kĩ thuật viết. Qua đó trang bị cho học sinh công cụ để học tập,
giao tiếp, hình thành ở học sinh óc thẩm mĩ, tính kỉ luật, lòng kiên trì, biết tôn trọng
bản thân và mọi người.
Để giúp học sinh vừa có kĩ năng viết đúng mẫu, đẹp và nhanh, vừa đảm bảo sức
khỏe học đường, người giáo viên giữ một vai trò quan trọng. Người giáo viên phải có
khả năng viết mẫu đẹp và nhanh, trên bảng lớp cũng như trong vở, có kĩ năng tổ chức
giờ học Tập viết, có thái độ kiên trì trong việc rèn chữ cho học sinh.
2.2. Giới thiệu bảng mẫu chữ cái, chữ số tiếng Việt
2.2.1. Bảng chữ cái

22
23
• Bảng mẫu chữ cái viết thường:

24
Bảng mẫu chữ cái viết hoa:

• Bảng mẫu chữ cái in thường:

25
• Bảng mẫu chữ cái in hoa:

2.2.2. Bảng mẫu chữ số

2.3. Những quy định về cơ sở vật chất, cách viết, kĩ thuật viết
2.3.1. Những quy định về cơ sở vật chất
Phòng học phải có đủ ánh sáng cho mọi học sinh, ngồi học theo quy định của
vệ sinh học đường. Không để ánh sáng của đèn làm lóa bảng. Bảng lớp treo ở độ
cao vừa phải, cạnh dưới của bảng ngang tầm đầu của học sinh ngồi trong lớp. Bảng
nên có kích cỡ, màu sắc phù hợp với không gian lớp học, nên có dòng kẻ để học
sinh luyện viết. Bảng viết của học sinh nên là bảng gỗ, bảng nhựa dùng phấn viết
thuận lợi. Bàn ghế của học sinh phải phù hợp với độ cao trung bình của từng đối
tượng. Tỉ lệ chiều cao của bàn ghế phải tương xứng để khi ngồi, khuỷu tay của học

26
sinh ngang với mặt bàn. Phấn viết bảng không nên cứng quá hoặc mềm quá. Phấn
kém phẩm chất viết vất vả mà nét viết không rõ ràng, chữ không đẹp. Giẻ lau luôn
được giặt sạch, có độ ẩm, được gấp lại nhiều lần đảm bảo xóa bảng sạch. Bút viết
phải vừa tay cầm của học sinh, ngòi bút phải gọn nét. Vở viết giấy không nhòe,
không lóa, dòng kẻ, chữ mẫu được in rõ.
2.3.2. Những quy định về tư thế ngồi viết
Ngồi viết phải ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi
cúi, mắt cách vở từ 25 cm đến 30 cm. Hai mặt bàn chân bám mặt đất, hai mông đặt
thoải mái trên ghế, hai cánh tay đặt trên mặt bàn. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên
trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải
cũng ở trên mặt bàn. Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút viết bằng ba ngón
tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở phía
trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu
ngón tay giữa. Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển ngòi bút di chuyển linh hoạt.
Ngoài ra động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, khuỷu tay và cả cánh
tay.
2.3.3. Những quy định về kĩ thuật viết
2.3.3.1.Một số thuật ngữ thường dùng trong dạy Tập viết:
- Chữ: Dùng để ghi tiếng (ghi vần), mỗi tiếng được viết thành một chữ. Giữa các
chữ có khoảng cách, được quy ước bằng một con chữ “o”.
- Chữ cái: Dùng để ghi các nguyên âm và phụ âm. Thường một chữ cái ghi một
âm nhưng nhiều khi phải ghép 2-3 chữ cái lại để ghi một âm.
- Dòng (thể hiện chữ viết): Là khoảng để viết hoặc xếp chữ kế tiếp nhau thành
hàng.
- Li: Khoảng cách giữa hai dòng kẻ.
- Đơn vị: Được tính theo tỉ lệ ô vuông (trên mẫu chữ). 2 ô vuông là 1 đơn vị.
Được tính theo li (trong vở viết). Chữ viết cỡ nhỏ thì chiều cao chữ cái ghi
nguyên âm là 1 li (1 đơn vị ); chữ viết cỡ vừa thì chiều cao chữ cái ghi nguyên
âm là 2 li (1 đơn vị).
- Nét viết: Là một đường viết liền mạch, không phải dừng lại để chuyển hướng
ngòi bút hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ bản tạo thành.
- Nét cơ bản: Là nét bộ phận, dùng để tạo thành nét viết hay hình chữ cái. Nét cơ
bản có thể đồng thời là nét viết hoặc kết hợp hai, ba nét cơ bản để tạo thành một
nét viết.
- Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu của một nét viết.
- Điểm dừng bút: Là điểm kết thúc của một nét viết.
- Rê bút: Là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét viết
trước hoặc tạo ra vệt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên.
- Lia bút: Là chuyển dịch đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt bút khác,
không chạm vào mặt giấy.
- Liền mạch: Là kĩ thuật sử dụng nét bút khi viết phải nối liền liên tục, không bị
đứt quãng giữa các nét trong một chữ cái, giữa các chữ cái trong một chữ.
2.3.3.2. Kĩ thuật viết:
a. Các nét cơ bản trong chữ cái viết thường

27
b. Các nét cơ bản của chữ cái viết hoa

28
29
c. Một số nét ghi dấu phụ của các chữ cái:
- Nét gẫy ( ̂ ) (Trên đầu các chữ: â,ê,ô): Tạo bởi 2 nét thẳng xiên ngắn (trái-phải)
– dấu mũ.
- Nét cong dưới nhỏ ( ̌ ) (trên đầu chữ cái ă) – dấu á
- Nét râu ( ̕ ) (ở các chữ cái ơ, ư) – dấu ơ, dấu ư
- Nét chấm ( ̇ ) (trên đầu chữ cái i) – dấu chấm
- Nét vòng (۴) (nét xoắn, nét thắt): Giữa hoặc cuối nét cơ bản có tạo thêm một
vòng xoắn nhỏ (ở các chữ: k, b, v, r, s)
* Dựa vào chiều cao và hình dáng nét viết chữ cái được chia thành các nhóm sau:
- Chữ viết thường:
+ Dựa vào độ cao có 5 nhóm chữ:
Độ cao 1 đơn vị: o, ô, ơ, a, ă, â, i, e, ê, u, ư, c, x, n, m, v
Độ cao 1,25 đơn vị: r, s
Độ cao 1,5 đơn vị: t
Độ cao 2 đơn vị: d ,đ, q, p
Độ cao 2,5 đơn vị: k, l, h, b, g, y
+ Dựa vào hình dáng nét viết có 5 nhóm chữ:
Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
Nhóm 2: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc
(hoặc nét thẳng): a, ă, â, d, đ, q.
Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p ,n, m.
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối
hợp với móc): l, h, k, b, y, g.
Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét móc phối hợp với nét cong: r, s, v.
- Chữ viết hoa:
+ Dựa vào chiều cao có 2 nhóm chữ:
Chiều cao 2,5 đơn vị: A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, H, I, K, L, M, N, O, Ô, Ơ, P,
Q, R, S, T, U, Ư, V, X.
Chiều cao 4 đơn vị chỉ có 2 chữ: G,Y.
+ Dựa vào hình dáng nét viết được chia thành 6 nhóm chữ:

30
* Các nét cơ bản trong chữ số:

d. Kĩ thuật nối chữ:

31
- Trường hợp 1: Nét móc của chữ cái trước nối với nét móc (hoặc nét hất) đầu
tiên của chữ cái sau. Ví dụ: a-n = an; i-m=im. Khi nối hai nét móc ở hai chữ cái
đầu, cần điều tiết về độ dãn sao cho vừa phải, hợp lí để chữ viết đều nét, có tính
thẩm mĩ.

- Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc (hoặc nét
hất) đầu tiên của chữ cái sau. Ví dụ: e-m=em; ơ- n= ơn. Cần điều chỉnh khoảng
cách giữa hai chữ cái sao cho không quá gần cũng không quá xa.

- Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong
của chữ cái sau. Ví dụ: a-c = ac; g-a = gà. Cần xác định điểm dừng bút của chữ
cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch.

d- Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau.
Ví dụ: o-e =oe; x-o = xo. Đây là trường hợp nối chữ vừa đòi hỏi các kĩ thuật rê
bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối, vừa yêu cầu việc ước lượng
khoảng cách hợp lí.

e. Kĩ thuật viết dấu phụ và dấu thanh:

32
Viết dấu phụ:
- Dấu các chữ cái: ă, â, ê, ô đặt ở vị trí phía trên đầu chữ cái. Điểm cao nhất của
dấu không 1/3 đơn vị, điểm thấp nhất của dấu không chạm vào đầu các chữ cái,
chiều ngang của dấu bằng 1/3 đơn vị.
- Dấu của chữ ơ, ư là một dấu hình lưỡi câu đặt hơi nghiêng phía trên, bên phải
của thân chữ, độ cao không quá 1/3 ô.
Viết dấu thanh:
- Dấu sắc (ʹ) là một nét thẳng xiên, được viết từ trên xuống, hơi chéo sang trái, độ
dài bằng 1/3 ô.
- Dấu huyền (ˋ) là một nét thẳng xiên, được viết từ trên xuống, hơi chéo sang
phải, độ dài bằng 1/3 ô.
- Dấu hỏi ( ̉) gồm một nét cong nhỏ, hở trái biến dạng ở phần cuối nét. Khi viết
kéo dài được nét cong chéo về bên trái, độ cao bằng 1/3 ô.
- Dấu ngã (˜) là hai nét cong hở liền nhau, xếp ngược nhau theo chiều ngang. Khi
viết điểm đặt bút, dừng bút cùng nằm trên một đường kẻ ngang, chiều rộng 1/3
ô.
- Dấu nặng (.) là một dấu chấm, đặt phía dưới các chữ ghi âm chính của vần.
Nguyên tắc viết dấu thanh, dấu phụ:
- Ở các chữ ghi tiếng có âm chính là nguyên âm dấu thanh đặt trên hoặc dưới âm
chính; ví dụ: làng, hỏa.
- Ở các chữ ghi tiếng có âm chính là nguyên âm đôi:
+ Trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi mà không có âm
cuối vần thì dấu thanh được viết ở chữ cái thứ nhất của nguyên âm
đôil ví dụ: múa, tía…
+ Trường hợp chữ viết ghi tiếng có nguyên âm đôi nhưng lại có âm cuối
vần thì dấu thanh được viết ở vị trí chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi;
ví dụ: rượu, tuyển…
Trình tự ghi dấu phụ, dấu thanh:
Quy trình viết dấu thanh được thực hiện sau khi viết dấu phụ.Quy trình viết chữ ghi
tiếng có cả dấu phụ, dấu thanh gồm hai bước:
Bước 1:Viết các chữ trong vùng liên kết từ trái sang phải.
Bước 2: Viết các dấu phụ, dấu thanh ngoài vùng liên kết từ trái sang phải (
hoặc từ phải sang trái) dấu ở trên viết trước, dấu ở dưới viết sau.

2.3.3.3. Luyện viết chữ cái viết thường:


Chữ cái Cấu tạo Cách viết

33
- Cao 1 đơn vị. - Đầu tiên viết nét cong kín như
Rộng hơn 1 đơn chữ cái o sao cho phía bên phải
vị. của nét này chạm vào đường kẻ
- Gồm 2 nét: nét dọc 3.
cong kín và nét - Tiếp theo từ giao điểm của
móc ngược trái. đường kẻ ngang 3 và đường kẻ
dọc 3 đưa nét bút thẳng xuống
viết nét móc ngược phải. Điểm
dừng bút ở giao điểm của
đường kẻ dọc 4 và đường
ngang 2.
- Cao 1 đơn vị. - Đầu tiên viết chữ a.
Rộng hơn 1 đơn - Tiếp đó viết dấu mũ “ ̌ ”.
vị. Dấu “ ̌ ” là nét cong nhỏ hình
- Gồm 3 nét: nét vòng cung.
cong kín, nét
móc ngược phải,
nét cong nhỏ
hình vòng cung.

- Cao 1 đơn vị. - Đầu tiên viết chữ a.


Rộng hơn 1 đơn - Sau đó viết dấu mũ “^” giống
vị. như trường hợp viết chữ ô và ê.
- Gồm 4 nét: nét
cong kín, nét
móc ngược phải,
nét xiên trái
ngắn, nét xiên
phải ngắn.

34
- Cao 2,5 đơn vị. - Điểm đặt bút trên đường kẻ
Rộng hơn 1 đơn ngang 2 và là điểm giữa của
vị. đường kẻ dọc 1 và 2. Viết nét
- Gồm 1 nét viết khuyết trên chạm vào đường kẻ
được tạo nên từ ngang 6, nối liền với nét móc
2 nét cơ bản: nét ngược phải, kéo dài chân nét
khuyết trên, nét móc tới gần đường kẻ ngang 3
móc ngược phải, thì tạo nét xoắn, dừng bút gần
cuối nét tạo đường kẻ ngang 3.
thành vòng xoắn
nhỏ.

- Cao 1 đơn vị. - Điểm đặt bút dưới đường kẻ


Rộng gần 1 đơn ngang 3 một chút (xem hình
vị. vẽ), viết nét cong về bên trái có
- Gồm 1 nét điểm xa nhất nằm trên đường
cong trái tạo kẻ phân cách hai ô vuông, lượn
thành. xuống phía dưới về bên phải
đến đường kẻ 1 rồi đưa bút lên,
điểm dừng bút ở đường kẻ dọc
3 và khoảng giữa của đường kẻ
ngang 1 và 2.
- Cao 2 đơn vị. - Sau khi viết nét cong kín như
Rộng hơn 1 đơn cách viết chữ o, lia bút lên giao
vị. điểm của đường kẻ ngang 5 và
- Gồm 2 nét: nét đường kẻ dọc 3. Từ đó kéo
cong kín và nét thẳng xuống viết nét móc
móc ngược phải ngược phải. Điểm dừng bút là
sát vào bên phải giao điểm của đường kẻ dọc 4
nét cong kín. và đường kẻ ngang 2.

35
- Chữ đ có cấu - Đầu tiên viết chữ d.
tạo như chữ d có - Tiếp đó viết nét thẳng ngang
thêm nét ngang. nằm trên đường kẻ ngang 4 bắt
đầu từ trung điểm giữa 2 đường
kẻ dọc 2 và 3 và kết thúc cũng
tại trung điểm giữa 2 đường kẻ
dọc 3 và 4 (độ dài nét này đúng
bằng cạnh của ô vuông).

- Cao 1 đơn vị. - Từ điểm đặt bút cao hơn


Rộng gần 1 đơn đường kẻ ngang 1 viết chéo
vị. sang phải, hướng lên trên, lượn
- Gồm 1 nét cong tới đường kẻ ngang 3.
được tạo nên từ - Sau đó viết nét cong trái như
nét cong phải viết chữ c. Điểm dừng bút là
nối với nét cong khoảng giữa của hai đường kẻ
trái nối liền ngang 1 và 2 và chạm vào
nhau tạo thành đường kẻ dọc 3.
vòng khuyết ở
đầu.
- Cao 1 đơn vị. - Đầu tiên viết chữ cái e.
Rộng gần 1 đơn - Sau đó viết dấu mũ “^” như
vị. cách viết chữ ô.
- Gồm 3 nét: nét
1 giống như chữ
e; nét 2 là nét
xiên trái ngắn;
nét 3 là nét xiên
phải ngắn.

36
- Cao 2,5 đơn vị. - Nét 1: Viết nét cong khép kín
Rộng 1 đơn vị. ( như chữ o) có chiều cao từ
- Gồm 2 nét: nét đường kẻ ngang 1 đến đường
cong kín và nét kẻ ngang 3.
khuyết dưới. - Nét 2: Bắt đầu từ đường kẻ
ngang 3 viết nét khuyết dưới
cho đủ 2,5 đơn vị rồi vòng lên
theo chiều mũi tên. Điểm kết
thúc nằm trên đường kẻ ngang
2 và là khoảng giữa đường kẻ
dọc 3 và 4.

- Cao 2,5 đơn vị. - Nét 1: Điểm đặt bút trên


Rộng 1,5 đơn vị. đường kẻ ngang 2 và là khoảng
- Gồm 2 nét: nét giữa của đường kẻ dọc 1 và 2.
khuyết trên và Viết nét khuyết trên cao 2,5
nét móc hai đầu. đơn vị.
- Nét 2: Từ điểm cuối của nét
khuyết lia bút dọc về phía trên
đầu đường kẻ ngang 2 và tiếp
tục viết nét móc hai đầu. Điểm
dừng bút nằm trên đường kẻ
ngang 2 và là khoảng giữa
đường kẻ dọc 4 và 5.

- Cao 1 đơn vị. - Nét 1: Điểm đặt bút ở đường


Rộng gần 1 đơn kẻ ngang 1 và là khoảng giữa
vị. đường kẻ dọc 1 và 2, viết nét
- Gồm 3 nét: nét thẳng hơi chéo sang phải, dừng
thẳng ngắn chéo bút ở giao điểm của đường kẻ
sang phải, nét ngang 3 và đường kẻ dọc 2.
móc ngược và - Nét 2: Đến điểm dừng bút thì
một nét chấm lia bút lên phía trên đầu nét
trên đầu nét móc nửa dòng kẻ, để đặt dấu
móc. chấm.

37
- Cao 2,5 đơn vị. - Nét 1: Điểm đặt bút trên dòng
Rộng 1,5 đơn vị. kẻ ngang 2 và khoảng giữa
- Gồm 2 nét: nét đường kẻ dọc 1 và 2, viết nét
khuyết trên và khuyết trên, dừng bút ở giao
nét móc hai đầu điểm của đường kẻ ngang 1 và
có thắt (xoắn) đường kẻ dọc 2.
nhỏ ở giữa. - Nét 2: Từ chỗ kết thúc nét
khuyết trên, lia bút dọc lên
đường kẻ ngang 2 rồi bắt đầu
viết nét móc hai đầu có thắt ở
giữa (như hình vẽ). Điểm dừng
bút trên đường kẻ ngang 2 và ở
khoảng giữa 2 đường kẻ dọc 4
và 5.
- Cao 2,5 đơn vị. - Điểm đặt bút nằm trên đường
Rộng 1 đơn vị. kẻ ngang 2 và ở giữa 2 đường
- Gồm 1 nét viết kẻ dọc 1 và 2. Đưa bút lượn hơi
được tạo nên từ cong lên phía trên và lượn cong
2 nét cơ bản: nét theo chiều mũi tên sát đường kẻ
khuyết trên nối ngang thứ 6 rồi kéo thẳng
tiếp nét móc xuống. Gần đến đường kẻ
ngược phải. ngang 2 thì lượn cong viết nét
móc ngược phải. Điểm dừng
bút nằm trên đường kẻ ngang 2
và khoảng giữa hai đường kẻ
dọc 3 và 4.

- Cao 1 đơn vị. Viết gần giống như chữ n, viết


Rộng 2,5 đơn vị. xong nét móc thứ 2, rê bút
- Gồm 3 nét: 2 ngược lên viết tiếp nét móc hai
nét móc xuôi và đầu. Điểm dừng bút là giao
1 nét móc hai điểm của đường kẻ ngang 2 và
đầu. đường kẻ dọc 6.

38
- Cao 1 đơn vị. - Nét 1: Điểm đặt bút trên
Rộng gần 2 đơn đường kẻ ngang 2, viết nét móc
vị. xuôi trái, dừng bút ở giao điểm
- Gồm 2 nét: nétcủa đường kẻ ngang 1 và
móc xuôi trái vàđường kẻ dọc 2.
nét móc 2 đầu. - Nét 2: Sau khi viết xong nét
móc xuôi, từ điểm dừng bút ở
đường kẻ ngang 1 rê bút dọc
theo đường kẻ dọc 2 lên ½ ô và
bắt đầu viết nét móc hai đầu
theo chiều mũi tên trong hình
vẽ. Điểm dừng bút nằm trên
đường kẻ ngang 2 và là khoảng
giữa của đường kẻ dọc 4 và 5.
- Cao 1 đơn vị. - Điểm đặt bút dưới đường kẻ
Rộng gần 1 đơn ngang 3 một chút (xem hình
vị. vẽ), kéo bút sang bên trái,
- Do 1 nét cong xuống dưới chạm đường kẻ
kín tạo thành. ngang 1, đưa bút lên phía trên
vòng bên phải đến trùng khít
với điểm đặt bút.

- Cao 1 đơn vị. - Đầu tiên viết chữ cái o.


Rộng gần 1 đơn - Từ điểm dừng bút trên đầu
vị. chữ o lia bút lên trên không rồi
- Gồm 3 nét: viết một nét gấp khúc từ trái
một nét cong kín qua phải. Hai chân dấu mũ
như chữ o; nét không chạm đầu chữ cái o, đỉnh
xiên trái ngắn của dấu mũ nằm ở trung điểm
phối hợp với nét hai đường ngang 3 và 4.
xiên phải ngắn
tạo thành dấu
mũ “^”.

39
- Cao 1 đơn vị. - Đầu tiên viết chữ cái o.
Rộng 1 đơn vị. - Từ điểm dừng bút trên đầu
- Gồm 2 nét phía phải chữ o lia bút lên trên
viết: một nét không rồi viết dấu “ ̉ ”. Chân
cong kín như của dấu “ ̉ ” chạm vào điểm
chữ o, một nét dừng bút.
râu “ ̉ ”.

- Cao 2 đơn vị. - Nét 1: Từ điểm đặt bút trên


Rộng 1,5 đơn đường kẻ ngang 2 và khoảng
vị. giữa đường kẻ dọc 1 và 2 viết
- Gồm 3 nét: nét nét thẳng chéo về bên phải, đến
thẳng ngắn hơi giao điểm của đường kẻ ngang
chéo về bên 3 và đường kẻ dọc 2.
phải, nét thẳng - Nét 2: Từ điểm dừng bút của
đứng và nét móc nét 1, viết nét thẳng đứng bằng
hai đầu. cách kéo bút dọc theo đường kẻ
dọc 2 xuống cách đường kẻ
ngang 1 là 2 ô vuông thì dừng
lại.
- Nét 3: Từ điểm dừng bút nét
thứ 2, lia bút lên phía trên,
đúng giao điểm của đường kẻ
ngang 2 và đường kẻ dọc 2 bắt
đầu viết nét móc hai đầu. Điểm
dừng bút trên đường kẻ ngang
2 và khoảng giữa của đường kẻ
dọc 4 và 5.

40
- Cao 2 đơn vị. - Sau khi viết nét cong kín như
Rộng gần 1 đơn chữ o, lia bút đến đường kẻ
vị. ngang 3, viết thẳng xuống.
- Gồm 2 nét: nét Điểm dừng bút ở trên đường kẻ
cong kín và nét ngang cách đường kẻ ngang 1
thẳng đứng sát hai ô vuông về phía dưới.
vào bên phải nét
cong.

- Độ cao 1,25 - Từ điểm đặt bút ở đường kẻ


đơn vị. Rộng ngang 1 đưa nét hơi cong xiên
hơn 1 đơn vị. bên phải ngược lên trên đến
- Gồm 1 nét viết đường kẻ ngang 3. Tạo nét thắt
được tạo nên bởi nằm phía trên đường này.
các nét cơ bản: - Tiếp theo đưa ngang nét bút
xiên phải, nét hơi lượn cong xuống để viết nét
thắt và nét móc móc ngược phải. Điểm kết thúc
ngược phải. là giao điểm của đường kẻ dọc
4 và đường kẻ ngang 2.
- Cao 1,25 đơn - Từ điểm đặt bút trên đường kẻ
vị. Rộng 1 đơn ngang 1 viết nét thẳng chéo
vị. sang phải theo hướng đi lên đến
- Gồm 1 nét viết đường kẻ ngang 3. Đến đây, tạo
được tạo nên từ nét thắt nhỏ nằm phía trên
các nét cơ bản: đường kẻ ngang 3. Tiếp theo
nét thẳng xiên viết nét cong phải, tới đường kẻ
chéo sang phải, ngang 1 thì lượn lên cho gần sát
nét thắt và nét với nét thẳng chéo.
cong phải.

41
- Cao 1,5 đơn vị. - Điểm đặt bút nằm trên đường
Rộng gần 1 đơn kẻ ngang 2 và là khoảng giữa
vị. đường kẻ dọc 1 và 2, viết nét
- Gồm 3 nét: nét thẳng hơi chéo sang phải đến
thẳng ngắn chéo đường kẻ ngang 3.
sang phải, nét - Lia bút thẳng lên theo đường
móc ngược phải kẻ dọc 2 đến đường kẻ ngang 4,
và nét thẳng bắt đầu viết tiếp nét thứ 2 nét
ngang. móc ngược phải.
- Tiếp tục lia bút tới đường kẻ
ngang 3, viết nét thẳng ngang.
Nét thẳng ngang có độ dài bằng
0,5 đơn vị, chia đều sang hai
bên.
- Cao 1 đơn vị. - Nét 1: Từ điểm đặt bút ở giữa
Rộng 1,5 đơn vị. ô vuông nằm bên trên đường kẻ
- Gồm 3 nét: nét ngang 1, viết nét thẳng hơi chéo
thẳng ngắn hơi sang bên phải đến giao điểm
chéo về bên phải đường kẻ ngang 3 và đường kẻ
và 2 nét móc dọc 2.
ngược. - Nét 2: Từ điểm dừng bút của
Nét móc thứ nét 1 viết nét móc ngược thứ
nhất có bề nhất và dừng lại trên đường kẻ
ngang lớn gấp ngang 2 ở điểm nằm giữa
1,5 lần nét thứ đường kẻ dọc 3 và 4.
hai. - Nét 3: Lia bút lên phía trên và
dừng lại ở đường kẻ ngang 3,
điểm đặt bút giữa đường kẻ dọc
3 và 4, từ đó viết tiếp nét móc
ngược thứ hai. Điểm dừng bút
nằm trên đường kẻ ngang 2 và
là khoảng giữa đường kẻ dọc 4
và 5.
- Cao 1 đơn vị. Viết như chữ u sau đó thêm dấu
Rộng gần 2 đơn phụ “ ̕ ” trên đầu nét móc
vị. ngược thứ 2.
- Gồm 4 nét: nét
thẳng hơi chéo
về bên phải, 2
nét móc ngược
và nét râu
“ ̕ ”.

42
- Cao 1 đơn vị. - Từ điểm đặt bút trên đường kẻ
Rộng 1,5 đơn vị. dọc 1, giữa hai đường kẻ ngang
- Gồm 1 nét viết 3 và 2 lượn cong lên về bên
được tạo nên từ phải chạm đến đường kẻ ngang
các nét cơ bản: 3. Tiếp theo lượn bút xiên về
nét móc hai đầu bên phải xuống sát đường kẻ
và một nét thắt ở ngang 1. Sau đó vòng tiếp và
phía trên bên hướng lên trên cho đến gần
phải chữ. đường kẻ ngang 3 thì tạo một
nét thắt bé.

- Cao 1 đơn vị. - Nét 1: Từ điểm đặt bút thấp


Rộng 1,5 đơn vị. hơn đường kẻ ngang 3 gần
- Gồm 2 nét đường kẻ dọc 1 lượn cong sang
cong hở: cong phải để viết nét cong phải.
phải và cong Điểm dừng bút lần thứ nhất
trái. Hai nét chạm đường kẻ dọc 1 và là
cong này chạm khoảng giữa của đường kẻ
lưng vào nhau. ngang 1 và 2.
- Nét 2: Từ điểm dừng bút của
nét thứ nhất, lia bút đến vị trí
số 2 (xem hình vẽ) viết đường
cong trái như viết chữ c. Điểm
dừng bút cuối cùng chạm
đường kẻ dọc 4 và là khoảng
giữa đường kẻ ngang 1 và 2.
Lưu ý, khi viết cần cho lưng hai
nét cong chạm vào nhau.

43
- Cao 2,5 đơn vị. - Nét 1: Điểm đặt bút trên
Rộng 1,5 đơn vị. đường kẻ ngang 2 viết nét xiên
- Gồm 3 nét: nét phải đến đường kẻ ngang 3 thì
thẳng ngắn xiên dừng.
về bên phải, nét - Nét 2: Từ điểm dừng bút của
móc ngược và nét 1, kéo thẳng xuống gần
nét khuyết dưới. đường kẻ ngang 1 rồi lượn
vòng lên cho đến khi gặp
đường kẻ ngang 2.
- Nét 3: Từ điểm cuối của nét
thứ 2, lia bút thẳng lên đường
kẻ ngang 3 và từ đấy bắt đầu
viết nét khuyết dưới. Điểm
dừng bút nằm trên đườngng kẻ
ngang 2 và là khoảng giữa
đường kẻ dọc 3 và 4.

44
2.3.3.4 Luyện viết chữ cái viết hoa:
Chữ cái Cấu tạo Cách viết
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Từ điểm bắt đầu ở
vị. Rộng gần 3 giao điểm của đường kẻ dọc
đơn vị. 2 với đường kẻ ngang 3 tạo
- Gồm 3 nét: nét cong phải chạm đến
nét 1 biến điệu đường kẻ ngang 1 rồi hơi
của nét móc lượn và đưa bút lên đến giao
ngược trái; nét điểm của đường kẻ dọc 5 và
2 móc ngược đường kẻ ngang 6.
phải; nét 3 biến - Nét 2: Từ điểm kết thúc nét
điệu của nét 1 kéo thẳng xuống gần
ngang. đường kẻ ngang 1 và lượn
vòng lên cho tới đường kẻ
ngang 2 và khoảng giữa
đường kẻ dọc 6 và 7.
- Nét 3: Lia bút lên đến phía

45
trên đường kẻ ngang 3 và
viết nét ngang (biến điệu)
chia đôi chữ.
- Cao 5 li (6 Chữ này viết như chữ A có
đường kẻ thêm dấu phụ “ ̌ ”
ngang)
- Viết 4 nét:
nét 1, 2, 3
giống chữ A.
Nét 4 là nét
cong dưới
(nhỏ) trên đỉnh
đầu chữ A (dấu
á)
Cao 5 li (6 Chữ này viết như chữ A có
đường kẻ thêm dấu phụ “ ^”
ngang)
- Viết 5 nét:
nét 1, 2, 3
giống chữ A.
Nét 4, 5 là 2
nét thẳng xiên
ngắn nối nhau,
tạo nét gẫy,
nhọn ở phía
trên dấu mũ.
- Cao 2,5 đơn - Từ điểm đặt bút ở giao
vị. Rộng 2 đơn điểm đường kẻ ngang 6 và
vị. đường kẻ dọc 3 vòng theo
- Gồm 1 nét mũi tên trong hình vẽ xuống
viết được tạo đến 2,5 ô vuông rồi vòng lên
nên bởi 2 nét gặp đường kẻ ngang 6 và tiếp
cơ bản: cong tục lượn xuống giống nét
dưới và cong cong trái đến sát đường kẻ
trái nối liền ngang 1, tiếp tục vòng lên
nhau, tạo vòng đến đường kẻ ngang 3 và
xoắn to ở đầu lượn xuống.
chữ. Điểm kết thúc nằm trên
đường kẻ ngang 2 và khoảng
giữa 2 đường kẻ dọc 3 và 4.

46
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Từ điểm đặt bút ở
vị. Rộng hơn 2 giao điểm đường kẻ ngang 6
đơn vị. và đường kẻ dọc 5 đưa bút
- Gồm 2 nét: xuống vị trí giao điểm đường
nét 1 biến điệu kẻ ngang 2 và kẻ dọc 4 thì
của nét móc lượn cong sang trái tạo nét
ngược trái; nét cong. Điểm két thúc nét này
2 kết hợp của 2 ở giao điểm đường kẻ ngang
nét cơ bản: 2 và đường kẻ dọc 3.
cong trên và - Nét 2: Từ điểm dừng bút
cong phải nối của nét 1, lia bút đến đường
liền nhau, tạo kẻ ngang 5 và khoảng giữa
vòng xoắn nhỏ đường kẻ dọc 3,4 rồi viết nét
giữa thân chữ. cong trên, tạo nét thắt bên
dưới kẻ đường kẻ ngang 4,
tiếp tục viết nét cong phải.
Điểm kết thúc nằm trên
đường kẻ dọc 5 và quãng
giữa hai đường kẻ 2 và 3.
- Cao 2,5 đơn - Từ điểm đặt bút nằm trên
vị. Rộng 2 đơn đường kẻ ngang 6 kéo thẳng
vị. xuống bên dưới đường kẻ
- Gồm 1 nét ngang 2 tạo nét thắt nằm sát
viết được tạo bên trên đường kẻ ngang 1,
nên từ 2 nét cơ tiếp tục viết nét cong phải từ
bản: nét thẳng dưới đi lên. Điểm dừng bút
lượn 2 đầu và nằm trên đường kẻ ngang 5
cong phải nối gần sát đường kẻ dọc 3 về
liền nhau tạo phía trái.
vòng xoắn nhỏ
ở chân chữ.

47
- Cao 2,5 đơn Chữ Đ viết như chữ D có
vị. Rộng 2 đơn thêm nét ngang ở dòng kẻ
vị. ngang 3.
- Gồm 2 nét:
nét thứ nhất
như chữ D; nét
thứ 2 là nét
ngang.

- Cao 2,5 đơn - Đầu tiên viết giống phần


vị. Rộng gần 2 trên của chữ C hoa, viết tiếp
đơn vị. nét thắt nhỏ ở vị trí trung tâm
- Gồm 1 nét của toàn chữ, rồi lượn bút
viết, được tạo vòng về bên trái xuống gặp
nên từ 3 nét cơ đường kẻ ngang 1, tiếp tục
bản: nét cong lượn vòng lên hình xoắn ốc.
dưới, 2 nét Điểm dừng bút ở giao điểm
cong trái nối của đường kẻ ngang 2 và
liền nhau, tạo đường kẻ dọc 3.
vòng xoắn nhỏ
giữa thân chữ.

- Cao 2,5 đơn Viết như chữ E sau đó viết


vị. Rộng gần 2 dấu phụ “ ^” trên đầu.
đơn vị.
- Gồm 3 nét:
nét 1 giống
chữ E; nét 2
xiên ngắn trái;
nét 3 xiên ngắn
phải.

48
- Cao 4 đơn vị. - Nét 1: Viết như chữ C hoa
Rộng hơn 2 (giống về hình dáng và kích
đơn vị. thước). Tuy nhiên về cuối nét
- Gồm 2 nét: không có nét lượn xuống mà
nét 1là kết hợp dừng lại ở giao điểm của
của 2 nét cơ đường kẻ ngang 3 và đường
bản cong dưới kẻ dọc 5.
và cong trái - Nét 2: Từ điểm kết thúc nét
nối liền nhau 1, viết tiếp nét khuyết dưới.
tạo thành vòng Điểm dưới cùng của nét
xoắn to ở đầu khuyết này tiếp xúc với
chữ; nét 2 là đường kẻ ngang 4. Điểm
nét khuyết dừng bút là giao điểm giữa
ngược. đường kẻ ngang 2 và đường
kẻ dọc 6.

- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Đặt bút trên đường


vị. Rộng hơn 2 kẻ ngang 5 (như hình vẽ) viết
đơn vị. nét cong trái rồi lượn ngang,
- Gồm 3 nét: dừng bút ở giao điểm của
nét 1 là kết hợp đường kẻ ngang 6 và đường
của 2 nét cơ kẻ dọc 3 chếch sang phải một
bản cong trái chút.
và lượn ngang; - Nét 2: Từ điểm kết thúc của
nét 2 là kết hợp nét 1, viết nét khuyết dưới.
của 3 nét cơ Sau đó tiếp tục viết nét
bản khuyết khuyết trên. Đoạn cuối của
ngược, khuyết nét này vòng lên về bên phải
xuôi và móc và kết thúc ở giao điểm giữa
ngược phải; đường kẻ ngang 2 và đường
nét 3 là nét kẻ dọc 6.
thẳng đứng. - Nét 3: Lia bút lên trên vào
giữa chữ và viết nét sổ thẳng
đứng.
Lưu ý, nét sổ thẳng chia chữ
H làm hai phần bằng nhau.

49
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Từ điểm đặt bút trên
vị. Rộng hơn 1 đường kẻ ngang 5 nằm gần
đơn vị. bên phải đường kẻ dọc 3 một
- Gồm 2 nét : chút, viết nét cong trái và kéo
nét 1 là kết hợp dài thêm đến giao điểm
của 2 nét cơ đường kẻ ngang 6 và đường
bản cong trái kẻ dọc 4.
và lượn - Nét 2: Từ điểm dừng bút
ngang ; nét 2 của nét 1 hơi lượn xuống để
móc ngược viết nét móc ngược trái điểm
trái. dừng bút là giao điểm của
đường kẻ ngang 2 và đường
kẻ dọc 3.

- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Đặt bút trên đường


vị. Rộng 2,5 kẻ ngang 5 (như hình vẽ),
đơn vị. viết nét cong trái rồi lượn
- Gồm 3 nét: ngang, dừng bút ở giao điểm
nét 1 là kết hợp của đường kẻ ngang 6 và
của 2 nét cơ đường kẻ dọc 3, chếch sang
bản cong trái phải một chút.
và lượn ngang; - Nét 2: Từ điểm dừng bút
nét 2 móc của nét 1, hơi lượn xuống để
ngược trái; nét viết nét móc ngược trái, điểm
3 là kết hợp dừng bút trên đường kẻ
của 2 nét cơ ngang 2 là khoảng giữa của
bản móc xuôi đường kẻ dọc 2 và 3.
phải và móc - Nét 3: Lia bút lên trên đến
ngược phải nối giao điểm giữa đường kẻ
liền nhau tạo ngang 5 và đường kẻ dọc 5
thành vòng vòng bút viết nét móc xuôi
xoắn nhỏ giữa phải, đưa bút hơi thẳng
thân chữ. xuống quãng giữa của chữ để
tạo nét thắt nhỏ ở giữa, tiếp
theo là viết nét móc ngược
phải. Điểm dừng bút là giao
điểm giữa đường kẻ ngang 2
và đường kẻ dọc 6.

50
- Cao 2,5 đơn - Viết nửa trên của chữ C,
vị. Rộng 2 đơn kéo thẳng xuống gần đường
vị. kẻ ngang 1 tạo nét thắt nằm
- Gồm 1 nét ngang trên đường kẻ này,
viết được tạo tiếp tục đưa bút sang phải
nên từ 3 nét cơ đến gần đường kẻ dọc 5 thì
bản: nét cong đưa bút hướng lên. Điểm
dưới, nét lượn dừng bút là giao điểm của
dọc, nét lượn đường kẻ ngang 2 và đường
ngang nối liền kẻ dọc 5
nhau tạo thành
vòng xoắn to ở
đầu chữ, vòng
xoắn nhỏ ở
chân chữ.
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Đặt bút trên đường
vị. Rộng 3 đơn kẻ ngang 2 (như hình vẽ) viết
vị. nét móc từ dưới lên, hơi lượn
- Gồm 4 nét: sang phải, dừng bút ở giao
nét móc ngược điểm của đường kẻ ngang 6
trái (hơi lượn và đường kẻ dọc 4.
đầu sang bên - Nét 2: Từ điểm dừng bút
phải), nét của nét 1, chuyển hướng đầu
thẳng đứng bút để viết nét thẳng đứng,
(hơi lượn ở cuối nét hơi lượn sang trái
cuối nét), nét một chút, dừng bút ở đường
thẳng xiên (hơi kẻ ngang 1.
lượn ở hai - Nét 3: Từ điểm dừng bút
đầu), nét móc của nét 2, chuyển hướng đầu
ngược phải. bút để viết nét thẳng xiên từ
dưới lên, hơi lượn hai đầu,
dừng bút ở đường kẻ ngang 6
và quãng giữa đường kẻ dọc
5 và 6.
- Nét 4: Từ điểm dừng bút
của nét 3, chuyển hướng đầu
bút để viết nét móc ngược
phải, dừng bút ở giao điểm
giữa đường kẻ ngang 2 và
đường kẻ dọc 7.

51
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Đặt bút trên đường
vị. Rộng 3 đơn kẻ ngang 2, chếch về phía
vị. đường kẻ dọc 2 viết nét móc
- Gồm 3 nét: ngược, dừng bút ở giao điểm
nét móc ngược đường kẻ ngang 6 và đường
trái, nét thẳng kẻ dọc 4.
xiên, nét móc - Nét 2: Từ điểm dừng bút
xuôi phải (hơi của nét 1, chuyển hướng ngòi
nghiêng) bút để viết nét thẳng xiên,
dừng bút ở đường kẻ ngang 1
và là điểm giữa của đường kẻ
dọc 4 và 5.
- Nét 3: Từ điểm dừng bút
của nét 2, chuyển hướng ngòi
bút để viết nét móc xuôi
phải, điểm dừng bút trên
đường kẻ ngang 5 (như hình
vẽ).
- Cao 2,5 đơn - Điểm đặt bút là giao điểm
vị. Rộng 2 đơn của đường kẻ ngang 6 và
vị. đường kẻ dọc 3, đưa bút sang
- Gồm 1 nét trái để viết nét cong kín,
viết là nét cong phần cuối nét lượn vào trong
kín, phần cuối bụng chữ, đến đường kẻ
nét lượn vào ngang 4 thì lượn lên một chút
trong bụng rồi dừng.
chữ.

52
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Viết như chữ O.
vị. Rộng 2 đơn - Nét 2, nét 3: Viết nét xiên
vị. trái ngắn kết hợp với nét xiên
- Gồm 3 nét: phải ngắn tạo thành dấu mũ
nét cong kín, đặt cân đối trên đầu chữ.
nét xiên ngắn
trái, nét xiên
ngắn phải.

- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Viết như chữ O.


vị. Rộng 2 đơn - Nét 2: Đặt bút trên đường
vị. kẻ ngang 6, viết đường cong
- Gồm 2 nét: nhỏ (nét râu) bên phải chữ O
nét cong kín, (đỉnh nét râu cao hơn ĐK6
nét râu một chút)

53
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Đặt bút trên đường
vị. Rộng 2 đơn kẻ ngang 6, hơi lượn bút
vị. sang trái để viết nét móc
- Gồm 2 nét: ngược trái, dừng bút trên
nét móc ngược đường kẻ ngang 2 và là điểm
trái phía trên giữa của đường kẻ dọc 2 và
hơi lượn, nét 3.
cong trên (hai - Nét 2: Từ điểm dừng bút
đầu nét lượn của nét 1 lia bút lên đến giao
vào trong điểm của đường kẻ ngang 5
không đều và đường kẻ dọc 3 bắt đầu
nhau) viết nét cong trên, cuối nét
lượn vào trong, dừng bút gần
đường kẻ ngang 5.
- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Viết như chữ O.
vị. Rộng hơn 2 - Nét 2: Từ điểm dừng bút
đơn vị. của nét 1, lia bút xuống gần
- Gồm 2 nét: đường kẻ ngang 2 viết nét
nét cong kín lượn ngang từ trong lòng chữ
phần cuối nét ra ngoài, dừng bút trên
lượn vào trong, đường kẻ ngang 2.
nét lượn
ngang.

- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Viết như nét 1 chữ P.


vị. Rộng gần 3 - Nét 2: Từ điểm dừng bút
đơn vị. của nét 1, lia bút lên giao
- Gồm 2 nét : điểm của đường kẻ ngang 5
nét 1 là nét và đường kẻ dọc 3 bắt đầu
móc ngược viết nét cong trên, cuối nét
trái ; nét 2 là lượn vào giữa thân chữ tạo
kết hợp của hai vòng xoắn nhỏ rồi viết tiếp
nét cơ bản: nét móc ngược phải, dừng
cong trên và bút trên đường kẻ ngang 2 ở
móc ngược quãng giữa đường kẻ dọc 6
phải nối liền và 7.
nhau tạo vòng
xoắn nhỏ giữa
thân chữ.

54
- Cao 2,5 đơn - Đầu tiên viết giống phần
vị. Rộng gần 2 trên của chữ L, nhưng không
đơn vị. lượn tròn cong lên mà kéo
- Gồm 1 nét thẳng xuống để viết tiếp nét
viết được tạo móc ngược trái. Đầu cuối nét
nên bởi 2 nét móc tròn và kết thúc ở vị trí
cơ bản: cong nằm trên đường kẻ ngang 2
dưới và móc và quãng giữa đường kẻ dọc
ngược trái nối 2 và 3.
liền nhau tạo
vòng xoắn to ở
đầu chữ.

- Cao 2,5 đơn - Viết nét cong trái từ điểm


vị. Rộng 2 đơn đặt bút trên đường kẻ ngang
vị. 4 và quãng giữa hai đường
- Gồm 1 nét kẻ dọc 4 và 5. Tạo nét xoắn
viết được tạo nằm kề dưới đường kẻ ngang
nên từ 3 nét cơ 6. Tiếp theo viết tiếp nét
bản: cong trái cong phải thứ 2 kéo xuống
nhỏ lượn sát đường kẻ ngang 1, lượn
ngang, cong bút tạo nét vòng đi lên và kết
trái to nối liền thúc trên đường kẻ ngang 2
nhau tạo vòng và ở quãng giữa đường kẻ
xoắn nhỏ ở đầu dọc 3 và 4
chữ.
- Cao 2,5 đơn - Viết giống như chữ u viết
vị. Rộng gần 3 thường song điều chỉnh chiều
đơn vị. cao lên 2,5 đơn vị chữ, thêm
- Gồm 2 nét: một nét vòng khi bắt đầu chữ
nét móc hai u thường.
đầu, nét móc
ngược phải.

55
- Cao 2,5 đơn - Chữ Ư là chữ U thêm dấu
vị. Rộng gần 3 phụ “ ”.
đơn vị. Cách viết: Viết chữ U, thêm
- Gồm 3 nét: dấu phụ “ ” vào đầu bên
nét 1, nét 2 trái.
giống chữ U;
nét 3 là nét râu.

- Cao 2,5 đơn - Nét 1: Đặt bút trên đường


vị. Rộng 2,5 kẻ 5, viết nét cong trái rồi
đơn vị. lượn ngang; dừng bút trên
- Gồm 3 nét: đường kẻ 6.
nét 1 là kết hợp - Nét 2: Từ điểm dừng bút
của 2 nét cơ của nét 1, chuyển hướng đầu
bản: cong trái bút đi xuống để viết nét
và lượn ngang; thẳng đứng lượn ở 2 đầu; đến
nét 2 là nét đường kẻ 1 thì dừng lại.
thẳng đứng - Nét 3: Từ điểm dừng bút
(hơi lượn ở 2 của nét 2, chuyển hướng đầu
đầu); nét 3 là bút lượn lên để viết tiếp nét
nét móc xuôi móc xuôi phải; dừng bút ở
phải, lượn ở đường kẻ 5.
phía dưới. Chú ý: Giữa nét 2 và nét 3 có
khoảng cách vừa phải.
- Cao 2,5 đơn - Về cơ bản viết như chữ x
vị. Rộng 2 đơn thường song được phóng to
vị. hơn, chiều cao 2,5 đơn vị.
- Gồm 1 nét Khi viết đến cuối nét cong
viết được tạo phải thì không nhấc bút như
nên từ 3 nét cơ viết chữ x thường mà tạo nét
bản: móc hai lượn nối liền với nét cong
đầu trái, thẳng trái.
xiên lượn hai
đầu, móc hai
đầu phải.

56
- Cao 4 đơn vị. Chữ Y gần giống chữ y viết
Rộng 2,5 đơn thường chỉ khác ở kích cỡ và
vị. có thêm nét vòng ( thay nét
- Gồm 2 nét, hất lên ) khi mới bắt đầu viết.
nét móc hai - Đầu tiên viết nét móc hai
đầu, nét khuyết đầu có độ cao 2,5 đơn vị và
ngược. móc ở đầu trên tròn.
- Từ điểm kết thúc nét móc
hai đầu lia bút lên đường kẻ
ngang 6 và viết nét khuyết
dưới với độ cao 4 đơn vị chữ.
Điểm dừng bút nằm ở giao
điểm của đường kẻ ngang 6
và đường kẻ dọc 6.

2.3.3.5. Luyện viết chữ số:


Số Cấu tạo, cách viết
-Chữ số 0: là nét cong kín
- Đặt bút dưới ĐK5 một chút, viết nét cong kín (từ
phải sang trái), dừng ở điểm xuất phát.

57
- Chữ số 1: Gồm 2 nét: nét xiên phải và nét thẳng
đứng.
- Điểm đặt bút là giao điểm của đường kẻ ngang 4 và
đường kẻ dọc 2. Từ điểm đặt bút viết nét xiên hơi
cong chạy đến giao điểm đường kẻ ngang 5 và đường
kẻ dọc 3, rồi tiếp tục sổ thẳng xuống đến đường kẻ
ngang 1.

- Chữ số 2: Gồm 2 nét: nét 1 là kết hợp của 2 nét cơ


bản: cong trên và thẳng xiên; nét 2 là nét ngang.
- Từ điểm đặt bút trên đường kẻ ngang 4 viết nét cong
trên nối với nét thẳng xiên.Từ điểm dừng bút của nét 1
chuyển hướng bút viết nét thẳng ngang, trùng đường
kẻ ngang 1, bằng độ rộng của nét cong trên.

- Chữ số 3: Gồm 3 nét: nét thẳng ngang, nét thẳng


xiên, nét cong phải.
- Từ điểm đặt bút trên đường kẻ ngang 5, viết nét
thẳng ngang, dừng bút ở giao điểm của đường kẻ
ngang 5 và đường kẻ dọc 3. Từ điểm dừng bút của nét
1, chuyển hướng bút viết nét thẳng xiên, đến khoảng
giữa đường kẻ ngang 3 và 4 thì dừng. Từ điểm dừng
bút của nét 2, chuyển hướng bút viết nét cong phải,
dừng bút ở giao điểm của đường kẻ dọc 1 và đường kẻ
ngang 2.

58
- Chữ số 4: Gồm 3 nét: nét thẳng xiên, nét thẳng
ngang, nét thẳng đứng.
- Từ điểm đặt bút là giao điểm của đường kẻ ngang 5
và đường kẻ dọc 3, viết nét thẳng xiên đến đường kẻ
ngang 2 thì dừng. Sau đó, tiếp tục viết nét thẳng ngang,
nằm trên đường kẻ ngang 2. Lia bút lên giao điểm giữa
đường kẻ ngang 4 và đường kẻ dọc 3 viết nét sổ thẳng
xuống đường kẻ ngang 1.

- Chữ số 5: Gồm 3 nét: nét ngang, nét thẳng đứng, nét


cong phải.
- Viết nét ngang 1: Từ giao điểm của đường kẻ ngang
5 và đường kẻ dọc 1 viết nét ngang, dừng bút ở giao
điểm của đường kẻ ngang 5 và đường kẻ dọc 3. Lia bút
trở lại điểm bắt đầu của nét 1, viết nét thẳng đứng đến
đường kẻ ngang 3 thì dừng. Từ điểm kết thúc nét thứ 2
viết nét cong phải theo chiều mũi tên. Điểm kết thúc là
giao điểm của đường kẻ ngang 2 và đường kẻ dọc 1.

- Chữ số 6: Gồm 1 nét được tạo nên bởi 2 nét cơ bản:


cong trên và cong kín.
- Từ điểm đặt bút là giao điểm của đường kẻ ngang 4
và đường kẻ dọc 3 viết nét cong trên theo chiều mũi
tên.
Kết thúc nét cong trên thì tiếp tục đưa bút vòng lên
vượt qua đường kẻ ngang 3 một chút rồi vòng về bên
trái cho đến khi gặp nét cong . Điểm kết thúc thấp hơn
đường kẻ ngang 3 một chút.

59
- Chữ số 7: Gồm 3 nét: nét thẳng ngang, nét thẳng
xiên, nét ngang.
- Từ điểm đặt bút trên đường kẻ ngang 5 viết nét thẳng
ngang. Từ điểm dừng bút của nét 1, chuyển hướng bút
viết nét thẳng xiên đến đường kẻ 1 thì dừng. Lia bút
lên khoảng giữa nét vừa viết, viết nét thẳng ngang
ngắn trên đường kẻ ngang 3 (cắt ngang nét 2).

- Chữ số 8: Gồm 1 nét được tạo nên bởi 2 nét cơ bản: 2


nét cong trái, 2 nét cong phải.
- Từ điểm đặt bút bên dưới đường kẻ ngang 5 một
chút, viết nét cong trái, đến gần đường kẻ ngang 3 thì
chuyển hướng viết nét cong phải, đến đường kẻ ngang
1 lại lượn lên viết nét cong trái rồi cong phải cho tới
khi chạm vào điểm xuất phát ban đầu, tạo thành 2 vòng
khép kín tiếp giáp nhau. Lưu ý, kích thước của nét
cong kín bên dưới lớn hơn nét bên trên. Hai nét cong
phải xếp chồng lên nhau và thẳng đứng.

- Chữ số 9: Gồm 2 nét: nét cong kín, nét cong dưới.


- Đầu tiên viết nét cong kín như chữ o, từ điểm cuối
của nét cong kín, viết tiếp nét cong dưới. Điểm dừng
bút là giao điểm đường kẻ dọc 1 và đường kẻ ngang2.

60
Tóm tắt chương 2
Chữ viết là một phương tiện giao tiếp quan trọng của con người. Ở trường Tiểu
học, phân môn Tập viết, Chính tả, Tập làm văn viết… có nhiệm vụ rèn kĩ năng viết chữ
cho học sinh. Tập viết vừa có tác dụng rèn chữ vừa hình thành ở học sinh tính kiên trì,
cẩn thận, óc thẩm mĩ, biết tôn trọng mình và mọi người.
Mẫu chữ hiện nay dạy ở các trường Tiểu học là mẫu chữ theo quyết định số
31/2002/QĐ-BGD-ĐT, ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các
chữ viết thường, viết hoa đều có thể viết: kiểu chữ viết đứng, nét đều; kiểu chữ viết
nghiêng, nét đều; kiểu chữ viết đứng, nét thanh đậm; kiểu chữ viết nghiêng, nét thanh,
nét đậm. Các chữ cái đều được phân thành các nhóm chữ dựa vào độ cao hay hình dáng
nét viết tạo thuận lợi cho việc rèn chữ. Chữ cái viết thường, căn cứ vào độ cao được
chia thành 5 nhóm: chữ cái có chiều cao là: 1đơn vị; 1,25 đơn vị; 1,5 đơn vị; 2 đơn vị;
2,5 đơn vị. Chữ cái viết hoa, chủ yếu có chiều cao 2,5 đơn vị; riêng chữ Y, G có chiều
cao 4 đơn vị. Các chữ số có chiều cao 2 đơn vị. Dựa vào hình dáng nét viết, chữ cái viết
thường được chia thành 5 nhóm, chữ cái viết hoa được chia thành 6 nhóm.
Khi viết cần có tư thế ngồi viết (đứng viết bảng), cách cầm bút(cầm phấn), đặt vở
đúng quy định. Kĩ thuật viết cần nắm vững như tên gọi các nét, hình dáng, cấu tạo, quy
trình viết từng con chữ, cách nối giữa các con chữ, cách ghi dấu phụ, dấu thanh… Bên
cạnh đó, cần biết trình bày bài viết chính xác, khoa học, đẹp.

Câu hỏi và
bài tập
Câu hỏi
1. Trình bày những yêu cầu về kĩ thuật viết chữ.
2. Chữ cái tiếng Việt được phân chia như thế nào? Phân tích lợi ích của việc phân chia
chữ thành các nhóm.
3. Không ít học sinh Tiểu học hiện nay ngồi viết chưa đúng tư thế, cách cầm bút, cách
đặt vở chưa đúng quy định, hãy tìm hiểu nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc
phục.

Bài tập

Bài tập 1: Quan sát từng chữ cái trong Bộ chữ dạy Tập viết ở Tiểu học, trình bày tên
gọi các nét, quy trình viết mỗi chữ cái.
Bài tập 2: Luyện viết vở, viết bảng các nét cơ bản trong chữ cái tiếng Việt.
Bài tập 3: Luyện viết vở, viết bảng các chữ cái viết thường, viết hoa, các chữ số tiếng
Việt.
Bài tập 4: Luyện viết các bài tập trong vở Tập viết lớp 1, 2, 3 (luyện viết trong vở Tập
viết, luyện viết trên bảng. Mỗi ngày luyện viết 1 trang).

61
Bài tập 5: Luyện viết đoạn thơ sau (luyện viết trong vở, luyện viết trên bảng) theo 4
kiểu chữ: Chữ viết đứng, nét đều; chữ viết đứng, nét thanh, nét đậm; chữ viết nghiêng
nét đều; chữ viết nghiêng nét thanh, nét đậm.
Việt Nam đất nước ta ơi!
Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp
hơn.
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
(Nguyễn Đình Thi)
Bài tập 6: Viết và trình bày nội dung một tiết dạy ở Tiểu học trên bảng lớp.

Tài liệu tham khảo chính


1. Giáo trình Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt - NXB Giáo dục – 1997.
2. Giáo trình Tiếng Việt thực hành - NXB Đại học Sư phạm - NXB Giáo dục – 2007.
3. Giáo trình Rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm Tiểu học - NXB Đại học Sư phạm- 2001.
4. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 - NXB Đại học Sư phạm- 2007.
5. Lê A, Chữ viết và dạy chữ viết ở Tiểu học, NXB Đại học Sư phạm, 2003.
6. Trần Mạnh Hưởng, Dạy Tập viết ở Tiểu học, NXB Giáo dục-2005.
7. Nhiều tác giả, Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt lớp 1, 2, 3, NXB Giáo dục- 2007.

62
Chương 3
RÈN KĨ NĂNG NGHE NÓI

3.1. Mục đích, yêu cầu rèn kĩ năng nghe nói


Ngôn ngữ là công cụ của hoạt động nhận thức và tư duy, đồng thời là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
được thực hiện dưới hai hình thức:
- Giao tiếp bằng lời nói (nhân vật giao tiếp là người nói và người nghe)
- Giao tiếp bằng chữ viết (nhân vật giao tiếp là người viết và người đọc)
Sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ được gọi là ngôn bản. Đó là
những lời nói được chúng ta nói ra hay viết ra khi giao tiếp. Hoạt động giao tiếp
được diễn ra thông qua hai hoạt động:
- Hoạt động sản sinh (người nói hoặc người viết sản sinh ra ngôn bản)
- Hoạt động lĩnh hội (người nghe hoặc người đọc tiếp nhận những thông tin của
ngôn bản)
Nghe, nói, đọc, viết là những hoạt động giao tiếp giúp cho xã hội loài người
ngày càng gắn kết, phát triển văn minh. Trong đó giao tiếp bằng hình thức nghe -
nói được sử dụng thường xuyên, chiếm một tỉ lệ cao trong giao tiếp. Theo thống kê
của các nhà tâm lí học, trong giao tiếp ngôn ngữ của con người, thì 2/3 là giao tiếp
bằng miệng. Giao tiếp bằng lời nói được sử dụng từ xa xưa, có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Vì vậy trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt có nhiều câu đúc
kết kinh nghiệm giao tiếp bằng lời như:
- Ăn có nhai, nói có nghĩ.
- Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
- Không biết thì dựa cột mà nghe
Trong giao tiếp hàng ngày, cần nói ngắn gọn, chính xác, có khả năng lôi cuốn,
thuyết phục người nghe; phải biết lắng nghe để thu nhận và hiểu đúng thông tin là
những kĩ năng cần rèn luyện thường xuyên để giao tiếp tốt.
Trong xã hội văn minh, hiện đại, giao tiếp bằng lời nói không chỉ bó hẹp trong
mối quan hệ gia đình, làng xóm mà còn được thực hiện trong các cuộc họp, hội
thảo, phỏng vấn, qua điện thoại, qua cầu truyền hình… Một số ngành nghề có yêu
cầu cao về năng lực giao tiếp bằng lời như các nhà ngoại giao, các chính khách, các
luật sư, nhà báo, người dẫn chương trình, nghề sư phạm…
Đối với người giáo viên, hoạt động nghe - nói không chỉ là một hoạt động xã
hội, hoạt động giao tiếp đơn thuần mà còn là một hoạt động mang đặc trưng nghề
nghiệp cần học tập, trau dồi thường xuyên. Nghe- nói là một phương tiện, một
công cụ hành nghề của giáo viên. Hàng ngày người giáo viên tiếp xúc với học sinh,
với phụ huynh, với đồng nghiệp, với mọi người trong cộng đồng… Mỗi buổi lên
lớp, giáo viên cần nói để truyền đạt kiến thức, tổ chức được giờ học theo hướng
tích cực, thực hiện công tác giáo dục… Giáo viên cần biết lắng nghe để hiểu tâm
sinh lí, năng lực… của mỗi học sinh. Trong những lần giao tiếp với phụ huynh,
giáo viên phải biết lắng nghe để nắm được hoàn cảnh gia đình, nguyện vọng của
phụ huynh. Đồng thời giáo viên cũng phải trình bày được kế hoạch của trường, của

63
lớp trong năm học, kết quả học tập, rèn luyện của lớp, của từng cá nhân một cách
chính xác đầy đủ. Trong những buổi họp hội đồng, tổ nhóm chuyên môn, người
giáo viên phải biết lắng nghe, hiểu ý kiến đồng nghiệp, biết trình bày, trao đổi ý
kiến với đồng nghiệp. Ngoài ra người giáo viên còn phải nói chuyện , thuyết giảng,
trao đổi… với những đối tượng khác nhau. (Ví dụ nói trước học sinh toàn trường,
trả lời phỏng vấn…). Như vậy hoạt động nghe - nói đối với người giáo viên không
chỉ là hoạt động giao tiếp đơn thuần mà còn là một năng lực nghiệp vụ quan trọng
của nghề dạy học. Việc rèn luyện các kĩ năng nghe - nói là công việc cần được tiến
hành thường xuyên, ngay khi là giáo sinh sư phạm cũng như khi trở thành giáo
viên.
Đối với học sinh Tiểu học, kĩ năng nghe - nói được rèn luyện khi học tiếng
Việt cũng như học các môn học khác. Các phân môn Học vần, Tập đọc, Kể
chuyện, Chính tả, Tập làm văn miệng… đều có tác dụng tích cực trong việc rèn kĩ
năng nghe - nói cho học sinh.

3.2. Một số hình thức nghe - nói, các nhân tố tham gia hoạt động giao tiếp bằng lời
3.2.1. Một số hình thức nghe - nói
Nghe - nói đơn thoại (độc thoại): là hình thức nói cho một hoặc nhiều người
nghe mà không có sự chuyển đổi vai giữa người nói, người nghe. (Ví dụ: phát
thanh viên, phóng viên nói trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát
thanh, vô tuyến, báo cáo viên nói chuyện). Nghe - nói hội thoại (đối thoại): là
hình thức giao tiếp bằng lời nói trong đó có sự chuyển đổi vai giữa người nói và
người nghe. Hội thoại được sử dụng thường xuyên trong tất cả các sinh hoạt
thường ngày của con người.
Vận động giao tiếp trong hội thoại gồm ba vận động: vận động trao lời, vận
động đáp lời, vận động tương tác. Vận động trao lời là vận động người nói hướng
tới người nghe. Vận động đáp lời là vận động của người nghe hướng tới người
nói để đáp ứng, như: hỏi/trả lời, chào/đáp… Vận động tương tác là sự ảnh hưởng,
tác động lẫn nhau của các nhân vật giao tiếp. Trong hội thoại, vận động tương tác
thể hiện ở các quy tắc luân phiên lượt thoại, quy tắc tôn trọng thể diện, quy tắc
khiêm tốn.
Ví dụ:
Hà: - Cháu chào bác ạ. Cháu xin phép bác cho cháu gặp bạn Dũng. (Lời
chào, lời xin phép, thể hiện sự lễ phép, lịch sự)
Bố Dũng: - Cháu vào nhà đi. Dũng đang học bài đấy! (Lời mời, thể hiện sự
thân thiết, lịch sự)
Hà: - Cháu cảm ơn bác. Cháu xin phép bác. (Lời đáp, thể hiện sự lễ phép,
lịch sự)
(SGK- Tiếng Việt lớp 2)
Ngoài giao tiếp bằng lời nói, trong hội thoại thông tin còn được bổ sung
bằng những yếu tố của ngữ điệu, nét mặt, ánh mắt, cử chỉ…
3.2.2. Những nhân tố tham gia giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động giao
tiếp. Trong hội thoại đó là người nói, người nghe. Nội dung giao tiếp là những sự

64
vật, hiện tượng, tâm trạng, tình cảm… được nói tới trong hội thoại và được thể
hiện trong lời nói. Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh không gian, thời gian, tình
huống, đặc điểm xã hội… mà cuộc thoại diễn ra. Hoàn cảnh giao tiếp khác nhau
sẽ tạo nên hình thức hội thoại khác nhau. Công cụ giao tiếp là ngôn ngữ mà các
nhân vật giao tiếp sử dụng để tạo thành ngôn bản. Để thực hiện được giao tiếp
những người tham gia giao tiếp phải dùng chung một ngôn ngữ. Ngôn bản là sản
phẩm lời nói được tạo ra do một hành động giao tiếp nào đấy.
Ví dụ đoạn hội thoại sau:
Đến trước cung vua, cậu bé kêu khóc om sòm. Vua cho gọi vào, hỏi:
- Cậu bé kia, sao dám đến đây làm ầm ĩ?
- Muôn tâu Đức Vua – Cậu bé đáp - Bố con mới đẻ em bé, bắt con đi xin sữa cho
em. Con không xin được, liền bị đuổi đi.
Vua quát:
- Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm! Bố ngươi là đàn ông thì đẻ sao được!
Cậu bé liền đáp:
- Muôn tâu, vậy sao Đức Vua lại ra lệnh cho làng con phải nộp gà trống biết đẻ
trứng ạ?
Vua bật cười, thầm khen cậu bé, nhưng vẫn muốn thử tài cậu lần nữa.
(SGK-Tiếng Việt lớp 3)
Nhân vật giao tiếp gồm: Đức Vua (người bề trên có quyền thế) và em bé
(người bề dưới). Nội dung giao tiếp, nguyên nhân cậu bé đến kêu khóc om sòm
trước cung vua (Em bé nói về việc bố sai em đi xin sữa nhưng không được nên bị
bố đuổi đi). Mục đích giao tiếp, để nhà vua thấy rõ việc bắt dân làng nuôi gà
trống đẻ trứng là điều vô lí. Hoàn cảnh giao tiếp, tại cung vua. Công cụ giao tiếp
và sản phẩm giao tiếp: Lời lẽ của nhà vua trịnh trọng; lời lẽ của cậu bé nhỏ nhẹ,
lém lỉnh.

3.3. Luyện kĩ năng nghe


3.3.1. Khái niệm
Nghe là hoạt động nhận tin từ bộ máy thính giác. Đầu tiên người nghe phải
nghe chính xác, đầy đủ thông tin. Sau đó nhờ các hoạt động của tư duy mà hiểu
được nội dung thông tin.
Theo Paul Toy Rankin (1930), trong giao tiếp ngôn ngữ, con người dùng
42,1% tổng số thời gian cho việc nghe; 31% cho việc nói; 15% cho việc đọc;
11% cho việc viết. Hoạt động nghe giúp con người tiếp nhận nguồn thông tin
phong phú, đa dạng của cuộc sống, tăng cường vốn hiểu biết về hiện thực khách
quan, duy trì hoạt động giao tiếp diễn ra hàng ngày, hạn chế được những sai lầm
trong giao tiếp. Nghe và hiểu thông tin giúp con người giải quyết được nhiều vấn
đề. Kĩ năng nghe còn là kĩ năng cơ sở để thực hiện các hoạt động khác như hoạt
động đọc, nói, viết.
3.3.2. Các hình thức nghe
Căn cứ vào kiểu giao tiếp, chúng ta có hai hình thức nghe: nghe đối thoại,
nghe độc thoại. Hai hình thức nghe này bên cạnh những đặc điểm giống nhau như

65
cùng phụ thuộc vào chất lượng âm thanh, tiếng ồn, độ chú ý của người nghe, còn
có những điểm riêng.
a. Nghe trong hội thoại (đối thoại)
- Hoạt động nghe diễn ra với sự hiện diện trực tiếp của những người tham gia hội
thoại, trong không gian hẹp. Nói chuyện qua điện thoại là hình thức đặc biệt của
nghe hội thoại.
- Luôn có sự đổi vai từ người nói sang người nghe hoặc ngược lại. Thời gian
dành cho một lượt thoại không quá dài.
- Nội dung của buổi hội thoại có thể được quy định trước nhưng thường được xác
lập, điều chỉnh khi giao tiếp, nội dung luôn biến đổi, phát triển. Người nghe
cũng chính là người trực tiếp tham gia điều chỉnh, xác lập nội dung của quá
trình giao tiếp. Điều này đòi hỏi người nghe phải theo sát cuộc thoại từng giây,
từng phút, phải hiểu nhanh mọi thông báo để có những ứng xử kịp thời.
- Nghe trong hội thoại thường không cần ghi chép vì người nghe cũng là người
xây dựng nội dung giao tiếp. Tuy vậy tùy nội dung, mục đích giao tiếp trong
một số trường hợp người nghe có thể ghi chép.
b. Nghe trong đơn thoại (độc thoại)
- Hoạt động nghe diễn ra trong không gian rộng như trong hội trường, những nơi
công cộng khác…
- Không có sự chuyển vai giữa người nói và người nghe, người nghe luôn đóng
vai trò là người nhận tin. Thời gian nghe bao giờ cũng dài hơn, lâu hơn nghe hội
thoại.
- Nội dung do người nói quy định, người nghe không tham gia trực tiếp vào việc
xác lập nội dung nên khó nắm bắt dù đề tài đã được biết trước. Tuy vậy bằng
thái độ khi nghe, người nghe có những ảnh hưởng tới người nói, buộc họ phải
điều chỉnh nội dung hoặc cách nói.
- Trong khi nghe đơn thoại, người nghe thường ghi chép điều người nói trình bày.
Cách ghi chép tùy thuộc ở sự quan tâm của người nghe với nội dung trình bày.
3.3.3. Những điều kiện để nghe có hiệu quả
- Cần có mục đích nghe. Mục đích càng rõ ràng bao nhiêu hiệu quả nghe càng tốt
đẹp bấy nhiêu.
- Cần có những hiểu biết nhất định về nội dung sẽ được nghe. Sự hiểu biết càng
nhiều thì việc lĩnh hội nội dung càng trở nên dễ dàng, nội dung được nghe càng
trở nên sâu sắc. Tầm hiểu biết có ảnh hưởng tới chất lượng của việc nghe.
- Cần có hứng thú với vấn đề được nghe. Đây là điều giúp cho người nghe có khả
năng duy trì sự chú ý, có thể theo dõi cẩn thận và ghi chép tỉ mỉ những vấn đề
người nói thông báo.
- Cần có trí nhớ tốt. Trí nhớ tốt giúp cho việc lưu giữ nội dung đầy đủ, việc ghi
chép tránh được những sai sót nhầm lẫn.
- Cần có hoàn cảnh nghe thuận lợi. Hoàn cảnh bao gồm những yếu tố khách quan,
chủ quan như thời gian, không gian, tiếng ồn, sức khỏe của người nghe…
3.3.4. Những kĩ năng nghe cơ bản cần rèn luyện
- Kĩ năng định hướng: Cần trả lời các câu hỏi: Người nói là ai? Đang nói ở đâu?
Nhằm mục đích gì?

66
- Kĩ năng xác định nội dung nghe:
Đối với mỗi đề tài, mỗi loại bài nói cần có cách nghe riêng. Ví dụ nghe
một câu chuyện phải nắm được tình tiết, diễn biến chính của chuyện, tên, tính
cách nhân vật. Nghe tin tức thời sự phải nắm bắt được những sự kiện, biến cố
diễn ra trong không gian và thời gian cụ thể nào, người tham gia… Có thể căn
cứ vào tên bài, lời giới thiệu, các câu mở đầu để xác định nội dung sẽ nghe, dự
đoán nội dung sẽ được trình bày. Phát hiện các từ, các câu, các chi tiết, số
liệu… quan trọng của bài nói để hiểu nội dung. Cần quan sát thái độ của người
nói để hiểu cả ngụ ý.
- Kĩ năng xác định phương thức, hình thức của bài nói khi nghe:
+ Bố cục của bài nói mấy phần, triển khai theo hình thức nào? (diễn dịch, quy
nạp, tổng phân hợp...)
+ Trọng âm, nhịp điệu, ngữ điệu của người nói.
- Kĩ năng bộc lộ sự quan tâm: Người nghe bằng ánh mắt, nét mặt, nụ cười, các
động tác cử chỉ, sử dụng các câu hỏi có tác dụng thể hiện sự quan tâm, khích lệ
người nói.
- Kĩ năng ghí chép khi nghe:
Để sử dụng có hiệu quả những thông tin nghe được, trong khi nghe cần
phải ghi chép. Thường thì vừa nghe vừa ghi, nhưng cũng có thể nghe xong một
phần rồi mới ghi vắn tắt bằng vài ba câu theo cách hiểu của mình. Cách thứ
nhất, vừa nghe vừa ghi, có ưu điểm là ghi lại được gần như trung thành lời
người nói nhưng nhiều khi bỏ sót những chi tiết quan trọng mà người nghe
không ghi kịp. Cách ghi thứ hai, nghe xong mới ghi, ưu điểm là tóm tắt được
những ý chính, nhưng khó tái hiện được những thông tin chi tiết chính xác. Vì
vậy, khi nghe cần sử dụng cả hai cách ghi, tùy mục đích đặt ra, tùy nội dung bài
nói sao cho việc ghi chép đạt hiệu quả cao nhất.

3.4. Luyện kĩ năng nói


3.4.1. Khái niệm
Nói là hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên người nói
phải xác định nội dung lời nói, lựa chọn ngôn ngữ để diễn tả nội dung. Sau đó
người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi chuỗi lời nói đã được xác định.
Hoạt động nói là hoạt động giao tiếp cơ bản của loài người, có ý nghĩa cơ sở
đối với các hoạt động đọc, viết, nghe.
3.4.2. Các hình thức nói
a. Đối thoại
- Người đối thoại là người tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển diễn biến
cuộc thoại. Luôn có sự đổi vai từ nói sang nghe và ngược lại. Đối thoại đòi hỏi
sự thích ứng nhanh khi đổi vai để có thể nhập ngay vào nội dung cuộc thoại.
- Lời đối thoại thường ngắn gọn, có trọng tâm, các từ đưa đẩy chêm xen được
sử dụng nhiều tạo cho câu văn, lời văn có phong cách khẩu ngữ. Ngôn ngữ và
cách lập luận phải phù hợp với trình độ nhận thức của người đối thoại.

67
- Có sự hỗ trợ của các yếu tố phi ngôn ngữ. Trong nhiều trường hợp, các yếu tố
phi ngôn ngữ giúp người nghe hiểu chính xác, đúng ý người nói, tạo ra sự hấp
dẫn trong giao tiếp.
- Cần tạo không khí bình đẳng trong giao tiếp. Tôn trọng và lắng nghe người đối
thoại. Phải biết thừa nhận những điểm có lí trong ý kiến người đối thoại, biết
thừa nhận cái sai trong ý kiến của mình mà người đối thoại chỉ ra.
b. Độc thoại
- Người độc thoại thường giữ vai trò chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp
nói. Người nói cần quan tâm tới biểu hiện thái độ của người nghe để sửa đổi
nội dung, cách nói cho phù hợp.
- Lời độc thoại thường diễn ra liên tục, người nói ít có thời gian ngừng để chuẩn
bị. Vì vậy người nói cần chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi nói. Lời nói phải nhã
nhặn, ôn tồn, lịch sự.
- Người độc thoại có thể sử dụng các yếu tố phụ trợ như ánh mắt, nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ nhưng không nên lạm dụng.
3.4.3. Những điều kiện để nói có hiệu quả
- Người nói có những hiểu biết tốt về đối tượng giao tiếp.
- Hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi.
- Người nói có những hiểu biết sâu rộng về nội dung nói.
- Người nói là người có uy tín.
- Chuẩn bị bài nói tốt:
Bài nói cần được chuẩn bị chu đáo. Có thể thảo sẵn bài nói chuyện ra giấy,
hoặc chí ít phải lập một đề cương chi tiết các ý cần trình bày, những dẫn chứng,
những số liệu minh họa cho mỗi ý. Nên tập dượt trước khi nói. Sự chuẩn bị tốt
làm cho người nói tự tin, chủ động trong quá trình trình bày.
+ Xác định mục đích và mục tiêu của bài nói: Cần xác định rõ bài nói
có mục đích cung cấp thông tin, thuyết phục, hay góp vui cho người nghe.
Trên cơ sở mục đích mà đề ra mục tiêu. Mục đích khác nhau sẽ làm cho cách
lựa chọn nội dung, cách trình bày khác nhau.
+ Xác định nội dung trình bày: Bất kì lời nói nào cũng phải có nội
dung. Nội dung lời nói cần phù hợp với đối tượng nghe. Nội dung càng mới
mẻ, phong phú càng hấp dẫn người nghe. Nội dung trình bày sẽ được triển
khai thành đề cương cụ thể. Đề cương càng được chuẩn bị cẩn thận bao nhiêu
thì hiệu quả giao tiếp càng lớn bấy nhiêu.
Mỗi bài nói thường có ba phần: mở đầu, khai triển (nội dung), kết luận.
Phần mở đầu có nhiệm vụ giới thiệu chủ đề, thu hút sự chú ý của người nghe.
Phần khai triển phải đưa ra được các ý chính, các số liệu, phân tích, chứng
minh để làm rõ vấn đề muốn trình bày. Phần kết chốt lại những điểm quan
trong của bài nói, đề ra những nhiệm vụ cho tương lai.
+ Dự kiến phương pháp và thời gian trình bày.
- Thực hiện giao tiếp:
+ Thể hiện đề cương thành lời nói mạch lạc, sinh động. Mở đầu bài
nói càng có sức hấp dẫn, lôi cuốn bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Có thể mở đầu
bài nói bằng cách vào thẳng vấn đề, có thể nêu lí do, dẫn những tình tiết, mẩu

68
chuyện lí thú để tập trung sự chú ý của người nghe. Khi triển khai cần trình
bày rõ ràng từng vấn đề, từng tình tiết theo một trình tự hợp lí dễ theo dõi. Cần
có hệ thống dẫn chứng chính xác, toàn diện, phong phú, phân tích thấu đáo để
thuyết phục người nghe. Người nói cần xác định nội dung trọng tâm để dành
thời gian trình bày cho phù hợp. Trong khi nói, cần có những ý chuyển tiếp để
bài nói mạch lạc, chặt chẽ. Phần kết thúc bài nói cần ngắn gọn, rõ ràng. Có thể
kết thúc mở hoặc kết thúc khép. Kết thúc mở là từ những điều trình bày mở ra
những điều mới hoặc nêu lên những cảm nghĩ, đề xuất, kiến nghị. Kết thúc
khép là cách kết thúc tóm tắt, khái quát nội dung đã trình bày.
+ Khi nói cần theo dõi diễn biến tâm lí, hứng thú… của người nghe để
điều chỉnh nội dung, cách thể hiện cho phù hợp.
+ Khi nói cần bình tĩnh, tự tin. Trang phục, tác phong lịch sự. Cần
khiêm tốn trong giao tiếp, hết sức tôn trọng người nghe để tạo ra sự đồng cảm
giữa người nói, người nghe.
+ Ngôn ngữ nói cần chính xác, rõ ràng, biểu cảm, khúc chiết. Nói đều
đều, to quá hoặc nhỏ quá, nói đứt quãng không liền mạch… đều hạn chế kết
quả của lời nói.
3.4.4. Những kĩ năng nói cơ bản cần rèn luyện
- Kĩ năng định hướng nội dung và hình thức bài nói
+ Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào hoạt động hội thoại.
+ Công cụ giao tiếp là ngôn ngữ được sử dụng trong hội thoại.
+ Nội dung giao tiếp là sự vật, hiện tượng, nhân vật... được nói tới.
+ Hoàn cảnh giao tiếp là hoàn cảnh không gian, thời gian, hoàn cảnh xã hội
mà cuộc thoại diễn ra.
+ Sản phẩm giao tiếp là lời các nhân vật giao tiếp nói ra.
- Kĩ năng xây dựng đề cương cho bài nói
+ Xác định đối tượng giao tiếp, trả lời câu hỏi: Nói với ai?
+ Xác định mục đích nói, trả lời câu hỏi: Nói để làm gì?
+ Xác định được nội dung cần nói, trả lời câu hỏi: Nói cái gì?
+ Xác định hình thức nói, trả lời câu hỏi: Nói như thế nào?
+ Xác định hoàn cảnh giao tiếp, trả lời câu hỏi: Nói ở đâu? Vào thời gian
nào?
- Kĩ năng trình bày bài nói
+ Giọng nói cần nhiệt tình, lôi cuốn, phát âm chính xác, âm lượng đủ nghe,
tốc độ vừa phải, biết nhấn giọng vào những từ ngữ, câu quan trọng.
+ Ngôn ngữ diễn đạt cần trong sáng, rõ ràng trong việc truyền tải ý nghĩa.
+ Tác phong cần tự tin, chủ động trong việc thể hiện và nắm bắt tâm lí, luôn
có sức hấp dẫn, thu hút người nghe. Người nói nên nhìn thẳng về phía người
nghe, có sự tiếp xúc bằng ánh mắt, nụ cười hoặc những điệu bộ cử chỉ phù
hợp với nội dung bài nói, tạo ra sự tương tác giữa người nói, người nghe.
+ Cách ăn mặc theo bối cảnh diễn ra bài nói.Tùy hoàn cảnh cụ thể người nói
chuẩn bị trước cho mình trang phục phù hợp khi trình bày bài nói. Trang phục
cần chỉnh tề, mang tính nghi thức.

69
Tóm tắt chương 3
Ngôn ngữ là công cụ của hoạt động nhận thức, tư duy và là một phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người. Có hai hình thức giao tiếp: Giao tiếp bằng
lời nói, giao tiếp bằng chữ viết. Giao tiếp bằng lời nói được thực hiện thông qua hoạt
động nghe và nói. Giao tiếp bằng lời nói ra đời từ rất sớm và là hình thức giao tiếp chủ
yếu, thường xuyên của loài người. Đối với người giáo viên, hoạt động nghe nói không
chỉ là những giao tiếp đơn thuần mà còn là một năng lực nghiệp vụ quan trọng của nghề
dạy học.
Có hai hình thức nghe - nói. Nghe - nói đơn thoại là hình thức nói cho một
hoặc nhiều người nghe mà không có sự chuyển đổi vai. Nghe - nói hội thoại là hình
thức giao tiếp bằng lời nói trong đó có sự chuyển đổi vai giữa người nói và người nghe.
Trong giao tiếp, lắng nghe đem lại nhiều lợi ích. Thỏa mãn nhu cầu của
người nói, thu thập được nhiều thông tin, hạn chế được những sai lầm khi nói, tạo
không khí biết lắng nghe nhau trong giao tiếp, giải quyết được nhiều vấn đề. Để nghe có
hiệu quả, cần xác định mục đích trước khi nghe, biết duy trì hứng thú trong suốt thời
gian nghe, có những hiểu biết tối thiểu về vấn đề sẽ nghe, có trí nhớ tốt, biết phát hiện
vấn đề để tập trung chú ý kết hợp với ghi chép, hoàn cảnh tiến hành hoạt động nghe
thuận lợi. Khi nghe, cần biết tạo không khí bình đẳng, cởi mở, bộc lộ sự quan tâm của
người nghe với người nói, biết gợi mở để khuyến khích người đối thoại.
Nói là hoạt động phát tin. Để nói có hiệu quả người nói phải là người có uy
tín, chuẩn bị bài nói chu đáo, khoa học đồng thời người nói biết thực hiện giao tiếp
thành công. Cần chọn vấn đề phù hợp với nội dung quy định, có tính thời sự, đáp ứng
được tâm lí của người nghe. Cấu trúc bài nói có 3 phần (đặt vấn đề, giải quyết vấn đề,
kết luận). Đề cương bài nói cần được xác định rõ mục đích nói, nội dung trình bày,
phương pháp trình bày. Nội dung bài nói cần triển khai thành các luận điểm, luận cứ,
luận chứng phù hợp, cân đối. Các thông tin phong phú, chính xác. Khi giao tiếp, cần
thực hiện bài nói bằng ngôn ngữ chính xác, rõ ràng, biểu cảm, khúc chiết. Tác phong
bình tĩnh tự tin, trang phục lịch sự. Người nói, cần biết quan sát thái độ của người nghe
để điều chỉnh nội dung và ngữ điệu nói cho phù hợp.

Câu hỏi và bài tập


Câu hỏi
1. Phân tích vai trò của hoạt động nghe, nói.
2. Phân tích những điều kiện để nghe, nói có hiệu quả.
3. Thống kê, nhận xét nội dung rèn luyện kĩ năng nghe, kĩ năng nói cho học sinh
trong chương trình tiếng Việt Tiểu học.
Bài tập
Bài tập 1.Tập nghe ghi một bản tin.
Bài tập 2. Nghe ghi một văn bản nghệ thuật và thực hiện các yêu cầu:
- Tóm tắt nội dung văn bản.
- Nêu được thái độ, cảm xúc, sự đánh giá của người viết.
Bài tập 3. Luyện nói các từ, các câu sau:
- Non nước, nóng nực, nòng nọc
- Long lanh, lóng lánh, lúng liếng

70
- Lá non, nảy lộc, nổ lốp
- Con lươn nó lượn trong lọ.
- Lúa nếp là lúa nếp làng
Lúa lên lớp lớp, lòng nàng lâng lâng.
- Nói năng nên luyện luôn luôn
Nói lời lưu loát lớn lên lúc này
Bài tập 4. Tự giới thiệu về bản thân với tập thể lớp.
Bài tập 5. Lập đề cương chi tiết cho các đề tài sau:
- Nghề dạy học
- Tình bạn và tình yêu
- Bảo vệ môi trường
- Tệ nạn xã hội
Bài tập 6. Trình bày một bài nói trước tập thể (theo đề tài tự chọn), thời gian từ 3 đến
5 phút.

Tài liệu tham khảo chính


1. Giáo trình Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt - NXB Giáo dục – 1997.
2. Giáo trình Tiếng Việt thực hành - NXB Đại học Sư phạm - NXB Giáo dục – 2007.
3. Giáo trình Rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm Tiểu học - NXB Đại học Sư phạm -2001.
4. Phan Phương Dung - Đăng Kim Nga, Hoạt động giao tiếp với dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học, NXB Đại học Sư phạm- 2009.
5. Nguyễn Trí, Một số vấn đề dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp ở Tiểu học,
NVB Giáo dục-2009.
6. Vũ Khắc Tuân, Luyện nói cho học sinh lớp 1, NXB Giáo dục, 2008.
7. Nhiều tác giả, Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt lớp 1, 2, 3, 4, 5, NXB Giáo dục-2007.

71
Chương 4
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN

4.1. Mục đích yêu cầu rèn kĩ năng kể chuyện


Kể chuyện là hình thức trình bày lại câu chuyện bằng lời kể sinh động, hấp
dẫn kết hợp với sự biểu hiện của nét mặt, cử chỉ điệu bộ, nhằm truyền cảm đến người
nghe.
Câu chuyện được kể có thể là những tác phẩm văn học, có thể là những
chuyện xảy ra trong thực tế hoặc do con người tưởng tượng ra.
Trong cuộc sống sinh hoạt của xã hội loài người, kể chuyện là một bộ môn
nghệ thuật có từ xa xưa, đem lại sự hứng thú cho cả người lớn và trẻ em. Các tác phẩm
anh hùng ca Iliat, Ôđítxê… các tác phẩm văn học dân gian, truyện Nôm Việt Nam…
đã được kể trong nhân dân, từ đời này sang đời khác. Khi chưa có văn tự để ghi chép
thì kể chuyện là một hình thức sinh hoạt văn hóa chiếm địa vị độc tôn. Khi đã có văn
tự để ghi chép, in ấn kể chuyện vẫn phát triển song song với sự phát triển của hình
thức văn tự. Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn
ngữ, có khả năng đem lại những hiểu biết, những rung cảm nghệ thuật, những phút
giây thư giãn cho con người.
Kể chuyện là một phân môn được dạy ở Tiểu học, từ lớp 1 đến lớp 5, mỗi tuần
1 tiết, được xếp liền sau phân môn Tập đọc. Kể chuyện vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ
tiếng Việt, vừa thuộc phạm trù văn học. Vì vậy, kể chuyện ngoài mục đích phát triển
lời nói, tư duy, còn có khả năng mở rộng hiểu biết, nuôi dưỡng những cảm xúc thẩm
mĩ lành mạnh, hình thành nhân cách cho học sinh.
Đối với người giáo viên Tiểu học, kĩ năng kể chuyện là một trong những kĩ
năng thể hiện năng lực sư phạm của người thày. Người giáo viên cần rèn luyện để có
khả năng ghi nhớ truyện nhanh, biết xác định ngữ điệu và thể hiện ngữ điệu sinh động
kết hợp với sự biểu hiện của các yếu tố phi ngôn ngữ, các phương tiện dạy học. Bên
cạnh đó người giáo viên phải biết tổ chức giờ học hấp dẫn, biết hướng dẫn và khích lệ
học sinh rèn kĩ năng kể chuyện. Vì vậy, người giáo viên Tiểu học cần kiên trì rèn
luyện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của học sinh.
Đọc truyện và kể chuyện là hai hình thức trình bày khác nhau. Đọc truyện,
người đọc phải trung thành tuyệt đối với văn bản, tốc độ đọc nhanh hơn so với kể, ít
có điều kiện giao tiếp với người nghe. Khi kể chuyện, người kể có quyền sáng tạo,
miễn là không ảnh hưởng tới nội dung chính của truyện, tốc độ của lời kể chậm hơn so
với đọc, người kể có nhiều điều kiện giao cảm với người nghe.
4.2. Các bước cần tiến hành để kể một câu chuyện
4.2.1. Đọc, tìm hiểu, cảm thụ truyện
Đọc nhiều lần kết hợp với tìm hiểu, cảm thụ truyện sẽ giúp người đọc hiểu và
nhớ truyện, có cảm xúc với câu chuyện. Trước tiên, cần tiến hành đọc lướt toàn truyện
từ 1 đến 2 lần để hiểu tinh thần chung của truyện. Đọc kĩ từng phần của câu chuyện để
tìm hiểu thấu đáo nội dung, nghệ thuật của truyện tạo ra những điểm tựa cho trí nhớ,
làm nảy sinh những ấn tượng, cảm xúc trong lòng người đọc. Sau đó, tiến hành đọc
diễn cảm để lắng nghe sự phân biệt âm thanh có phù hợp không.

72
Tìm hiểu truyện, người kể có thể tự đặt ra và trả lời một số câu hỏi. Truyện
thuộc thể loại nào? Kể về việc gì? Chuyện xảy ra bao giờ và ở đâu? Truyện có mấy
nhân vật, tính cách các nhân vật… như thế nào? Câu chuyện bắt đầu, diễn biến, kết
thúc như thế nào? Ý nghĩa của truyện?
Khi kể một câu chuyện, người kể cần huy động vốn sống, vốn văn hóa, khả
năng liên tưởng, tưởng tượng của bản thân để “nhập thân” với tác giả, với nhân vật
của câu chuyện. Người kể như thấy mình đang sống cùng thời với tác giả, đang chứng
kiến sự việc mà tác giả kể, hình dung rõ nét hình dáng, cử chỉ hành động của các nhân
vật, bối cảnh diễn ra sự việc.
4.2.1. Xác định ngữ điệu kể
Ngữ điệu kể là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn, hài hòa các yếu tố của cảm
xúc với các yếu tố của âm thanh. Căn cứ vào nội dung của truyện để xác định ngữ điệu
kể sao cho phù hợp.
- Các yếu tố tạo nên ngữ điệu kể: Sắc thái giọng kể, tốc độ kể, sự ngắt giọng,
nhấn giọng, lên cao, hạ thấp của giọng, ngân giọng, âm lượng, cường độ của
giọng.
+ Sắc thái giọng kể là sự thể hiện, thay đổi của tình cảm trong khi kể. Có lúc
kể với giọng tươi vui, sôi nổi, có lúc kể với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, có lúc giọng
diễu cợt, mỉa mai….
Ví dụ: Sắc thái giọng mệt mỏi:
Người mẹ nói với con: Con ơi, con đi tìm thày thuốc về đây. Mẹ thấy
trong người mệt mỏi lắm.
(Bông hoa cúc trắng)
Sắc thái giọng vui:
Cụ già tươi cười bước ra nói: Mẹ cháu đã khỏi bệnh rồi. Đó là phần
thưởng cho tấm lòng hiếu thảo của cháu đấy.
(Bông hoa cúc trắng)
+ Tốc độ kể là sự nhanh hay chậm của giọng trong khi kể. Khi kể không nên
nói nhanh quá làm người nghe khó theo dõi, cũng không nên kể chậm quá gây cảm
giác mệt mỏi. Cần kể với tốc độ vừa phải và thay đổi tốc độ kể cho phù hợp nội
dung.
+ Ngắt giọng là sự ngừng nghỉ hơi chốc lát trong khi kể, có tác dụng giúp
người đọc lấy hơi, người nghe có điều kiện hiểu thông tin, ý nghĩa của văn bản
thêm sáng tỏ, tạo sự chờ đợi ở người nghe. Ngắt giọng dựa vào dấu câu, các thành
phần câu, nhịp cảm xúc của người kể. Kí hiệu của ngắt giọng, nghỉ hơi ngắn (/),
nghỉ hơi dài (//)
Ví dụ: Gióng nói://
- Sứ giả/ hãy mau mau về tâu với nhà vua /đúc cho ta/ một con ngựa
sắt, một chiếc roi sắt, một áo giáp sắt, một nón sắt/ để ta đi đánh giặc.//

(Ông Gióng)
+ Nhấn giọng là luồng hơi ra mạnh ở những từ ngữ, câu quan trọng trong văn
bản. Kí hiệu (─). Cao giọng là nâng giọng cao hơn mức bình thường. Cao giọng ở

73
những từ, những câu bộc lộ cảm xúc, mệnh lệnh, nghi vấn. Kí hiệu (↑).Thấp giọng
là hạ giọng thấp hơn mức bình thường. Thấp giọng ở những từ, những câu thể hiện
suy nghĩ thầm, những tâm trạng mệt mỏi…hoặc kết thúc truyện. Kí hiệu (↓)
Ví dụ: Từ khi gặp sứ giả, ↓ Gióng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng
không no, áo may rộng bao nhiêu /cũng chỉ mặc vài ngày đã chật.

+ Ngân giọng là đưa giọng dài hơn mức bình thường, tạo ra nhịp điệu chậm
rãi. Kí hiệu ( ).
+ Âm lượng là độ to/nhỏ của giọng trong khi kể. Giọng kể nhỏ sẽ không
truyền đạt được nội dung câu chuyện, cảm xúc của người kể đến với người nghe.
Giọng kể to quá gây cảm giác mệt mỏi chói tai. Nên sử dụng giọng kể đủ nghe, phù
hợp với không gian.
+ Cường độ là độ mạnh hay nhẹ, vang hay không vang của giọng trong khi kể.
Ví dụ: Lời cụ già trong “Bông hoa cúc trắng”, sử dụng giọng vang, ngân để
gợi ra thế giới kì ảo của cổ tích:
- Mỗi cánh trên bông hoa sẽ là một ngày mẹ cháu được sống thêm.
4.2.3. Sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ, các phương tiện dạy học hỗ trợ cho lời kể
Kể chuyện là một hoạt động vừa mang tính sư phạm, vừa mang tính nghệ
thuật. Giáo viên có thể ngồi hoặc đứng kể chuyện cho học sinh nghe nhưng phải
thể hiện sự tự tin, tạo điều kiện để học sinh cả lớp quan sát được nét mặt, cử chỉ
của giáo viên. Nét mặt, ánh mắt của giáo viên cần phù hợp với diễn biến của
truyện và giao cảm với học sinh. Giáo viên có thể sử dụng một số cử chỉ của cổ,
tay, chân…, các phương tiện dạy học như vật thật, tranh ảnh, rối… các phương
tiện nghe nhìn hiện đại hỗ trợ cho lời kể thêm cụ thể sinh động.

Tóm tắt chương 4


Kể chuyện là một hình thức sinh hoạt văn hóa có từ xa xưa, thỏa mãn nhu cầu
tinh thần của con người, đặc biệt là trẻ em. Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học
hiện nay có 3 kiểu bài nhằm rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh. Kể chuyện nghe thày
cô kể trên lớp; kể chuyện đã nghe, đã đọc; kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia.
Kể chuyện nghe thày cô kể trên lớp là kiểu bài chủ yếu, chiếm số lượng lớn.
Để kể một câu chuyện, người kể cần đọc thầm nhiều lần tác phẩm, tự đặt và trả
lời một số câu hỏi để hiểu sâu sắc nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của truyện. Người kể

74
cần huy động vốn sống vốn, vốn văn hóa, khả năng liên tưởng, tưởng tượng để hình
dung rõ diễn biễn của truyện, diện maọ, tính cách nhân vật. Tập đọc diễn cảm để lắng
nghe sự phân biệt âm thanh đã phù hợp chưa. Xác định đúng ngữ điệu kể, bao gồm các
yếu tố sắc thái giọng kể, tốc độ, cách ngắt giọng, nhấn giọng, phân biệt giọng…Cần
phân biệt giọng của người dẫn truyện với giọng các nhân vật, giọng giữa các nhân vật
với nhau. Sự phân biệt giọng dựa vào trạng thái tâm lí, tình trạng sức khỏe, mối quan
hệ, tính cách của nhân vật. Khi kể, người kể cần thuộc truyện, ngữ điệu kể sinh động,
biết kết hợp với sự biểu hiện của ánh mắt, nét mặt, cử chỉ, động tác và các phương tiện
dạy học.

Câu hỏi và bài tập


Câu hỏi
1.Phân tích vai trò của Kể chuyện đối với sự phát triển của học sinh Tiểu học.
2. Trình bày các bước cần tiến hành để kể một câu chuyện.
3. Phân tích mục đích của 3 dạng bài rèn kĩ năng kể chuyện ở Tiểu học. Cho ví dụ.
Bài tập: Kể lại các câu chuyện sau
Bài tập 1

Bông hoa cúc trắng


1. Ngày xưa, có hai mẹ con một cô bé sống trong một túp lều nơi xóm vắng.
Họ phải làm lụng lụng vất vả lắm mới đủ ăn.
Một hôm, người mẹ bị ốm nặng. Không có tiền, cô bé chỉ biết tận tụy ngày
đêm chăm sóc mẹ.
Một lần người mẹ chợt tỉnh, nói với con:
- Mẹ thấy trong người mệt lắm. Con mời thày thuốc về đây cho mẹ.
2. Cô bé vội vã ra đi. Trên đường, cô gặp một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ hỏi:
- Cháu đi đâu mà vội thế?
- Thưa cụ, cháu đi tìm thày thuốc. Mẹ cháu ốm đã lâu, bệnh mỗi ngày một
nặng.
Cụ già tự nhận là thày thuốc. Cô bé dẫn cụ về xem bệnh cho mẹ. Xem xong cụ
bảo:
- Bệnh mẹ cháu nặng lắm.Cháu hãy đi đến gốc đa đầu rừng, hái cho ta một
bông cúc trắng thật đẹp về đây để ta làm thuốc.
3. Bên ngoài trời rất lạnh, cô bé chỉ phong phanh một manh áo mỏng. Cô
chạy thật nhanh trong gió rét. Đến gốc đa đầu rừng, quả có một bông hoa trắng rất
đẹp. Cô bé hái hoa. Bỗng cô nghe văng vẳng bên tai tiếng cụ già:
- Mỗi cánh của bông hoa sẽ là một ngày mẹ cháu được sống thêm.
Cô bé cúi xuống đếm những cánh hoa và kêu lên: “Trời! Mẹ chỉ còn sống
được hai mươi ngày nữa”
Nghĩ một lát, cô chạy ra sau gốc đa, nhẹ nhàng xé mỗi cánh hoa ra thành nhiều
sợi. Kì lạ thay, mỗi sợi biến ngay thành một cánh hoa nhỏ, dài mượt và trắng bong.
Những cánh hoa cứ theo tay cô mọc thêm ra nhiều không sao đếm xuể. Cô bé sung
sướng nâng trên tay bông hoa quý, chạy như bay về nhà.
Cụ già tóc bạc đã đợi cô ở cửa, cụ nói:

75
- Mẹ cháu đã khỏi bệnh. Phần thưởng cho tấm lòng hiếu thảo của cháu đấy.
Từ đó hàng năm, về mùa thu, thường nở những bông hoa có nhiều cánh nhỏ
dài mượt, rất đẹp. Đó chính là những bông hoa cúc trắng.
(SGK - Tiếng Việt lớp 1)

Bài tập 2
Cuộc chạy đua trong rừng
1. Ngày mai, muông thú trong rừng mở hội thi chạy để chọn con vật nhanh
nhất.
Ngựa Con thích lắm. Chú tin chắc sẽ giành được vòng nguyệt quế. Chú sửa
soạn không biết chán và mải mê soi bóng mình dưới dòng suối trong veo. Hình ảnh
chú hiện lên với bộ đồ nâu tuyệt đẹp, với cái bờm dài được chải chuốt ra dáng một
nhà vô địch…
2. Ngựa Cha thấy thế, bảo:
- Con trai à, con phải đến bác thợ rèn để xem lại bộ móng. Nó cần thiết cho
cuộc đua hơn là bộ đồ đẹp.
Ngựa Con mắt không rời bóng mình dưới nước, ngúng nguẩy đáp:
- Cha yên tâm đi. Móng của con chắc lắm. Con nhất định sẽ thắng mà!
3. Cuộc thi đã đến. Sáng sớm, bãi cỏ đông nghẹt. Chị em nhà Hươu sốt ruột
gặm lá. Thỏ Trắng, Thỏ Xám thận trọng ngắm nghía các đối thủ. Bác Quạ bay đi
bay lại giữ trật tự. Ngựa Con ung dung bước vào vạch xuất phát.
4. Tiếng hô “Bắt đầu!” vang lên. Các vận động viên rần rần chuyển động.
Vòng thứ nhất… Vòng thứ hai… Ngựa Con dẫn đầu bằng những bước sải dài khỏe
khoắn. Bỗng chú có cảm giác vướng vướng ở chân và giật mình thảng thốt: một cái
móng lung lay rồi rời hẳn ra. Gai nhọn đâm vào chân làm Ngựa Con đau điếng.
Chú chạy tập tễnh và cuối cùng dừng hẳn lại. Nhìn bạn bè lướt qua mặt, Ngựa Con
đỏ hoe mắt, ân hận vì không làm theo lời cha dặn.
Ngựa Con rút ra được bài học quý giá: đừng bao giờ chủ quan, cho dù đó là
việc nhỏ nhất.
(SGK - Tiếng Việt lớp 3)

Bài tập 3
Người mẹ
1. Bà mẹ chạy ra ngoài, hớt hải gọi con. Suốt mấy đêm ròng thức trông con
ốm, bà vừa thiếp đi một lúc, Thần Chết đã bắt nó đi.
Thần Đêm Tối đóng giả một bà cụ mặc áo choàng đen, bảo bà:
- Thần Chết chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ trả lại những người lão
đã cướp đi đâu.
Bà mẹ khẩn khoản cầu xin Thần chỉ đường cho mình đuổi theo Thần Chết.
Thần Đêm Tối chỉ đường cho bà.
2. Đến một ngã ba đường, bà mẹ không biết phải đi lối nào. Nơi đó có một bụi
gai băng tuyết bám đầy. Bụi gai bảo:
- Tôi sẽ chỉ đường cho bà, nếu bà ủ ấm tôi.

76
Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào lòng để sưởi ấm nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu
nhỏ xuống từng giọt đậm. Bụi gai đâm chồi, nảy lộc và nở hoa ngay giữa mùa đông
buốt giá. Bụi gai chỉ đường cho bà.
4. Bà đến một hồ lớn. Không có một bóng thuyền. Nước hồ quá sâu. Nhưng
bà nhất định vượt qua hồ để tìm con. Hồ bảo:
- Tôi sẽ giúp bà, nhưng bà phải cho tôi đôi mắt. Hãy khóc đi, cho đến khi
đôi mắt rơi xuống!
Bà mẹ khóc, nước mắt tuôn rơi lã chã, đến nỗi đôi mắt theo dòng lệ rơi xuống
hồ, hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được đưa đến nơi ở lạnh lẽo của Thần Chết.
5. Thấy bà, Thần Chết ngạc nhiên, hỏi:
- Làm sao ngươi có thể tìm đến tận nơi đây?
Bà mẹ trả lời:
- Vì tôi là mẹ. Hãy trả con cho tôi!
(SGK- Tiếng Việt lớp 3)

Tài liệu tham khảo chính


1. Giáo trình Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt - NXB Giáo dục – 1997.
2. Giáo trình Tiếng Việt thực hành - NXB Đại học Sư phạm - NXB Giáo dục – 2007.
3. Giáo trình Rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm Tiểu học - NXB Đại học Sư phạm - 2001.
4. Hà Nguyễn Kim Giang, Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kì cho trẻ mẫu
giáo, NXB Đại học quốc gia- 2001.
5. Chu Huy, Dạy kể chuyện ở Tiểu học, NXB Giáo dục- 1997.
6. Nhiều tác giả, Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt lớp 1, 2, 3, 4, 5, NXB Giáo dục-2007.
7. Truyện đọc lớp 1, 2, 3, 4, 5, NXB Giáo dục – 2002.

Chương 5
RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN BẢN

5.1. Mục đích yêu cầu rèn kĩ năng viết văn bản. Hệ thống các bài Tập làm văn ở Tiểu
học.
5.1.1. Mục đích yêu cầu rèn kĩ năng viết văn bản

77
Văn bản là một sản phẩm của lời nói, một chỉnh thể ngôn ngữ, thường bao
gồm một tập hợp các câu và có thể có một đầu đề, nhất quán về chủ đề, trọn
vẹn về nội dung, được tổ chức theo một kết cấu chặt chẽ nhằm một mục đích
giao tiếp nhất định. Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh Tiểu học
không thể không rèn luyện kĩ năng viết văn bản (kĩ năng viết văn). Vì để viết
được một đoạn văn, một bài văn, người viết cần huy động một vốn kiến thức
tổng hợp, kiến thức trong sách vở, kiến thức trong cuộc sống, phải có kĩ năng
dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, viết bài…Kiến thức, kĩ năng trong các phân môn
Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm
văn được sử dụng và hoàn thiện. Qua một bài viết có thể đánh giá được năng
lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, tình cảm thái độ của người viết.
Một trong những nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn ở Tiểu học là rèn
kĩ năng viết văn bản cho học sinh. Luyện viết các loại văn bản nhật dụng như
nhắn tin, đơn từ, biên bản, báo cáo, thư từ…Luyện viết các loại văn bản nghệ
thuật như kể chuyện, miêu tả. Mỗi loại văn bản lại phong phú về nội dung,
chặt chẽ về kết cấu, đa dạng về tiểu loại, mang những nét đặc trưng riêng. Vì
vậy để viết được những bài văn đúng yêu cầu và hay thì phải không ngừng
học tập trong sách vở, trong cuộc sống, trau dồi tình cảm cảm xúc kiên trì rèn
luyện kĩ năng viết văn.
Để dạy học sinh Tiểu học viết văn đúng yêu cầu, đúng thể loại tiến tới viết
văn có hình ảnh, có cảm xúc, có sự sáng tạo vai trò của người thày hết sức
quan trọng. Người thày là người thắp lên trong học sinh tình yêu đối với văn
học, đối với cuộc sống, phát huy khả năng tưởng tượng bay bổng ở trẻ em,
khơi gợi và nuôi dưỡng trong các em tình yêu cái đẹp cái thiện trong cuộc
sống. Và cũng chính người thày tạo nên những thôi thúc để các em bày tỏ
những suy nghĩ cảm xúc của mình trên trang viết.
Để thực hiện được sứ mệnh đó, người thày phải là người có kiến thức, kĩ
năng về viết văn, có phương pháp để hướng dẫn, tổ chức cho học sinh rèn
luyện kĩ năng viết văn. Kĩ năng viết văn bản vừa là nội dung học tập của sinh
viên ở trường Sư phạm vừa là nội dung giảng dạy ở trường Tiểu học, vì vậy
sinh viên cần tự giác và tích cực rèn luyện. Như vậy ngay khi học ở trường sư
phạm cũng như sau này, người thày phải nắm vững lí thuyết về các loại văn
bản, có khả năng tạo lập các văn bản theo đúng đặc trưng thể loại từ viết văn
đúng sang viết văn hay để có thể hướng dẫn học sinh viết văn.
5.1.2. Hệ thống các bài Tập làm văn ở Tiểu học
Lớp 2:
- Các nghi thức lời nói (Chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi…
- Các kĩ năng làm viêc (Gọi điện thoại, tra mục lục sách..)
- Cách tổ chức đoạn, bài.
- Nghe- trả lời câu hỏi.
Lớp 3:
- Nói, viết phục vụ cuộc sống hàng ngày (viết đơn, viết thư, ghi chép sổ
tay…)
- Kể chyện

78
- Nói theo chủ đề (dựa vào tranh để nói, giới thiệu về trường và hoạt động
của trường..)
Lớp 4:
- Nói, viết phục vụ cuộc sống hàng ngày (Điền vào giấy tờ in sẵn, Tổ chức
một cuộc họp, Giới thiệu hoạt động của tổ, của lớp, trao đổi ý kiến với người
thân…)
- Kể chuyện
- Miêu tả (con vật, đồ vật, cây cối, cảnh)
- Viết thư
Lớp 5:
- Miêu tả (tả cảnh, tả người)
- Nói viết phục vụ cuộc sống hàng ngày
+ Làm báo cáo thống kê
+ Làm đơn
+ Làm biên bản
+ Thuyết trình, tranh luận
+ Lập chương trình hoạt động
+ Tập viết đoạn đối thoại (chuyển đoạn văn thành kịch bản)
- Ôn tập về Kể chuyện, Miêu tả.
Qua thống kê, chúng ta thấy hệ thống các loại bài Tập làm văn ở Tiểu học
hết sức phong phú, phục vụ thiết thực cho sinh hoạt, học tập của học sinh.
Đồng thời các loại bài này cũng củng cố, nuôi dưỡng trong học sinh tình
yêu đối với văn học, khích lệ người học tích cực sáng tạo trong học tập,
trong cuộc sống. Quan điểm xây dựng chương trình theo nguyên tắc giao
tiếp, tích hợp, tích cực hoá hoạt động của người học nên các loại bài được
sắp xếp đan xen nhau tạo điều kiện cho kĩ năng đó được rèn đi rèn lại nhiều
lần. Chương trình dành nhiều thời gian rèn cho học sinh viết các loại văn
bản nghệ thuật như kể chuyện (Lớp 4: 19 tiết), miêu tả (lớp 4:30 tiết ; lớp
5: 52 tiết ). Ngữ liệu trong các bài Tập đọc, Kể chuyện…được quan niệm
là những văn bản mẫu để học sinh quan sát, phân tích rút ra kiến thức kĩ
năng cần có nhằm viết được các bài văn theo yêu cầu. Kĩ năng viết văn
của học sinh Tiểu học chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1: lớp 2, lớp 3 học
sinh được làm quen với các loại bài Tập làm văn thông qua hệ thống các
bài tập thực hành. Giai đoạn 2: lớp 4, lớp 5 bên cạnh các kiểu bài thực
hành, học sinh được học thêm những kiến thức lí thuyết về các thể loại. Đó
là những kiến thức sơ giản về văn bản, đặc điểm, phương pháp làm bài
theo thể loại.

5.2. Luyện viết văn


5.2.1. Luyện viết văn kể chuyện
5.2.1.1 Những vấn đề chung về kể chuyện
a. Khái niệm: Kể chuyện là loại văn dùng để kể lại một câu chuyện, một sự
kiện, một con người… trong đời sống thực tế xã hội hoặc trong trí tưởng tượng qua sự
sắp xếp, nhào nặn, hư cấu của người viết.

79
Phân biệt “chuyện” và “truyện”: “truyện” là một thể tài văn học thuộc loại tự
sự. Ta có truyện ngắn, truyện dài, truyện cổ tích… “chuyện” là sự việc có diến biến
nhằm nói lên một điều gì đó. Người ta có thể mang chuyện ra kể. Kể chuyện là một
phương thức tự, một phương thức biểu đạt để kể các chuyện.
- Văn kể chuyện trong chương trình tiếng Việt Tiểu học. Ở lớp 2 và 3 học sinh
bước đầu được là quen với văn kể chuyện qua các bài tập thực hành nói, viết những
đoạn văn ngắn kể về người thân, người hàng xóm, lễ hội…Học sinh chính thức được
học về văn kể chuyện ở lớp 4 và được ôn tập củng cố ở lớp 5.Viết văn kể chuyện ở lớp
4 được dạy trong 14 tiết. Gồm các nội dung:
+ Thế nào là văn kể chuyện.
+ Nhân vật trong văn kể chuyện.
+ Kể về hành động của nhân vật.
+ Tả ngoại hình nhân vật.
+ Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật.
+ Xây dựng cốt truyện.
+ Luyện viết các đoạn văn kể chuyện.
b. Đặc điểm của văn kể chuyện
- Văn kể chuyện luôn có cốt truyện và nhân vật. Cốt truyện là một hệ thống các
biến cố tạo thành bộ khung quan trọng của bài văn kể chuyện. Cốt truyện cần được sắp
xếp khéo léo, hợp lí, có những yếu tố bất ngờ để lôi cuốn, hấp dẫn người đọc người
nghe. Muốn có cốt truyện hay ta phải chịu khó quan sát, tìm hiểu cuộc sống xung
quanh. Truyện phải có ý nghĩa, phải nói được một điều gì đấy. Có thể là một triết lí về
cuộc sống.Ví dụ: Một chú ngựa con mải trau chuốt bộ lông, không để ý đến móng của
mình nên trong cuộc chạy đua bị thất bại (Cuộc chạy đua trong rừng). Truyện ấy muốn
nhắc nhở nhiều khi những việc rất nhỏ lại ảnh hướng tới những việc lớn lao. Có khi đó
là một vấn đề xã hội. “ Câu chuyện bó đũa” đưa ra một bài học răn dạy về sức mạnh
của đoàn kết. Có khi đó là tình cảm rất đẹp, cao thượng người kể chuyện muốn khẳng
định, ngợi ca. Truyện “Người mẹ” của An- đéc- xen đã kể về những hành động dũng
cảm, giàu đức hi sinh của người mẹ.
Vai trò trung tâm của câu chuyện bao giờ cũng là các nhân vật. Nhân vật có thể
là con người, loài vật, cây cối… nhưng đã được nhân hóa. Mỗi nhân vật bao giờ cũng
có một diện mạo riêng, có cách suy nghĩ, cách nói, cách cư xử tạo nên đặc điểm riêng
về tính cách. Nhân vật có mối quan hệ chặt chẽ với cốt truyện. Cốt truyện là cuộc đời
nhân vật, nhằm thể hiện nhân vật một cách rõ nét, sâu sắc.
Để câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn người viết cần phải biết tưởng
tưởng, hư cấu. Đó là khả năng nhào nặn, sắp xếp lại hiện thực làm cho hiện thực trở
nên tiêu biểu, điển hình.
- Văn kể chuyện cần có cách kể chuyện có duyên, hấp dẫn. Người kể có thể ở
ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi, em, chúng em…). Kể chuyện theo ngôi thứ nhất làm cho
lời kể có màu sắc chủ quan, cá nhân, tiện cho việc thể hiện những cảm xúc. Hạn chế
của cách kể này là người kể khó có khả năng thâm nhập vào thế giới của người khác.
Có thể kể ở ngôi thứ ba là người chứng kiến các sự kiện, là người có khả năng biết hết
mọi điều được kể. Có thể kể theo trình tự thời gian, chuyện xảy ra trước kể trước, xảy
ra sau kể sau. Cũng có thể kể ngược lại, chuyện xảy ra sau kể trước, chuyện xảy ra

80
trước kể sau. Có thể kể đan xen thời gian: hiện tại- quá khứ - hiện tại... Khi kể chuyện,
cần chú ý đến giọng kể. Giọng kể thường phụ thuộc vào nội dung câu chuyện, vào ngôi
kể. Có thể kể với giọng vui hóm hỉnh, có thể kể bằng giọng buồn, giọng lạnh lùng,
giọng châm biếm mỉa mai….
Muốn kể được chuyện, phải sắp xếp các sự việc trong câu chuyện theo một
trình tự hợp lí. Bảo đảm sự hợp lí trong toàn câu chuyện cũng như trong từng chi tiết.
Cần tạo ra chỗ thắt nút, cởi nút thú vị, đầy kịch tính. “Nồi xúp rìu” là một câu chuyện
hấp dẫn vì người viết biết tạo ra những chi tiết hợp lí, bất ngờ. Biết bà già keo kiệt nên
người lính đã mượn bà cái nồi, cái rìu cho nước đun lên, quấy nếm khen ngon nhưng
chê loãng. Anh xin bà ít bột, lại đun, lại nếm, rồi xin tí bơ, tí muối. Bà kia lại cho. Xúp
chín anh mời bà, bà lão keo kiệt vừa ăn, vừa ngạc nhiên vì sao rìu có thể nấu thành
cháo. Nếu anh lính không dùng mưu mượn cái rìu nấu xúp, rồi đun, rồi nếm, rồi khen
ngon, rồi xin từng thứ thì chắc gì bà keo kiệt đã cho. Cần chọn cách mở đầu và kết thúc
chuyện cho hay. Theo Phạm Hổ, mở đầu là mời người đọc vào sống với câu chuyện,
kết thúc là tiễn người đọc ra về.
Những cách mở đầu câu chuyện:
- Mở đầu bằng tên nhân vật chính
- Mở đầu bằng câu tả cảnh
- Mở đầu bằng lời giới thiệu hành động các nhân vật
- Mở đầu bằng một ý nghĩ về cuộc đời
- Mở đầu bằng một cảm giác mới lạ.
- Mở đầu bằng một tiếng kêu
Những cách kết thúc câu chuyện:
- Kết thúc bằng một câu nói
- Kết thúc bằng một hành động thể hiện sự hối hận
- Kết thúc bằng một hành động thể hiện tâm trạng vui.
c. Phương pháp làm bài văn kể chuyện
- Tìm hiểu đề
+ Đọc kĩ đề chú ý những từ ngữ quan trọng.
+ Xác định kiểu bài kể chuyện được nghe hay được đọc hoặc dựa vào
truyện đã biết để kể lại sáng tạo.
- Tìm ý, lập dàn ý
* Tìm ý:
+ Xác định các sự việc cần kể theo một diễn biến có đầu có cuối.
+ Xác định các nhân vật tham gia vào các sự kiện trong câu chuyên.
Chú ý miêu tả ngoại hình, lời nói, suy nghĩ…để nói lên tính cách của
nhân vật ấy.
+ Xác định ngôi kể
+ Xác định ý nghĩa của chuyện.
*Lập dàn ý:
Bố cục của bài văn kể chuyện rất đa dạng, tùy thuộc vào đối tượng kể,
ngôi kể. Tuy vậy có thể khái quát một bố cục chung như sau:
+ Mở bài: Giới thiệu nhân vật, sự kiện chính hay chủ đề cơ bản của câu
chuyện.

81
+ Thân bài: Kể các biến cố, sự việc để thể hiện phẩm chất, tính cách
con người hay ý nghĩa của sự việc. Các vấn đề được đặt ra trong
truyện được khơi sâu, mở rộng, triển khai một cách đầy đủ.
Có thể kể theo trình tự thời gian, chuyện xảy ra trước kể trước,
chuyện xảy ra sau kể sau hoặc đan xen . Có thể kể theo trình tự không
gian. Cũng có thể kể theo lối phân vai, lúc đứng ở ngôi thứ nhất để tự
thuật, khi đứng ở ngôi thứ ba để kể những việc được chứng kiến…
+ Kết bài: Nêu suy nghĩ, cảm tưởng về câu chuyện (nhân vật) được kể.
- Dựng đoạn văn kể chuyện:
+ Đoạn mở bài: Có thể viết theo lối trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Thân bài gồm nhiều đoạn văn: Mỗi sự việc được kể thành một đoạn.
+ Đoạn kết bài: Có thể viết theo lối mở rộng hoặc không mở rộng.
- Viết bài văn kể chuyện:
Để viết tốt bài văn kể chuyện trước hết cần xác định ngôi kể, từ đó xác định
điểm nhìn, cách xưng hô và giọng điệu kể. Chuyện có thể kể theo ngôi thứ nhất, ngôi
thứ ba, hoặc kết hợp cả hai ngôi kể trên. Ngôi kể cần nhất quán trong toàn truyện. Dù
sử dụng ngôi kể nào người viết cũng nên nhập thân vào nhân vật và người chứng kiến
để hiểu rõ diễn biến tâm trạng, sự việc, có như vậy người viết mới có cảm xúc, lời kể
mới sinh động.
Bài văn kể chuyện cần có bố cục rõ ràng, hợp lí. Sự việc phải được đặt trong
diễn biến có đầu có cuối một cách trọn vẹn. Chuyện phải có ý nghĩa, đây là yếu tố quan
trọng nhất. Khi kể chuyện cần làm cho người nghe, người đọc thấy những điều được kể
đều hợp lí, là đúng và tin là có thật.Trong văn kể chuyện có thể xen giữa kể và miêu tả
làm cho đối tượng được nói tới hiện ra cụ thể sinh động. Song cần chú ý kể việc là
chính. Trong quá trình kể và miêu tả nên chọn những từ ngữ chính xác, gợi cảm phù
hợp với tình huống truyện, nhân vật và sự cảm thụ của bản thân.
5.2.2. Luyện viết văn miêu tả
5.2.2.1. Những vấn đề chung về văn miêu tả
a. Thế nào là văn miêu tả?
Theo tác giả Đào Duy Anh trong “Hán Việt từ điển” miêu tả là “lấy nét vẽ
hoặc câu văn để biểu thị cái chân tướng của sự vật ra”. Văn miêu tả vẽ ra
các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh
động, cụ thể.
Bài văn miêu tả phải chân thực, đúng thực tế, đúng bản chất đối tượng.Thông
qua việc quan sát thực tế, chọn được cách diễn tả giúp người đọc hình dung
rõ nét đối tượng được tả. Miêu tả phải tuân theo một trình tự hợp lí, diễn tả
liền mạch suy nghĩ cảm xúc của người viết. Bài văn miêu tả phải có trọng
tâm, chọn được những nét tiêu biểu của đối tượng cần tả. Người viết cần bộc
lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình một cách chân thành, diễn đạt bài viết
bằng lời văn sinh động, gợi tả, gợi cảm.
b. Phân biệt miêu tả trong khoa học và miêu tả trong văn học
Miêu tả trong văn chương có ưu thế hơn miêu tả bằng các đường nét,
mầu sắc trong hội họa. Vì ngôn ngữ có khả năng diễn tả sự vật trong một quá
trình vận động, cả những thứ vô hình như âm thanh tiếng động, hương vị, tư

82
tưởng tình cảm. Văn miêu tả là sự kết tinh những nhận xét tinh tế, những rung
động sâu sắc. Miêu tả là hòn đá thử vàng đối với các tài năng văn học.
Miêu tả trong khoa học luôn giữ thái độ khách quan, tìm ra những nét
chung, khái quát mang tính quy luật của sự vật hiện tượng. Ngôn ngữ trong
văn miêu tả khoa học là ngôn ngữ đơn nghĩa, mang tính chính xác của lí trí.
Miêu tả trong văn học luôn mang tính chủ quan của người viết. Người miêu tả
luôn cố gắng tìm ra nét riêng, độc đáo bên cạnh nét chung của đối tượng miêu
tả. Ngôn ngữ trong văn miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh.
Đoạn văn miêu tả trong sách “Khoa học thường thức”:
Thân bướm có ba phần: đầu, ngực, bụng. Phần ngực có bốn cánh,
sáu chân. Bướm bay được nhờ hai đôi cánh là hai màng rộng bản. Chúng
có vẩy phấn bao phủ nên không trong như cánh chuồn chuồn.
Đoạn văn miêu tả trong “Những cánh bướm bên bờ sông” - Vũ Tú Nam:
Ngoài giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi,
những con bướm đủ hình dáng, đủ sắc màu. Con xanh biếc pha đen như
nhung bay nhanh loang loáng. Con vàng sẫm, nhiều hình mặt nguyệt, ven
cánh có răng cưa, lượn lờ đờ như trôi trong nắng. Con bướm quạ to bằng
hai bàn tay người lớn, màu nâu xỉn, có hình đôi mắt tròn, vẻ dữ tợn.
Bướm trứng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng. Loại bướm nhỏ đen kịt,
là là theo chiều gió, hệt như tàn than của những đám đốt nương. Còn lũ
bướm vàng tươi xinh của những vườn rau thì rụt rè, nhút nhát, chẳng bao
giờ dám bay ra đến bờ sông.
Văn miêu tả là loại văn phù hợp với tâm sinh lí của học sinh Tiểu
học vì vậy được đưa vào dạy ở Tiểu học. Ở lớp 2, lớp 3 học sinh bước
đầu được làm quen với văn miêu tả qua các bài tập: Trả lời câu hỏi về
một đoạn văn miêu tả, Tả ngắn theo câu hỏi, Tả ngắn theo tranh và câu
hỏi.. Lớp 4 học sinh được học các dạng bài:Tả đồ
vật, tả con vật, tả cây cối. Lớp 5 học sinh được học tả cảnh, tả người và
ôn tập về văn miêu tả. Nội dung học văn miêu tả, ngoài bài “Thế nào là
miêu tả” học sinh được học cách tả từng đối tượng cụ thể qua các kĩ năng
biết cấu tạo của bài văn miêu tả, biết quan sát, lập dàn ý, biết dựng đoạn,
viết bài hoàn chỉnh, biết sửa các lỗi về bố cục, về ý về cách diễn đạt trình
bày trong văn miêu tả. Ví dụ nội dung học văn tả đồ vật gồm:

+ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật


+ Luyện tập miêu tả đồ vật
+ Quan sát đồ vật
+ Luyện tập miêu tả đồ vật
+ Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật
+ Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả đồ vật.
+ Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu
tả đồ vật
+ Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu
tả đồ vật

83
+ Miêu tả đồ vật (kiểm tra viết)
+ Trả bài văn miêu tả đồ vật

c. Đặc điểm của văn miêu tả


- Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của
người viết.
Dù miêu tả bất kì đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu văn
miêu tả không bao giờ là sự sao chép hiện thực. Văn miêu tả là kết quả của
sự quan sát tinh tế, tưởng tượng phong phú, nhận xét thông minh sắc sảo.
Miêu tả thể hiện được cái mới mẻ, riêng biệt trong cách quan sát, nhận định.
Cái riêng, cái mới ở đây chính là những cái người khác không thấy, chưa
thấy, hoặc không cảm nhận như người viết. Cái mới cái riêng có thể chỉ là
những quan sát, liên tưởng tưởng tượng, sau đó là sự thể hiện cái mới, cái
riêng trong tư tưởng, tình cảm… đối với đối tượng miêu tả. Dù văn miêu tả
cần tìm ra cái mới cái riêng, nhưng không cho phép người viết bịa đặt, bóp
méo sự thật. Khi miêu tả, người viết có quyền tưởng tượng, phát hiện những
điều mới lạ nhưng phải xuất phát từ tình cảm chân thật. Vì vậy thông tin văn
miêu tả đưa đến cho người đọc không khô cứng, chung chung mà tạo ra
những rung cảm, xúc cảm thẩm mĩ, tác động mạnh vào trí tuệ, tâm hồn
người đọc. Giúp người đọc phân biệt được cái đẹp với cái xấu, khát khao
vươn tới cái đẹp. Đúng như nhà văn Phạm Hổ viết: “Miêu tả giỏi là khi đọc
những gì chúng ta viết, người đọc như thấy những cái đó hiện ra trước mắt
mình: một con người, một con vật, một dòng sông… Người đọc còn có thể
nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy. Thậm chí còn ngửi thấy
mùi mồ hôi, mùi sữa, mùi hương hoa, hay mùi rêu, mùi ẩm mốc…”
Cùng một đối tượng quan sát, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi người lại có
những cách cảm nhận riêng. Trăng được Trần Đăng Khoa cảm nhận như
“quả chín” lửng lơ treo trước nhà, “trăng tròn như mắt cá” không bao giờ
chớp mi hoặc “trăng bay như quả bóng”. Nhìn bầu trời đầy sao, Vich-to
Huy-gô thấy nó như “cánh đồng lúa chín”, người đi gặt đã “bỏ quên lại một
cái liềm con”. Ga-ga-rin, nhà du hành vũ trụ, thấy bầu trời đầy sao “như
những hạt giống mới” mà loài người gieo vào vũ trụ. Nhà văn Nam Cao lại
có những quan sát, liên tưởng riêng “Trăng là cái liềm vàng giữa cánh đồng
sao”.
- Văn miêu tả mang tính sinh động và tạo hình
Tính sinh động và tạo hình được tạo ra khi qua từng từ, từng câu, từng
dòng đối tượng miêu tả hiện lên khiến người ta có cảm nhận như nhìn tận
mắt, như sờ tận tay… Làm nên sự sinh động, tạo hình của văn miêu tả là các
chi tiết nghệ thuật gợi tả, gợi cảm. Người viết biết mạnh dạn gạt bỏ những
chi tiết vụn vặt, chọn những chi tiết bản chất, gây ấn tượng và mô tả với tất
cả tâm hồn mình sẽ tạo ra cách viết sinh động, giàu tính tạo hình. Đúng như
Tuốc-ghê-nhép có lần tâm sự: “Khi tôi mô tả cái mũi màu đỏ hay mái tóc
màu sáng, thì quả nhiên mái tóc ấy màu sáng, cái mũi ấy màu đỏ thật và điều
đó không có cách gì bác bỏ được”.

84
Bằng sự quan sát tinh tế, Vũ Tú Nam đã vẽ lên hình ảnh cây gạo sinh
động, tràn đầy sức sống. Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim. Từ
xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông
hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi, hàng ngàn búp nón là hàng ngàn ánh
nến trong xanh. Tất cả đều lóng lánh, lung linh trong nắng.
- Ngôn ngữ văn miêu tả giàu cảm xúc, giàu hình ảnh
Văn miêu tả sử dụng nhiều những tính từ, động từ, phép nhân hóa, so
sánh, ẩn dụ. Các tính từ mang tính tạo hình, biểu cảm cao như: xanh, xanh
ngắt, xanh biếc, xanh ngọc, xanh như nhung…; trắng, trắng xóa, trắng ngần,
trắng phau, trắng nõn… Các từ tượng thanh, các từ láy cũng là những loại từ
giàu tác dụng gợi cảm: ầm ầm, ầm ĩ, long lanh, lập lòe…Khi miêu tả một
người lao động trẻ tuổi, Ma Văn Kháng đã chọn những từ ngữ giàu hình ảnh,
giàu cảm xúc để tả:
A Cháng đẹp người thật. Mười tám tuổi ngực nở vòng cung, da đỏ như
lim, bắp tay, bắp chân rắn như trắc, gụ. Vóc cao, vai rộng người đứng thẳng
như cái cột đá trời trồng.
(SGK- Tiếng Việt 5)

5.2.2.2. Các kiểu bài văn miêu tả trong chương trình Tiểu học:
Kiểu Đối tượng
Nội dung miêu tả Ngôn ngữ miêu tả
bài miêu tả
Miêu - Những đồ vật - Lựa chọn những chi tiết - Ngôn ngữ miêu tả cần có
tả đồ thường gặp đặc trưng, tiêu biểu về cấu hồn, làm sao cho đồ vật hiện
vật trong đời sống tạo, hình dáng, màu sắc… ra cũng có những suy nghĩ,
hàng ngày, gần để tả kĩ. những tình cảm như con
gũi, có ích với - Đồ vật luôn gắn liền với người.
con người. cuộc sống con người, nên - Khi miêu tả đồ vật biện
- Ví dụ: cái khi tả cần nói tới công pháp nhân hóa được sử dụng
cặp, cái bàn, dụng, ích lợi của đồ vật. rộng rãi. Có thể sử dụng các
cái trống… đại từ xưng hô như: anh, chị,
chú, bác… và hàng loạt các
động từ, tính từ chỉ hoạt
động, tính chất.
Miêu - Là những con - Miêu tả cần chú ý tới việc - Các từ mô phỏng âm thanh
tả loài vật gần gũi, tả cả hình dáng bên ngoài được sử dụng nhiều, nhằm
vật thân thiết với lẫn hoạt động, tính nết của thể hiện những âm thanh đặc
đời sống con con vật đó. Miêu tả hình trưng giống loài.
người. Miêu tả dáng bên ngoài cần nhấn - Các tính từ chỉ màu sắc,
có thể một con mạnh vào một vài đặc điểm phẩm chất được dùng khá
vật, hoặc bầy nổi bật nhất, dễ hiểu nhất. phổ biến.
đàn. Khi miêu tả hoạt động, tính - Biện pháp nhân hóa được sử
- Ví dụ: miêu nết nên chú ý đến những dụng nhiều. Giúp cho bài văn
tả con mèo, đặc điểm riêng biệt của thể hiện rõ tình cảm của
đàn gà... giống loài, của bản thân con người viết đối với con vật.

85
vật được miêu tả.
- Cần thể hiện tình cảm của
người viết đối với con vật,
cách chăm sóc…

Miêu - Tất cả cây cối - Đối với cây ăn quả, cần - Ngôn ngữ giàu hình ảnh,
tả cây ở xung quang tập trung tả mùi vị của quả; cảm xúc. Số lượng các tính từ
cối ta, có thể là cây đối với cây lấy hương lấy chỉ màu sắc, phẩm chất...
cho bóng mát, hoa cần tả hương, tả sắc; được sử dụng khá nhiều.
cho hương, cho với cây lấy bóng mát tả - Biện pháp so sánh, nhân hóa
hoa, cho quả. dáng cây, tán lá… được sử dụng giúp cho người
- Ví dụ: cây - Miêu tả cây cối cần gắn đọc hình dung đối tượng
bàng, cây hoa với không gian, thời gian.. miêu tả một cách dễ dàng,
hồng, cây vừa làm cho lời văn thêm
chuối... sinh động.
Tả - Những cảnh - Chia cảnh thành các khu - Các tính từ chỉ màu sắc,
cảnh vật thông vực, thời điểm khác nhau để hình khối, đường nét được sử
thường xung lựa chọn chi tiết tiêu biểu dụng khá phong phú. Vì vậy
quanh ta, miêu tả. Khi miêu tả, tả cảnh vật hiện lên rực rỡ, cụ
những danh không gian, thời gian tạo thể, tươi nguyên chất liệu
lam thắng nền chung cho cảnh vật, cần cuộc sống
cảnh, những di kết hợp tả người và vật - Số lượng các từ ngữ chỉ
tích lịch sử… trong cảnh. Có như vậy không gian, số lượng các câu
Có thể là cảnh cảnh mới ấm áp, có sức chứa đựng trạng ngữ chỉ thời
thiên nhiên sống. gian, địa điểm tương đối
hoặc do con - Khi viết cần lồng cảm xúc nhiều.
người tạo ra. vào cảnh, kèm thêm những
- Ví dụ: cảnh lời bình giá nhận xét.
trường học,
cảnh bình
minh…
Tả - Là những - Tả ngoại hình, cần chọn - Từ ngữ: sử dụng các từ ngữ
người người thân, những nét ngoại hình tiêu giàu hình ảnh, các lớp từ khác
những gương biểu nhất, những nét riêng nhau, từ địa phương, biệt
tốt gần gũi, cá biệt. Miêu tả ngoại hình ngữ, tiếng lóng, từ nghề
quen thuộc để nhằm góp phần bộc lộ cuộc nghiệp...để thể hiện cách suy
lại những ấn sống nội tâm. nghĩ, cách giao tiếp của mỗi
tượng. Có thể - Tả nội tâm, những hoạt người.
là những người động, suy nghĩ của con - Câu văn cũng đa dạng, câu
lạ nhưng để lại người luôn gắn với không đầy đủ, câu tỉnh lược, câu đặc
nhiều ấn tượng gian, thời gian. Vì vậy, khi biệt.
mạnh nên cũng miêu tả nên lồng việc miêu
có thể trở thành tả ngoại cảnh để làm rõ

86
đối tượng miêu cuộc sống nội tâm, cuộc
tả. sống hoạt động của con
- Ví dụ: tả bố, người.
mẹ, cô giáo... - Cần bộc lộ những suy
nghĩ, tình cảm của người
viết đối với đối tượng miêu
tả.

5.2.2.3. Phương pháp viết văn miêu tả:


a. Tìm hiểu đề
- Cần đọc kĩ đề chú ý những từ ngữ quan trọng. Tự đặt và trả lời một số câu
hỏi về thể loại, đối tượng miêu tả, nội dung miêu tả.
b. Tìm ý, lập dàn ý
* Tìm ý:
Muốn tìm được ý người viết phải biết quan sát đối tượng miêu tả.
- Quan sát là vận dụng các giác quan để tìm hiểu, nhận biết đối tượng
miêu tả. Quan sát là cửa ngõ nối liền thế giới khách quan với thế giới
chủ quan. Quan sát để khắc sâu thêm trí nhớ, giúp sức cho tưởng tượng.
Có thể quan sát trực tiếp đối tượng từ hiện thực, có thể quan sát qua
sách vở.
- Quan sát trong văn miêu tả bao giờ cũng xuất phát từ quan niệm thẩm
mĩ, đạo đức, theo cảm xúc tâm trạng của người quan sát. Cần chú ý tới
những đặc điểm riêng của từng cá thể, đồng thời nhận xét các đặc điểm
này thông qua tình cảm, cảm xúc của người viết. Cần biết loại bỏ các
chi tiết phụ, phát hiện ra những điểm quan trọng, chủ yếu, đặc sắc của
sự vật hiện tượng. Tài liệu thu được là những nhận xét mang tính chủ
quan, gắn liền với cảm xúc. Cần quan sát nhiều lần, tỉ mỉ, mài sắc các
giác quan, trình tự quan sát phải hợp lí. Phối hợp hài hòa quan sát bên
ngoài và quan sát bên trong. Quan sát bên ngoài để phát hiện đối tượng
có hình dáng, đường nét, màu sắc, âm thanh như thế nào. Quan sát bên
trong là quan sát cái “thần”, cái “hồn” của sự vật, quan sát với những so
sánh, suy nghĩ cảm xúc. Quan sát phải tìm ra cái nghịch lí, trái với cái
thông thường. Có thể quan sát theo trình tự không gian, thời gian, quy
luật tâm lí. Khi quan sát, cần sử dụng đa dạng các giác quan sẽ phát
hiện được những biểu hiện sinh động của đối tượng miêu tả. Bài viết sẽ
phong phú về ý. Dùng thị giác để quan sát hình dáng, màu sắc, đường
nét, độ xa gần…; dùng thính giác để ghi nhận những âm thanh; dùng
khướu giác để phát hiện mùi vị; dùng vị giác để thấy vị của đối tượng
miêu tả; dùng xúc giác để phát hiện độ trơn nhẵn, xù xì… Quan sát cần
kết hợp với hồi tưởng, tưởng tượng. Hồi tưởng là cách nhìn gián tiếp sự
vật, phát huy những hiểu biết, nhận xét, các cảm xúc… đã có trong quá
khứ về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng cho phép con người hình dung
được kết quả trung gian và cuối cùng của lao động. Đối với văn miêu tả,
tưởng tượng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ có tưởng tượng, tất

87
cả những hình ảnh, màu sắc, âm thanh… đều được tái hiện trước mắt
chúng ta. Nếu không có tưởng tượng, liên tưởng người viết sẽ không
thực hiện nổi dù chỉ là sự sao chép đơn thuần, máy móc đối với các sự
vật cần miêu tả, sẽ không có bất kì một sự sáng tạo nào và sẽ không có
văn chương. Khi quan sát cần kết hợp với ghi chép. Ghi chép sẽ hỗ trợ
cho trí nhớ, mài sắc thêm những ấn tượng, cảm xúc về đối tượng miêu
tả.
* Lập dàn ý
Từ những kết quả quan sát, người viết phải biết lựa chọn ý, sắp xếp ý
tạo thành một bố cục cân đối, hợp lí. Khi sắp xếp ý cần xác định trọng tâm
của bài, thứ tự miêu tả. Một bố cục hay là bố cục cân đối giữa các đoạn,
làm nổi rõ ý chính của bài, có những điểm mới.
Dàn ý chung của bài văn miêu tả:
Mở bài:
- Giới thiệu tên đối tượng miêu tả (đồ vật, loài vật, cây cối, cảnh…)
- Giới thiệu những điểm cần thiết khác tùy thuộc vào loại đối tượng
miêu tả.
Thân bài: (Có thể tả theo nhiều cách. Tùy đối tượng
miêu tả lựa chọn cách tả sao cho hợp lí)
- Tả bao quát những nét chung nhất
+ Đối với đồ vật là hình dáng, màu sắc, chất liệu và các
bộ phận tạo thành…
+ Đối với cây cối là những ấn tượng về tầm vóc, màu
sắc, thời điểm… cây được quan sát, miêu tả.
+ Đối với cảnh là những đường nét, hình khối, không
gian bao quanh, thời gian.
+ Đối với người và loài vật là ngoại hình, dáng vẻ, tính
nết, hoạt động.
- Tả những nét riêng cá biệt, đặc sắc của đối tượng
+ Tả những điểm khác biệt độc đáo của đối tượng so với
các đối tượng cùng loại khác.
+Tả chi tiết cụ thể một vài đặc điểm đáng lưu ý nhất của
đối tượng.
- Nêu suy nghĩ của bản thân về đối tượng miêu tả
+ Nêu những kỉ niệm của người viết với đối tượng tả.
+ Nêu công dụng của đối tượng tả trong quan hệ tình cảm
với con người.
Kết bài
- Những ấn tượng sâu đậm đối với đối tượng
- Những liên tưởng, những suy nghĩ khác về đối tượng.
c. Dựng đoạn trong văn miêu tả
Bài văn miêu tả gồm nhiều đoạn. Các câu trong đoạn phải đảm bảo có
sự liên kết chặt chẽ về ý. Mỗi đoạn văn miêu tả có một nội dung nhất định.
Viết xong mỗi đoạn cần xuống dòng. Các đoạn văn trong bài cần liên kết

88
với nhau để tạo thành một văn bản hoàn chỉnh. Đoạn mở bài theo cách trực
tiếp hoặc gián tiếp; đoạn kết bài theo cách mở rộng hoặc không mở rộng.
Phần thân bài gồm nhiều đoạn văn như: đoạn giới thiệu về đối tượng cần tả
đoạn tả cấu tạo bên ngoài, đoạn tả cấu tạo bên trong, đoạn tả ngoại hình,
đoạn tả tính nết… Mỗi đoạn văn nên tập trung làm rõ một ý miêu tả. Không
nên nhập tất cả các ý trong phần thân bài thành một đoạn văn.
d. Viết bài văn miêu tả
Khi viết bài văn miêu tả cần bộc lộ cảm xúc chân thành của người viết.
Ngôn ngữ cần được gọt giũa, trau chuốt để tạo ra cách diễn đạt sinh động,
hấp dẫn.
Bài văn miêu tả gồm 3 phần. Phần mở bài giới thiệu đối tượng cần tả.
Phần thân bài gồm nhiều đoạn văn, chứa nhiều ý quan trọng nhất, tập trung
miêu tả những nét riêng biệt, nổi bật của đối tượng. Các ý phải được sắp xếp
hợp lí để đối tượng miêu tả hiện lên rõ nét, sinh động. Phần kết bài làm
nhiệm vụ khép lại bài văn miêu tả và phát biểu những cảm nghĩ của người
viết. Phần kết bài có thể viết theo kiểu đánh giá lợi ích của đối tượng, hoặc
theo kiểu phát biểu những suy nghĩ, những tình cảm đối với đối tượng.

5.2.3. Luyện viết văn viết thư


5.2.3.1. Khái niệm
Văn viết thư là loại văn dùng để bộc lộ tình cảm, những lời thăm hỏi, chúc
mừng, kể chuyện, bàn bạc công việc… giữa người này với người khác ở xa
nhau, không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp.
Ví dụ:
Thư gửi bà
Hải Phòng, ngày 6 tháng 11 năm 2003
Bà kính yêu!
Lâu rồi, cháu chưa về quê, cháu nhớ bà lắm.
Dạo này bà có khỏe không ạ?
Gia đình cháu ngoài này vẫn bình thường. Năm nay, cháu học
lớp 3. Từ đầu năm học đến giờ, cháu được tám điểm 10 rồi đấy, bà
ạ! Ngày nghỉ, cháu thường được bố mẹ cháu cho đi chơi.
Cháu vẫn nhớ năm ngoái được về quê, thả diều cùng anh Tuấn
trên đê và đêm đêm ngồi nghe bà kể chuyện cổ tích dưới ánh trăng.
Cháu hứa với bà sẽ học thật giỏi, luôn chăm ngoan để bà vui.
Cháu kính chúc bà luôn mạnh khỏe, sống lâu. Cháu mong chóng đến
hè để được về quê thăm bà.
Cháu của bà

Trần Hoài Đức


(SGK- Tiếng Việt lớp 3)

89
- Có thể chia văn viết thư ra thành nhiều loại dựa trên những tiêu chí khác nhau.
Dựa vào mục đích viết thư, có thư thăm hỏi, thư làm quen, thư chúc mừng, thư
bàn bạc công việc, thư kể chuyện, thư vận động tuyên truyền… Dựa vào tính
chất xã hội của thư, có thư riêng (mang tính cá nhân), thư chung (mang tính
tập thể), thư ngoại giao (mang tính quốc tế). Dựa vào tính chất bình thường
hay không bình thường, có thư thông thường (thư thường gặp), thư đặc biệt
(thư ngỏ, thư cho đời sau, thư không gửi…).
- Học sinh Tiểu học được làm quen với văn viết thư trong chương trình tiếng
Việt lớp 3 với các bài tập: Tập viết thư và phong bì thư, viết thư làm quen với
một bạn ở địa phương khác, viết thư làm quen với một bạn thiếu nhi nước
ngoài…Học sinh chính thức được học về văn viết thư ở lớp 4. Các nội dung
được học như: Mục đích của văn viết thư, những nội dung cần có của một bức
thư, bố cục, cách trình bày một bức thư; thực hành viết thư với mục đích thăm
hỏi, kể chuyện.
5.2.3.2. Cách viết một lá thư
- Xác định rõ đối tượng nhận thư và mục đích viết thư. Thư viết cho ai? Nhằm
mục đích gì? (thăm hỏi, làm quen hay bàn bạc công việc…). Xác định đúng
đối tượng nhận thư và mục đích viết thư người viết mới chọn được cách xưng
hô, lời lẽ và nội dung thích hợp đáp ứng được sự mong mỏi chờ đợi của người
nhận thư.
- Lựa chọn nội dung cho phù hợp với mục đích viết thư. Nội dung thư cần được
triển khai đầy đủ, ngắn gọn, trình bày mạch lạc, dễ hiểu làm rõ mục đích viết
thư. Nội dung thư là điều người viết muốn trao đổi nhưng cũng cần căn cứ vào
tâm lí mong đợi của người nhận thư để viết. Cần cân nhắc trả lời một số câu
hỏi: Viết cái gì? Viết như thế nào? Để bức thư không lan man, mục đích viết
thư mới thực hiện được.Ví dụ thư thăm hỏi thì cần hỏi thăm đối tượng nhận
thư những thông tin người viết quan tâm muốn chia sẻ (hỏi về tình hình sức
khỏe, công việc…). Nếu là thư muốn làm quen thì phải giới thiệu về bản thân,
hoàn cảnh, lí do muốn làm quen…
- Lựa lời cho thích hợp với người nhận thư. Chọn lời xưng hô phù hợp với vai
giao tiếp, đảm bảo tính lịch sự. Lời lẽ cần giản dị, tự nhiên, thể hiện được
những tình cảm chân thật của người viết. Cần tránh những lời lẽ sáo rỗng, giả
tạo hoặc dễ dãi, suồng sã. Trong thư không nên gạch xóa, viết tắt tùy tiện… để
thể hiện sự tôn trọng của người viết đối với người nhận thư.
- Trình bày theo đúng hình thức một bức thư. Bức thư dù viết dài hay ngắn cũng
cần đảm bảo đúng quy cách viết một bức thư. Đây là hình thức bắt buộc mỗi
bức thư cần tuân thủ: Phần mở đầu:
+ Nơi viết thư
+ Ngày… tháng… năm… viết thư
+ Lời xác lập quan hệ (xưng hô)
+ Lời chào hỏi
Phần phát triển:
+ Lí do, mục đích viết thư
+ Những nội dung cần viết (có thể là thăm hỏi, làm quen, kể chuyện…)

90
Phần kết thúc:
+ Lời chúc (hoặc cảm ơn, hứa hẹn), chia tay.
+ Kí tên (Ghi rõ lời xưng hô trước khi kí và ghi họ tên)
- Khi viết xong thư muốn gửi đi cần cho vào phong bì và dán lại, sau đó bỏ vào
hòm thư của bưu điện. Ngoài bì thư cần ghi đầy đủ theo quy định của bưu
điện. Góc bên trái (phía trên) phong bì, ghi họ tên, địa chỉ người gửi. Góc bên
phải ( phía dưới), ghi họ tên, địa chỉ người nhận. Địa chỉ thường ghi theo thứ
tự: số nhà, phố, quận, thành phố hoặc thôn (xóm), xã, huyện, tỉnh. Góc bên
phải (phía trên) phong bì, dán tem của bưu điện. Bì thư gửi đi nước ngoài có
khác với bì thư gửi trong nước. Gửi đi nước nào cần tuân thủ theo những quy
định của bưu điện nước đó.
5.2.4. Luyện viết đơn từ, biên bản, báo cáo
5.2.4.1. Đặc điểm chung của Đơn từ, Biên bản, Báo cáo
Đơn từ, biên bản, báo cáo thuộc phong cách hành chính- công vụ có
những đặc điểm chung sau:
- Tính không bình đẳng trong quan hệ của những người tham gia giao tiếp.
Được thể hiện ở tính trên-dưới, tổ chức- cá nhân với mục đích thực thi công
việc, sự vụ.
- Tính khuôn mẫu đồng loạt trong cách trình bày. Có các loại mẫu in sẵn, các
“khuôn” chung để có thể tạo ra các văn bản đồng loạt như nhau. Khi sử dụng
chỉ cần đưa vào đó những thông tin bổ sung.
- Tính khách quan của ngôn ngữ. Văn bản phải đảm bảo tính đơn nghĩa, tránh
tạo ra cách hiểu mập mờ, nước đôi. Ngôn ngữ cần rõ ràng, chính xác, thông
dụng, dễ hiểu, không dùng các từ ngữ, các câu tình thái nhằm biểu lộ tình cảm
chủ quan phục vụ cho mục đích cá nhân
5.2.4.2. Luyện viết Đơn từ
a. Khái niệm: Đơn từ là loại giấy tờ của cá nhân hoặc tập thể gửi đến một cá
nhân, một cơ quan hoặc một tổ chức có quyền hạn và trách nhiệm để đề đạt
một nguyện vọng, trình bày một yêu cầu hoặc khiếu nại một sự việc…
Ví dụ:
Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
Yên Bái, ngày 20 tháng 1 năm 2004
Đơn xin vào Đội

Kính gửi: - Ban phụ trách Đội Trường Tiểu học Kim Đồng
- Ban chỉ huy Liên đội
Em tên là: Lưu Tường Vân
Sinh ngày: 22 tháng 6 năm 1995
Học sinh: lớp 3C Trường Tiểu học Kim Đồng.
Sau khi được học điều lệ và lịch sử Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh, em thấy Đội là tổ chức tốt nhất để rèn luyện thiếu niên trở thành những
người có ích cho đất nước.
Em làm đơn này xin được vào Đội và xin hứa:
- Thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy.

91
- Tuân theo Điều lệ Đội.
- Giữ gìn danh dự Đội.
Người làm đơn

Lưu Tường Vân


(SGK- Tiếng Việt lớp 3)
b. Phân loại: Có thể chia đơn từ thành hai loại. Loại có mẫu quy định (được in
sẵn, người viết điền thông tin vào chỗ trống hoặc có mẫu sẵn để người viết
đơn viết theo mẫu cho đúng quy cách), loại không có mẫu quy định (tùy thuộc
vào cách viết của từng người làm đơn).
- Viết đơn từ có mẫu quy định. Nếu mẫu đã được in, người viết chỉ cần điền
nội dung thích hợp vào chỗ trống trong mẫu in. Làm đúng, đủ những thủ tục
như mẫu đã yêu cầu là hoàn thành lá đơn. Với những lá đơn không in sẵn,
nhưng đã có mẫu thì cách làm cũng tương tự như cách làm với đơn có mẫu
in sẵn. Những câu chữ có trong mẫu cần được giữ nguyên khi viết.
Ví dụ:
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
… ngày… tháng… năm…
Đơn xin cấp thẻ đọc sách

Kính gửi: Thư viện……..


Em tên là……..
Sinh ngày:……. Nam (Nữ)
Nơi ở:………..
Học sinh lớp:………………………Trường:…………..
Em làm đơn này xin đề nghị Thư viện cấp cho em thẻ đọc sách năm…..
Được cấp thẻ đọc sách, em xin hứa thực hiện đúng mọi quy định của Thư
viện.
Em xin trân trọng cảm ơn.
Người làm đơn

(SGK- Tiếng Việt lớp 3)


- Viết đơn từ không có mẫu quy định. Đơn thường gồm ba phần: phần mở
đầu, phần triển khai, phần kết thúc.
Phần mở đầu :
+ Tiêu ngữ (Quốc hiệu). Một số đơn thông tin này được ghi là các tổ
chức xã hội người làm đơn tham gia (ví dụ dơn xin vào Đội thiếu niên,
vào Đoàn thanh niên…)
+ Tiêu đề đơn
+ Nơi nhận đơn (hoặc người nhận đơn).
Phần triển khai:

92
+ Tự giới thiệu: Người viết đơn cần giới thiệu về họ tên, ngày..
tháng… năm sinh, chỗ ở, trình độ văn hóa… Tùy từng loại đơn,
người viết đơn tự giới thiệu về mình sơ lược hoặc chi tiết.
+ Trình bày nguyện vọng, yêu cầu: Cần nêu rõ lí do viết đơn, những
nguyện vọng, mong muốn. Lời lẽ cần chân thực, khúc chiết.
Phần kết thúc
+ Lời hứa hẹn và cảm ơn của người làm đơn
+ Ngày.. tháng.. năm viết đơn (Có thể ghi địa điểm làm đơn. Một số
loại đơn thông tin này được ghi ở phần đầu lá đơn)
+ Chữ kí và ghi rõ họ tên
+ Phần ghi chú (nếu có) sẽ viết ở góc trái, phía dưới của lá đơn.
5.2.4.3. Luyện viết Biên bản
a. Khái niệm: Biên bản là bản ghi chép lại một cách trung thực, tại chỗ những
sự việc, những diễn biến nào đó… đã hoặc đang xảy ra với tất cả những chi
tiết, những hành động, lời nói… một cách đầy đủ, chính xác, khách quan để
làm bằng chứng cho việc xem xét, đánh giá hoặc xét xử.
Ví dụ biên bản vụ việc:
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Biên bản về việc bệnh nhân trốn viện

Hồi 6 giờ 30 phút, ngày 12-12-2005, chúng tôi gồm những người có tên
sau đây lập biên bản về việc bệnh nhân Quàng Văn Ún trốn viện:
- Bác sĩ (BS), y tá trực: Bs Nguyễn Nam - trưởng ca, Bs Lê Đạt, y tá
Trần Khánh.
- Bệnh nhân phòng 305: Lương Việt Thái, Lò Văn Quảng.
Tóm tắt sự việc:
- Bệnh nhân Ún đang chờ mổ sỏi thận.
- Bs Đạt phát hiện bệnh nhân vắng mặt hồi 21 giờ đêm 11-12. Ông
Thái cho biết ông Ún đã ra khỏi phòng từ 17 giờ.
- 22 giờ vẫn không thấy ông Ún về, Bs Đạt, y tá Khánh kiểm tra tủ đồ
đạc của ông thì thấy trống không. Anh Quảng nói: Ông Ún biết phải
mổ, ông rất sợ.
- Dự đoán: Ông Ún sợ mổ đã trốn viện.
Đề nghị lãnh đạo Viện cho tìm gấp ông Ún, thuyết phục ông trở lại
bệnh viện để mổ chữa bệnh.
Các thành viên có mặt kí tên:
Nguyễn Nam Lương Việt Thái

Lê Đạt Lò Văn Quảng

Trần Khánh
(SGV- Tiếng Việt lớp 5)

93
b. Phân loại và bố cục: Căn cứ vào nội dung của sự việc được ghi chép, biên bản
được chia thành một số loại:
Biên bản có tính chất hành chính biên bản hội nghị, biên bản có tính chất
pháp luật.
Biên bản không có hiệu lực pháp lý để thi hành mà chủ yếu được dùng
làm chứng cứ, minh chứng các sự kiện thực tế đã xảy ra. Vì vậy biên bản
phải mô tả lại các sự việc hiện tượng kịp thời tại chỗ với đầy đủ chi tiết,
tình tiết khách quan, không bình luận thêm bớt thì mới đảm bảo được vai
trò cung cấp thông tin làm cơ sở cho các quyết định xử lí, hoặc minh chứng
cho các nhận định kết luận khác.
- Biên bản thường gồm 3 phần:
Phần mở đầu
+ Quốc hiệu và Tiêu ngữ
+ Tên biên bản
+ Ngày… tháng... năm… giờ…
+ Địa điểm
+ Thành phần tham dự
Phần nội dung
+ Diễn biến sự kiện thực tế (Ghi chép có trọng tâm, trọng điểm, chính xác,
trung thực)
Phần kết thúc
+ Ghi thời gian
+ Thủ tục kí xác nhận
c. Cách ghi biên bản: Biên bản có thể được ghi chép ngay khi sự việc đang diễn
ra hoặc khi sự việc đã diễn ra rồi. Biên bản có thể được ghi chép hết sức tỉ mỉ,
chi tiết hoặc có thể ghi một cách tóm lược. Nhưng dù thế nào biên bản vẫn cần
đảm bảo viết theo một trình tự nhất định, chính xác để tiện cho việc theo dõi,
xem xét. Biên bản có thể được in sẵn theo mẫu, người tham dự vào việc lập
biên bản chỉ cần điền các chi tiết cần thiết vào chỗ trống của biên bản mẫu là
đã lập xong.
Khi cần lập biên bản các vụ việc không có mẫu in sẵn, người viết cần căn
cứ vào bố cục chung của biên bản, sự kiện thực tế để có cách ghi chép phù
hợp. Trong các sự kiện thông thường như biên bản cuộc họp lớp hàng tuần,
biên bản thảo luận trong học nhóm… có thể áp dụng cách ghi tổng hợp, những
nội dung quan trọng cần ghi một cách đầy đủ, nguyên văn, những nội dung
khác có thể ghi vắn tắt ý chính, song vẫn đảm bảo tính trung thực, không suy
diễn chủ quan. Các sự kiện thực tế có tầm quan trọng như việc bàn giao tài
sản, bàn giao công tác, những việc vi phạm pháp luật… thì phải ghi chính xác,
đầy đủ mọi nội dung và tình tiết nhưng cũng phải chú ý vào các vấn đề trọng
tâm của sự kiện.

94
Biên bản viết xong cần đọc lại cho mọi người cùng nghe (bổ sung sửa
chữa nếu có yêu cầu), xác nhận biên bản phản ánh đúng sự kiện và cùng ký
xác nhận. Phải có tối thiểu hai người kí thì các thông tin trong biên bản mới có
độ tin cậy cao. Thông thường trong các cuộc họp, hội nghị… biên bản phải có
chữ kí của thư ký, chủ tọa ký xác nhận.
5.2.4.4. Luyện viết Báo cáo
- Khái niệm: Báo cáo là loại văn bản dùng để trình bày kết quả các công việc đã
làm (hoặc đang làm, như báo cáo thường kì, báo cáo giữa đợt…) của cá nhân
hoặc đơn vị gửi tới một đối tượng nhất định nào đó. Báo cáo cũng có thể dùng
để trình bày những sự việc đột xuất, những sự việc cần được quan tâm hoặc
những thực trạng cần được giải quyết…ĐAO LÊN
Ví dụ: (Đề cương báo cáo về tổng kết năm học của một lớp trong trường Tiểu
học)

Sở Giáo dục và Đào tạo Cộng hòa xã hội


chủ nghĩa Việt Nam
Trường Tiểu học… Độc lập – Tự do –
Hạnh phúc

Báo cáo tổng kết năm học


201..-201…
I. Đặc điểm của lớp trong năm học 201…- 201..
1. Đặc điểm về địa bàn cư trú của học sinh.
2. Đặc điểm về học sinh (Tỉ lệ nam / nữ; về học lực; về đạo đức…).
3. Đặc điểm về đội ngũ giáo viên.
4. Đặc điểm chung của nhà trường.
II. Những kết quả đạt được
1. Về học tập
2. Về đạo đức
3. Về văn nghệ, thể dục thể thao
4. Về hoạt động xã hội
5. Về các mặt khác
( Tất cả các mặt hoạt động đều cần có những số liệu, dẫn
chứng cụ thể, chính
III. Những tồn tại
1.Về học tập
2. Về đạo đức
3. Về lao động, văn nghệ, thể thao
4. Về hoạt động xã hội và các mặt khác
IV. Những đề nghị
1. Đề nghị đối với nhà trường
2. Đề nghị đối với các vị phụ huynh học sinh
3. Những đề nghị khác

95
Địa điểm…ngày …tháng….năm

Giáo viên chủ nhiệm lớp


Họ và tên người viết báo cáo.

b. Phân loại và bố cục: Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, báo cáo có thể
được chia thành nhiều loại: Báo cáo thường kì, báo cáo đột xuất; báo cáo khoa
học, báo cáo chính trị; báo cáo sơ kết, báo cáo tổng kết, báo cáo đề dẫn…
- Báo cáo là một hình thức văn bản nhằm phản ánh hoạt động quản lí trên
các lĩnh vực cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đoàn
thể… dùng để đánh giá kết quả hoạt động. Từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm, những vấn đề cần kiến nghị bổ sung…
- Báo cáo thường gồm 3 phần:
Phần mở đầu
+ Quốc hiệu (Tiêu ngữ)
+ Tên báo cáo
+ Phía góc trái ghi: tên tổ chức hoặc cơ quan viết báo cáo, số báo cáo (Nếu
thấy cần thiết)
Phần nội dung
+ Nêu hoàn cảnh có ảnh hưởng tới công việc đã làm (Thuận lợi, khó khăn)
+ Kiểm điểm công việc đã làm (Thống kê những việc đã làm theo trình tự
thời gian hoặc tính chất công việc; so sánh với kế hoạch, nhiệm vụ được
giao)
+ Những tồn tại (Những vấn đề giải quyết chưa xong)
+ Đánh giá kết quả công việc (Nguyên nhân chủ quan, khách quan của kết
quả và thiếu sót)
+ Những yêu cầu, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền.
Phần cuối
+ Địa điểm, thời gian viết báo cáo
+ Cá nhân (hay người đại diện) kí tên.
+ Ghi các bản phụ lục kèm theo (nếu có)
c. Cách viết báo cáo:
- Công tác chuẩn bị: Phải xác định rõ mục đích, yêu cầu của báo cáo để có
cơ sở xây dựng đề cương. Xây dựng đề cương khái quát. Thu thập tài liệu,
số liệu để đưa vào báo cáo. Đánh giá tình hình qua tài liệu, số liệu một cách
khái quát. Dự kiến những đề xuất kiến nghị với cấp trên. Căn cứ vào đề
cương và các tài liệu xây dựng dàn bài của báo cáo.
- Viết báo cáo: Hành văn cần rõ ràng, mạch lạc, cụ thể. Không nên dùng từ
ngữ thể hiện tính chủ quan một chiều, hoặc khoa trương. Phải có những số
liệu, dẫn chứng hết sức cụ thể. Báo cáo phải có trọng tâm, trọng điểm
không nên lan man, cũng không nên sơ lược, đại khái. Đối với các báo cáo

96
quan trọng, sau khi viết xong cần lấy ý kiến góp ý sau đó chỉnh sửa bản dự
thảo báo cáo cho thống nhất, khách quan mới gửi đi.
- Báo cáo phải gửi kịp thời, đúng kì hạn, đúng nơi cần gửi mới phát huy
được tác dụng, hiệu quả của báo cáo.

Tóm tắt chương 5


Viết văn bản là một kĩ năng mang tính tổng hợp. Người viết cần
huy động vốn sống, vốn văn hóa để tạo lập văn bản. Các kĩ năng sử dụng
tiếng Việt như dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, liên kết các đoạn để tạo thành
bài, các kĩ năng về chữ viết, chính tả cũng được rèn luyện. Khi viết bất cứ
loại văn bản nào cũng cần phải nắm vững đặc trưng, bám sát yêu cầu đề.
Văn kể chuyện là loại văn phản ánh cuộc sống một cách khách
quan, thông qua cốt truyện, nhân vật. Sự việc được nói tới trong văn kể
chuyện là sự việc có diễn biễn. Mỗi truyện thường gắn với số phận, hành
động của nhân vật chính, mang một ý nghĩa xã hội nhất định. Trong văn kể
chuyện bao giờ cũng có người dẫn chuyện và các nhân vật khác. Biện pháp
hư cấu thường được sử dụng trong văn kể chuyện làm cho hiện thực phản
ánh tiêu biểu, sinh động hơn.
Văn miêu tả là loại văn có khả năng vẽ ra trước mắt người đọc
những bức tranh sinh động về cuộc sống.Yêu cầu chung của bài văn miêu
tả là phải miêu tả chân thực, đúng thực tế, đúng bản chất của đối tượng
miêu tả. Miêu tả phải theo một trình tự hợp lí, có thể tả theo trình tự thời
gian, không gian, theo trình tự tâm lí. Nhưng dù miêu tả bằng cách nào
cũng cần có trọng tâm, chọn được những nét tiêu biểu của đối tượng miêu
tả. Bài văn miêu tả phải diễn đạt bằng lời văn sinh động, hấp dẫn, gợi tả,
gợi cảm bộc lộ cảm xúc chân thành của người viết.
Văn viết thư là loại văn người viết bày tỏ trên trang giấy những suy
nghĩ, cảm xúc chân thực của mình, những thông tin cần trao đổi với người
khác. Để viết một lá thư cần xác định đối tượng nhận thư, mục đích viết
thư. Từ đó lựa chọn nội dung, lựa lời cho thích hợp với người nhận.
Đơn từ, biên bản, báo cáo là những loại văn bản mang tính hành
chính công vụ. Các loại văn này thường được quy định về hình thức trình
bày. Ngôn ngữ mang tính đơn nghĩa. Đối với các loại văn bản có mẫu in
sẵn, người viết cần nắm chắc các mẫu và các thông tin cần điền vào các
chỗ trống và điền chính xác. Đối với loại văn bản không có mẫu in sẵn,
trên cơ sở nắm vững mẫu chung, người viết căn cứ vào nội dung cụ thể để
viết.

Câu hỏi và bài tập


Câu hỏi
1. Phân tích đặc điểm của văn kể chuyện. Cho ví dụ.

97
2. Nhận xét chương trình, nội dung dạy viết văn kể chuyện ở Tiểu học.
3. Phân tích đặc điểm của văn miêu tả. Cho ví dụ.
4. Trình bày những yêu cầu về quan sát, sử dụng ngôn ngữ trong văn miêu
tả. Cho ví dụ.
5. Trình bày nội dung miêu tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối, tả cảnh, tả
người. Cho ví dụ.
6. Trình bày cách viết một bài văn viết thư. Cho ví dụ.
7. Phân tích những yêu cầu về nội dung, hình thức của một lá đơn. Cho ví
dụ.
8. Chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa biên bản mang tính hành chính và
biên bản về vụ việc. Cho ví dụ.
9. Phân tích những yêu cầu về nội dung, hình thức của một báo cáo tổng
kết năm học. Cho ví dụ.
Bài tập
Luyện viết văn kể chuyện:
Bài tập 1:
Người ăn xin
Lúc ấy, tôi đang đi trên phố. Một người ăn xin già lọm khọm đứng ngay trước
mặt tôi.
Đôi mắt ông lão đỏ đọc và giàn giụa nước mắt. Đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi
thảm hại… Chao ôi! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu xí
biết nhường nào!
Ông già chìa trước mặt tôi bàn tay sưng húp, bẩn thỉu. Ông rên rỉ cầu xin cứu
giúp.
Tôi lục tìm hết túi nọ túi kia, không có tiền, không có đồng hồ, không có cả một
chiếc khăn tay. Trên người tôi chẳng có tài sản gì.
Người ăn xin vẫn đợi tôi. Tay vẫn chìa ra, run lẩy bẩy.
Tôi chẳng biết làm cách nào. Tôi nắm chặt lấy bàn tay run rẩy kia:
- Ông đừng giận cháu, cháu không có gì để cho ông cả.
Người ăn xin nhìn tôi chằm chằm bằng đôi mắt ướt đẫm. Đôi môi tái nhợt nở nụ
cười và tay ông cũng xiết lấy tay tôi:
- Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi - Ông lão nói bằng
giọng khản đặc.
Khi ấy tôi chợt hiểu rằng: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được chút gì của ông
lão.
(SGK - Tiếng Việt 4)
a. Bài văn này đã có chuyện, có ý nghĩa chưa?
b. Ý nghĩa bài văn là ở chỗ nào?
c. Hãy chỉ ra các phần trong câu chuyện.
d. Chuyện có mấy nhân vật? Tính cách các nhân vật như thế nào?
e. Hãy phân tích cách kể chuyện của tác giả
g. Chỉ ra đâu là những chi tiết hay, hấp dẫn của chuyện.

Bài tập 2:

98
Nồi xúp rìu

Một bà lão keo kiệt kia không muốn cho ai một tí gì. Một anh lính đi trận
về, đói quá, nhưng biết tính bà này, anh chỉ mượn bà cái rìu để nấu xúp. Mượn
cái rìu nấu xúp thì mất gì nhỉ? Bà đồng ý. Anh lính rửa sạch cái rìu, bỏ vào
nồi, rồi đổ nước đun sôi thật lâu. Anh nếm thử khen ngon, nhưng lại bảo: “Bà
cho ít bột để bỏ vào thêm thì còn ngon hơn. Tôi sẽ mời bà món xúp rất đặc
biệt này”. Bà kia cho một ít bột. Anh lính lại nếm và lại nói: “Giá có tí bơ và
muối cho vào thì càng tuyệt”. Bà kia lại cho. Cuối cùng anh lính mời bà cùng
ăn món xúp rìu. Món xúp ngon thật. Bà kia vừa ăn vừa lạ lùng: Không hiểu
cái anh chàng này nấu xúp như thế nào mà ngon quá. Còn anh lính thì vừa ăn
vừa cười thầm trong bụng.
(Theo Phạm Hổ)
a. Hãy đặt tên khác cho câu chuyện.
b. Phân tích tính chất hợp lí trong diễn biễn của toàn bộ câu chuyện.
c. Phân tích tính chất hợp lí của từng chi tiết.
d. Ý nghĩa xã hội của câu chuyện.

Bài tập 3: Hãy xây dựng các cốt truyện từ các nhân vật sau:
- Một cô giáo, một học sinh, một bài kiểm tra.
- Một bà mẹ bị ốm, cô con gái, bà tiên.

Bài tập 4: Lập dàn ý cho các đề văn sau:


- Kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong cuộc sống của em.
- Mượn lời nhân vật Sơn Tinh hoặc Thủy Tinh để kể lại câu chuyện
“Sơn Tinh, Thủy Tinh”.
Bài tập 5: Viết các đoạn văn kể chuyện:
- Mở bài theo lối trực tiếp, gián tiếp
- Đoạn thân bài tả ngoại hình, đoạn nói về những suy nghĩ của nhân
vật, đoạn kể việc thứ nhất, đoạn kể sự việc thứ 2…
- Kết bài theo cách mở rộng, không mở rộng.
Bài tập 6: Viết bài văn kể chuyện dựa vào các đề sau
- Kể một câu chuyện nói về nghị lực của con người.
- Kể lại câu chuyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” bằng lời của Nhà Trò.

Luyện tập viết văn miêu tả:


Bài tập 1: Đoạn văn sau có phải là đoạn văn miêu tả không? Vì sao? Hãy nhận xét cách
lựa chọn chi tiết, sử dụng ngôn ngữ.
Anh chàng trống này tròn như cái chum, lúc nào cũng chễm chệ trên
một cái giá gỗ kê ở trước phòng bảo vệ. Mình anh ta được ghép bằng những
mảnh gỗ đều chằn chặn, nở ở giữa, khum nhỏ lại ở hai đầu. Ngang lưng quấn
hai vành đai to bằng con rắn cạp nong, nom rất hùng dũng. Hai đầu trống bịt
kín bằng da trâu thuộc kĩ, căng rất phẳng.
(SGK-Tiếng Việt 4)

99
Bài tập 2: Hãy chỉ ra những nét chung và những nét riêng của từng tác giả trong cách
miêu tả.
1. Một con gà trống ở phía bếp nổi gáy. Tiếng nó lanh lảnh. Tôi biết đó là
con gà của anh Bốn Linh. Con gà này có bộ lông mã tía, cổ bạnh, mào hạt
đậu. Tiếng nó dõng dạc nhất xóm. Nó thường làm tôi chú ý. Nó nhón
chân, bước từng bước oai vệ, ức ưỡn ra đằng trước. Nó có gan nhảy lên
lưng trâu Binh, vỗ cánh phành phạch rồi gáy như thét vào tai trâu. Bị chó
vện đuổi, nó bỏ chạy. Đột ngột, nó quay lại nện cho chó vện một đá vào
đầu, rồi nhảy phóc lên cổng chuồng trâu, đứng nhìn xuống vẻ phớt lờ.
(Võ Quảng)
2. Nó là một giống gà ri, thấp bé và nhỏ nhắn hơn giống gà thường. Nó còn
nhỏ chưa vỡ lông, vỡ cánh mà lại ủ rũ như một người buồn cho nên trông
càng đáng ái ngại. Lông cánh nó màu đỏ có đốm trắng, đốm đen nhưng
bẩn qúa thành ra một màu xám xịt. Cái mào nhu nhú tái ngoét ở trên đôi
mắt lờ đờ mà lúc nào gà ta đứng cũng muốn ngắm. Hai cái chân nhỏ quá,
thấp quá, xám đen lại, luôn luôn run rẩy như sắp ngã quỵ xuống, như
không chịu được thời tiết đầm ấm của những ngày xuân.
(Tô Hoài)

Bài tập 3: Đọc bài văn sau cho biết tác giả đã vận dụng các giác quan nào để quan sát?
Trình tự quan sát, những chi tiết được tác giả chú ý miêu tả.
Sầu riêng
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc biệt, mùi thơm
đậm, bay rất xa, lâu tan trong không khí. Còn hàng chục mét mới tới nơi để sầu riêng,
hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi. Sầu riêng thơm mùi thơm của mít chín quyện
với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong già hạn. Hương vị
quyến rũ đến kì lạ.
Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương
bưởi tỏa khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh hoa nhỏ như vảy cá,
hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy li ti giữa những cánh hoa. Mỗi cuống hoa
ra một trái. Nhìn trái sầu riêng lủng lẳng dưới cành trông giống những tổ kiến. Mùa trái
rộ vào dạo tháng tư, tháng năm ta.
Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng
khiu, cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, dáng nghiêng, chiều quằn,
chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng, hơi khép lại, tưởng như lá héo.
Vậy mà khi trái chín, hương tỏa ngạt ngào, vị ngọt đến đam mê.
(SGK- Tiếng Việt 4 )

Bài tập 4: Hãy nhận xét dàn ý của đề văn sau:


Đề bài: Hãy tả cây chuối tiêu
- Giới thiệu cây chuối tiêu
- Tả bao quát cây chuối tiêu
- Tả các bộ phận của cây chuối tiêu (tàu lá, buồng chuối, nải chuối,
quả chuối…)

100
- Nêu lợi ích của cây chuối tiêu.

Bài tập 5: Lập dàn ý cho các đề văn sau:


Đề bài:
Hãy tả một đồ vật anh (chị) thích nhất.
Hãy tả một cảnh đẹp anh (chị) yêu thích nhất.
Hãy tả một người đã để lại cho anh (chị) những ấn tượng sâu sắc.

Bài tập 6: Xác định chức năng, nội dung chính của từng đoạn văn trong văn bản dưới
đây.
Hoàng hôn trên sông Hương
Cuối buổi chiều, Huế thường trở về trong một vẻ yên tĩnh lạ lùng, đến
nỗi tôi cảm thấy hình như có một cái gì đang lắng xuống thêm một chút nữa
trong thành phố vốn hằng ngày đã rất yên tĩnh này.
Mùa thu, gió thổi mây về phía cửa sông, mặt nước phía cầu Tràng Tiền
đen sẫm lại, trong khi phía trên này lên mãi gần Kim Long, mặt sông sáng
màu ngọc lam in những vệt mây hồng rực rỡ của trời chiều. Hình như con
sông Hương rất nhạy cảm với ánh sáng nên đến lúc tối hẳn, đứng trên cầu
chăm chú nhìn xuống, người ta vẫn còn thấy những mảng sắc mơ hồng ửng
lên như một thứ ảo giác trên mặt nước tối thẳm. Phố ít người, con đường ven
sông như dài thêm ra dưới vòm lá xanh của hai hàng cây.
Phía bên sông, xóm Cồn Hến nấu cơm chiều, thả khói nghi ngút cả một
vùng tre trúc. Đâu đó, từ sau khúc quanh vắng lặng của dòng sông, tiếng lanh
canh của thuyền chài gỡ những mẻ cá cuối cùng truyền đi trên mặt nước,
khiến mặt sông nghe như rộng hơn. Và khi dãy đèn bên đường bắt đầu thắp
lên những quả tròn màu tím nhạt, chuyển dần sang màu xanh lá cây và cuối
cùng nở bung ra trong màu trắng soi rõ mặt người qua lại thì khoảnh khắc yên
tĩnh của buổi chiều cũng chấm dứt.
Huế thức dậy trong một nhịp chuyển động mới, đi vào cuộc sống ban đầu
của nó.
( SGK-Tiếng Việt 5)

Bài tập 7: Viết một số đoạn văn miêu tả theo các yêu cầu sau
- Viết đoạn mở bài theo 2 cách ( Trực tiếp, gián tiếp) cho đề văn miêu tả chiếc
cặp xách.
- Viết đoạn kết bài theo 2 cách ( Mở rộng, không mở rộng) cho đề văn miêu tả
một cây cho bóng mát.
- Viết các đoạn văn phần thân bài:
+ Đoạn văn tả bao quát chiếc bút.
+ Đoạn văn tả hình dáng, màu sắc, hương vị của hoa
+ Đoạn tả tính nết, hoạt động của con vật
+ Đoạn tả cảnh thiên nhiên vào một buổi sáng mùa hè.
+ Đoạn tả ngoại hình của một cô giáo.

101
Bài tập 8: Viết một số bài văn theo yêu cầu các đề sau:
- Tả một đồ vật
- Tả một con vật
- Tả một cây hoa
- Tả ngôi nhà
- Tả một người thân
Luyện viết văn viết thư
Bài tập 1: Chọn một bức thư phân tích, nhận xét nội dung, hình thức, ngôn ngữ của
thư.
Bài tập 2: Lập dàn ý cho các đề văn sau:
- Viết thư để làm quen với một bạn ở trường khác.
- Viết thư thăm hỏi thày cô giáo cũ.
Bài tập 3: Luyện viết các bài văn viết thư với các nội dung sau:
- Viết thư để thuyết phục bạn yên tâm với ngành nghề mình đã lựa chọn.
- Viết thư để kể về tình hình học tập, rèn luyện của anh (chị) tại trường sư
phạm.
Luyện viết đơn từ, biên bản, báo cáo :
Bài tập 1 : Nhận xét ngôn ngữ của lá đơn sau :
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Đơn xin nghỉ học
Kính gửi: Thầy chủ nhiệm lớp Văn 2A
Tên em là Nguyễn Thị Sinh, sinh viên lớp văn 2A do thầy quản lí.
Em làm đơn xin trình bày với thầy một việc như sau:
Vừa qua, cơn bão số 5 đã tràn qua quê em. Đây là cơn bão lớn nhất từ 30
năm nay. Do chủ quan không có sự đề phòng từ trước nên gia đình em bị bão
làm thiệt hại rất nhiều: Nhà cửa bi đổ, cây cối trong vườn dập nát. Gà lợn và
gia súc nói chung đều bị chết do nước ngập. Nhận được tin báo của gia đình
em rất buồn và lo lắng. Không biết rồi đây gia đình em sẽ tìm cách khắc phục
hậu quả như thế nào. Vì vậy em làm đơn này trình bày mong thầy thông cảm
với hoàn cảnh rất đặc biệt của em, tạo điều kiện cho em được nghỉ học hai
tuần để em giúp gia đình trong lúc thiên tai. Em rất mong thầy chiếu cố và
chấp nhận đề nghị của em như đơn đã trình bày.
Em xin chân thành cảm ơn thầy.

Hà Nội ngày… tháng… năm…


Học sinh
Nguyễn Thị Sinh

(Hữu Đạt)

Bài tập 2 : Giả định đây là một mẫu đơn in sẵn. Hãy điền những nội dung thích hợp vào
lá đơn này:

102
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------

ĐƠN XIN HỌC …………….

Kính gửi: Phòng Đào tạo ………………………………………………………….


Khoa: ……………………………………………………………………
Tên em là: ……………………………………Mã SV:............……………………
Lớp: …………………………………………..Khoá đào tạo: ……………………
Sinh ngày: ……………………………………..Điện thoại: ……………………
Em làm đơn này trình bày lý do như sau:
Học kỳ ………năm học …………. em bị nợ học phần …………………………..
Lý do: (Điểm HP lần 1: …………; Điểm HP lần 2:…………….; Không đủ điều kiện thi (Đã dự ………………% số tiết)
………………………………………………………………………. …………..
Nay em làm đơn này xin được học lại môn: …………………………………….
Kính mong thầy cô tổ chức lớp cho em được học lại để em trả nợ môn học này. Em xin
hứa sẽ thực hiện đúng những quy định về tổ chức lớp, về học phí học lại theo quy chế
của nhà trường.
Em xin chân thành cảm ơn!
Kết luận của Phòng/Khoa về hình thức học Hà Nội, ngày …….. tháng ………. năm 201…
………………………………………….. Người làm đơn
………………………………………………. (Ký và ghi rõ họ tên)

SV làm đơn theo mẫu nộp về phòng Đào tạo (khoa) vào đầu học kỳ, Phòng Đào tạo(Khoa) sẽ kiểm tra và thông báo
cho học sinh hình thức học ghé p (100%)ở lớp dưới; hoặc tổ chức lớp(30%) trên bảng tin vào giữa học kỳ.

Bài tập 3: Hãy viết đơn với các nội dung sau:
- Đơn xin làm thẻ thư viện
- Đơn xin nghỉ học
- Đơn xin việc
Bài tập 4: Hãy tìm một biên bản và tập phân tích các phần trong biên bản.
Bài tập 5: Viết biên bản một buổi sinh hoạt lớp.
Bài tập 6: Hãy tìm một báo cáo và tập phân tích bố cục, nội dung, ngôn ngữ của báo
cáo.

103
Bài tập 7: Viết báo cáo về tình hình học tập, rèn luyện của lớp anh (chị) đang học, trong
tháng vừa qua.

Tài liệu tham khảo chính

1.
2
3
4.Hoàng Hòa Bình, Dạy văn cho học sinh Tiểu học, NXB Giáo dục, 1998.
5. Đỗ Lê Chẩn – Đào Duy Mẫn – Hoàng Văn Trung, Yêu thơ văn em tập viết, NXB
Giáo dục. 2002.
6. Văn Giá – Nguyễn Nghiệp – Nguyễn Trí –Trần Hòa Bình, Văn miêu tả, NXB Giáo
dục, 1998.
7. Tô Hoài, Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả, NXB Giáo dục, 1998.
8. Vũ Ngọc Khánh, Bí quyết giỏi văn, NXB Giáo dục, 2001.
9. Đỗ Ngọc Thống – Phạm Minh Diệu, Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông, NXB
Giáo dục, 2003.
10.Vũ Khắc Tuân, Bài tập luyện viết văn miêu tả ở Tiểu học, NXB Giáo dục, 2002.
11. Vũ Khắc Tuân, Bài tập luyện viết văn kể chuyện ở Tiểu học, NXB Giáo dục, 2002.
12. Nguyễn Trí, Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả, NXB Giáo dục, 1993.
13. Nguyễn Trí, Luyện tập văn kể chuyện ở Tiểu học, NXB Giáo dục, 2004.
14. Nhiều tác giả, Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt lớp 2, 3, 4, 5, NXB Giáo dục, 2007.

104

You might also like