Professional Documents
Culture Documents
Ch3 TQDL2022
Ch3 TQDL2022
1
Có những lý thuyết khác nhau giải thích động cơ. Ở đây chúng ta theo lý thuyết Tháp nhu cầu của Maslow
3.1.2. NHU CẦU, ĐỘNG CƠ, MONG MUỐN VÀ CẦU DU LỊCH
Nhu cầu du lịch là nhu cầu của con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình
một cách tạm thời theo nhiều mục đích khác nhau ngoài mục đích làm việc hay làm một
hoạt động nào đó có hưởng thù lao tại nơi đến.
Trong các mục đích của chuyến du lịch, mục đích nổi trội nhất tạo nên động cơ du
lịch.
Động cơ du lịch và đặc điểm văn hóa, cá nhân, tâm lý sẽ quyết định việc lựa chọn
loại hình du lịch, điểm đến du lịch và các loại hình dịch vụ du lịch. Các loại hình du lịch,
điểm đến du lịch và loại hình dịch vụ du lịch mà du khách cần có để đáp ứng nhu cầu, động
cơ du lịch của mình thể hiện mong muốn du lịch của du khách.
Một khi nhu cầu, mong muốn du lịch được bảo đảm bởi khả năng thanh toán và các
điều kiện khác để vượt qua những cản trở du lịch thì nhu cầu, mong muốn đó sẽ tác động
đến giá cả của thị trường du lịch và trở thành cầu du lịch. Cầu du lịch là nhu cầu, mong
muốn du lịch được bảo đảm bới khả năng thanh toán và thời gian dành cho du lịch. Về mặt
lượng, cầu du lịch được thể hiện bởi lượng cầu du lịch. Lượng cầu du lịch là số lượng hàng
hóa và dịch vụ mà khách du lịch có khả năng mua hoặc sẵn sàng mua ở một mức giá nhất
định trong khoảng thời gian xem xét. Cầu du lịch là những số lượng hàng hóa, dịch vụ du
lịch mà khách du lịch có khả năng mua và sẵn sàng mua ở những mức giá khác nhau trong
khoảng thời gian xem xét.
3. Số lượng tiền khách du lịch đã chi tiêu (Doanh thu từ khách du lịch)
Tiêu dùng du lịch là cơ sở tạo nên những tác động kinh tế tích cực của du lịch. Ở
đây, chúng ta xét nó như một trong những chỉ tiêu để xác định lượng cầu du lịch. Như đã
nói, lượng cầu du lịch được thể hiện qua nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau với các
đơn vị đo lường hiện vật khác nhau, vì vậy chúng ta không thể cộng lại được. Trong nền sản
xuất hàng hóa, thước đo chung dễ sử dụng nhất, có ý nghĩa nhất để tổng hợp các loại hàng
hóa, dịch vụ là thước đo giá trị. Cho nên, chỉ tiêu số lượng tiền khách du lịch là chi tiêu gần
gũi nhất, có ý nghĩa nhất để phản ánh lượng cầu du lịch. Tuy nhiên, đây cũng là một chỉ tiêu
khó xác định một cách chính xác nhất.
Nếu tính từ doanh thu của các doanh nghiệp, rõ ràng nhiều doanh nghiệp vừa phục
vụ khách du lịch vừa phục vụ dân địa phương, như nhà hàng chẳng hạn, không thể phân biệt
đâu là doanh thu từ khách du lịch, đâu là doanh thu từ cư dân địa phương. Nếu thống kê từ
chi tiêu của khách du lịch, việc thống kê để tính toán chỉ tiêu này thường vấp phải khuynh
hướng khách du lịch bị quên, muốn giấu bớt hay khai khống lên. Trên thực tế, ta có thể sử
dụng các phương pháp sau.
3a. Phương pháp tính trực tiếp
Phương pháp dễ thấy nhất là ước tính chi tiêu của khách du lịch thông qua số ngày
(hoặc đêm) lưu lại của khách và số tiền chi tiêu bình quân mỗi ngày của khách du lịch,
trong đó, bình quân chi tiêu trong một ngày đêm của khách du lịch có được từ kết quả điều
tra khách du lịch.
Số lượng =
Số ngày x Bình quân chi tiêu
tiền KDL đã (đêm) lưu lại trong một ngày (đêm)
chi tiêu của KDLThời gian lưu của KDL
Số lượt
hay: Số lượng = x x Bình quân chi tiêu
tiền KDL đã đến của lại bình quân trong một ngày (đêm)
chi tiêu KDL của KDL của KDL
Như vậy, lượng cầu du lịch tăng khi:
- Số lượt đến của khách du lịch tăng.
- Thời gian lưu lại bình quân của một khách du lịch dài hơn.
- Khách bị kích thích chi tiêu/ngày nhiều hơn.
Trong phân tích động thái, từ công thức này, sử dụng phương pháp phân tích nhân
tố, chúng ta có thể xác định % đóng góp của từng nhân tố vào sự tăng (giảm) của cầu du
lịch. Từ đó chúng ta xác định chính sách thích hợp:
- Hoặc chúng ta tập trung vào nổ lực quảng cáo, chính sách giá…để tăng cường việc
thu hút khách đến.
- Hoặc (và) chúng ta đa dạng hóa các hoạt động giải trí, các loại hình du lịch…để giữ
khách lưu lại dài ngày hơn.
- Hoặc (và) tập trung vào công việc thực hiện các nỗ lực để kích thích chi tiêu trên một
ngày của khách du lịch.
3b. Tính gián tiếp thông qua thuế
Trong thực tiễn, một cách đo lường khác dễ thu thập số liệu hơn, đó là xác định “số
lượng tiền khách du lịch đã chi tiêu” thông qua mức thuế của các doanh nghiệp du lịch.
Tổng chi tiêu của khách du lịch bằng tổng doanh thu của các cơ sở kinh doanh du
lịch. Các hoạt động kinh doanh này phải nộp thuế trị giá gia tăng. Từ các khoản thuế trị giá
gia tăng, chúng ta có thể xác định tổng các doanh thu của các hoạt động kinh doanh du lịch
tức tổng số tiền khách du lịch đã chi tiêu.
Ví dụ cách tính chi tiêu du lịch (tương ứng là doanh thu của các doanh nghiệp du
lịch) tại một điểm du lịch A năm 2019 như sau:
Bảng 3.1: Xác định chi tiêu du lịch gián tiếp thông qua thuế
STT Ngành Thuế suất Mức thuế VAT Doanh thu
VAT (%) (tỷ đồng) (tỷ đồng)
1. Dịch vụ lưu trú 10 10 100
2. Dịch vụ ăn uống 10 3 30
3. Dịch vụ vận chuyển 10 5 50
4. Dịch vụ tham quan, giải trí 10 2 20
5 Kinh doanh hàng lưu niệm 10 1 10
TỔNG CỘNG 210
Nhưng trong nhiều ngành kinh doanh du lịch như nhà hàng, vận chuyển, giải trí,…
thật khó mà xác định đâu là doanh thu từ khách du lịch, đâu là doanh thu từ cư dân địa
phương. Trong thực tế, có những nhà hàng thu chủ yếu là từ dân địa phương chứ không
phải từ khách du lịch. Vì vậy, ở một số nước, người ta quy ước tất cả nhà hàng trong một
khu vực nhất định, nơi khách du lịch thường lui tới, tất cả doanh thu đều tính vào doanh thu
du lịch, các nhà hàng khác tính vào ngành dịch vụ ăn uống (không du lịch).
3c. Tính gián tiếp thông qua mức nộp thuế của một ngành kinh doanh đặc thù của du
lịch (thường là ngành khách sạn)
Từ các số liệu điều tra về thuế suất của ngành kinh doanh khách sạn, điều tra cơ cấu
chi tiêu của khách du lịch (trong đó ta có tỉ trọng chi tiêu cho lưu trú trong toàn bộ chi tiêu
của khách du lịch), ước tính chi tiêu của những khách du lịch lưu trú tại nhà người thân, ở
những nơi không trả tiền lưu trú, …chúng ta có thể xác định được tổng số tiền khách du lịch
chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định.
Ví dụ :Chúng ta có số liệu của một địa phương như sau: Mức thuế doanh thu từ ngành kinh
doanh khách sạn là 2 tỷ đồng. Thuế suất doanh thu ngành này là 10 %. Tỷ trọng của chi tiêu
lưu trú trong toàn bộ chi tiêu của khách du lịch khoảng 40%. Ước tính chi tiêu của khách du
lịch không lưu trú tại những nơi phải trả tiền lưu trú là 40 tỷ đồng. Từ số liệu này ta có:
Chi tiêu cho lưu trú của khách:
2 (tỷ đồng) / 10% = 20 (tỷ đồng)
Ước tính chi tiêu của khách có trả tiền lưu trú:
20 (tỷ đồng) / 40% = 50 (tỷ đồng)
Ước tính tổng số tiền chi tiêu của khách du lịch:
50 (tỷ đồng) + 40 (tỷ đồng) = 90 (tỷ đồng)
3.2.2. PHÂN TÍCH CẦU DU LỊCH
Phân tích cầu du lịch của một điểm đến một cách toàn diện cần phải được triển khai
theo cả 3 hướng:
Phân tích theo chiều dọc (phân tích chuỗi thời gian, còn được gọi là phân tích xu
hướng);
Phân tích mặt cắt ngang (còn gọi là phân tích so sánh);
Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến cầu du lịch.
3.2.2.1. Phân tích xu hướng
Các kỹ thuật hay sử dụng là phương pháp phân tích chỉ số, tốc độ tăng trưởng liên
hoàn, tốc độ tăng trưởng bình quân và xây dựng hàm xu hướng.
1. Phương pháp phân tích chỉ số
Từ dãy số liệu thống kê lịch về lượng cầu du lịch xem xét, ta xây dựng dãy chỉ số
lượng cầu du lịch. Năm đầu tiên trong dãy số gọi là năm gốc. Chỉ số năm gốc được gán là
100. Chỉ số của năm t trong dãy số được tính bởi:
Dt
It = x 100
D0
Trong đó: It – Chỉ số lượng cầu du lịch năm t
Dt – Lượng cầu du lịch năm t
D0 – Lượng cầu du lịch năm gốc
Dãy chỉ số cho phép ta có những đánh giá ban đầu. So với nhìn vào dãy số tuyệt đối,
sử dụng dãy chỉ số về số lượt khách, số ngày khách hay chi tiêu của khách, cho phép ta dễ
dàng hơn trong phát hiện xu hướng phát triển của lượng cầu du lịch.
Chẳng hạn, ta lấy dãy số trong bảng 3.2 về Tổng thu từ khách du lịch ở nước ta giai
đoạn 2000 – 2019 (đây cũng chính là tổng số lượng tiền chi tiêu của khách (mà ở chương 2
chúng ta gọi là tiêu dùng du lịch trong nước)).
Nhìn vào dãy chỉ số ở bảng 3.2, ta thấy, sau 20 năm, tổng thu từ khách du lịch của
nước ta tăng hơn 43,39 lần. Trong đó, nếu sau 5 năm đầu, tổng thu từ khách du lịch chỉ tăng
1,72 lần thì sau 10 năm, con số ấy đã tăng 5,52 lần, sau 15 năm là hơn 20 lần. Một xu
hướng tăng trưởng nhanh dần khá ấn tượng.
2. Phương pháp phân tích tốc độ tăng trưởng liên hoàn
Nếu tốc độ phát triển là sự so sánh giữa quy mô chỉ tiêu năm phân tích so với năm
gốc thì tốc độ tăng trưởng là sự so sánh giữa chênh lệch quy mô chỉ tiêu năm phân tích và
năm gốc so với quy mô chỉ tiêu năm gốc. Tốc độ tăng trưởng liên hoàn là tốc độ tăng
trưởng của năm phân tích so với năm ngay trước đó.
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn năm t được tính bởi:
Dt −Dt−1 Dt
Vt = x100% = ( − 1) x 100%
Dt−1 Dt−1
2
GDP nước ta năm 2000 là 76,475 tỷ USD, năm 2019 là 251,209 tỷ USD (cố định 2015). Nguồn: Website của Ngân
hàng Thế giới: https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD?locations=VN
Bảng 3.2 Tổng thu từ khách du lịch Việt Nam giai đoạn 2000-2019
Tổng thu từ Tốc độ
Chỉ số
Năm khách du lịch tăng trưởng
2000=100
(nghìn tỷ đồng) liên hoàn (%)
(A) (1) (2) (3)
2000 17,40 100
2001 20,50 118 17,82
2002 23,00 132 12,20
2003 22,00 126 -4,35
2004 26,00 149 18,18
2005 30,00 172 15,38
2006 51,00 293 70,00
2007 56,00 322 9,80
2008 60,00 345 7,14
2009 68,00 391 13,33
2010 96,00 552 41,18
2011 130,00 747 35,42
2012 160,00 920 23,08
2013 289,84 1.666 81,15
2014 322,86 1.856 11,39
2015 355,55 2.043 10,13
2016 417,27 2.398 17,36
2017 541,00 3.109 29,65
2018 637,00 3.661 17,74
2019 755,00 4.339 18,52
Tốc độ tăng trưởng bình quân (2000-2005): 11,51%
Tốc độ tăng trưởng bình quân (2005-2010): 26,19%
700.00
637.00
600.00 541.00
500.00
417.27
400.00 355.55
322.86
289.84
300.00
200.00 160.00
130.00
96.00
68.00
100.00 51.0056.0060.00
17.4020.5023.0022.0026.0030.00
0.00
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Hình 3.1 Doanh thu từ khách du lịch Việt Nam giai đoạn 2000-2019 (nghìn tỷ đồng)
1+𝑚𝑒 −𝑡/𝜏 1
3
Dạng hàm logistic: Y=𝛼 , trường hợp đặc biệt của nó là hàm sigmoid Y = 𝛼 1+𝑒 −𝑡
1+𝑛𝑒 −𝑡/𝜏
𝑛 ∑ 𝑌𝑡 𝑋𝑡 −∑ 𝑋𝑡 ∑ 𝑌𝑡
4
a= 2 ; b = 𝑌 − 𝑎𝑋.
𝑛 ∑ 𝑋2𝑡 − (∑ 𝑋𝑡 )
Thay vì tính toán theo công thức, một cách thuận lợi hơn, bạn đọc có thể sử dụng SPSS hay đơn giản là sử dụng hàm
linest trong excel để xác định hai tham số a và b.
Đường thực nghiệm của Tổng thu từ khách du lịch của Việt Nam giai đoạn 2000 –
1
2019 có dạng hàm sigmoid Y = 𝛼 1+𝑒 −𝑡 với điểm uốn tại t = 2018.
Áp dụng các bước trên, hàm lý thuyết của nó là:
1
Dt = 1.300 1+𝑒 −(𝑡−2018) + 14
∑(𝑌𝑖−Ŷ𝑖)2
Tỷ số tương quan ɳ = √1 − ∑(𝑌𝑖−𝑌𝑏𝑞)2 = 0.9955 phản ánh quan hệ tương quan chặc.
Nếu trong giai đoạn 2020 – 2025, tình hình môi trường kinh doanh của du lịch Việt
Nam không có biến động lớn, thay t = 2025, ta có thể dự báo tổng thu từ khách du lịch của
Việt Nam năm 2026 sẽ là 1.196,61 (nghìn tỷ đồng).
Trong phân tích quét ban đầu, dãy chỉ số và tốc độ tăng trưởng liên hoàn thể hiện mức
độ tăng, giảm. Tiếp tục phân tích chi tiết hơn thông qua phân tích tốc độ tăng trưởng bình
quân từng giai đoạn, chúng ta thấy được các bước thăng trầm. Để thấy rõ xu hướng hơn, ta
thể hiện trên đồ thị các xu hướng thay đổi, qua đó làm nổi bật những thay đổi tại các thời
điểm đặc biệt. Từ những bất thường, chúng ta cần điều tra thêm, đánh giá tác động của 'bất
thường' đối với hiệu quả phát triển, nhờ đó chúng ta có thể có một số manh mối về vấn đề
đang xảy ra. Tuy nhiên, các xu hướng này cần phải xem xét trong bối cảnh cụ thể của
chúng. Một điểm đến mới phát triển du lịch, quy mô phát triển còn bé, thì tốc độ tăng
trưởng 5% có thể là thấp trong khi nơi khác có thời gian tăng trưởng dài, quy mô tăng
trưởng lớn thì doanh thu tăng 5%/năm có thể đánh giá là một thành công lớn.
Doanh thu = Số lượt đến x Thời gian lưu lại x Bình quân chi tiêu trong
du lịch của KDL bình quân của KDL một ngày-khách của
KDL
Phương pháp này được triển khai từ công thức chung. Điều lưu ý là trong các thừa
tố, chúng ta cần đánh giá đâu là những thừa tố phản ánh mặt lượng hơn, đâu là những thừa
tố phản ánh mặt chất nhiều hơn trong sự phát triển lượng cầu. Trong khi chúng ta thay đổi
một thừa tố nào đó, với các thừa tố còn lại, cần cố định các thừa tố lượng hơn ở kỳ phân
tích, các thừa tố chất hơn ở kỳ gốc.
Công thức chung:
3.2.3.1. Nguyên nhân và hậu quả của tính thời vụ trong kinh doanh du lịch
1. Các khái niệm
Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch xuất phát từ tính thời vụ của cầu du lịch. Tính
thời vụ của cầu du lịch là sự biến động lặp đi, lặp lại có tính chu kỳ của lượng cầu du lịch.
Trong năm, hàng năm có sự lặp lại, có tháng đông khách, có tháng vắng khách. Trong tuần
cũng vậy, có ngày đông khách, có ngày vắng khách. Trong ngày, tại điểm tham quan, tại
nhà hàng, tại quầy lễ tân, có thời điểm đông khách, thời điểm vắng khách.
Trong khi lượng cầu biến động thì lượng cung khá cứng nhắc, khó thay đổi trong
ngắn hạn. Diều này khiến cho kinh doanh du lịch có tính thời vụ.
Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch là sự biến động lặp đi, lặp lại có tính chu kỳ
của kinh doanh du lịch, có lúc hoạt động kinh doanh diễn ra căng thẳng, cung không đáp
ứng đủ cầu, nhưng có lúc hoạt động kinh doanh diễn ra nhàn hạ, chậm chạp, nguồn cung dư
thừa không được sử dụng hết.
Sự biến động lặp đi, lặp lại có tính chu kỳ này có thể theo giờ trong ngày, theo ngày
trong tuần hay theo tháng trong năm.
Du lịch là một trong những ngành có mức độ biến đổi của cầu cao nhất cho bất kỳ
sản phẩm nào, chỉ ít căng thẳng hơn thiệp giáng sinh, những mặt hàng đặc trưng của lễ,
tết,… hay máy lạnh nhưng cao hơn hầu hết tất cả các việc mua cá nhân những mặt hàng có
giá trị cao khác. Kết quả là trong thực tế, các du khách và các nhà cung ứng cùng đối diện
với nhiều điểm cân bằng thị trường mỗi năm.
2. Nguyên nhân của tính thời vụ của cầu du lịch
Dễ thấy nhất là do tác động của sự lặp lại có tính chu kỳ của thời gian rãnh, đa phần
là khách quan ngoài du lịch do các quy định mang tính thể chế: ngày nghỉ cuối tuần, quy
định thời điểm nghỉ lễ, nghỉ tết. Thời gian nghỉ hè sẽ ảnh hưởng đến quyết định đi du lịch
của các gia đình có con trong độ tuổi đi học. Thời gian rãnh ảnh hưởng nhiều đến du lịch
giải trí nhưng ít ảnh hưởng đến du lịch công vụ.
Thứ hai là tập quán đi du lịch. Nhiều gia đình có thói quen đi nghỉ hè. Du khách châu
Âu có thêm tập quán nghỉ đông. Ở nước ta còn có quan niệm “Tháng giêng là tháng ăn
chơi”. Ở những thị trường gửi khách mới nổi, nhiều người muốn đi vào mùa đông khách
với suy nghĩ sẽ hưởng được không khí đông vui. Điều này càng khiến cầu du lịch càng cao
đột biến vào những ngày này. Nhưng gần đây xuất hiện hiện tượng những người có kinh
nghiệm du lịch lại chọn thời điểm đi du lịch vào mùa vắng khách.
Một nguyên nhân quan trọng khiến cho lượng cầu tăng vào một số thời điểm trong
năm xuất phát từ điều kiện khí hậu thời tiết và đặc điểm khai thác của tài nguyên du lịch. Đa
phần hoạt động du lịch diễn ra ngoài trời nên khách du lịch thường chọn đi vào những mùa
thời tiết thuận lợi, ít mưa, nắng ấm. Mùa hè thích hợp cho tắm biển, nghỉ mát vùng cao,
mùa đông sẽ là mùa trượt tuyết. Các lễ hội xuất hiện vào những ngày cố định trong năm.
3. Hậu quả của tính thời vụ trong kinh doanh du lịch
Kết quả dễ thấy của tính thời vụ là trong du lịch thường có những điểm cân bằng thị
trường khác nhau với mức giá và sản lượng bán khác nhau vào những thời điểm khác nhau
trong năm. Loại hình resort ven biển có thể có "mùa cao điểm" và "mùa thấp điểm" với hai
mức giá khác nhau, và đôi khi có sự đóng cửa một số cơ sở làm cho nguồn cung thấp hơn ở
mùa thấp điểm. Trong hàng không cũng vậy. Bảng 3.3 thể hiện 4 điều kiện thị trường theo
mùa khác nhau trong tuyến hàng không giữa London Anh và Sydney Úc:
Bảng 3.3 Giá vé máy bay theo mùa hạng economy London - Sydney 1994/1995
Sử dụng Xj với n đủ lớn, chúng ta loại được sự tác động của yếu tố ngẫu nhiên Ɛ(t).
Gọi: X là bình quân của Xj (j = 1,12 ),
1 12
X = Xj
12 i 1
Xj
Ij =
X
Bước này cho phép ta loại ảnh hưởng của quy mô nguồn khách của điểm đến hay
của doanh nghiệp xem xét.
Ij chính là chỉ số thời vụ tháng j của điểm đến (doanh nghiệp) xem xét.
Chuỗi Ij (j = 1,12 ) là quy luật thời vụ của điểm đến (doanh nghiệp) xem xét.
Những tháng có chỉ số Ij lớn (so với 1) là mùa đông khách, những tháng có chỉ số I j
nhỏ (so với 1) là mùa vắng khách.
Mức độ căng thẳng của tính thời cụ của điểm đến hay doanh nghiệp được đo lường
bởi độ lệch chuẩn δ(Ij)
1 12 2 2
δ(Ij) = √
12 i1
(Ij − Ij ) = √Ij2 − Ij = √Ij2 − 1
Thông thường, khi δ(Ij)>0,3 thì điểm đến du lịch dó bị coi là tính thời vụ khá căng
thẳng.
3.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LƯỢNG CẦU CỦA MỘT
THỊ TRƯỜNG GỬI KHÁCH ĐẾN MỘT ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH
Như đã lưu ý, sản phẩm du lịch là một sản phẩm rất đặc biệt mà người tiêu dùng phải
đến nơi cung ứng - 'nhà máy du lịch' - để hưởng thụ sản phẩm và đi lại là một bộ phận của
chính sản phẩm. Thông thường, những điều kiện kinh tế chủ yếu ở điểm đến khá khác biệt
với nơi gửi khách, đặc biệt là trong du lịch quốc tế và trong các chuyến đi dài ngày. Như
vậy, không chỉ các biến số kinh tế ở quê hương có ảnh hưởng đến cầu. Bảng 3.4. cung cấp
một hình thức phân loại các biến số kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cầu du lịch:
Bảng 3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu du lịch
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH CÁC NHÂN TỐ
ĐẾN CẦU DU LỊCH HƯỞNG ĐẾN CẦU DU LIÊN KẾT
TẠI NƠI GỬI KHÁCH LỊCH TẠI ĐIỂM ĐẾN (nhóm C)
(Nhóm A) (Nhóm B)
Mức thu nhập khả dụng Mặt bằng giá Chênh lệch giá của nơi
Phân phối thu nhập Khả năng cạnh tranh của gửi khách và nơi nhận
Quyền được nghỉ có lương nguồn cung khách
Giá trị đồng nội tệ Chất lượng sản phẩm Nỗ lực xúc tiến của điểm
DL đến tại nơi gửi khách
Chính sách thuế và kiểm
soát chi tiêu du lịch Những quy định đối với Tỷ giá hối đoái
du khách Chi phí tiền của và thời
gian của chuyến đi
Các biến số nhóm A là những biến số ảnh hưởng đến cầu du lịch của du khách tiềm
năng ở nơi gửi khách, bất kể là du khách muốn đi đâu. Chúng chủ yếu là các biến số liên
quan đến khả năng của người mua trong việc bước vào bất kỳ thị trường du lịch nào - đó là
những ràng buộc như thu nhập và thời gian sẵn sàng để sử dụng, sự khuyến khích hay hạn
chế của chính quyền đối với việc đi du lịch của người dân.
Các biến số nhóm B xác định các khả năng thu hút của điểm đến, như nhau với mọi
du khách, bất kể họ đến từ đâu. Các biến số này có thể liên quan đến sản phẩm và nhà cung
ứng. Do sự cạnh tranh bên trong cũng như giữa các điểm đến và các điều kiện trong nhiều
điểm đến đang cạnh tranh, sẽ tác động lẫn nhau, thông qua hiệu quả thay thế, sẽ ảnh hưởng
đến lượng cầu và cầu du lịch (chạy dọc đường cầu hay dịch chuyển đường cầu).
Các biến số nhóm C theo nhiều giác độ là đáng xem xét nhất, xuất phát từ những mối
nối kết đặc biệt giữa nơi gửi khách và điểm đến. Chúng chỉ tác động đến cầu của một điểm
đến nhất định từ một thị trường gửi khách nhất định. Nối kết này không nên được xem xét
một cách riêng rẻ bởi du khách cùng lúc sẽ xem xét các biến số nhóm C của cả một vài
điểm đến cạnh tranh trong việc ra quyết định chọn lựa mua của mình. Cũng cần đưa vào
nhóm C các biến số liên quan đến các thủ tục xuất nhập cảnh (có lẽ được đo lường bằng
cách sử dụng biến giả) như là một ràng buộc đối với cầu du lịch.
Chúng ta sẽ phân tích một số nhân tố chính.
3.3.1. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẦU DU LỊCH TẠI NƠI GỬI
KHÁCH
THỜI GIAN DÀNH CHO CÔNG VIỆC THỜI GIAN NGOÀI THỜI GIAN LÀM VIỆC
THỜI GIAN THỜI GIAN THỜI GIAN THỜI GIAN THỜI GIAN TỰ DO
ĐI LÀM CHUẨN BỊ LÀM VIỆC BỊ GÒ BÓ
Giá
D1 S
P1 S
2
P2
P'1
S
S D
2
Q1 Q2 Cầu
Hình 3.3. Thay đổi trong khấu trừ thuế đối với doanh thu từ chi tiêu du lịch của doanh nghiệp
Với một cân bằng thị trường ban đầu, giá là OP1, các tổ chức đang mua lượng sản
phẩm du lịch kinh doanh là OQ1. Việc đưa vào chính sách khấu trừ toàn bộ thuế làm giảm
giá thực tế nhờ thuế suất biên 50%. Điều này làm dịch chuyển đường cung từ S1S1 đến S2S2
từ đó giá giảm xuống còn P'1 và sự chuyển dịch thị trường có thể tạo ra mức cân bằng mới ở
mức giá OP2 và cầu du lịch OQ2. Cũng nên lưu ý rằng lượng cầu có thể tăng ít hơn Q1Q2
bởi bản chất ít co giãn của cầu du lịch công vụ.
Trong thực tế, các Chính phủ sử dụng khấu trừ thuế một cách chọn lọc hơn nhiều.
Chính phủ Mỹ chẳng hạn thay đổi giới hạn lượng tiền chi tiêu du lịch trên một người trong
một ngày được tính giảm trừ và có thể cho phép giảm trừ lớn hơn cho chi tiêu du lịch trong
nước so với chi tiêu du lịch quốc tế (và số tiền được giảm trừ thay đổi đáng kể giữa các
quốc gia nước ngoài được viếng). Những quy định này thay đổi tương đối giá thực tế, và có
thể được sử dụng như một vũ khí cân bằng cán cân thanh toán.
3.3.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẦU DU LỊCH TẠI ĐIỂM ĐẾN
3.3.2.1. Giá cả
Giá cả của các sản phẩm du lịch tại điểm đến là nhân tố cơ bản quyết định lượng cầu
du lịch. Sự tác động của giá cả đến cầu phức tạp hơn nhiều so với sự tác động của thu nhập.
Hai điều kiện đặc biệt cần lưu ý:
Mặc dù trong chương trình du lịch trọn gói, các dịch vụ riêng lẻ là những sản phẩm
bổ sung nhau tạo nên chuyến đi nhưng rõ ràng trong giới hạn một thu nhập nhất định
dành cho chuyến đi, xét về tác động của giá, chúng là những sản phẩm cạnh tranh
nhau;
Vấn đề quan trọng là giá so sánh giữa các điểm đến và giữa điểm đến và vùng gửi
khách chứ không chỉ là giá ở điểm đến. Người tiêu dùng không đơn giản đối diện với
một tập giá trong một vùng địa lý mà đối diện với giá so sánh của hai hay nhiều thị
trường khác nhau.
Trong du lịch quốc tế, biến số tỷ giá hối đoái thường là đóng góp chính đối với sự
khác biệt về giá so sánh. Chẳng hạn, trong những năm gần đây, tỷ giá hối đoái đã
làm cho Hà Lan và Nhật Bản trở thành những điểm đến đắt đỏ nhưng làm cho Israel
và Tây Ban Nha trở thành những điểm đến rẻ hơn. Lạm phát cao có thể phá hủy
những lợi thế về giá nhưng nó lại thường được đi cùng với sự điều chỉnh của tỷ giá
hối đoái.
Trong du lịch, có thể có những sản phẩm tồn tại hiệu ứng Veblen. Đó là hệ số co giãn
của cầu theo giá bất thường với giá trị của Ep là dương trong một dãy giá nhất định của sản
phẩm (Mc Intosh và Goeldner 1990). Đó là cầu thực tế tăng khi giá tăng. Hiệu ứng này
thường gắn liền với các sản phẩm phô trương - được nhận thức có giá trị cao trong thị
trường gồm những du khách ít bị ràng buộc bởi khả năng tài chính. Cũng tương tự như
những người sưu tập nghệ thuật giàu có sẽ không muốn mua một kiệt tác 'rẻ tiền' vì nó
không thể là kiệt tác và bởi vì chỉ những tác phẩm nghệ thuật đắt tiền mới có thể cung cấp
bằng chứng có uy tín vốn là một phần lợi ích của việc mua như vậy, một vài du khách có
thể muốn thể hiện sự giàu có và uy tín của mình thông qua việc mua những sản phẩm du
lịch xa xỉ như thuê phòng có giá cao nhất trên một cruise ship đắt tiền hay nhà hàng đắt nhất
mà để chiêu đãi khách trong chuyến du lịch công vụ.
3.3.2.2. Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của điểm đến
Mặc dù mức thu nhập tùy ý sử dụng và giá cả sản phẩm du lịch là hai yếu tố cơ bản
của cầu du lịch nhưng chất lượng sản phẩm du lịch ngày càng trở thành một yếu tố quyết
định khả năng thu hút khách của điểm đến. Nó bao gồm các yếu tố 'kéo' khách du lịch đến,
từ việc cung cấp các dịch vụ tham quan giải trí độc đáo, cung cấp chỗ ở và các tiện nghi
khác phù hợp cho đến sự thuận lợi trong việc tiếp cận điểm đến.
Trong một khoản ngân sách nhất định dành cho du lịch, căn cứ vào nhu cầu du lịch,
khách du lịch sẽ lựa chọn một hoặc một số điểm đến trong hàng loạt các điểm đến có sẵn.
Khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu du lịch của một loại đối tượng khách sẽ quyết định sức
cạnh tranh của điểm đến đối với đoạn thị trường xem xét.
Không chỉ là chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm du lịch riêng lẻ. Hệ
thống các tuyến - điểm du lịch, thể hiện sự kết hợp về mặt không gian của các cơ sở cung
ứng các dịch vụ du lịch riêng lẻ, được coi là nội dung cơ bản tạo nên sự hấp dẫn của điểm
đến. Trong điều kiện hiện nay, khi số lượng du khách mua chương trình du lịch trọn gói vẫn
còn cao, đặc biệt trong du lịch quốc tế, thì khả năng của các hãng lữ hành trong thiết kế và
thực hiện các chương trình du lịch phù hợp với các đối tượng khách là yếu tố cụ thể đo
lường sức hấp dẫn của điểm đến.
3.3.3.2. Chênh lệch giá của nơi nhận khách và nơi gửi khách
Như đã nói ở trên, vấn đề quan trọng trong tác động của giá đến cầu du lịch không
phải là mặt bằng giá của điểm đến mà là sự so sánh về giá giữa các điểm đến và giữa điểm
đến với nơi gửi khách. Trong chuyến đi, khách du lịch thường xuyên so sánh giá cả các
hàng hóa, dịch vụ mình mua với giá cả hàng hóa, dịch vụ tương tự tại quê hương và tại các
điểm đến khác đã trãi qua. Khi có cảm nhận rằng họ nhận được ở điểm đến xem xét một
mức giá hợp lý hơn họ sẽ có tâm lý cởi mở hơn trong chi tiêu tại đó. Cũng cần lưu ý rằng
mức độ nhạy cảm về so sánh giá giữa các loại hàng hóa, dịch vụ là không như nhau. Dĩ
nhiên, trong so sánh về giá giữa các điểm đến và giữa điểm đến du lịch với quê hương
mình, du khách sẽ nhạy cảm hơn với sản phẩm có độ giống nhau cao. Ngoài ra, những hàng
hóa, dịch vụ chi tiêu thường xuyên trong ngày như dịch vụ taxi, dịch vụ ăn uống, lưu trú sẽ
có độ nhạy cảm về giá so với những hàng hóa, dịch vụ chi tiêu không thường xuyên như
tham quan hay chăm sóc y tế tại điểm đến.
3.3.3.3. Tỷ giá hối đoái
Các mức giá trong điểm đến sẽ bị ảnh hưởng không chỉ bởi cơ cấu chi phí trong
phạm vi quốc gia cụ thể mà còn bị ảnh hưởng bởi mức độ tỷ giá hối đoái áp dụng. Điều này
có thể được chứng minh bằng cách nhìn vào xu hướng du lịch giữa hai quốc gia. Ví dụ Mỹ
và khu vực Euro của châu Âu. Khi đồng đô la lên giá so với Euro, số liệu thống kê cho thấy
du khách Mỹ đến châu Âu nhiều hơn vì Châu Âu trở thành một điểm đến rẻ hơn. Ngược lại,
khi đồng USD giảm giá so với Euro. Tuy nhiên, cũng lưu ý rằng với cơ chế thả nổi tỷ giá
như hiện nay và độ trễ giữa thời điểm mua và thời điểm thực hiện chuyến đi, sự biến động
của tỷ giá không còn có ảnh hưởng tương tự như trước. Ví dụ, một người Trung Quốc mua
một chương trình du lịch ở Việt Nam và nếu đồng Việt Nam tăng giá so với đồng Nhân dân
tệ, nghĩa là làm cho Việt Nam trở thành một điểm đến đắt tiền hơn, du khách Trung Quốc
này dường như không hủy bỏ kỳ nghỉ đó, đặc biệt nếu nó liên quan đến một khoản phí hủy
chương trình. Phí hủy này có thể lớn hơn so với mức tăng chi tiêu do thay đổi tỷ giá hối
đoái.
Nhiều nhà nghiên cứu đã thực hiện những phân tích những tác động của riêng tỷ giá
hối đoái (Summary 1987). Sự giảm tỷ giá của đồng tiền nước gửi khách (quốc gia A) sẽ tác
động làm giảm cầu du lịch quốc tế của nước đó thông qua các tác động của giá cả. Nhưng
nó cũng là nguyên nhân làm tăng cầu du lịch nội địa trong quốc gia A bởi cư dân muốn tìm
một sản phẩm thay thế rẻ hơn. Điều này cũng tương tự như việc thay thế hàng hóa nhập
khẩu trên thị trường hàng hóa. Tất cả những tác động của tỷ giá hối đoái nói trên cũng có
thể được kỳ vọng theo hướng ngược lại - kích thích du lịch quốc tế vì sự đắt đỏ của du lịch
trong nước.
Giá
5
Hedonic pricing: Phương pháp định giá dựa trên giả thiết rằng giá được xác định dựa vào 2 thành phần: một là dựa
vào những tính chất của sản phẩm vốn phải tốn chi phí để tạo ra nó và hai là dựa vào những nhân tố bên ngoài có ảnh
hưởng đến nó. Ví dụ: giá nhà được xác định dựa vào những đặc điểm của ngôi nhà như kích thước, kiến trúc, trang thiết
bị,… cũng như dựa vào những đặc điểm quanh nó như hàng xóm hiền lành, gần trường tốt, chợ tốt,…Phần thứ hai là
giá hưởng không. Cũng tương tự như vậy trong chuyến đi, việc hưởng khí hậu mát mẻ, không khí trong lành và ngắm
cảnh là những giải trí được hưởng không - TrSQuý
Hiện tượng co giãn của cầu theo giá của hai loại hàng bổ sung cũng thường thấy
trong du lịch. Trong những năm đầu của thập kỷ 1980's, khi giá vé máy bay xuyên Đại Tây
Dương bị giảm một cách mạnh mẽ bởi sự cạnh tranh được khởi xướng từ hãng Laker
Airways, cầu dịch vụ lưu trú và những dịch vụ du lịch khác ở New York, Miami, London và
Paris gia tăng đáng kể do lượng khách từ bên kia Đại Tây Dương. Tương tự, những công ty
cho thuê xe tạo ra được lượng cầu gia tăng bằng cách liên kết với các hãng hàng không
đang giảm giá.
Tần suất
cầu du
lịch
Chuyến
DL 2 tuần
Chuyến DL
cuối tuần
1. Hạn chế của lý thuyết cổ điển trong phân tích cầu du lịch
Lý thuyết cầu cổ điển thích hợp để xem xét cầu đối với một sản phẩm đơn lẻ hay
hàng tiện dụng (convenient goods) - loại hàng có giá trị không cao, mua thường xuyên. Mặc
dù vậy, những nội dung dễ hiểu áp dụng cho một cá nhân vốn muốn tối đa hóa lợi ích bằng
cách chọn một cặp hàng hóa được xác định bằng điểm gặp giữa đường cong bàng quang và
đường ngân sách (chẳng hạn, xem Samuelson 1989 hay Sinden 1977) sẽ không đủ khả năng
làm công cụ phân tích cho một hàng hóa có nhiều lợi ích hay sản phẩm kết hợp như sản
phẩm du lịch. Những phân tích hành vi mua là cần thiết, đặc biệt phân tích những quyết
định mua cần giải quyết trước khi rời khỏi nhà đi du lịch. Hầu hết các chi tiêu du lịch được
xác định ở giai đoạn này.
Mô hình sau đây được phát triển từ Lancaster 1966, Rugg 1971 và nghiên cứu riêng
của tác giả. Những triển khai sau
này, chẳng hạn, giá hàng xa xỉ và các đo lường định lượng đã được thảo luận bởi Stabler
(1988). Kỹ thuật đo lường chung nhất là những phân tích kết hợp.
z1 x1 x2
x3
z2
Hình 3.7 Đồ thị của mô hình Lancaster đơn giản hóa
Các ràng buộc kỹ thuật tiêu dùng được thể hiện bởi các tia OX 1, OX2, OX3. Hai trục
tọa độ biểu thị số lượng của các thuộc tính z1 và z1.
Cho biết giá cả thị trường pk cho mỗi đơn vị của mỗi resort xk (k = 1 đến 3) mà giá là
giá toàn bộ dịch vụ hay giá lưu trú mỗi ngày kiểu Mỹ (American Plan daily rate), số lượng
tối đa hay số ngày lưu trú, có thể đạt tới được là Mk được tính theo:
𝐘
Mk =
𝐩𝐤
Tương tự, độ dài của thời gian lưu trú tối đa có thể bị ràng buộc bởi thời gian dành
cho du lịch, V. 'Chi phí thời gian' tk của mỗi resort có thể được xác định căn cứ vào độ dài
thời gian của chuyến đi từ nơi cư trú đến mỗi resort điểm đến, vì vậy, resort ở xa sẽ tốn chi
phí thời gian hơn resort ở gần. Thời gian lưu trú tối đa đạt được là Sk được tính theo:
𝐕
Sk =
𝐭𝐤
z1 x1
x2
S1
S2 x3
M1
M2
M3 U1
S3 U1
z2
Hình 3.8 Đồ thị của mô hình Lancaster về những ràng buộc của thời gian/tiền bạc ảnh
hưởng đến độ dài thời gian lưu trú
Trong đồ thị ở hình 3.8, đường M1 - M2 - M3 thể hiện ràng buộc ngân sách và đường
S1 - S2 - S3 thể hiện ràng buộc thời gian. Ràng buộc thấp nhất là ràng buộc hiệu lực(effective
constraint), và như vậy đường M1 - M2 - S3 thể hiện mức tối đa có thể đạt được hay còn gọi
là đường biên hiệu lực (effective frontier). S1 - S2 chẳng hạn là một ràng buộc thừa, vì du
khách bị giới hạn bởi khả năng tài chính và mức giá cao ở resort 1 và 2 hơn là lý do thời
gian.
Đối với đoạn thị trường i cho trước, sự lựa chọn các thuộc tính để tối đa hóa lợi ích
sẽ có kết quả là đường cong bàng quan U phản ánh trao đổi mong muốn giữa các thuộc tính.
Điều này cũng tương tự như đường cong bàng quang trong lý thuyết nhu cầu cổ điển (mà ở
đó là các loại hàng hóa chứ không phải các thuộc tính). Tối đa hóa lợi ích có nghĩa là đạt
đến đường U cao nhất có thể được. Trường hợp này, U1 là đường lợi ích không thể đạt được
và U2 là đường cong tối đa còn thỏa mãn ràng buộc, tiếp tuyến của đường biên hiệu lực ở
điểm M2. Trong trường hợp này, du khách muốn có lượng cầu OM2 đơn vị sản phẩm ở
resort 2.
Rất có thể chúng ta sẽ gặp đường bàng quang là đường thẳng nhưng điều này khó
xảy ra vì khi du khách càng có nhiều khối lượng một thuộc tính thì lợi ích biên của nó sẽ
giảm dần. Cũng có thể rằng đường U sẽ không tiếp xúc với đường biên hiệu lực tại điểm M2
hay bất kỳ điểm góc nào khác. Nếu điều này xảy ra, chẳng hạn ở một điểm nằm giữa M1 và
M2, điều này sẽ hàm ý rằng du khách sẽ trải qua một ít thời gian ở resort 1 và một ít thời
gian khác ở resort 2. Nếu điều này dẫn đến việc gia tăng chi phí vận chuyển thì rõ ràng
đường M1M2 sẽ không phải là đường thẳng mà trở thành đường cong lồi về gốc tọa độ, vì
vậy việc chia thời gian lưu trú sẽ khó xảy ra.
3. Tác động của sự thay đổi của các ràng buộc, của giá cả hàng hóa du lịch và xuất
hiện sản phẩm mới
Mô hình này thích nghi một cách dễ dàng với tác động của sự thay đổi của các biến.
3a. Sự thay đổi của ngân sách và/hay quỹ thời gian dành cho du lịch
Đầu tiên, nếu quỹ tài chính hay thời gian dành cho du lịch tăng lên, các điểm M hay
S trên các tia X1, X2, X3 có thể dịch chuyển ra xa gốc tọa độ một đoạn lệ thuộc vào số đơn
vị sản phẩm hay ngày lưu trú tăng thêm mà bây giờ có thể có được. Nếu số lượng tăng thêm
là như nhau ở cả 3 tia, chúng ta có thể kỳ vọng du khách i sẽ mua nhiều đơn vị sản phẩm
hơn ở resort 2 - một tác động tuyến tính của biến thu nhập. Nếu số lượng thêm là khác nhau
đủ lớn, một resort khác bây giờ có thể trở thành một lựa chọn tối ưu nếu một khối lượng lớn
hơn của 'du lịch' ở đó có thể được mua - một tác động thay thế bởi thu nhập.
3b. Sự thay đổi của giá và/hay chi phí thời gian của hàng hóa du lịch
x1
z1
x2
M1
Hình 3.9 Đồ thị Mô hình Lancaster thể hiện sự thay đổi giá
Thứ hai, nếu mức giá (hay chi phí thời gian) của một resort thay đổi, một sự thay đổi
tương tự của các điểm M và S diễn ra. Một sự tăng giá rất nhỏ ở X2 có thể làm giảm mức
cực đại đến M'2 mà resort 2 vẫn là một việc mua tối ưu, nhưng một sự tăng giá đủ lớn có thể
dẫn đến sự thay đổi ở mức M''2 (xem hình 3.9), và để tối đa hóa lợi ích, du khách có thể
thay thế đến OM1 đơn vị của X1. Đây là một tình huống rất thực tế khi các du khách có thể
thích ứng với sự tăng giá nhỏ nhưng không chấp nhận sự tăng giá cao hơn.
3c. Sự xuất hiện sản phẩm mới
Cuối cùng, nếu một resort mới xuất hiện, hay các du khách biết thêm một resort mà
trước đây không có trong tập các resort xem xét của họ, chúng ta có thể thêm một tia mới.
Nếu resort này rất đắt, hay rất xa, hay các thuộc tính của nó hoàn toàn khác với sở thích của
du khách, sẽ không có một tác động nào lên cầu. Nhưng nếu khác đi, tia của nó có thể là X4
(xem hình 3.10), với ràng buộc hiệu lực là M4, và du khách i có thể gia tăng lợi ích bằng
cách thay đổi kế hoạch của kỳ nghỉ.
x1
z1
x4
x2
M1 M4
M2
x3
M3 U5
U2
z2
Hình 3.10 Đồ thị Mô hình Lancaster thể hiện tác động của SP mới trên thị trường
Nếu có n đoạn thị trường du lịch (hay n du khách), chúng ta có thể cộng toàn bộ nhu
cầu của họ cho mỗi resort X1, X2 và X3 để xác định tổng cầu, kể cả dự báo về sự thay đổi
cầu theo những thay đổi cho trước về giá tương đối hay tuyệt đối, về thu nhập, thời gian đi
lại và những biến dự báo khác.