Professional Documents
Culture Documents
Ch2 TQDL2022
Ch2 TQDL2022
1
Ở nước ta, các doanh nghiệp vận chuyển du lịch đường bộ, ngoại trừ là đơn vị thành viên của các công
ty du lịch, là nơi tập hợp các chủ xe dưới hình thức hợp tác xã hoặc đăng ký tham gia doanh nghiệp nhưng
vẫn tự hạch toán. Sự phân tán này dẫn đến hiện tượng dễ bị các công ty du lịch lớn khống chế bằng các hợp
đồng bao thuê cả năm.
đường dài, ngày nay đường sắt Việt Nam đang bị sức ép cạnh tranh ráo riết bởi hàng không
giá rẻ. Với sức ép này, cùng với ảnh hưởng nặng nề của đại dịch, năm 2020, Tổng Công ty
Đường sắt Việt Nam lỗ 1.327 tỷ đồng2. Trong khi chờ đợi những đầu tư dài hạn để nâng cao
chất lượng phục vụ, khai thác những cung đường ngắn dưới 400 km phục vụ khách du lịch
là một hướng cần xem xét.
Một khía cạnh khác cũng cần xem xét là sự mở rộng cạnh tranh trong ngành vận chuyển
đường sắt. Rõ ràng, một ngành mà quy mô tối ưu của doanh nghiệp lớn hơn sản lượng cân
bằng thị trường thì sẽ xuất hiện độc quyền tự nhiên bởi trong trường hợp này độc quyền sẽ
hiệu quả hơn. Nhưng phân tích kỹ chúng ta thấy ngành đường sắt có 3 hoạt động: 1/Xây
dựng và khai thác tuyến đường, hệ thống nhà ga, 2/ Vận hành các đầu máy, toa xe để vận
chuyển hàng hóa, hành khách, 3/ Phân phối vé. Rõ ràng, chỉ có doanh nghiệp xây dựng và
khai thác tuyến đường, hệ thống nhà ga mới cần quy mô lớn và nên duy trì độc quyền. Hai
hoạt động sau (bao gồm phân phối vé và kinh doanh vận chuyển trên cơ sở đầu tư đầu máy,
toa xe, thuê sử dụng tuyến đường và nhà ga theo giờ) nên cho phép nhiều doanh nghiệp
tham gia để cạnh tranh. Đây là hướng cần xem xét đề tạo môi trường cạnh tranh trong
ngành vận chuyển đường sắt ở nước ta. Hiện nhiều nước đã phi điều tiết ngành vận chuyển
đường sắt theo hướng này.
2
Báo cáo tài chính 2020 của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, công bố tại https://vr.com.vn/bao-cao-
tai-chinh/bao-cao-tai-chinh-cua-cong-ty-me-va-bao-cao-tai-chinh-hop-nhat-nam-2020.html
2.1.2. NGÀNH KINH DOANH LƯU TRÚ
2.1.2.1. Sự phân tán và đa dạng của ngành kinh doanh lưu trú
Về cấu trúc thị trường, kinh doanh lưu trú là ngành phân tán với nhiều doanh nghiệp nhỏ
tham gia ngành. Không những thế, đó còn là một ngành đa dạng nhiều loại hình, cấp hạng,
phong cách,… khác nhau. Phải nói rằng, lưu trú có lẽ là ngành phân tán và đa dạng hơn bất
kỳ ngành nào khác trong du lịch.
Đó là do:
Thứ nhất, ngành kinh doanh lưu trú thương mại hóa phải cạnh tranh với việc cung
cấp chỗ lưu trú miễn phí bởi bạn bè và người thân vốn thường chiếm khoảng 30 -
50% đêm lưu trú của khách du lịch, bao gồm cả khách du lịch công vụ.
Thứ hai, đặc thù ngành về rào cản thâm nhập thấp với khách sạn cấp hạng thấp, sự
phức tạp trong quản lý chất lượng của khách sạn cấp hạng cao khiến cho quy mô tối
ưu của một khách sạn thường không lớn. Cấp hạng chất lượng khách sạn càng thấp
thì tính phân tán của ngành càng cao. Chúng ta thường thấy cấu trúc thị trường cạnh
tranh hoàn hảo ở nhóm các khách sạn không được xếp hạng và độc quyền nhóm ở
các resort 5.
Thứ ba, hệ thống sản phẩm lưu trú là một chuỗi các loại sản phẩm đa dạng. Cung
ứng dịch vụ lưu trú có thể là một bãi cắm trại đơn giản đến những khách sạn cao cấp
hay tàu cruise. Trong mỗi loại hình lưu trú này, cơ sở lưu trú khai thác những đặc
điểm về cảnh quan, bản sắc văn hóa và vật liệu địa phương để có thể có sự dị biệt
hóa sản phẩm hầu như vô tận.
Thứ tư, các cơ sở lưu trú còn đa dạng theo hình thức sở hữu. Chúng được đầu tư bởi
những những cá nhân, tổ chức rất khác nhau có khả năng khác nhau và mục tiêu đầu
tư khác nhau. Đó có thể là các cơ sở lưu trú của Công viên quốc gia thuộc sở hữu
nhà nước vốn cung cấp một sản phẩm “miễn phí” vì những lý do xã hội hơn là kinh
tế, các đơn vị lưu trú của gia đình cho thuê nhà hay phòng của mình chỉ với mong
muốn vượt qua chi phí biến đổi cho đến các Công ty đa quốc gia hoạt động với mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
Nói chung, giá trị của 'sản phẩm lưu trú' có thể được hợp thành bởi ba bộ phận (sub-
product) chính như trong hình 2.1. Cách phân chia này giúp các nhà quản trị cơ sở lưu trú
thuận lợi khi phân tích để chọn cho mình cách phối hợp các bộ phận tạo nên sự khác biệt
hóa sản phẩm, phục vụ định vị sản phẩm trên thị trường.
2.1.3. NGÀNH KINH DOANH DỊCH VỤ THAM QUAN, GIẢI TRÍ VÀ CÁC
DỊCH VỤ HỖ TRỢ
3
Chúng ta sẽ làm rõ các khái niệm “điểm thu hút”, “điểm đến du lịch” ở chương 6
Do sự đa dạng này, khó mà đòi hỏi có một ngành kinh doanh dịch vụ giải trí thuần nhất
mà chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng: Trong khi Thế giới Walt Disney (Florida)
là một điểm thu hút thương mại hóa đơn lẻ lớn nhất (cao điểm: 32 triệu khách viếng năm
1993), làm sao có thể so với bãi biển Torremolinos, Tây Ban Nha hay khu mua sắm trung
tâm Kowloon, Hongkong? Đối với một khách du lịch, đây có thể được coi là những điểm
thu hút đơn lẻ.
Bản chất của thị trường và mức độ tinh tế của những hoạt động này phụ thuộc vào quốc
gia hay khu vực mà chúng được triển khai. Chúng ta lưu ý hai loại hình tổ chức cung ứng
dịch vụ hỗ trợ du lịch:
Văn phòng du lịch quốc gia: Hầu hết các quốc gia phát triển du lịch đều tổ chức Văn
phòng du lịch quốc gia tại các quốc gia hay vùng gửi khách chính cho mình. Hoạt động của
các Văn phòng du lịch quốc gia và vùng là một hoạt động của chính quyền mang tính độc
quyền với mục tiêu là tối đa hóa số lượng khách du lịch hay doanh thu du lịch. Bản thân các
Văn phòng du lịch quốc gia là một đơn vị thực hiện các hoạt động của nó hay cung ứng các
dịch vụ trong khuôn khổ một ngân sách định trước.
Hệ thống đăng ký giữ chỗ qua mạng: Một lĩnh vực thú vị của nguồn cung quốc tế là hệ
thống đăng ký giữ chỗ qua mạng (CRS: Computerized reservation systems). Dựa trên CRS
của hàng không, nối kết với các đầu cuối chung của các cơ sở lưu trú, cho thuê xe v.v…, đã
hình thành một hệ thống hữu ích cho đại lý du lịch nhờ độ rộng bao phủ của nó. Hậu quả là
công nghệ CRS đã trở thành một thị trường cạnh tranh độc quyền mang tính quốc tế của các
nhóm được thống trị bởi một vài CRS bao phủ toàn thế giới như Sabre, Covia/Galileo và
Gemini/Pars. Hầu hết các hệ thống này là công ty liên doanh hoạt động với mục tiêu tối đa
hóa độ bao phủ thị trường cho các doanh nghiệp chủ của nó. Ngày nay, chúng ta thấy sự
phổ biến của các OTA (Online Travel Agent). Là đại lý du lịch trực tuyến, các OTA hỗ trợ
các đơn vị cung cấp dịch vụ du lịch như khách sạn, hãng lữ hành, hàng không bán các sản
phẩm dịch vụ du lịch như: phòng khách sạn, tour du lịch, vé máy bay… Các giao dịch mua
bán, thanh toán đều được thực hiện thông qua hình thức online. Mặc dù mỗi khách sạn đều
có một website riêng nhưng khách sạn vẫn cần khai thác các OTA bởi chúng một kênh phân
phối hiệu quả cho khách sạn. Khách sạn cũng không bỏ ra nhiều chi phí ban đầu để
marketing online vì các OTA sẽ thực hiện việc này. Chính nhờ các OTA mà ngày nay các
khách sạn nhỏ có thể giao dịch trực tiếp với khách hàng trên toàn thế giới. Mô hình OTA đã
rất phát triển trên thế giới với những tên tuổi lớn như: TripAdvisor, Booking, Agoda,
Expedia,… Ở Việt Nam đó là Agoda, Booking, Vietnam booking, Bestprice, Traveloka,
Vntrip,..
2.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG KINH TẾ-XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG CỦA DU LỊCH
Nước ta là một trong những nước có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch và chọn du
lịch như là một ngành kinh tế trọng điểm. Nhiều địa phương, đặc biệt là các địa phương
Miền Trung và Tây Nguyên, có mong muốn phát triển du lịch tại địa phương của mình. Tuy
nhiên, nguồn lực là có hạn, việc phát triển du lịch sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển các
ngành khác, chưa kể việc phát triển du lịch có khả năng xuất hiện những tác động không
mong muốn. Vì vậy, để làm cơ sở cho việc lựa chọn hướng phát triển du lịch, chúng ta cần
phải đánh giá tác động nhiều mặt của phát triển du lịch. Chính vì vậy, trong chương này
chúng ta dành một số trang khá dài để phân tích những tác động của phát triển du lịch, thậm
chí ở nhiều nội dung chúng ta bàn bạc khá chi tiết và giới thiệu một số phương pháp định
lượng trong đánh giá hay sử dụng.
Mọi ngành kinh tế khi phát triển sẽ khiến các hoạt động kinh tế rầm rộ hơn, môi trường,
tài nguyên được khai thác nhiều hơn, và vì vậy sẽ tác động đến cả 3 mặt: kinh tế, văn hóa -
xã hội và môi trường. Du lịch cũng vậy. Tuy nhiên, phát triển du lịch có những đặc thù
riêng. Do đó, bên cạnh việc phân tích những tác động chung, chúng ta sẽ lưu ý những tác
động mang tính đặc thù của phát triển du lịch. Mặt khác, ở phần này, chúng ta lưu ý cả
những tác động cả tích cực lẫn tiêu cực, cả tác động tại vùng nhận khách (điểm đến du lịch),
vùng gửi khách lẫn khu vực tuyến đường nối liền.
Một vấn đề khác cũng cần lưu ý khi phân tích là chúng ta thường xét tác động của phát
triển du lịch trên ba khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, nhưng ba loại tác động này
không thể tách bạch rạch ròi. Chẳng hạn, để tăng sức thu hút của điểm đến Đà Nẵng, chính
quyền thành phố dự định quy hoạch phát triển khu giải trí về đêm dọc sông Hàn. Điều này
sẽ tác động đến kinh tế địa phương thông qua việc kích thích khách du lịch kéo dài thời gian
lưu trú, tăng chi tiêu. Nhưng đồng thời sẽ xuất hiện những hậu quả văn hóa, xã hội khi mà
một bộ phận cư dân địa phương sẽ thay đổi hành vi, có thể họ sẽ sinh hoạt ngoài phố khuya
hơn và không loại trừ số lượng tội phạm tăng lên. Cuối cùng dễ thấy là cùng với việc hình
thành khu giải trí về đêm, sẽ dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm cảnh quan, ô
nhiễm rác thải tại khu vực này. Không những thế, một tác động trên khía cạnh này sẽ kéo
theo tác động trên khía cạnh khác. Khi khu giải trí về đêm phát triển, một bộ phận dân cư
tăng thu nhập, điều này khiến lối sống, cách ăn mặc và cả chuẩn giá trị xã hội của họ thay
đổi… Thật khó để phân biệt rạch ròi tác động nào thuộc khía cạnh nào.
Đồng thời, chúng ta cũng phải thấy rằng thật khó mà tách bạch rạch ròi giữa tác động
tích cực và tiêu cực của du lịch. Một tác động diễn ra, đối với người này là tích cực, đối với
người kia là tiêu cực, đối với người khác nữa là trung tính. Điều này phụ thuộc vào vị trí
của họ trong hệ thống du lịch (họ là khách du lịch, là người làm du lịch, chính quyền hay cư
dân địa phương), phụ thuộc vào đặc điểm văn hóa của cộng đồng và đặc điểm cá nhân của
người đánh giá. Gần như cứ mỗi tác động chúng ta đều thấy có cả hai mặt tích cực và tiêu
cực của nó. Đây là điều ta sẽ phân tích sâu sắc hơn ở phần cuối của mục này.
Với sự tác động đa chiều trên, trong thực tế phân tích, chúng ta không nên và không thể
tách bạch các tác động của phát triển du lịch. Nhưng để thuận lợi cho quá trình nhận thức,
chúng ta bắt đầu nội dung này bằng việc phân loại các tác động theo từng khía cạnh. Dù
thỉnh thoảng chúng ta vẫn bàn đến những tác động đến vùng gửi khách, tuyến đường, nhưng
chủ yếu vẫn là phân tích các tác động đến vùng nhận khách.
2.2.1.1. Tác động của du lịch lên quy mô tăng trưởng kinh tế
Dễ dàng thấy rằng mục tiêu chính của hầu hết các chính phủ là phát triển kinh tế đất
nước, trước hết là tăng trưởng quy mô của nền kinh tế. Trong khi vẫn có những tranh cãi về
lựa chọn giữa tăng trưởng nhanh về quy mô (tăng nhanh GDP) và tăng trưởng chậm nhưng
bền vững, chất lượng, nhiều quốc gia vẫn chọn tăng trưởng nhanh. Đó là vì quy mô kinh tế
tăng sẽ đáp ứng được các nhu cầu trong nước và quốc tế, cung cấp thêm nhiều việc làm và
gia tăng thu nhập cho nhân dân, sẽ tăng nguồn thu ngân sách để tài trợ cho hoạt động quốc
phòng, an ninh, giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ an sinh xã hội, và các dịch vụ
mang lại lợi ích khác. Trong ngắn hạn, một quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh sẽ làm
tăng sự lựa chọn dành cho dân cư và các tổ chức, dẫn đến cải thiện chất lượng cuộc sống
cho tất cả.
Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nào khác, sự phát triển của du lịch sẽ tạo ra sự gia tăng
GDP cho nền kinh tế. Nhưng là một trong những lĩnh vực lớn nhất của kinh tế thế giới,
trong 60 năm qua, du lịch được quan tâm bởi sự tăng trưởng cao và ổn định, ít bị biến động
so với các ngành khác. Trong những thập niên đến, ngoại trừ đại dịch Covid – 19 mà chắc
chắn sẽ được kiểm soát, chúng ta chưa thấy có dấu hiệu nào cho thấy nhu cầu du lịch toàn
cầu sẽ giảm.
Trong mô hình phân tích đầu vào - đầu ra (input - output analysis model), ba loại hiệu
ứng khác nhau được xác định: tác động trực tiếp, gián tiếp và kéo theo (direct, indirect and
induced effects).
1. Những tác động trực tiếp của du lịch đối với quy mô tăng trưởng kinh tế
Được tính là tác động trực tiếp là những tác động ngay lập tức từ những nhu cầu có
thêm do hoạt động của khách du lịch tại điểm đến lên quá trình sản xuất, cung ứng hàng hoá
và dịch vụ dưới dạng những hàng hóa và dịch vụ tăng thêm, giá trị tăng thêm và các thành
phần của nó (gọi là chi tiêu nội bộ du lịch - tourism internal consumption hay tổng cầu nội
bộ du lịch - total tourism internal demand).
Như vậy, nó là những tiêu thụ trực tiếp về sản lượng và giá trị gia tăng của ngành công
nghiệp du lịch và các ngành công nghiệp khác trực tiếp phục vụ khách du lịch. Tác động
trực tiếp này được phản ánh qua chi tiêu của khách du lịch.
Khối lượng chi tiêu này tăng lên nhanh chóng trong 60 năm qua trên thế giới đặc biệt là
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á của chúng ta. Năm 2013, chỉ riêng du
lịch quốc tế đã mang lại thu nhập lên đến 1.159 tỷ đô la Mỹ cho các nước trên thế giới.
Bảng 2.4. Thu nhập từ du lịch quốc tế
Thu nhập DL Qtế
Thị
Tốc độ tăng thu nhập du Trên1
phần
lịch quốc tế (%) Tỷ USD lượt
2013
khách
(%)
10/09 11/10 12/11 13/12 2012 2013 2013
Thế giới 5,2 4,5 4,2 5,3 100 1.078 1.159 1.070
Các nền kinh tế tiên tiến 5,8 5,9 4,0 6,0 64,3 688 745 1.280
Các nền kinh tế mới nổi 4,0 2,1 4,5 4,0 35,7 390 413 820
Phân theo khu vực bởi UNWTO:
Châu Âu -0,2 4,9 1,9 3,8 42,2 454,0 489,3 870
Bắc Âu 3,4 2,4 3,3 7,1 6,4 67,6 74,2 1.080
Tây Âu 1,4 3,9 2,7 1,7 14,5 157,9 167,9 960
Trung/Đông Âu -3,5 6,8 4,0 3,4 5,2 56,3 59,9 380
Nam Âu/ĐTHải -1,9 6,1 0,0 4,5 16,2 172,2 187,3 930
28 quốc gia thành viên EU 0,9 4,0 1,7 3,4 34,8 374,2 402,9 930
Châu Á-TBDương 14,9 8,3 6,7 8,2 31,0 329,1 358,9 1.450
Đông Bắc Á 21,4 9,2 7,9 9,3 15,9 167,2 184,7 1.450
Đông Nam Á 15,0 12,9 10,6 9,7 9,3 96,0 107,4 1.150
Châu Đại dương -3,0 -4,1 -1,3 1,9 3,7 43,0 42,6 3.410
Nam Á 10,7 11,6 -0,6 5,3 2,1 22,9 24,3 1.570
Châu Mỹ 4,2 5,1 5,7 6,4 19,8 212,9 229,2 1.360
Bắc Mỹ 6,0 5,9 6,7 7,8 14,8 156,4 171,0 1.550
Vùng Caribbean 0,7 -1,5 1,2 2,1 2,1 24,2 24,8 1.170
Trung Mỹ 0,3 9,7 7,5 3,2 0,8 8,7 9,4 1.020
Nam Mỹ -2,2 5,7 3,2 3,2 2,1 23,6 23,9 870
Châu Phi 2,6 1,7 7,3 0,0 3,0 34,3 34,2 610
Bắc Phi 0,2 -5,5 9,1 -1,4 0,9 10,0 10,2 520
Châu Phi hạ Sahara 3,8 5,0 6,5 0,6 2,1 24,3 24,0 660
Trung Đông 16,3 -17,2 2,2 -1,9 4,1 47,5 47,3 920
Số liệu 2013 là số liệu ước tính vào tháng 05/2014 Nguồn: UNWTO (2014)
Ở nước ta, năm 2013, khi bối cảnh nền kinh tế vẫn đang trong quá trình khắc phục suy
thoái, tái cấu trúc và từng bước tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, Du lịch là ngành kinh tế
duy nhất duy trì tốc độ tăng trưởng cao và là điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam. Năm
2013, cả nước đã đón 7,57 triệu lượt khách quốc tế, tăng trưởng +10,6%; 35 triệu lượt
khách nội địa; tổng thu trực tiếp từ khách du lịch đạt 200 nghìn tỷ đồng, đóng góp trên 6%
GDP.
2. Những tác động gián tiếp của du lịch
Nếu chỉ tính chi tiêu nội bộ du lịch, nhiều tác động khác của du lịch sẽ bị bỏ qua. Để
phục vụ khách du lịch, hoạt động sản xuất đòi hỏi sự gia tăng quy mô các yếu tố đầu vào: ví
dụ, các nhà hàng phải mua và chuẩn bị nhiều thức ăn hơn, khách sạn cần nhiều dịch vụ giặt
là và dịch vụ vệ sinh công cộng hơn, công viên nước tiêu thụ nhiều điện năng và nhiều nước
hơn, các doanh nghiệp vận tải phải mua xăng và phụ tùng nhiều hơn,… Thông thường, để
phục vụ lượng khách hàng tăng thêm thì phải tăng thêm đầu tư trực tiếp: xây dựng nhiều
đường giao thông hơn, nhiều khách sạn, nhà hàng hơn, nhiều bãi biển được thiết lập và bảo
vệ,… để đáp ứng các chi tiêu khởi phát từ khách du lịch. Đó là một đợt gia tăng lượng cầu
hàng hóa và dịch vụ đầu vào của doanh nghiệp phục vụ việc sản xuất các dịch vụ du lịch.
Những đầu vào hoặc hàng hóa trung gian cần phải được cung ứng thông qua sản xuất
hoặc nhập khẩu, và điều này, đến lượt nó, kéo theo một chuỗi các nhu cầu bổ sung cho các
yếu tố đầu vào khác nhau (lao động và vốn), hiện tượng này tiếp tục diễn ra kéo dài qua
nhiều vòng cho đến khi kiệt sức bởi hiện tượng rò rỉ. Chuỗi các tác động mà các hoạt động
trực tiếp phục vụ khách du lịch tạo ra được gọi là tác động gián tiếp của du lịch tại vùng
nhận khách.
Chuỗi tác động gián tiếp của tiêu dùng du lịch lên các ngành công nghiệp khác là do sự
liên kết của các ngành phục vụ du lịch với các ngành khác cung cấp cho du lịch những yếu
tố đầu vào trung gian, kế tiếp là mối liên kết của các ngành này với những người khác cung
cấp đầu vào cho chúng, và cứ kéo dài như vậy. Tác động này đồng thời tạo ra các chuỗi giá
trị gia tăng, chuỗi việc làm, tiền lương, thu nhập, chuỗi thuế, ngân sách, v.v…
3. Những tác động kéo theo của du lịch
Ngoài ra, sự gia tăng của thu nhập hình thành từ tiêu dùng của khách du lịch được phân
phối cho lực lượng lao động và các chủ sở hữu các doanh nghiệp sản xuất. Đến lượt nó, khi
người lao động và chủ sở hữu có thêm thu nhập từ phát triển du lịch, họ có nhu cầu gia tăng
đối với hàng hóa dịch vụ tiêu dùng thông thường thông qua một sự gia tăng trong tiêu dùng
hộ gia đình của họ. Cũng như nhu cầu hàng hóa đầu vào, nhu cầu tiêu dùng bổ sung này
cũng tạo ra một chuỗi các tác động kéo theo trên một loạt các hàng hóa và dịch vụ.
Tác động kinh tế tổng thể của du lịch vào nền kinh tế là một sự kết hợp của tác động
trực tiếp, gián tiếp và kéo theo.
Khi một khách du lịch chi tiêu 1 USD tại điểm đến, chi tiêu này tạo ra thu nhập 1 USD
cho những người cung ứng sản phẩm du lịch (tác động trực tiếp của du lịch). Từ 1 USD đầu
tiên này, người cung ứng du lịch sử dụng nó để mua các yêu tố đầu vào từ các ngành khác
(nguyên vật liệu, điện, nước, máy móc thiết bị, công trình xây dựng,…). Qua mối quan hệ
liên kết với các ngành khác, việc mua sắm này sẽ tạo ra nhu cầu và hình thành nên thu nhập
của các ngành khác (tác động gián tiếp). Cũng từ một USD tăng thêm này, người cung ứng
du lịch sử dụng để trả lương cho người lao động và để lại lợi nhuận cho chủ sở hữu. Với thu
nhập tăng thêm này, người lao động và chủ sở hữu tăng thêm tiêu dùng cá nhân, tạo ra thu
nhập cho những người sản xuất hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thông thường khác (tác động
kéo theo). Nhưng tác động của 1 USD đầu tiên không dừng ở đó, đến lượt họ, các doanh
nghiệp và dân cư nhận được thu nhập từ tác động gián tiếp và kéo theo cũng phải chi tiêu,
tạo ra làn sóng thu nhập thứ ba. Và cứ như vậy, tạo ra chuỗi làn sóng vô hạn.
Vậy, từ 1 USD đầu tiên của khách du lịch, nền kinh tế không chỉ tăng 1 USD cho GDP
mà tăng hơn nhiều lần nhờ sự liên kết trong nền kinh tế. Nhưng từ 1 USD, qua chuỗi vô hạn
các làn sóng, nền kinh tế không thể tăng lên con số vô hạn USD mà các làn sóng này, qua
sự rò rỉ, bị yếu dần và GDP chỉ tăng lên một con số USD có giới hạn.
Giả sử trung bình, một người đầu tư sản xuất hay tiêu dùng khi thu nhập khả dụng tăng
thêm một đơn vị, họ chi tiêu thêm một lượng tiêu dùng X. Lượng tiêu dùng X tăng thêm
này gọi là xu hướng tiêu dùng cận biên (MPC - Marginal Propensity to Consume). Kết quả
là từ 1 đồng đầu tiên, GDP tăng lên được K đồng. K được gọi là nhân tử Keynne. Lúc đó, K
được tính theo công thức:.
1
K=
1 − MPC
Liên kết và rò rỉ là hai hiện tượng cần phải được xác định rõ ràng để đánh giá tác động
kinh tế của du lịch. Độ lớn của chúng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ mức độ và vai trò của du lịch
trong tác động đến nền kinh tế.
Liên kết là mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quá trình sản xuất khác nhau trong nền
kinh tế, là khả năng cung ứng hàng hóa, dịch vụ đầu vào cho ngành này của ngành khác trong
nước, được thể hiện và tính toán qua mô hình input - output. Thống kê ngành thường sử dụng
chúng để thể hiện chính xác độ lớn của quan hệ liên kết này.
Rò rỉ xảy ra khi một phần của các khoản thu nhập gia tăng tạo ra bởi du lịch không được
đưa vào nền kinh tế. Nó bao gồm cả hai khoản: Khoản thu nhập tăng thêm bị giữ lại do tiết
kiệm (không chi tiêu và không đầu tư); Khoản thu nhập tăng thêm không được giữ lại trong
nền kinh tế của quốc gia nhận khách mà bị thất thoát ra các quốc gia khác bởi 2 hình thức:
Một là, nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch, hai là,
chuyển thu nhập ra nước ngoài (chủ đầu tư nước ngoài, người lao động nước ngoài chuyển
lợi nhuận, thu nhập về nước họ). 4
Rò rỉ cũng mở rộng vào vòng thứ hai và các vòng tiếp theo của quá trình sản xuất, có
nghĩa là, chúng không chỉ bao gồm những hàng hóa nhập khẩu dành cho tiêu thụ trực tiếp
của khách du lịch, cho đầu tư du lịch hay cho các yêu tố trung gian (đầu vào) trực tiếp phục
vụ khách du lịch hay để sản xuất hàng hóa đầu tư du lịch (vòng đầu tiên), mà còn là nguyên
liệu nhập khẩu và tổng tài sản cố định cần thiết cho việc sản xuất các hàng hóa đầu vào và
đầu tư (vòng hai) và sau đó các đầu vào cần thiết cho sản xuất của các vòng sau. Sự rò rỉ
4
Những khái niệm và nội dung phân tích phần này bạn đọc xem thêm trong Lý thuyết về hiệu ứng số
nhân của Keynne trong Kinh tế vĩ mô.
cũng diễn ra ở các dòng chảy liên quan đến việc phân phối và phân phối lại thu nhập và việc
sử dụng thu nhập trong nước để tăng tiêu dùng để cuối cùng có thể mở rộng hàng nhập
khẩu. Tổng của tất cả các hàng nhập khẩu bổ sung cho nền kinh tế và luồng ra của thu nhập
sẽ được gọi là rò rỉ gián tiếp.
Việc phân tích hiệu ứng số nhân, mức độ liên kết và rò rỉ không chỉ xét trên một quốc
gia mà cũng thường được phân tích trong nền kinh tế của một vùng, một địa phương. Một
quốc gia, một địa phương phát triển du lịch có độ rò rỉ khác nhau sẽ có mức độ tác động
khác nhau đến toàn bộ cộng đồng. Cả Đà Nẵng và Hội An đều phát triển du lịch. Cả thu
nhập trực tiếp, việc làm trực tiếp và ngân sách trực tiếp từ phát triển du lịch không có nhiều
hiệu quả khác biệt. Tuy nhiên, trong khi Đà Nẵng phát triển với hệ thống resort cao cấp do
người nước ngoài và ngoài địa phương đầu tư, sử dụng với tỷ lệ cao của các trang thiết bị,
nguyên vật liệu và cả thực phẩm nhập khẩu thì Hội An phát triển với nhiều doanh nghiệp
quy mô nhỏ (như homestay, khách sạn cấp hạng và quy mô vừa, hệ thống các dịch vụ may
mặc, các nhà hàng và cửa hàng lưu niệm) khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, chủ yếu do
người địa phương đầu tư. Do đó, dễ thấy rằng phát triển du lịch Đà Nẵng hầu như chỉ tác
động đến những người trực tiếp làm du lịch, mức độ lan tỏa thấp, thì tại Hội An, du lịch
phát triển ảnh hưởng rộng rãi, gần như cuộc sống mọi người Hội An đều được cải thiện nhờ
phát triển du lịch. Phải chăng đây là sự lựa chọn định hướng phát triển du lịch khác nhau
của hai địa phương: Phát triển du lịch nhanh chóng hay phát triển du lịch bền vững?
Trên đây là những trình bày lý thuyết để chỉ ra cơ chế tác động lan tỏa của phát triển du
lịch. MPC sẽ khác nhau ở những người tiêu dùng và đầu tư khác nhau và việc xác định
MPC là khó khăn. Trong thực tế, dựa vào nguồn dữ liệu thực tế có thể thu thập được, cách
tính toán là như sau:
Tổng đóng góp Đóng góp trực Tác động Tác động
của du lịch = tiếp của du lịch + gián tiếp + kéo theo
vào GDP vào GDP của du lịch của du lịch
Trong đó:
Đóng góp trực tiếp Tiêu dùng du lịch Giá trị hàng mua của các nhà
= -
của du lịch vào GDP nội bộ cung ứng dịch vụ du lịch
+ Tiêu dùng 'nội bộ' cho hoạt động du lịch (Internal tourism consumption) là tổng chi
tiêu trong một quốc gia cụ thể cho du lịch của người dân trong nước và người nước ngoài
cho mục đích kinh doanh và giải trí tại quốc gia. Do khách du lịch được trợ cấp một phần
hay toàn bộ khi hưởng các dịch vụ du lịch do Nhà nước hỗ trợ nên cũng tính ở đây gồm cả
các chi tiêu của chính phủ cho riêng du lịch (government 'individual' spending), tức chi tiêu
của chính phủ cho các dịch vụ du lịch liên quan trực tiếp đến du khách, chẳng hạn như chi
tiêu dịch vụ văn hóa, giải trí (ví dụ: chi tiêu hỗ trợ viện bảo tàng, hỗ trợ vườn quốc gia).
Tiêu dùng Tổng thu nhập từ du Chi tiêu du lịch nội địa (bao gồm
du lịch = lịch quốc tế inbound + chi tiêu riêng của chính phủ)
nội bộ (Visitor exports) (Domestic expenditure)
Giá trị hàng mua của các nhà cung ứng dịch vụ du lịch là tiền mua hàng kể cả hàng nhập
khẩu của các doanh nghiệp thuộc các ngành đặc trưng về du lịch như khách sạn, hãng hàng
không, sân bay, đại lý du lịch và các dịch vụ giải trí và nghỉ ngơi có giao dịch trực tiếp với
khách du lịch.
+ Đóng góp tài chính gián tiếp của du lịch bao gồm giá trị hàng hóa dịch vụ sau:
Các hàng hóa dịch vụ trong chuỗi cung ứng trong nước xuất phát từ việc cung ứng
hàng hóa dịch vụ du lịch cho khách du lịch (Domestic supply chain). Bao gồm các khoản
mua hàng hóa và dịch vụ trong nước của các ngành giao dịch trực tiếp với khách du lịch -
ví dụ, mua thực phẩm và dịch vụ dọn dẹp của khách sạn, mua nhiên liệu và dịch vụ ăn
uống của các hãng hàng không, mua dịch vụ CNTT của các đại lý du lịch,… và các
khoản mua kéo theo ở các vòng sau.
Chi tiêu đầu tư cho du lịch là chi tiêu quan trọng cho cả khía cạnh hoạt động hiện tại
lẫn tương lai, bao gồm các hoạt động đầu tư như mua máy bay mới và xây dựng khách
sạn mới;
Chi tiêu “chung” của chính phủ (Government collective spending), chi tiêu của Chính
phủ giúp hoạt động du lịch theo nhiều cách khác nhau vì nó được thực hiện thay mặt cho
'cộng đồng nói chung' - ví dụ: tiếp thị và quảng bá du lịch, dịch vụ vệ sinh, dịch vụ an
ninh nói chung, dịch vụ an ninh khu nghỉ dưỡng,…
Đóng góp tài Chuỗi Đầu tư Chi tiêu Giá trị hàng hóa
chính gián tiếp = cung ứng + trong du + “chung” của - dịch vụ nhập khẩu
của du lịch trong nước lịch chính phủ từ chi tiêu gián tiếp
Sau đây là Bảng tính toán các tác động kinh tế của du lịch Việt Nam giai đoạn 2012 -
2018 do Hội đồng Du hành và Du lịch thế giới (World Travel & Tourism Council) công bố
trong Báo cáo Tác động kinh tế của du hành và du lịch 2018 – Việt Nam
Bảng 2.5 Đóng góp kinh tế của Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012 – 2018
Đơn vị tính:tỷ VND, giá thực tế năm 2017
2018 2028
2012 2013 2014 2015 2016 2017
(ước (dự
tính) báo)
1.Xuất khẩu du lịch (chi tiêu
của khách du lịch quốc tế) 162.531 165.503 164.615 169.148 191.518 200.843 214.300 398.107
2. Chi tiêu du lịch nội địa
(bao gồm cả chi tiêu riêng
của chính phủ) 121.738 126.841 139.957 166.527 172.886 195.478 208.637 354.926
3. Tiêu dùng du lịch trong
nước (=1+2) 284.269 292.344 304.572 335.675 364.404 396.321 422.937 753.033
4. Giá trị hàng mua của các
nhà cung ứng dịch vụ du
lịch, bao gồm cả hàng hóa
nhập khẩu (chuỗi cung ứng) -67.891 -73.247 -77.193 -86.521 -93.782 -101.661 -108.506 -188.065
5. Đóng góp trực tiếp của 216.378 219.097 227.379 249.154 270.622 294.660 314.431 564.968
du lịch vào GDP (=3+4)
Các tác động tài chính khác (gián tiếp và kéo theo)
6. Chuỗi cung ứng trong
nước 64.121 64.927 68.482 76.634 83.237 90.631 96.712 173.771
7. Đầu tư du lịch 91.304 98.985 103.773 101.932 98.047 116.788 125.012 203.748
8. Chi tiêu “chung” của chính
phủ 2.754,0 3.026,0 3.275,7 3.545,1 3.883,9 4.160,1 4.392,1 7.208,3
9. Hàng nhập khẩu từ chi - - -
tiêu gián tiếp -70.901 -77.546 -82.911 -84.872 -87.127 104.557 113.525 179.682
10. Chi tiêu kéo theo 57.224 56.427 57.987 60.500 64.201 66.610 70.282 130.931
11. Tổng đóng góp của du
lịch vào GDP
(=5+6+7+8+9+10) 360.879 364.916 377.986 406.893 432.864 468.291 497.303 900.944
Tác động tạo việc làm (tr. vl)
12. Đóng góp trực tiếp tạo
việc làm của du lịch 2.401,8 2.345,2 2.323,1 2.325,3 2.402,2 2.467,6 2.515,4 2.917,5
13. Tổng đóng góp trong
tạo việc làm của du lịch 4.094,7 4.042,2 3.993,6 3.941,9 3.987,1 4.060,9 4.116,8 4.790,3
Các chỉ số khác
14. Chi tiêu du lịch outbound 67.740 78.081 78.161 82.296 83.512 89.058 96.517 166.368
Nguồn: WTTC
2.2.1.2. Những tác động của du lịch lên hoạt động kinh tế đối ngoại
Trước khi đi vào ý nghĩa này của du lịch, chúng ta cần xem xét khái niệm xuất khẩu và
nhập khẩu du lịch, chỉ ra sự khác biệt giữa xuất nhập khẩu hàng hóa thông thường với xuất
nhập khẩu sản phẩm du lịch.
*Xuất khẩu du lịch: Khi một người có thu nhập từ nước A đến du lịch tại nước B, anh ta
mang tiền kiếm được từ nước A tiêu tại nước B, tức là anh ta đưa vào nước B một lượng
ngoại tệ, thông qua việc nhận ngoại tệ từ khách du lịch, B đã xuất khẩu sản phẩm du lịch
sang A. Khác với xuất khẩu hàng hóa thông thường, chúng ta thu ngoại tệ từ việc đưa hàng
hóa ra nước ngoài, xuất khẩu du lịch lại thu ngoại tệ từ khách du lịch nước ngoài vào Việt
Nam.
Quốc gia xuất khẩu du lịch là quốc gia tiếp nhận khách du lịch từ nước ngoài đến – gọi
chung là “quốc gia nhận khách”. Quốc gia nhận khách sẽ có được thu nhập bằng ngoại tệ từ
những chi tiêu của khách du lịch nước ngoài khi họ đến.
*Nhập khẩu du lịch: ngược lại với xuất khẩu du lịch, khi một người của quốc gia A đi
du lịch ở nước B và tiêu ở đấy tiền kiếm được tại A thì nước A đã nhập khẩu sản phẩm du
lịch vào nền kinh tế của họ.
Quốc gia nhập khẩu du lịch là quốc gia có cư dân của mình đi du lịch ở nước ngoài –
gọi chung là “quốc gia gửi khách” hay “quốc gia gốc”. Người dân của họ mang tiền ra nước
ngoài chi tiêu, với sự di chuyển ngoại tệ ra khỏi làm cho quốc gia gửi khách trở thành quốc
gia nhập khẩu du lịch.
Khách du lịch
Ngoại tệ
Ngoại tệ
Hình 2.2. Dòng vận chuyển trong xuất khẩu hàng hóa và xuất khẩu sản phẩm du lịch
Trong điều kiện ngày nay, hầu hết các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đều công
nhận rằng du lịch quốc tế là một trong những bộ phận quan trọng nhất của các dòng thương
mại toàn cầu. Là một hệ thống cung ứng liên kết toàn cầu, hoạt động trên nhiều lĩnh vực rất
khác nhau, tác động qua lại giữa du lịch và nền kinh tế quốc tế là rất phức tạp. Tuy xét trên
tổng thể của du lịch thế giới, sự phát triển của cầu du lịch khá ổn định, nhưng xét sự phát
triển của dòng khách từ một nước gửi khách đến một nước nhận khách cụ thể, lượng cầu du
lịch như đã phân tích ở Chương 1 là hết sức nhạy cảm với các biến động về kinh tế, an ninh
và môi trường.
Du lịch quốc tế có hai tác động chính; đầu tiên, trong thương mại, và thứ hai, trong hiệu
ứng tái phân phối của nó.
+ Tác dụng thương mại là một đặc điểm của cầu du lịch. Khi khách du lịch đến thăm các
nước, sự chi tiêu của họ sẽ kích thích hoạt động thương mại quốc tế. Hầu hết khách du lịch
quốc tế đến nước ta đến bằng đường hàng không với hầu hết các máy bay được sản xuất và
xuất khẩu từ Mỹ và Châu Âu. Tại các điểm đến, khách du lịch có thể sử dụng chỗ ở thuộc
sở hữu và quản lý bởi người nước ngoài. Họ có thể tiêu dùng thức ăn và đồ uống không
được cung cấp trong nước. Ví dụ, một khách du lịch Đức thăm Việt Nam có thể được chở
đến bởi Vietnam Airlines sử dụng máy bay Boeing 777 (sản xuất ở Mỹ), ở khách sạn Sofitel
thuộc sở hữu của nhà đầu tư Hongkong và quản lý của công ty Pháp, uống rượu whisky
Scotland và ăn thịt bò Úc. Với khách du lịch Đức này, Việt Nam xuất khẩu sản phẩm du
lịch nhưng nhập khẩu các sản phẩm khác và diễn ra sự rò rỉ thu nhập ngoại tệ. Đối với nền
kinh tế toàn cầu, chúng cấu thành các cơ hội thương mại và tạo ra hoạt động xuất nhập
khẩu.
+ Hiệu ứng tái phân phối (phân phối lại) của du lịch quốc tế thể hiện ở chỗ khách du lịch
sử dụng thu nhập kiếm được ở nước này chi tiêu ở nước khác. Thực tế là hầu hết khách du
lịch quốc tế, họ đến từ các nước phát triển có thu nhập cao và dành một phần thu nhập khả
dụng của họ chi tiêu ở các nước thu nhập thấp bằng việc mua các kỳ nghỉ. Trong ý nghĩa
này, một số thu nhập thặng dư của các nước giàu có, thông qua du lịch, phân phối lại cho
các nước khác mà nhiều nước trong đó là các nước đang phát triển. Các quốc gia tương đối
giàu có của Tây Âu và Bắc Mỹ là các quốc gia gửi khách chính. Những nước có thặng dư
cao trong cán cân thanh toán, chẳng hạn như Nhật Bản, khuyến khích người dân đi du lịch ở
nước ngoài như một phương tiện của việc giảm và phân phối lại thặng dư. Những tác dụng
tái phân phối là quan trọng vì chúng cung cấp cho các nước đang phát triển một trong số rất
ít cơ hội để xuất khẩu sản phẩm miễn thuế.
2.2.1.6. Du lịch phát triển thúc đẩy sự phát triển của các địa phương
Du lịch phát triển, sự tiêu dùng của khách du lịch gia tăng sẽ làm cho luồng tiền và cơ
hội tìm việc làm tại địa phương tăng lên.
Ở đây có một khía cạnh cần lưu ý là du lịch có điều kiện phát triển ở những vùng mà
môi trường tự nhiên còn nguyên sơ, môi trường văn hóa còn mang đậm tính bản địa. Đây
thường lại là những vùng không có điều kiện phát triển công nghiệp hay thương mại. Hầu
hết các vùng còn phong cảnh thiên nhiên đẹp, sinh thái đa dạng, môi trường trong sạch, các
di tích lịch sử và văn hóa còn được bảo tồn lại thường là những vùng nghèo nàn về kinh tế.
Các nước đang phát triển hay Huế, Hội An, Sapa, Bà Nà,… là những nơi như vậy. Do vậy,
chính sự phát triển du lịch giúp sự phát triển của các địa phương đồng đều hơn.
Do vậy, sự phát triển du lịch ở những vùng khó khăn về phát triển công nghiệp, nông
nghiệp dẫn đến hiện tượng thu nhập từ những vùng giàu có được mang đến những vùng
nghèo hơn và đem lại thu nhập cũng như công ăn việc làm cho những vùng này. Du lịch
phát triển là một trong những biện pháp hữu hiệu để phát triển những vùng vốn có tốc độ
tăng tưởng kinh tế thấp.
Những vấn đề nêu trên là những ý nghĩa kinh tế của phát triển du lịch. Và thật là thiếu
sót khi xét đến các tác động của du lịch nếu chúng ta không xét đến những ảnh hưởng xã
hội, môi trường của nó.
* Những tác động tiêu cực về kinh tế của phát triển du lịch
Như bất kỳ sự phát triển của ngành nào, du lịch phát triển sẽ phải cạnh tranh giành
nguồn lực phát triển của các ngành khác. Hơn nữa, du lịch chỉ phát triển trong điều kiện
môi trường tự nhiên ở đó phải được bảo vệ tốt nên một địa phương muốn phát triển du lịch
buộc phải cân nhắc khi phát triển các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là các ngành công
nghiệp có khả năng gây ô nhiễm môi trường. Sự mâu thuẫn trong phát triển ngành du lịch
và công nghiệp hóa dầu ở vịnh Văn Phong (Khánh Hòa) hay biển cho phát triển du lịch
hoặc phát triển cảng than ở Quảng Ninh là những ví dụ.
Một tác động tiêu cực về kinh tế dễ thấy, thường được bàn đến, là sự gia tăng mặt bằng
giá ở nơi nhận khách. Khi du lịch phát triển, khách du lịch ồ ạt đến, lượng tiền chi tiêu tăng
lên, giá cả nhiều hàng hóa dịch vụ, kể cả hàng hóa đầu vào hay hàng hóa tiêu dùng, sẽ tăng.
Về hàng hóa, dịch vụ đầu vào, dễ thấy nhất là giá đất sẽ tăng lên nhanh chóng bởi đây là
yếu tố mà lượng cung bị cố định. Điều này không chỉ gây khó khăn cho nhà đầu tư mà hệ
quả kéo theo là giá nhà và giá thuê nhà tăng lên tạo gánh nặng cho cư dân địa phương. Một
yếu tố đầu vào khác là mặt bằng lương cũng sẽ tăng, từ đó các ngành khác sẽ bị ảnh hưởng
trong giữ chân lao động và tiết kiệm chi phí lao động.
Về hàng hóa tiêu dùng, tác động trước hết là những hàng hóa mà khách du lịch tiêu
dùng, trước hết là thực phẩm và một số nhu yếu phẩm. Kế đó, thu nhập của những người
làm du lịch tăng dẫn đến mặt bằng giá hàng tiêu dùng chung cũng tăng. Điều này sẽ gây áp
lực cho cư dân địa phương mà không làm du lịch.
2.2.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Du lịch phát triển sẽ có những tác động to lớn đến cộng đồng cư dân địa phương về văn
hóa và xã hội. Cộng đồng ở đây có thể là dân cư của một quốc gia, khu vực hoặc địa điểm,
là một nhóm những người sống chung trong cùng một vị trí. Sau nhiều năm tồn tại, một
cộng đồng sẽ phát triển truyền thống, thái độ và phong cách sống riêng của mình có thể có
ít nhiều đặc biệt. Tất cả thường được kết hợp trong từ 'văn hóa'.
Khi khách du lịch vào nước chủ nhà, họ không chỉ mang theo sức mua mà còn mang
theo lối sống của họ nữa. Điều này một mặt giúp cư dân địa phương có cơ hội để giao lưu
văn hóa. Nhưng mặt khác cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực về văn hóa. Có nhiều công
trình nghiên cứu về những tác động phi kinh tế của du lịch, nhưng đáng tiếc là trong lĩnh
vực này, chúng ta chủ yếu gặp những phân tích về tác động tiêu cực của phát triển du lịch
nhằm yêu cầu phải có các giải pháp quản lý. Những công trình nghiên cứu như vậy sẽ tiếp
tục xuất hiện và thậm chí sẽ ngày càng nhiều hơn.
Một khu nghỉ có cơ sở hạ tầng dựa trên các tiêu chuẩn phương Tây được xây dựng ngay
cả trong các nước nghèo nhất. Khu nghỉ này cung cấp cho các khách du lịch phương xa một
'bong bóng sinh thái' bảo vệ lối sống quen thuộc của họ - thậm chí cực đoan hơn là việc xuất
hiện các khu nghỉ mà trong nhân viên là người nước ngoài, cả điều kiện vật chất, phong
cách phục vụ, ngôn ngữ sử dụng,… tách rời hẳn với truyền thống địa phương. Trong một
nghĩa nào đó, khách du lịch nước ngoài không tích hợp thành một thành tố của xã hội tại
chỗ, mà đúng hơn, họ đối đầu với nó. Khi số lượng khách du lịch là lớn và thường xuyên,
phản ứng tiêu cực của cộng đồng cư dân bản địa là không tránh khỏi. Phản ứng có thể dưới
hai hình thức: hoặc là thái độ từ chối khách du lịch nước ngoài của người dân địa phương,
hoặc là chấp nhận những mô hình hành vi của người nước ngoài để tạo thành một “hiệu ứng
trình diễn” xã hội, tức người dân địa phương bắt chước những gì người nước ngoài mặc và
làm. Trong cả hai trường hợp, vấn đề sẽ phát sinh. Mức độ tác động là khác nhau ở những
điểm đến khác nhau, nó lệ thuộc vào số lượng khách du lịch đến, sức mạnh văn hóa của
cộng đồng và khả năng hạn chế những tác động tiêu cực của địa phương thông qua các hoạt
động để giúp khách du lịch biết về phong tục địa phương, truyền thống và "điều cấm kỵ".
Các tác động xã hội và văn hóa cơ bản là vấn đề định tính hơn là con số định lượng vì vậy
đây là lĩnh vực khó ra quyết định định lượng. Ví dụ, Seychelles đã xác định giới hạn tăng
trưởng hàng năm của các cơ sở lưu trú là 4.000 buồng phòng trong kế hoạch phát triển du
lịch của mình. Nhưng tại sao là con số 4.000 chứ không phải 5.000 hoặc thậm chí 3.000? Ở
một mức độ, giới hạn công suất được xác định theo đặc điểm của vùng và sự sẵn có của cơ
sở hạ tầng, điều này nghe có vẻ có cơ sở nhưng không xác định thực tế về khả năng chịu
đựng của điểm đến.
2.2.2.1. Tác động lên hành vi xã hội và các giá trị văn hóa
Khi khách du lịch đến, họ mang theo một kiểu hành vi khác mà có thể biến đổi một cách
sâu sắc những thói quen xã hội của địa phương thông qua việc loại bỏ và thay đổi những
tiêu chuẩn (giá trị văn hóa) của dân cư sở tại. Ngoài ra, du lịch là một “sự kiện xã hội khổng
lồ” có thể dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc xã hội. Cả hai loại thay đổi trên mang tính
phổ biến ở khắp nơi trên thế giới.
Trong mùa du lịch, dân cư không chỉ phải chấp nhận những ảnh hưởng của tình trạng
quá đông mà họ còn phải thay đổi cách sống (gia tăng công việc thời vụ, làm việc theo ca)
và sống gần gũi với những đối tượng khách du lịch khác nhau, chủ yếu là dân thành thị,
những người đến đơn giản chỉ để giải trí. Sự 'chung sống' này thường dẫn đến các căng
thẳng xã hội và tinh thần bài ngoại, đặc biệt nơi dân cư, vì lý do tâm lý, văn hóa, xã hội,
chưa sẵn sàng để chấp nhận 'cuộc xâm lược du lịch'.
“Hiệu ứng trình diễn”, kết quả từ sự tương tác gần của các nhóm khác nhau dẫn đến sự
biến đổi của các giá trị. Phổ biến nhất là do kỳ vọng tăng lên của dân địa phương với mong
muốn đạt được tiêu chuẩn vật chất và hình ảnh như của khách du lịch. Những thay đổi các
giá trị xã hội đến lượt nó lại dẫn đến thay đổi những tiêu chuẩn chính trị, đôi khi đưa đến
những hậu quả đáng ngại. Bên cạnh đó, người ta cũng thấy sự suy giảm trong giá trị đạo
đức và tôn giáo hiển thị thông qua mức độ tội phạm gia tăng. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi
quy tất cả cho du lịch, đây là những thay đổi xã hội ảnh hưởng đến cộng đồng trong quá
trình hiện đại hóa. Du lịch chỉ làm tăng tốc quá trình chứ không tạo ra nó.
2.2.2.2. Tác động văn hóa
Ở đây bàn về tác động đến các hiện tượng văn hóa. Du lịch có thể tạo ra chi phí xã hội,
thường khó ước tính, nhưng không thể bỏ qua. Một ví dụ là mối đe dọa cho trang phục
truyền thống đặc thù của mỗi nước và mỗi vùng. Tuy nhiên, du lịch cũng có thể trở thành
người bảo trợ cho việc bảo vệ những truyền thống như là duy trì sức hấp dẫn của điểm đến.
Điều quan trọng trong bảo vệ và duy trì di sản văn hóa là việc đối phó với các vấn đề như
đào trộm di sản, mua bán bất hợp pháp cổ vật và động vật hoang dã, việc thương mại hóa
các sự kiện văn hóa truyền thống dẫn đến việc tạo ra các giả văn hóa, văn học dân gian phế
phẩm cho du lịch vốn không có giá trị văn hóa cho người dân địa phương hay khách du lịch.
Vấn đề là các xung đột tiềm tàng giữa kinh tế và lợi ích văn hóa, dẫn đến văn hóa bị hy sinh
cho lý do tạo ra một giá trị kinh tế bổ sung giá trị văn hóa bị mất. Tuy nhiên, xét trên bình
diện thế giới, việc gia tăng tiếp xúc của dân cư với các nền văn hóa khác do du lịch là một
quá trình không thể đảo ngược. Trên mức độ xã hội, du lịch được tổ chức tốt có thể có lợi
cho sự kết nối giữa khách du lịch và người dân địa phương, khuyến khích trao đổi văn hóa,
dẫn đến sự thưởng thức thân thiện và có trách nhiệm. Cuối cùng, sẽ tăng cường liên kết
giữa các quốc gia. Từ quan điểm của du lịch có trách nhiệm, những tác động tích cực có thể
có được mà những tác động. Đó có thể là:
1. Du lịch hình thành một phương pháp phát triển và thúc đẩy nhất định những khu vực
nghèo hoặc phi công nghiệp hóa, nơi các hoạt động truyền thống bị mai một do thiếu hỗ trợ.
Mặt khác, sự phát triển du lịch cho phép cư dân địa phương không phải bỏ xứ tha hương,
cộng đồng vẫn còn nguyên vẹn và làm chậm quá trình di dân lên thành phố lớn. Việc lưu
giữ và tiếp tục của cộng đồng tại chỗ thường là cách tốt nhất để bảo tồn truyền thống và lối
sống. Các cơ hội thu nhập và việc làm phát sinh từ du lịch cung cấp một sự ổn định cho
cuộc sống cộng đồng. Hội An là minh chứng sống động cho quá trình này.
2. Du lịch làm nổi bật các giá trị xã hội có sức hấp dẫn khách du lịch, du lịch phát triển
đòi hỏi một môi trường văn hóa chất lượng cao.
3. Nếu quản lý thích hợp, du lịch có thể đảm bảo việc bảo tồn lâu dài môi trường của
vùng cảnh quan có vẻ đẹp tự nhiên nổi bật và/hoặc có giá trị thẩm mỹ, ví dụ Vịnh Hạ Long,
Công viên quốc gia ở Mỹ, Ayers Rock tại Úc.
4. Du lịch có thể kích thích phục hồi truyền thống kiến trúc địa phương. Những công
trình kiến trúc gắn liền với điều kiện đặc thù của khu vực, di sản của tổ tiên và môi trường
văn hóa sẽ được tôn trọng. Với góc độ này, du lịch là động lực cho sự hồi sinh cho các đô
thị cổ.
5. Du lịch góp phần làm hồi sinh nghệ thuật địa phương, các lễ hội văn hóa và nghề sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống trong một khung cảnh môi trường tự nhiên được
bảo vệ. Nghề đá Non Nước nếu không có sự phát triển du lịch thì có lẽ đá Non nước đã bị
khai thác cạn kiệt cho nhu cầu vật liệu xây dựng.
6. Trong trường hợp thuận lợi nhất, du lịch có thể cung cấp một cách để làm sống lại đời
sống xã hội và văn hóa của người dân địa phương, củng cố các cộng đồng dân cư, khuyến
khích giao lưu với cả nước, thu hút những người trẻ tuổi từ nơi khác về địa phương.
Cần lưu ý rằng các tác động kinh tế của du lịch thường được quan sát thấy trong ngắn
hạn nếu không nói là ngay lập tức. Khách du lịch có thể nhìn thấy điều này khi đến sân bay
và chi tiêu tiền. Những tác động xã hội và văn hóa mất rất nhiều thời gian thay đổi và bộc
lộ. Những thay đổi này thường tinh tế và khó đo lường. Vấn đề là những thay đổi chậm
chạp này sẽ tích lũy dần các mâu thuẫn cho đến một ngày chúng bộc phát dưới hình thức
bạo lực của sự bất mãn. Sự bùng phát như vậy sẽ ngăn chặn dòng khách du lịch và thường
mất nhiều năm kiên nhẫn (và tốn kém) để xây dựng lại hình ảnh. Vì vậy khi phát triển du
lịch chúng ta phải xác định các xung đột tiềm năng, xoa dịu tình huống trước khi chúng xảy
ra. Tuy du lịch là một khái niệm trừu tượng nhưng khách du lịch là không trừu tượng - họ
có mặt trong xã hội và có thể trở thành tâm điểm cho sự oán giận của địa phương. Điều này
phải được tránh, không chỉ vì lợi ích của du lịch và khách du lịch, mà còn cho các cộng
đồng địa phương. Khái niệm phát triển bền vững đã được áp dụng cho du lịch. Nhà quy
hoạch du lịch cần có ý thức về sự cần thiết phải nhìn thấy sự phát triển du lịch trong một
tầm nhìn dài hạn. Một trong những hướng được nhiều nơi thực hiện là sự phát triển du lịch
ở một nơi nào đó phải được sự đồng ý của cộng đồng nơi đó. Thậm chí, nhiều địa phương
phát triển du lịch dưới hình thức du lịch cộng đồng. Ở đó, cộng đồng cư dân địa phương có
quyền tham gia vào cả quy hoạch và quản lý phát triển du lịch, là người được hưởng trước
hết những lợi ích từ phát triển du lịch. Đây là loại hình “du lịch cộng đồng” được nhiều nơi
áp dụng thành công.
Cần lưu ý rằng du lịch là một sự mua bán tùy ý. Khách du lịch phải được thuyết phục,
họ không thể bị cưỡng chế để tham quan một đất nước. Nếu một quốc gia đã bị mang tiếng
có thái độ thù địch với khách du lịch, lượng khách đến sẽ dần suy giảm, không có điều biện
minh nào có thể thuyết phục khách. Trong quy hoạch du lịch, bảo vệ lợi ích của cộng đồng
địa phương cũng quan trọng như đảm bảo sự viếng thăm lâu dài và sự chấp nhận của khách
du lịch; cả hai mục tiêu này có quan hệ liên kết với nhau.
2.2.3. NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Cả chính quyền, cư dân địa phương, doanh nghiệp du lịch và khách du lịch ngày càng
quan tâm về các tác động đến môi trường của phát triển du lịch. Cần lưu ý rằng không phải
chỉ phát triển du lịch làm thoái hóa môi trường. Ở nhiều nơi, phát triển công nghiệp và nông
nghiệp cũng mang lại hậu quả tai hại không kém. Thế giới đang phải đối mặt với sự xuống
cấp của môi trường. Trong một thế giới phẳng như hiện nay, những vấn đề địa phương đang
thu hút sự chú ý toàn cầu. Mặc dù phát triển du lịch không là tác nhân lớn và duy nhất,
nhưng ở một số nơi, do phát triển du lịch phát triển không kiểm soát, môi trường tự nhiên
và hoạt động kinh doanh du lịch đều sẽ bị ảnh hưởng. Từ đó, người lập kế hoạch phát triển
du lịch ngày nay kể cả ở cấp độ quốc gia, địa phương hay doanh nghiệp đều phải có ý thức
cao hơn về trách nhiệm của mình đối với môi trường.
Trong định nghĩa rộng nhất, môi trường được hiểu là tất cả các yếu tố vật chất tạo nên
không gian mà con người hoạt động, trong đó bao gồm cả các yếu tố tự nhiên và được xây
dựng. Môi trường tự nhiên là những gì tồn tại từ thiên nhiên - khí hậu và thời tiết, tính năng
nước, địa hình và đất, thực vật và động vật, v.v… Môi trường xây dựng gồm những vật thể
do con người tạo ra, chủ yếu là các tòa nhà và các công trình kiến trúc khác.
Tuy nhiên, khi phân tích môi trường, chúng ta cần phân tích một cách toàn diện, các yếu
tố văn hóa xã hội và kinh tế của môi trường phải được tính đến. Trong thực tế, thường rất
khó để tách rời các thành phần kinh tế, xã hội và vật chất của môi trường. Tuyên bố Manila
của Tổ chức Du lịch Thế giới, được thông qua vào năm 1980, nhấn mạnh tầm quan trọng
của cả hai nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa trong phát triển du lịch, và sự cần thiết
phải bảo tồn các nguồn tài nguyên này vì lợi ích của du lịch cũng như của cư dân địa
phương. Tuyên bố chung trong Chương trình Môi trường năm 1982 của UNWTO và Liên
Hợp Quốc đã chính thức hóa yêu cầu về sự phối hợp liên ngành trong phát triển du lịch và
bảo vệ môi trường.
Việc bảo vệ, tăng cường và cải thiện các thành phần khác nhau của môi trường là một
trong những điều kiện cơ bản cho sự phát triển hài hòa của du lịch. Tương tự như vậy, quản
lý hợp lý du lịch có thể đóng góp cho một mức độ lớn để bảo vệ và phát triển môi trường
vật lý và các di sản văn hóa, cũng như để cải thiện chất lượng cuộc sống ....
Có hai vấn đề môi trường chính. Một là tác động đến môi trường của du lịch, hai là cách
thức duy trì, và nếu cần thiết, nâng cao chất lượng tổng thể môi trường của khu du lịch.
Du lịch có thể tạo ra các tác động tích cực và tiêu cực về môi trường, tùy thuộc vào sự
phát triển được hoạch định và kiểm soát như thế nào. Những tác động chủ yếu được nêu
dưới đây. Không phải tất cả đều xảy ra như nhau. Những gì xảy ra và mức độ tác động của
từng hiện tượng phụ thuộc vào loại hình, quy mô phát triển du lịch và các đặc điểm môi
trường của khu vực.
Do điều dễ thấy là khối lượng khách du lịch càng đông, xu hướng tạo ra các tác động
môi trường càng lớn nên nhiều nơi đang đặt ra vấn đề hạn chế số lượng khách du lịch tại
các điểm tham quan và điểm đến. Tuy nhiên, hiểu một cách tích cực, bảo vệ môi trường là
sự bảo đảm cho du lịch phát triển bền vững. Du lịch bền vững là du lịch cho phép giảm
thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho môi trường tự nhiên và cộng
đồng địa phương, là sự phát triển không ảnh hưởng xấu đến nguồn lực cho sự phát triển của
mình, bảo đảm cho sự phát triển hôm nay và cả cho các thế hệ tương lai.
Trên quan điểm đó, chúng ta xét các mặt tác động của du lịch đến môi trường. Trên từng
mặt, chỉ ra các hoạt động có thể thực hiện để hạn chế những tác hại.
2.2.4.1. Quan điểm toàn diện về đánh giá tác động của du lịch
Phát triển du lịch có tác động tích cực hay tiêu cực đến vùng nhận khách và cả vùng gửi
khách là một trong những cuộc tranh luận thu hút nhiều nhà nghiên cứu du lịch hiện nay.
Một thời gian dài, du lịch được coi là nhân tố thuận lợi và có ảnh hưởng tích cực đến điểm
đến. Tuy nhiên, như đã nói ở chương 1, với sự ra đời của một thế hệ mới máy bay phản lực
vào cuối năm 1960 và đầu những năm 1970, và tăng trưởng du lịch quốc tế vẫn tiếp tục cho
đến ngày nay, du lịch đã bộc lộ những tác động không mong muốn cho các điểm đến bên
cạnh các lợi ích kinh tế tiềm năng của nó.
Có một số vấn đề cần lưu ý:
Những tác động này sẽ được giới thiệu một cách phân tích với việc phân chia thành các
tác động tích cực, tiêu cực, các tác động kinh tế, xã hội và môi trường nhưng cũng xin
nhấn mạnh rằng những tác động này không rời rạc mà luôn có sự ảnh hưởng trong quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Một trong những khía cạnh quan trọng trong việc đánh giá tác động của du lịch là việc
nhận thức về tác động của du lịch thường khác nhau bởi những người khác nhau.
Du lịch phát triển gây ra sự thay đổi, có những thay đổi nhanh chóng tức thời, nhưng
cũng có những thay đổi rất chậm. Trường hợp thay đổi xảy ra rất chậm và đang gia tăng
trong tự nhiên thường tương đối ít có thái độ tiêu cực. Hầu hết các trường hợp phản đối
liên quan đến những thay đổi tiêu cực nhanh chóng của du lịch như tăng chỉ số giá, tác
nghẽn giao thông, ứ đọng rác thải,… bởi thay đổi nhanh chóng làm cho cộng đồng khó
khăn trong thích ứng với thay đổi. Thế nhưng những thay đổi chậm cũng không kém
phần nguy hại, nếu không muốn nói luôn có ảnh hưởng lâu dài, khó khắc phục. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, nhận thức về hậu quả của du lịch đã tăng đều đặn do
đó thái độ với du lịch không khác so với bất kỳ hình thức nào khác của phát triển công
nghiệp. Thật vậy, cộng đồng ngày càng thấy rằng, du lịch có tiềm năng lớn trong việc
làm thay đổi một số lĩnh vực như văn hóa và quan hệ xã hội, bởi vì cùng với việc tạo ra
những trải nghiệm cho khách du lịch, bản chất du lịch đòi hỏi phải có sự trao đổi xã hội.
1. Mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các khía cạnh tác động
Một cách hàn lâm, như đã trình bày ở trên, tác động của du lịch được chia thành ba loại
chính: môi trường (đề cập đến môi trường vật lý, sinh thái), xã hội và kinh tế (Matheson và
Wall 1982). Việc phân loại này không tách bạch, một tác động có thể trên các lĩnh vực khác
nhau hoặc tác động trên lĩnh vực này rồi từ đó ảnh hưởng đến lĩnh vực khác nhưng phân
chia như vậy là cần thiết cho nhận thức về tác động của du lịch. Chúng ta có thể mô hình
hóa sự giao thoa của các khía cạnh tác động như ở hình 2.2.
Các mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội
có nghĩa là chúng có một vùng chung mà từ đó hình thành quan điểm về phát triển du lịch
bền vững.
Các tác
động KT-XH
CÁC (phân phối thu nhập,…) CÁC
TÁC ĐỘNG TÁC ĐỘNG
XÃ HỘI KINH TẾ
Cách tiếp cận Các tác
Các tác hội nhập của tác . động KT-MT
động XH-MT động. (giá trị kinh tế
(cảnh quan thay của tổn thất môi
đổi …) trường…) .
CÁC TÁC ĐỘNG
MÔI TRƯỜNG VÀ
NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN
Hình 2.3 Những mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau của các tác động du lịch
2. Vấn đề phân biệt tác động ở các bộ phận khác nhau của hệ thống không gian du lịch
Một vấn đề khác của tác động du lịch là chúng xảy ra ở các khu vực khác nhau và ở các
giai đoạn khác nhau của chuyến du lịch. Ví dụ, đối với các yếu tố của hệ thống không gian
du lịch (Bảng 2.4), rất nhiều các tác động của du lịch với xảy ra bên ngoài của điểm đến.
Việc xả thải gây hiệu ứng nhà kính từ các phương tiện giao thông chủ yếu xảy ra dọc theo
tuyến đường quá cảnh nhưng có tác dụng trên tất cả các yếu tố của hệ thống. Vì vậy, những
cộng đồng sống ở nơi diễn ra tất cả các giai đoạn của việc tạo ra chuyến đi sẽ bị ảnh hưởng.
Tuy vậy, vẫn thấy rằng tác động lớn nhất là vẫn ở vùng nhận khách.
Bảng 2.6 Ma trận về sự thay đổi do tác động của phát triển du lịch
Mức độ thấy Loại tác động Vùng Vùng Môi trường
Tuyến
được hậu quả (theo lĩnh vực bị ảnh gửi nhận bên ngoài
đường
của tác động hưởng) khách khách chuyến đi
Môi trường tự nhiên Tr.bình Tr.bình Cao Tr.bình
2.2.4.2. Phương pháp đánh giá tác động của phát triển du lịch
1. Yêu cầu về thấu hiểu tác động của du lịch
Như đã nói ở trên, tác động của du lịch phải được xem xét trong những điều kiện cụ thể.
Điều này yêu cầu phải có một phương pháp phù hợp trong việc xác định và thấu hiểu tác
động của du lịch (đến điểm đến du lịch) (Hall 2008) (Hình 2.3):
1. Khái niệm du lịch: Là vấn đề muôn thuở, cần xác định thế nào là du lịch và khách du
lịch, phân biệt du lịch với các hoạt động giải trí và rời khỏi nhà khác (xem chương 1). Dù
khó khăn, nhưng chúng ta cần tách các tác động của du lịch khỏi tác động của các hình thức
di chuyển khác của con người.
2. Thực hiện sự phân biệt: Tiếp theo sự xác định phạm vi của du lịch, cần phân biệt tác
động của du lịch với các tác động của các ngành công nghiệp và các hoạt động văn hóa
khác, thấy được cả tác động tích cực lẫn tiêu cực của phát triển du lịch. Trong thực tế, du
lịch thường xuyên bị quy trách nhiệm cho việc thay đổi các điểm đến ở các nước đang phát
triển. Ví dụ, một trong những cuốn sách đầu tiên về quy hoạch du lịch của Baud-Bovy và
Lawson (1977: 183) nhận xét rằng du lịch “là tác nhân gây ra sự thoái hóa không thể đảo
ngược những điểm thu hút, làm xói mòn tài nguyên thiên nhiên, làm hỏng cảnh quan bằng
các tòa nhà bê tông, gây ô nhiễm bãi biển, gây thiệt hại rừng, phá vỡ sự thống nhất và
không gian truyền thống của cộng đồng, thậm chí làm mất bản sắc văn hóa độc đáo bởi sự
du nhập ào ạt của các cơ sở kinh doanh nước ngoài”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, bất kỳ hình
thức phát triển nào cũng có thể ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và xã hội – cả tốt và
xấu. Các chỉ trích nhằm vào du lịch đặc biệt mạnh mẽ về các tác động văn hóa. Mặc dù rõ
ràng du lịch là một phần của quá trình toàn cầu hóa văn hóa nhưng thật khó mà phân biệt
đâu là ảnh hưởng của du lịch và đâu là ảnh hưởng từ những phương tiện truyền thông, mạng
internet hoặc ngay cả tôn giáo. Trong thực tế, có thể do tính hiển thị dễ thấy của khách du
lịch và các cơ sở kinh doanh du lịch, nó đã trở thành một tác nhân bị tập trung chú ý nhiều
hơn các tác nhân khác.
Môi trường
Hình 2.4 Thấu hiểu những tác động của môi trường
3. Khía cạnh phân tích (scale): Du lịch có tác động trên nhiều bình diện khác nhau, từ
các cá nhân đến các cộng đồng rồi các điểm đến và xa hơn nữa. Ngoài ra, du lịch tác động
theo thời gian. Vì vậy, trong nghiên cứu đánh giá các tác động của du lịch, xác định rõ
phạm vi phân tích và chỉ ra những ưu nhược điểm của ranh giới sử dụng là vô cùng quan
trọng. Ví dụ, phần lớn các nghiên cứu về tác động của du lịch dừng ở cấp độ điểm thu hút
hay một điểm đến, nghĩa là sẽ có một số những hiệu ứng toàn cầu của du lịch bị bỏ qua
(Gössling và Hall 2006; xem Chương 13) và, cũng với ý nghĩa vậy, nhiều nghiên cứu du
lịch là nghiên cứu “chụp ảnh” (nghiên cứu lát cắt tại một thời điểm) thay vì nghiên cứu
“quay phim” (nghiên cứu cả một quá trình kéo dài về thời gian). Phân tích như vậy không
cho chúng ta thấu hiểu cách du lịch ảnh hưởng đến một nơi theo thời gian. Các vấn đề về
bình diện và phạm vi phân tích đã ảnh hưởng nhiều đến các nghiên cứu về tác động kinh tế
của du lịch. Hiện đã có những sai lầm trong nhiều nghiên cứu về xác định phạm vi quy mô
của nền kinh tế cần nghiên cứu - các khu vực nhỏ được phân tích nhưng phân tích hiệu quả
số nhân buộc chúng ta phải xét đến những tác động ngoài vùng về thu nhập, việc làm,
nguồn thu ngân sách. Vì vậy, như đã nói, khi xác định phạm vi phân tích, cần chỉ rõ với
phạm vi này, những yếu tố nào được phân tích, những yếu tố nào không được phân tích
trong đánh giá tác động kinh tế, xã hội và môi trường.
4. Tác động qua lại: Du lịch thường được xem xét như một tác nhân tác động một chiều,
tức là du lịch ảnh hưởng đến điểm đến, mà không phân tích đầy đủ thực tế rằng du lịch và
điểm đến có tác động hai chiều, du lịch có ảnh hưởng tới điểm đến và ngược lại , điểm đến
ảnh hưởng đến du lịch. Đây là vấn đề quan trọng vì rõ ràng quá trình tương tác xảy ra ở tất
cả các cấp du lịch, từ quan hệ cá nhân giữa khách du lịch và các thành viên của cộng đồng
đến các xu hướng kinh tế và môi trường.
5. Thông tin cơ bản: Để thấu hiểu những tác động của du lịch, cần phải nắm rõ thực
trạng của vùng trước khi phát triển du lịch. Thật không may, chúng ta thường có rất ít dữ
liệu cơ bản như thế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta đành sử dụng các ước tính
gần đúng cả về khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
6. Giám sát: Ít điểm đến có sự giám sát liên tục về ảnh hưởng của phát triển du lịch. Ví
dụ, Úc, một quốc gia phát triển, theo Warnken và Buckley (2000), chỉ có 7,5 % điểm đến du
lịch tổ chức quá trình giám sát chính thức về tác động đến môi trường của phát triển du lịch.
Do hoạt động của con người là khó lường, các doanh nghiệp không muốn đầu tư cho giám
sát mà muốn khởi công xây dựng ngay sau khi nhận được phê duyệt, không có thời gian
phân tích thực trạng khu vực trước đầu tư, vì vậy chúng ta chỉ mới tổ chức giám sát sau khi
diễn ra sự kiện. Vì vậy. trong thiết kế đánh giá tác động môi trường, cần so sánh BA (trước,
sau), thậm chí cần sử dụng quy trình BACIP (trước, sau, điều khiển, tác động, lấy mẫu cặp-
before, after, control, impact, paired sampling).
7. Phân mảnh: Những kiến thức về tác động của du lịch rất rời rạc. Hiện tượng này là
kết quả của những vấn đề nêu trên, nhưng cũng bởi nghiên cứu du lịch thường chỉ tập trung
vào một số điểm đến hoặc chỉ một số khía cạnh nghiên cứu. Điều này yêu cầu phải có sự
nghiên cứu trên một số lượng đối tượng nhiều hơn và mang tính đa dạng hơn cho nhiều loại
hình du lịch như du lịch nghỉ biển nghỉ núi, tham quan thành phố, tham quan nông thôn, du
lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch có trách nhiệm,… và so sánh với các điểm đến
khác.
8. Vấn đề định nghĩa, vai trò và sự công nhận: Mặc dù nghe có vẻ hơi kỳ cục nhưng một
trong những vấn đề quan trọng nhất để phân tích tác động của du lịch là hiểu được thế nào
là tác động của du lịch. Phát triển du lịch tác động đến các đối tượng khác nhau theo cách
khác nhau. Tài nguyên du lịch là nguồn lực không khan hiếm, cách thức tác động của du
lịch đến tài nguyên chủ yếu là sự thậm dụng. Nó khác với cách thức tác động đến các nguồn
lực khan hiếm. Một vấn đề khác, nhiều tác động của du lịch được đánh giá khác nhau bởi
những người giữ vai trò khác nhau trong hệ thống du lịch. Khách du lịch, doanh nghiệp du
lịch, chính quyền, cư dân địa phương sẽ có khả năng nhận thức, góc độ tiếp cận, cách cảm
nhận,… khác nhau nên sẽ có những đánh giá khác nhau. Bên cạnh đó, những người khác
nhau, dân tộc khác nhau, với các giá trị văn hóa khác nhau có thể có nhận thức khác nhau
về hậu quả của du lịch, nhất là về các giá trị hoặc các phán đoán thẩm mỹ. Nói cách khác,
có những tác động của du lịch, ở cộng đồng này, người ta coi đó là vấn đề nhưng với một
cộng đồng khác, điều này có thể không được quan tâm. Một resort được xây dựng tại vùng
cảnh quan, đối với người này, đó là sự ô nhiễm kiến trúc nhưng đối với người khác lại được
coi là đẹp và làm tăng giá trị cho khu cảnh quan.
9. Tích hợp: Phần lớn các nghiên cứu đã xem xét các tác động của du lịch trên một môi
trường cụ thể (môi trường kinh tế, môi trường xã hội và môi trường tự nhiên), hoặc trên một
vài thành phần nào đó của môi trường chứ không phải xem xét một cách toàn diện và ít có
công trình nghiên cứu có cách tiếp cận tích hợp để đánh giá các tác động của du lịch (Hall
và Härkönen 2006). Điều này có nghĩa rằng các vấn đề về tác động của du lịch thường được
thực hiện theo yêu cầu pháp lý trên một bình diện nào đó chứ không phân tích các vấn đề
trong mối quan hệ được hòa quyện vào nhau. Ví dụ, vấn đề môi trường tự nhiên thường là
kết quả của các vấn đề kinh tế và xã hội và vì vậy, không thể thấy nguyên nhân của nó trong
sự tách biệt và các biện pháp xử lý vấn đề môi trường sẽ không hiệu quả trừ phi chúng ta
đặt vấn đề phân tích và giải quyết nó qua sự phân tích toàn diện cả về môi trường tự nhiên,
xã hội và kinh tế.
2. Phương pháp tiếp cận trong đánh giá toàn diện
Để giải quyết vấn đề đánh giá tích hợp, có hai cách tiếp cận ngày càng được sử dụng
nhiều. Đó là cách tiếp cận tích hợp và tiếp cận hậu pháp lý.
2a. Phương pháp tiếp cận tích hợp
Phương pháp tiếp cận tích hợp khá thích hợp trong quản trị tài nguyên, chỉ ra được mối
quan hệ giữa các bên liên quan. Với tiếp cận tích hợp, chiến lược hợp tác ngày càng được
sử dụng nhiều trong quản trị môi trường và tài nguyên vốn liên quan đến nhiều bên, có
nhiều quan điểm về vấn đề và giải pháp. Hợp tác là “một quá trình qua đó các bên nhìn thấy
ở một vấn đề những khía cạnh khác nhau, có thể khám phá sự khác biệt của họ và tìm các
giải pháp vượt qua tầm nhìn hạn chế riêng của các bên về những gì có thể” (Gray 1989: 5).
Nó là một quá trình có sự tham gia của nhiều bên cùng mong muốn:
1. Thống nhất một mục đích chung.
2. Đảm bảo giải quyết vấn đề một cách vừa toàn diện vừa minh bạch.
3. Cho phép các bên tham gia vào thiết kế quá trình.
4. Thúc đẩy hoạt động chung trong tìm kiếm và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
5. Nhấn mạnh vào trách nhiệm.
6. Phát triển một kế hoạch hành động.
7. Phát triển sự lãnh đạo hợp tác (Margerum 1999; Margerum và Whitall 2004).
Chẳng hạn trường hợp khai thác hồ nước cho du lịch, một loại hình du lịch rõ ràng gắn
liền với việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và có nhiều bên khai thác, Hall và Härkönen
(2006) đã xác định bốn lý do tại sao phương pháp cộng tác và tích hợp được sử dụng trong
việc quản lý hệ thống hồ mà ở du lịch là hoạt động quan trọng:
1. Sự cạnh tranh giành nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng gia tăng, cùng với
ý thức về bảo tồn hệ sinh thái, đã làm tăng xung đột trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Cách tiếp cận hợp tác được xem như là một thay thế tốt cho phương pháp tiếp cận pháp lý
thường gây tốn kém trong giải quyết xung đột.
2. Cùng với gia tăng hiểu biết về tính phức tạp của hệ thống tự nhiên và xã hội, người ta
càng thấy cần phải có những hoạt động mang tính tổng hợp trong quản trị với sự tập hợp
rộng lớn hơn các nhà hoạch định chính phủ và phi chính phủ có năng lực cung cấp và phân
tích thông tin.
3. Nhiều vấn đề môi trường hiện nay là kết quả của các hành động thứ phát như thay đổi
dòng nước, thay đổi mục đích sử dụng đất hay thay đổi nơi cư trú,… là những điều khó
được giải quyết thông qua các hành động pháp lý truyền thống. Do đó cách tiếp cận hợp tác
cho phép có được sự tham gia của nhiều bên sẽ phù hợp hơn trong thúc đẩy sự hiểu biết và
cam kết của một số lượng lớn những người ra quyết định.
4. Có nhiều cơ quan và tổ chức khác nhau có trách nhiệm chồng chéo. Rõ ràng cách tiếp
cận hợp tác tạo cơ hội để giảm lãng phí, trùng lặp, xung đột và cho phép chia sẻ dữ liệu và
chuyên gia.
2b. Phương pháp tiếp cận hậu pháp lý (post-disciplinary approache)
Cùng với những thay đổi trong các cách tiếp cận quản trị, chúng ta cũng có một cơ sở
triết lý khác để giải quyết vấn đề. Sự phức tạp của các tác động từ du lịch cho thấy rằng
chúng ta cần có những cách giải quyết vấn đề ngoài cách sử dụng pháp luật. Việc quản trị
nguồn lực đã dẫn đến phương pháp tiếp cận liên ngành và xuyên ngành trong đó các vấn đề
chứ không phải quan hệ pháp lý là mối quan tâm chính (Mitchell 1989). Trong du lịch, cách
tiếp cận như vậy gọi là quan điểm hậu pháp lý (Coles et al. 2006). Ví dụ, Coles et al. (2006:
18) đã quan sát thấy sự xuất hiện của các hình thức mới của du lịch và tính cơ động ngày
càng tăng của một số nhóm xã hội đòi hỏi sự tiếp cận đa chiều với sự đóng góp của các
chuyên gia từ ngoài lĩnh vực du lịch. Rõ ràng sự di chuyển chưa từng có của con người và
từ đó là sự phức tạp của các quan hệ giữa du lịch với thay đổi môi trường toàn cầu đã vượt
quá khả năng của cách tiếp cận pháp lý riêng lẻ. Cách tiếp cận hậu pháp lý, ở đó có sự phối
hợp giữa các cá nhân và tổ chức đa ngành và xuyên ngành không có nghĩa là những ngành
truyền thống đã biến mất hoặc sẽ biến mất, đúng hơn là chúng đang thay đổi và nên thay đổi
để giải quyết các vấn đề phức tạp của các vấn đề con người. Chúng ta không thể tiếp cận
các vấn đề phức tạp như vậy từ bất kỳ một ngành duy nhất nào.
Trong một bài báo chuyên đề mô tả các kết nối giữa du lịch và bảo tồn, Budowski
(1976) đã xác định ba mối quan hệ khác nhau giữa du lịch và môi trường cần được sử dụng
để mô tả mối quan hệ giữa du lịch và tất cả các khía cạnh của môi trường điểm đến. Đó là
những quan hệ xung đột, cùng tồn tại và cộng sinh cả về xã hội và kinh tế:
1. Du lịch và môi trường có sự mâu thuẫn. Đó là khi du lịch được coi là có ảnh hưởng
xấu đến môi trường của cư dân ở điểm đến.
2. Du lịch và môi trường đang ở trong tình trạng cùng tồn tại. Đó là khi du lịch không có
tác động tiêu cực nhưng cũng không có đóng góp tích cực gì cho môi trường. Tình trạng
này hiếm khi tồn tại trong thực tế nhưng ta vẫn có thể sử dụng với hàm ý rằng mọi thứ đang
ở tình trạng thay đổi rất chậm.
3. Cuối cùng, có một mối quan hệ cộng sinh. Đó là khi du lịch tích cực đóng góp cho
môi trường và ngược lại. Đây là quan hệ win-win cổ điển, trong đó khách du lịch được
hưởng lợi và chất lượng cuộc sống của điểm đến nói chung được cải thiện như môi trường
xã hội, kinh tế và thể chất đều được tăng cường bởi du lịch.
Trạng thái cuối cùng này rõ ràng được coi là lý tưởng khi chúng ta đánh giá các hậu quả
của du lịch và nó là một trong những đòi hỏi không chỉ đánh giá tổng hợp các tác động của
du lịch, mà còn là một chiến lược quy hoạch tổng hợp.
***
Mục 2.2 này đã cung cấp một đánh giá các tác động của du lịch đến điểm đến và những
ảnh hưởng tổng thể của du lịch. Là một phần của một phương pháp tiếp cận các dịch vụ du
lịch hiện đại. Nội dung nêu bật một thực tế rằng khi trải nghiệm du lịch là kết quả của một
sự phối hợp thì các các tác động của nó sẽ liên quan đến nhiều trên nhiều phương diện. Nội
dung được trình bày ở trên chỉ ra rằng một số yếu tố sẽ ảnh hưởng khác nhau lệ thuộc vào
quan điểm, tiêu chuẩn giá trị và vị trí của người đánh giá trong hệ thống du lịch, dẫn đến họ
(a) quan sát thấy như xảy ra và (b) liên quan một cách tích cực, tiêu cực hay trung tính.
Điều này có nghĩa rằng một tác động của ngành du lịch tại cùng một nơi đồng thời được coi
là tích cực với người này và tiêu cực với người khác. Thật vậy, như đã lưu ý, tác động cũng
có thể được nhìn nhận khác nhau khi xem xét trạng thái hay quá trình. Vì vậy, trong việc
tìm hiểu tác động của du lịch, vấn đề không phải là chỉ ra tác động mà quan trọng hơn là
làm thế nào nó được cảm nhận và hiểu rõ nó ở những giác độ khác nhau. Trải nghiệm du
lịch được đồng sáng tạo nhưng hệ quả của nó được nhìn nhận khác nhau ở các bên liên quan
khác nhau.