You are on page 1of 43

CHƯƠNG 2: CÔNG NGHIỆP DU LỊCH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG

KINH TẾ - XÃ HỘI - MÔI TRƯỜNG CỦA DU LỊCH


2.1. HỆ THỐNG CÁC NGÀNH TRONG CÔNG NGHIỆP DU LỊCH
Sản phẩm du lịch được tạo bởi các dịch vụ vận chuyển, lưu trú và ăn uống, tham
quan giải trí, mua sắm hàng lưu niệm, được đóng gói và phân phối thông qua các dịch vụ lữ
hành. Mỗi loại dịch vụ nêu trên được cung ứng bởi các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh
doanh khác nhau. Mỗi ngành có các loại hình doanh nghiệp, cấu trúc ngành khác nhau và vì
vậy hành vi doanh nghiệp trong mỗi ngành cũng có những đặc thù của mình.

2.1.1. NGÀNH VẬN CHUYỂN DU LỊCH


Dù thực tế, theo các số liệu thống kê, chúng ta thấy rằng dịch vụ vận chuyển hành
khách trong du lịch bị thống trị bởi hai hình thức vận chuyển chính: ô tô, nhất là xe riêng ở
các nước công nghiệp phát triển, cho các chuyến đi khoảng cách ngắn (hầu hết là du lịch
trong nước), và vận chuyển hàng không cho du lịch quốc tế hay khoảng cách dài.
Bảng 2.1 Cơ cấu các chuyến đi phân theo phương tiện vận chuyển sử dụng (%) năm 2010
Các chuyến đi quốc tế Các chuyến đi trong nước
Quốc gia
Hàng không Ô tô riêng Khác Hàng không Ô tô riêng Khác
Mỹ 58 38 4 18 77 5
Nhật Bản 99 0 1 4 57 39
Anh 51 26 23 2 80 18
Nguồn: Individual country NTO statistics

Tuy nhiên, các phương tiện sử dụng để vận chuyển hành khách trong du lịch là hết
sức đa dạng, bao gồm cả vận chuyển đường không, đường bộ, đường sắt và đường thủy.
Xét trên khía cạnh vận chuyển khách du lịch, các nhân tố chính ảnh hưởng đến sự lựa
chọn của khách du lịch là:
 tiện nghi cho hành khách trong vận chuyển (tốc độ vận chuyển, các dịch vụ cung ứng
trong vận chuyển, sự mệt nhọc của hành khách khi tham gia vận chuyển,…),
 khả năng khám phá không gian du lịch (khả năng đưa khách đến sát các điểm du
lịch, khả năng thưởng thức cảnh quan trong khi di chuyển,..)
 và giá cước vận chuyển.
Mỗi phương tiện vận chuyển có những ưu nhược điểm khác nhau:
Dịch vụ hàng không có tốc độ nhanh nhất và sự thoải mái cao khi vận chuyển nhưng
giá cước cao và các điểm đón, nhận khách cũng như khả năng thưởng thức cảnh quan trên
đường bị hạn chế. Máy bay càng lớn (chẳng hạn, máy bay phản lực sức chứa lớn), sẽ càng
nhanh, càng mang lại sự tiện nghi nhưng càng kém khám phá không gian du lịch so với các
máy bay nhỏ và chậm (trực thăng, cánh quạt).
Ngược lại, dịch vụ vận chuyển đường bộ chậm và nhiều khách du lịch không chịu
đựng nổi sự vất vả khi di chuyển nhưng có thể mang khách du lịch đến cả các điểm du lịch
hẻo lánh và nếu biết lựa chọn tuyến hành trình thì bản thân quá trình di chuyển cũng mang
lại sự trải nghiệm du lịch thú vị. Vận chuyển đường bộ có một sự đa dạng rất cao các
phương tiện vận chuyển từ xe ô tô trên 50 chỗ xuống dần đến xe 4 chỗ cho đến xe gắn máy,
xe ngựa, cyclo, xe đạp và đi bộ. Càng kém tiện nghi hơn nhưng theo thứ tự trên, càng về
sau, khả năng khám phá không gian du lịch càng rộng mở hơn.
Đường sắt, với các loại hình tàu cao tốc, tàu suốt, tàu chợ,… có lẽ có những ưu
nhược điểm trung bình so với các phương tiện vận chuyển trên.
Vận chuyển đường sông luôn mang lại khả năng thưởng ngoạn cao cho khách khi mà
cảnh quan hai bên bờ sông không ngừng thay đổi trước mắt khách du lịch. Còn vận chuyển
đường biển du lịch, ngày nay, với các cruise ship trở thành một loại phương tiện vận chuyển
- lưu trú đặc thù của du lịch.
Mỗi loại hình vận chuyển có những ưu nhược điểm riêng vì vậy chỉ có sự sử dụng đa
dạng các loại phương tiện mới có thể tạo nên một trải nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài
lòng. Thông thường, với khoảng cách trên 500 km, đường không được sử dụng nhiều, từ
200 km đến 500 km là đường sắt, dưới 200 km là đường bộ. Trong nội thị, trong phạm vi
của một điểm thu hút, các phương tiện vận chuyển thô sơ được ưa chuộng.

2.1.1.1. Ngành vận tải hành khách hàng không


Trong vận chuyển du lịch, hàng không là một ngành còn non trẻ. Bắt đầu từ sau
chiến tranh thế giới lần II, với sự ra đời của các máy bay phản lực dân dụng công suất lớn,
ngành hàng không đã có những bước phát triển nhanh chóng về vận tốc, sức chứa, tiện nghi
và tầm hoạt động. Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, việc giảm điều tiết của chính phủ
với ngành hàng không đã làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành. Nhờ vậy, giá vé có phần
rẻ hơn, đặc biệt gần đây là sự xuất hiện ào ạt các hãng hàng không giá rẻ. Đây là nhân tố
chính để phát triển du lịch quần chúng trong du lịch quốc tế hiện đại.
Hiện nay, ngành hàng không là một ngành được tổ chức tốt: “Chúng ta chỉ cần gọi
điện thoại hay truy cập vào website của một công ty hàng không hoặc đại lý du lịch để đăng
ký vé. Việc còn lại là đến phi trường và gửi hành lý”. Điều đó cho thấy rằng ngày nay, với
ngành hàng không, dịch vụ trên không và dưới đất đều rất nhanh chóng và phối hợp tốt.
Về sản phẩm dịch vụ hàng không: chúng ta phân biệt hai loại hình sản phẩm:
 Các chuyến bay theo lịch trình định sẵn: tuyến bay cố định và giờ bay cố định
(scheduled flights)
 Các chuyến bay thuê chuyến.
Về cấu trúc ngành và cường độ cạnh tranh trong ngành: ở những quốc gia khác
nhau vào các thời kỳ khác nhau có cấu trúc ngành và theo đó mức độ cạnh tranh khác nhau
bởi các hãng hàng không cung cấp dịch vụ vận chuyển cho khách du lịch đã triển khai theo
những cách khác nhau ở những giai đoạn khác nhau và những nơi khác nhau. Chúng ta sẽ
dành nhiều thời gian cho nghiên cứu vấn đề này bởi nó phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai
quan điểm về cơ chế quản lý ngành: Nhà nước cần điều tiết mạnh mẽ hay để thị trường tự
điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành.
Trước năm 1978, ở Mỹ cũng như nhiều nước khác, chính phủ đã can thiệp sâu vào
thị trường hàng không. Lúc đó, hãng hàng không nào bay tuyến nào, bán với giá vé bao
nhiêu là do Chính phủ quy định. Đồng thời rào cản thâm nhập ngành là khá cao với các quy
định ngặt nghèo về việc thành lập một hãng hàng không mới. Lý do được đưa ra của việc
hạn chế sự cạnh tranh tự do này là:
 Sự cạnh tranh sẽ dẫn đến cắt giảm chi phí và vì vậy giảm an toàn bay: cạnh tranh có
nguy cơ giảm chi phí bảo trì máy bay, tận dụng tuổi thọ máy bay, kéo theo đội bay
gồm những máy bay già cỗi,
 Tự do kinh doanh dẫn đến các hãng chọn các tuyến bay nhiều lãi, các tuyến bay ít
khách, ít lợi nhuận sẽ không có hãng nào khai thác. Điều này dẫn đến dân cư nhiều
vùng, nhiều địa phương không còn tuyến bay phục vụ.
Kết quả của sự can thiệp này là lúc ấy, ở hầu hết các nước, chẳng hạn ở Mỹ:
 Giá vé quá cao (Ferederick Alfred Laker, cha đẻ của hàng không giá rẻ dưới hình
thức skytrain, năm 1977, tuyên bố rằng giá vé hàng không lúc đó cao gấp hai lần so
với giá vé mà nó có thể có nếu áp dụng tự do cạnh tranh),
 Chỉ một số ít hãng hàng không lớn khống chế thị trường hàng không (ở thị trường
hàng không nội địa Mỹ lúc đó là 4 ông lớn (Big fours): Pan Am, Eastern Airlines,
United Airlines, American Airlines),
 Các hãng hàng không hoàn toàn không lo việc phá sản.
 Các hãng hàng không nhỏ phát triển dịch vụ cho thuê chuyến để tránh sự độc quyền
các tuyến sinh lợi của các hãng lớn.
Với nỗ lực giảm sự kiểm soát của chính phủ ở các lĩnh vực mà sự điều tiết của chính
phủ làm các công ty tránh áp lực cạnh tranh, năm 1978, Quốc hội Mỹ thông qua một loạt
đạo luật bãi bỏ hầu hết những quy định điều tiết bảo hộ ngành hàng không, đường bộ và
đường sắt. Các công ty được phép cạnh tranh thông qua việc sử dụng bất cứ tuyến đường
hàng không, đường bộ, hoặc đường sắt nào mà họ chọn, đồng thời được phép tự do hơn khi
định giá cho các dịch vụ của mình. Kết quả là:
 Sự cạnh tranh trong hàng không Mỹ diễn ra quyết liệt, các hãng lớn truyền thống và
cả các hãng mới bị phá sản hoặc bị sát nhập (điển hình là Pan America World
Airways (Pan Am) và Eastern Airlines bị phá sản năm 1991) .
 Giá vé giảm mạnh, nhiều hãng hàng không nhỏ và hàng không giá rẻ ra đời,
 Từ đó dẫn đến loại hình du lịch bằng đường hàng không tăng mạnh. Năm 1978,
khách hàng bay tổng cộng 362.880 triệu km trên các hãng hàng không của Mỹ. Đến
năm 1997, số liệu đó đã tăng gần gấp ba, lên tới 968.640 km.
Sự phi điều tiết này sau đó lan tỏa sang Châu Âu và lan rộng sang các quốc gia khác
Từ khi phi điều tiết, sự cạnh tranh đã hình thành nên một tình huống mà ở đó:
 Các chuyến bay theo lịch trình định sẵn phát triển nhanh hơn hẳn so với các chuyến bay
thuê chuyến,
 Tồn tại độc quyền nhóm với 8 hãng lớn, chiếm 95% thị trường Mỹ,
 Các hãng đẩy mạnh dị biệt hóa sản phẩm (khác biệt trong tuyến vận chuyển, giá vé,
trong thuận lợi đặt vé)
Ở Châu Âu, nhà nước sở hữu một phần hay toàn bộ những hãng hàng không lớn. Vì
vậy, ở những công ty này, tối đa hóa lợi nhuận không phải là mục tiêu số 1 vì những lý do
chính trị như mở các tuyến bay 'cần thiết về mặt xã hội' hay 'những tuyến bay mị dân' ('flag-
waving routes'). Điều này khiến cho ngành hàng không châu Âu vào những năm 1980 chịu
sự điều tiết mạnh mẽ của chính phủ (dù ít chặt chẽ hơn Mỹ). Và cũng như hàng không Mỹ
những năm 1970’s, tồn tại và phát triển những hãng hàng không cho thuê như Sterling,
Britannia và Arco Lloyd. Các hãng này bỏ những chuyến bay theo lịch trình định trước trên
những tuyến phục vụ chủ yếu khách công vụ, tập trung vào khách du lịch giải trí từ Bắc Âu
đi Nam Âu (Chúng ta liên tưởng đến các chuyến bay thuê chuyến từ Đông Âu đến Cam
Ranh thời gian qua, Quảng Đông đến Việt Nam hiện nay). Những hãng hàng không này:
 vận hành với giá vé rất rẻ và hệ số tải trọng cao
 thường cung cấp dịch vụ hàng không như là một phần của chương trình du lịch trọn gói
 thường được sở hữu bởi các doanh nghiệp T.O.
 sử dụng năng lực ngoài mùa để cung cấp những chuyến bay theo lịch trình hay cho
các hãng vận chuyển khác thuê.
Tuy nhiên, việc phi điều tiết mạnh mẽ hơn nữa ở Châu Âu sau đó đã làm sự phân
biệt giữa hàng không theo lịch trình và hàng không cho thuê chuyến không còn rõ ràng.
Ở những phần còn lại của thế giới, những hãng hàng không có vai trò trong du lịch là
những hãng hàng không quốc gia. Nếu nhà nước là chủ sở hữu, chúng được yêu cầu phải
đóng góp vào hoạt động ngoại giao quốc gia hay mục tiêu phát triển thương mại hơn là
những công ty kinh doanh thuần túy. Nhiều hãng trong số này là những thành viên nhiệt
tình của khía cạnh phối hợp giá của IATA. Mặc dù vậy, quá trình tư nhân hóa ngày càng
tăng và sự cạnh tranh chống lại những hãng hàng không tư nhân hoạt động hiệu quả hơn đã
thúc đẩy những hãng hàng không thuộc sở hữu nhà nước trở thành những doanh nghiệp
định hướng lợi nhuận nhiều hơn. Cũng vậy, Việt Nam từ chỗ chỉ có một hãng Vietnam
Airlines giữ vị trí độc quyền thì sau 1990 vị trí này không còn với sự ra đời lần lượt của
Jetstar Pacific (1990), Vietjet Air (2007), Indochina Airlines (2008), Air Mekong (2010),…
Cạnh tranh quyết liệt dẫn đến tìm kiếm liên kết và các hình thức liên kết mới ra đời
như các thỏa thuận liên danh chia sẻ chuyến bay (flight-code sharing) (Trên một chuyến bay
nhưng chỗ ngồi có thể do những hãng khác nhau cùng bán với các code hãng khác nhau. Ví
dụ: trong cùng một chuyến bay, một chỗ ngồi có thể do Hàng không Việt Nam bán với code
VN123, nhưng chỗ ngồi khác lại do Quantar bán với code QT4567), liên doanh (joint-
operation) hay hợp nhất (consolidation) với các hãng khác. Suốt những năm 1990's, đã có
những hoạt động liên doanh, mua lại lớn của các hãng hàng không lớn như United Airlines,
British Airways và KLM. Nhiều chuyên gia đã dự đoán rằng giữa thế kỷ XXI, phần lớn
hàng không vận chuyển hành khách thế giới có thể được cung ứng bởi không quá 20 hãng
vận chuyển khổng lồ (megacarrier).

2.1.2. Ngành vận chuyển đường bộ


Nếu ngành hàng không là ngành vận chuyển quan trọng nhất trong phục vụ khách du
lịch quốc tế thì ô tô là phương tiện vận chuyển quan trọng nhất để phục vụ khách du lịch đi
lại trong nước. Sự thuận lợi của nó là giá cước thấp, cơ động, có thể đi đến hầu hết các nơi.
Vì vậy, vận chuyển đường bộ vẫn được coi là ngành quan trọng nhất trong vận chuyển du
lịch, đặc biệt trong nội bộ điểm du lịch và nối liền các điểm du lịch của một quốc gia. Do
đó, trong hình thành một điểm du lịch, vấn đề quy hoạch và xây dựng hệ thống đường sá đi
lại là mối quan tâm hàng đầu.
Dịch vụ vận chuyển hành khách đường bộ bao gồm các dịch vụ vận chuyển công
cộng theo tuyến cố định và dịch vụ vận chuyển thuê chuyến ("xe hợp đồng"). Mặc dù có
những khách du lịch sử dụng phương tiện vận chuyển công cộng theo tuyến cố định của địa
phương và một số công ty vận chuyển du lịch kinh doanh tuyến cố định dưới hình thức
"chương trình du lịch mở (open tour)" nhưng phương thức vận chuyển theo lối thuê chuyến
là hình thức vận chuyển đường bộ có sự nổi bật rõ ràng trong du lịch văn hóa và giải trí.
Điều này, một phần vì giá cước rẻ thu hút cầu khá co giãn của một vài đoạn thị trường du
lịch giải trí, một phần vì khả năng linh hoạt trong vận hành cho phép chuyên biệt hóa thị
trường. Đặc thù này dẫn đến việc hình thành các công ty vận chuyển đường bộ chuyên phục
vụ khách du lịch.
Không như ngành hàng không, đường sắt, đường thủy, nhu cầu về vốn của kinh
doanh vận chuyển đường bộ thấp hơn nhiều, do đó số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị
trường này là khá lớn. Do chỉ phục vụ chủ yếu trên các cung đường dưới 300 km nên các
doanh nghiệp vận chuyển đường bộ đa phần mang tính địa phương và khu vực. Điều này
cũng góp phần làm gia tăng số lượng doanh nghiệp vận chuyển du lịch đường bộ của quốc
gia. Số lượng doanh nghiệp nhiều, năng lực thương lượng bán thấp, đối diện với sự tập
trung cao của các T.O. có năng lực thương lượng mua cao, cùng với sức ép bởi tính thời vụ
của du lịch, các Công ty vận chuyển du lịch đường bộ thường bị chèn ép, thậm chí bị khống
chế bởi các T.O. lớn.1
Suốt những năm 1970's và 1980's. nhiều quốc gia đã phi điều tiết hóa dịch vụ vận
chuyển hành khách đường dài và dẫn đến cạnh tranh đào thải. Chẳng hạn, trên các tuyến
đường chính ở bờ đông nước Úc, 10 công ty xe bus hoạt động trong năm 1987 nhưng năm
1
Ở nước ta, các doanh nghiệp vận chuyển du lịch đường bộ, ngoại trừ là đơn vị thành viên của các công ty du lịch, là
nơi tập hợp các chủ xe dưới hình thức hợp tác xã hoặc đăng ký tham gia doanh nghiệp nhưng vẫn tự hạch toán. Sự phân
tán này dẫn đến hiện tượng dễ bị các công ty du lịch lớn khống chế bằng các hợp đồng bao thuê cả năm.
1994, chỉ 6 công ty còn tồn tại. Cũng như với các hãng hàng không, sự cạnh tranh về giá đã
dẫn đến việc bán lại hay hợp nhất, như vậy, hệ số tập trung hóa đang tăng lên. Ở Mỹ, năm
1989, tập đoàn Greyhound/Trailways chiếm đến 60% tổng doanh thu xe bus liên thành phố.

3. Ngành vận chuyển đường sắt


Ở những quốc gia có mật độ dân cư và mạng lưới đường sắt phát triển, như Châu Âu và
Nhật Bản, du lịch đường sắt khá quan trọng. Nhưng ít có doanh nghiệp đường sắt đưa ra sản
phẩm riêng khác biệt đáng kể cho khách du lịch phân biệt với vận chuyển hành khách nói
chung. Trừ một số ngoại lệ sau:
 các chuyến tàu (cho thuê) chuyên biệt cho các chương trình du lịch trọn gói ở Châu
Âu,
 các sản phẩm nửa phân biệt như tuyến đường sắt qua vùng núi cảnh đẹp,
 dịch vụ vận chuyển ô tô của đường sắt.
Hầu hết các doanh nghiệp đường sắt là người cung ứng độc quyền về dịch vụ đường
sắt trong khu vực của mình, nhưng phải cạnh tranh với những hình thức vận chuyển khác.
Để cạnh tranh với ngành vận chuyển khác, ngày nay ngành đường sắt đang có những
chuyển biến tích cực về tốc độ và tiện nghi.
Việt Nam là đất nước hẹp và dài, nhiều cung đường chạy dọc theo biển hay đồi núi,
có cảnh quan rất đẹp (cung đường nối giữa hai điểm đến lớn Đà Nẵng và Huế, Nha Trang
và Quy Nhơn chẳng hạn), du lịch đường sắt có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, ở các cung
đường dài, ngày nay đường sắt Việt Nam đang bị sức ép cạnh tranh ráo riết bởi hàng không
giá rẻ.

4. Ngành vận chuyển đường thủy


Đường thủy là phương tiện giao thông có từ rất lâu, nhưng để khám phá du lịch thì
đó là hiện tượng khá mới mẻ. Vận chuyển đường thủy rất thích hợp cho những chuyến đi du
lịch vòng quanh biển (sea cruise). Trong những thập niên cuối thế kỷ XX ở Mỹ và Châu
Âu, những năm đầu thế kỷ XXI ở Châu Á, du lịch tàu biển là mode rất thịnh hành.
Nếu năm 1979 chỉ có 500.000 người tham gia loại hình du lịch này thì năm 1980 đã
có tới 3.000.000. Sở dĩ có tốc độ phát triển như vậy là nhờ sự tiện nghi và dễ dàng bố trí
thêm các dịch vụ giải trí trên tàu như khiêu vũ, giải trí…
Ngày nay, các công ty du lịch kinh doanh hoạt động này đang cạnh tranh nhau mạnh
mẽ thông qua việc phát triển các đội tàu, tăng cường các hoạt động giải trí trên tàu, nhất là
tìm kiếm thêm các cảng mới để ghé vào. Sự tăng trưởng này không chỉ ảnh hưởng đến
khách du lịch, các công ty cruise, mà còn đem lại sự khởi sắc cho các thành phố có cảng
đón tiếp. Đây là cơ hội cho các thành phố cảng biển, các đảo du lịch của nước ta.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy: Ở hầu hết các nước, cả hoạt động vận chuyển
đường không, đường bộ, đường sắt lẫn đường biển trải qua các giai đoạn sau: đầu tiên
ngành được cung ứng bởi các Công ty thuộc sở hữu nhà nước, được kiểm soát chặt chẽ, sau
đó các Công ty được đánh giá lại mục tiêu, rồi diễn ra quá trình phi điều tiết/tư nhân hóa
ngành và hiện nay hầu hết là những ngành cạnh tranh. Vận chuyển đường biển phục vụ du
lịch, không kể cruise, tương đối ít quan trọng ngoại trừ vận chuyển bằng phà trong những
khu vực như Địa Trung Hải, Biển Bắc và Baltic, và đến các điểm du lịch đảo.

2.1.2. NGÀNH KINH DOANH LƯU TRÚ

2.1.2.1. Sự phân tán và đa dạng của ngành kinh doanh lưu trú
Ngành kinh doanh lưu trú toàn thế giới có lẽ phân tán và đa dạng hơn bất kỳ ngành
nào khác trong du lịch. Phân tán tức là ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp nhỏ, đa dạng tức
là ngành có nhiều loại hình, cấp hạng, phong cách,… khác nhau. Đó là do:
 Thứ nhất, ngành kinh doanh lưu trú mang tính thương mại đã phải cạnh tranh với
việc cung cấp chỗ lưu trú bởi bạn bè và người thân vốn thường chiếm khoảng 30 -
50% đêm lưu trú của khách du lịch, bao gồm cả khách du lịch công vụ. Đặc thù
ngành dẫn đến quy mô tối ưu của một khách sạn thường không lớn.
 Thứ hai, hệ thống sản phẩm lưu trú là một chuỗi các loại sản phẩm đa dạng. Từ bãi
cắm trại đơn giản đến những khách sạn cao cấp và tàu cruise, khai thác những đặc
điểm về cảnh quan, bản sắc văn hóa và vật liệu địa phương, ngành kinh doanh lưu trú
có thể có sự dị biệt hóa sản phẩm hầu như vô tận.
 Thứ ba, các doanh nghiệp cung ứng luôn đa dạng bởi dịch vụ này có thể được cung
cấp bởi những cá nhân, tổ chức rất khác nhau: từ những Công viên quốc gia thuộc sở
hữu nhà nước vốn cung cấp một sản phẩm 'miễn phí' vì những lý do xã hội hơn là
kinh tế, rồi những cá nhân hay gia đình vốn có thể cho thuê căn hộ hoặc nhà của
mình chỉ với mong muốn vượt qua chi phí biến đổi của những gì liên quan đến tài
sản phục vụ kỳ nghỉ, cho đến các Công ty đa quốc gia hoạt động với mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận.
Nói chung, giá trị của 'sản phẩm lưu trú' có thể được hợp thành bởi ba bộ phận (sub-
pproduct) chính như trong hình 2.7. Việc phân chia này thuận lợi cho các nhà quản trị cơ sở
lưu trú trong phân tích để chọn cho mình cách phối hợp các bộ phận hợp thành tạo nên sự
khác biệt hóa sản phẩm, phục vụ sự định vị sản phẩm trên thị trường của doanh nghiệp.

Ngành lưu trú

Tài sản vật chất Dịch vụ lưu Phong cách và


trú các dịch vụ khác
Đất đai/không gian Dịch vụ phòng Chủ đề/trang trí
Hình cộ
Tòa nhà/xe 2.1. Các bộ phận hợp thành giá
Dịch vụ ăn uống trị sản phẩm lưu trú
Các hoạt động
Địa điểm Dịch vụ cá nhân 'Chất lượng'/hình ảnh
Chẳng hạn tàu biển cruise với ưu tiên là cung cấp cho khách một hệ thống các cảng
cập bến phong phú tạo sự khác biệt (hơn là cung cấp một bầu không khí chuyên biệt trên
tàu) và nhờ đó có thể cạnh tranh trực tiếp với các resort. Ở đây, bộ phận 'tài sản vật chất' là
tiêu chuẩn định vị. Ngày càng tăng, những nhà cung ứng dịch vụ lưu trú nhận thức rằng họ
đang cung cấp những bộ phận hợp thành (sub-products) chuyên biệt nào đó. Những công ty
quản lý khách sạn như Hilton hay Hyatt cung cấp 'Phong cách và các dịch vụ' thông qua
thương hiệu và hoạt động marketing, còn các tài sản vật chất thuộc sở hữu của các doanh
nghiệp khác.
Sự cạnh tranh trong hoạt động lưu trú cũng phụ thuộc vào khả năng bao phủ thị
trường về mặt địa lý. Hầu hết các doanh nghiệp lưu trú, nhất là những cơ sở lưu trú quy mô
nhỏ, sở hữu thương hiệu riêng, chỉ nhắm đến khách du lịch nội địa, khách địa phương.
Trong trường hợp này, sự cạnh tranh giới hạn trong tài sản vật chất, dịch vụ phòng và các
dịch vụ khác phụ thuộc vào quy mô của thị trường đó và giá cả phản ánh các điều kiện địa
phương. Khi nhà cung ứng dịch vụ lưu trú phục vụ thị trường quốc tế, họ sẽ cạnh tranh với
các quốc gia khác với một số lượng lớn các nhà cung ứng hiệu quả (mà có thể có cấu trúc
chi phí khác) nhắm đến những người tiêu dùng có nhu cầu đa dạng hơn. Cấu trúc này đặc
biệt đúng cho:
 Các chuỗi lưu trú đa quốc gia (như Holiday Corporation, Sheraton, Ramada hay Club
Mediterrance)
 Các chuỗi franchising (như Intercontinental của IHG Group, các thương hiệu Sofitel,
Novotel, Mercure,…của Accor,…),
 Những nhà cung ứng chất lượng cao, chuyên biệt mà giá cả và phong cách của nó
dành riêng cho một giới khách hàng riêng nào đó trên toàn thế giới (ví dụ Paris Ritz,
Cunard cruise),
 Các Hiệp hội liên kết quốc tế.
Có rất ít trường hợp độc quyền trong ngành lưu trú, ngay cả trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bởi các chính phủ đều thấy sự cạnh tranh trong kinh doanh lưu trú
mang lại lợi ích rõ ràng cho phát triển du lịch.

2.1.2.2. Các loại hình lưu trú


Sự đa dạng của các doanh nghiệp lưu trú thể hiện ở sự khác biệt của các doanh
nghiệp lưu trú về loại hình lưu trú, cấp hạng, quy mô và phong cách. Về loại hình, chúng ta
có thể phân biệt:
1. Khách sạn
Khá đa dạng về cấp hạng chất lượng từ các khách sạn không được xếp hạng đến các
khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 5 , quy mô từ khách sạn mini (từ 10 đến 15 buồng
ngủ) đến khách sạn quy mô lớn trên 100 phòng, với các phong cách khác nhau:
 Khách sạn thành phố: Khách hàng mục tiêu khá đa dạng nhưng nhắm nhiều đến
khách công vụ; có phong cách công năng tiện dụng cho nhu cầu sinh hoạt và công
tác của khách.
 Resort: Khách hàng mục tiêu là khách nghỉ ngơi, thư giãn; thường nằm ở bên bờ
biển, vùng núi có khí hậu tốt; phong cách tạo không khí nhẹ nhàng, thư giãn, ít bóng
lộn và ít gò bó bởi các nguyên tắc lễ nghi cứng nhắc; các dịch vụ bổ sung thể thao và
giải trí phong phú, đa dạng.
 Khách sạn có phong cách thể hiện nét văn hóa địa phương: Khách hàng mục tiêu là
khách du lịch du lịch văn hóa; lối kiến trúc, trang trí và phong cách phục vụ mang
đến cho khách một không gian mang đậm bản sắc văn hóa địa phương.
 Motel: Ghép từ Motor + Hotel, Motel có khách hàng mục tiêu là những sử dụng ô tô
riêng ghé lại nghỉ tạm qua đêm trong hành trình của mình. Từ đó, motel thường tọa
lạc bên xa lộ, ngoài thành phố, kiến trúc thấp tầng, cung cấp các dịch vụ phòng và ăn
uống ở mức hạn chế (thường là 1 hoặc thấp hơn), nhưng lại có các dịch vụ phục vụ
ô tô (bãi đậu xe, đỗ xăng, rửa xe, châm nước, sửa chữa nhỏ,…) và lái xe (thức ăn nhẹ
mang theo ăn trên đường,..)
3. Biệt thự
Khách hàng mục tiêu là những khách du lịch đi theo gia đình ở tương đối dài ngày,
có không gian rộng rãi và biệt lập bởi vườn bao quanh, số lượng buồng ngủ hạn chế, có bếp
cho khách sử dụng.
4. Làng du lịch
Khách hàng mục tiêu là những khách du lịch lớn tuổi hoặc đi theo gia đình ở dài
ngày muốn có một không gian yên tĩnh, tách biệt nhưng không cô độc, bao gồm các đơn
nguyên tương đối xa nhau, mỗi đơn nguyên gồm một hay hai bungalow, căn hộ. Dù vậy
làng du lịch có khu đón tiếp và dịch vụ bổ sung chung với các nhà hàng, quầy bar, cửa hàng
mua sắm, khu vui chơi giải trí, thể thao và các tiện ích khác phục vụ khách du lịch.
5. Khu đất trại
Khách hàng mục tiêu là thanh niên hay các gia đình trẻ thích sống gần thiên nhiên.
Đó là khu vực đất được quy hoạch ở nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, có bãi cắm trại, có
khu vệ sinh chung và khu bếp chung, có hệ thống cung cấp điện, nước, có khu đón tiếp
chung với các dịch vụ cho thuê phương tiện sinh hoạt trại, khu thể thao, giải trí.
6. Homestay (Nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê)
Là nơi sinh sống của người sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê
lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi cho khách du lịch thuê lưu trú, có thể có dịch vụ
khác theo khả năng đáp ứng của chủ nhà.
2.1.3. NGÀNH KINH DOANH DỊCH VỤ THAM QUAN, GIẢI TRÍ VÀ CÁC DỊCH VỤ
HỖ TRỢ

2.1.3.1. Ngành kinh doanh dịch vụ tham quan, giải trí


Dịch vụ tham quan, giải trí trong du lịch được cung ứng bởi các điểm thu hút như
Viện Bảo tàng, các điểm di tích hay công viên,… Cũng như ngành lưu trú, ngành kinh
doanh các điểm thu hút du lịch và dịch vụ hỗ trợ khá phân tán và đa dạng. Nhưng không
như ngành lưu trú và vận chuyển vốn có sản phẩm mang tính tiêu chuẩn hóa khá cao, ngành
kinh doanh dịch vụ tham quan, giải trí thường có xu hướng tạo ra những cống hiến khá
chuyên biệt cho một thị trường khách du lịch cụ thể nào đó, và những nhà cung ứng thừa
nhận mình là một bộ phận của công nghiệp du lịch.
Các điểm thu hút khá đa dạng có thể được phân chia theo các tiêu thức sau:
 Tiêu thức tài nguyên: Dựa trên nguồn lực tự nhiên hay do con người xây dựng
là những hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên, như núi, công viên săn thú,
chụp ảnh thú hay các bãi biển, hoặc những điểm thu hút do con người tạo ra nhưng
với mục đích không dành cho du lịch như các công trình di tích lịch sử, cho đến
những công trình và hoạt động được xây dựng phục vụ khách du lịch như công viên
chủ đề, các lễ hội hay hội nghị.
 Tiêu thức mục tiêu hoạt động: Hàng hóa công thuần túy cho đến thương mại hóa,
hoàn toàn vì lợi nhuận
từ các điểm thu hút không đòi hỏi sử dụng nguồn lực nào ngoại trừ sự cho phép của
cộng đồng để khách du lịch hưởng thụ (chẳng hạn ngắm cảnh sông Hương, làng quê,
…) qua các điểm thu hút do Nhà nước đầu tư là chủ yếu (công viên xanh, vườn quốc
gia, viện bảo tàng của nhà nước,…) cho đến những điểm thu hút mà phải tìm kiếm
lợi nhuận để thu hồi vốn và sinh lợi (công viên giải trí, nhà cổ tư nhân,...)
 Tiêu thức hình thức sở hữu: Thuộc sở hữu công hay sở hữu tư nhân
Đó có thể là một công việc xanh, khu bảo tồn thiên nhiên của nhà nước hay một công
việc giải trí theo chủ đề của một công ty hoặc một phức hợp mà trong đó có các hình
thức sở hữu khác nhau như Khu Bảo tồn thiên nhiên Bà Nà có các cơ sở kinh doanh
của Sun Group, hoặc một bến cảng của nhà nước có Công ty điều hành thực hiện
nhượng quyền kinh doanh các cơ sở ăn uống, bán hàng lưu niệm cho các tư nhân.
 Các điểm thu hút phi vật thể đến vật thể
Từ một thái cực mà trong đó khách du lịch đi du lịch để trải nghiệm màu sắc hay lối
sống của cư dân địa phương, thông qua các điểm thu hút của các hoạt động đặc biệt
như sự kiện thể thao hay festival, cho đến những điểm thu hút vĩnh cữu, "bê tông
hóa".
Do sự đa dạng này, khó mà đòi hỏi có một ngành kinh doanh dịch vụ giải trí thuần
nhất mà chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng: Trong khi Thế giới Walt Disney
(Florida) là một điểm thu hút thương mại hóa đơn lẻ lớn nhất (cao điểm: 32 triệu khách
viếng năm 1993), làm sao có thể so với bãi biển Torremolinos, Tây Ban Nha hay khu mua
sắm trung tâm Kowloon, Hongkong? Đối với một khách du lịch, đây có thể được coi là
những điểm thu hút đơn lẻ.

2.1.3.2. Ngành kinh doanh dịch vụ hỗ trợ du lịch


Các dịch vụ hỗ trợ càng có xu hướng khó đưa ra một định nghĩa rõ ràng và bao quát,
nó quan hệ một cách đặc biệt với nhu cầu du lịch ở nơi xuất phát hay nơi đến như trong ma
trận ở hình 4.6 sau:
Bảng 2.2. Các kiểu dịch vụ hỗ trợ du lịch

Chỉ tiêu Dịch vụ cho khách du lịch Dịch vụ cho nhà cung ứng
Bảo hiểm du lịch In ấn quảng cáo
Dịch vụ tại nơi gửi Tài chính du lịch Hướng dẫn và kế hoạch
khách VISA & hộ chiếu Hệ thống ĐKGC qua mạng
Thông tin du lịch Phân phát tập gấp
Hướng dẫn tour Hỗ trợ thông tin du lịch
Dịch vụ tại điểm Banking Huấn luyện du lịch
đến Y tế Hỗ trợ marketing
Thông tin địa phương Tài chính chuyên ngành

Bản chất của thị trường và mức độ tinh tế của những hoạt động này phụ thuộc vào
quốc gia hay khu vực mà chúng được triển khai. Hầu hết các hoạt động của các Văn phòng
du lịch quốc gia và vùng là một hoạt động của chính quyền mang tính độc quyền mà mục
tiêu của nó nói chung là tối đa hóa số lượng khách du lịch hay doanh thu du lịch. Bản thân
các Văn phòng du lịch quốc gia là một đơn vị thực hiện các hoạt động của nó hay cung ứng
các dịch vụ trong khuôn khổ một ngân sách định trước.
Một lĩnh vực thú vị của nguồn cung quốc tế là hệ thống đăng ký giữ chỗ qua mạng
(CRS: Computerized reservation systems). Dựa trên CRS của hàng không, nối kết với các
đầu cuối chung của các cơ sở lưu trú, cho thuê xe v.v…, đã hình thành một hệ thống hữu
ích cho đại lý du lịch nhờ độ rộng bao phủ của nó. Hậu quả là công nghệ CRS đã trở thành
một thị trường cạnh tranh độc quyền mang tính quốc tế của các nhóm được thống trị bởi
một vài CRS bao phủ toàn thế giới như Sabre, Covia/Galileo và Gemini/Pars. Hầu hết các
hệ thống này là công ty liên doanh hoạt động với mục tiêu tối đa hóa độ bao phủ thị trường
cho các doanh nghiệp chủ của nó.
2.1.4. NGÀNH LỮ HÀNH VÀ CÁC DỊCH VỤ TRUNG GIAN DU LỊCH KHÁC
Nhóm cuối cùng của các doanh nghiệp du lịch bao gồm "các nhà trung gian" sắp xếp
và phân phối các sản phẩm du lịch. Các đơn vị này chủ yếu là các Đại lý du lịch và các Tour
operator.

2.1.4.1. Các đại lý du lịch


Với tư cách làm đại lý bán hàng cho các người ủy nhiệm. Các người ủy nhiệm này
thường là các hãng lữ hành (bán lẻ chương trình du lịch cho các hãng lữ hành), tuy nhiên họ
cũng bán vé cho các hãng hàng không, đường sắt, đường bộ hay nhận đặt phòng khách sạn.
Vậy họ là người cung ứng các dịch vụ bán hàng hóa cho các người ủy nhiệm vốn trong
trường hợp này là người mua dịch vụ bán lẻ của họ (phải trả tiền qua hoa hồng). Mặc dù
vậy, các đại lý cũng có vai trò cung ứng dịch vụ tuyển lựa nhà cung ứng cho khách hàng
của mình. Với ý nghĩa này, chúng cũng được xem như là nhà môi giới hơn là đại lý vì
chúng mang người bán và người mua lại với nhau. Mặc dù vậy, hầu như toàn bộ thu nhập
của họ là từ các khoản hoa hồng do các người ủy nhiệm trả như là giá của dịch vụ bán.
Ở những quốc gia gửi khách, ngành đại lý du lịch là ngành cạnh tranh hoàn hảo vì số
lượng đại lý là rất lớn (ở Mỹ khoảng 25.000, ở Đức và Anh, mỗi nước khoảng 5.000 đại lý
du lịch). Họ cung cấp các dịch vụ tương tự nhau, lợi thế cạnh tranh riêng của mình chỉ thể
hiện qua vị trí hay kỹ năng bán hàng. Bởi vì tỷ lệ hoa hồng tiêu chuẩn được thương lượng
bởi các đại lý du lịch (thường thông qua hiệp hội), chúng tạo thành một liên minh hiệu quả,
được bảo vệ bởi cả các đại lý lẫn người ủy nhiệm nhằm duy trì "trật tự phân phối hợp lý".
Dù vậy, sự thống trị của liên minh sẽ có thể bị vô hiệu hóa hay bị vỡ khi xảy ra các trường
hợp sau:
 Các đơn vị ủy nhiệm đưa ra hệ thống Hoa hồng phụ trội (overriding commissions)
cho các đại lý được ưu đãi hay cho các dịch vụ đặc biệt; điều này cung cấp các chi
trả khác nhau cho những đại lý khác nhau. Đại lý X, nếu có doanh số bán cao cho
một người ủy nhiệm, sẽ nhận được một mức giá hoa hồng cao hơn đại lý Y (nhờ đã
thật sự trở thành một 'sản phẩm' dịch vụ bán tốt hơn). Chẳng hạn, các đại lý Úc và
New Zealand đã có thể kiếm đến 26% hoa hồng, bao gồm cả hoa hồng phụ trội, bằng
cách tích cực bán các chương trình du lịch tàu biển CTC trong năm 1988 sau vụ
chìm tàu nổi tiếng ở bờ biển New Zealand.
 Các đại lý sử dụng một phần của hoa hồng của họ để thực hiện chiết khấu trên giá
của người ủy nhiệm cho khách du lịch. Trên một ý nghĩa nào đó, đây có thể được
xem như một chi phí marketing của đại lý du lịch mà tỷ lệ hoa hồng của nó về mặt
kỹ thuật là cố định; nhưng sự cạnh tranh thường làm cho việc chiết khấu trở thành
một việc bình thường - các đại lý thật sự khổ sở với điều này vì nó làm thay đổi
mạnh mức hoa hồng thực tế họ nhận được. Tình trạng này sẽ không xảy ra chỉ khi
nào nhà nước có những nỗ lực to lớn trong việc duy trì giá bán lại.
 Sự phân phối các dịch vụ du lịch có thể bỏ qua đại lý du lịch như một nhà trung gian.
Có nhiều phương án phân phối. Thực tiễn kinh doanh du lịch hiện nay cho thấy nhờ
khai thác mạng internets, hầu hết các sản phẩm nội địa được bán không qua đại lý.
Vì hiệu quả và thu nhập biên của các phương án này cao hơn nên các người ủy
nhiệm sáng suốt sử dụng chúng.

2.1.4.2. Tour operator


Tour operator (hay Tour wholesaler) thực sự là những nhà sản xuất của một sản
phẩm du lịch đặc biệt. Sản phẩm này là một chương trình du lịch trọn gói (IT: inclusive
tour) bao gồm một hay nhiều hơn các dịch vụ du lịch 'được đóng gói' để bán cho khách du
lịch. Rõ ràng, các tour operator là người ủy nhiệm, và người mua các sản phẩm này là
khách du lịch. Nét chung của các Tour operator là ở chỗ họ cung ứng sản phẩm du lịch
được chắt lọc và sắp xếp hợp lý. Nếu có ai đó được coi là người cung ứng 'du lịch' thì đó là
các Tour operator. Có nhiều loại tour operator khác nhau:
 Tour operator ở thị trường gửi khách dựa vào các doanh nghiệp cung ứng chương
trình du lịch bằng đường hàng không
 Những nhà cung ứng chương trình du lịch trọn gói đường bộ, đường biển mở
rộng
 Những tour operator hoạt động thực tế như người bán sĩ cho các tập đoàn khách
sạn, cho thuê xe
 Những tour operator ở điểm đến (hình thức phổ biến của các Công ty lữ hành
nước ta hiện nay) dựa vào việc tổ chức các dịch vụ tham quan mà thường hành
động như một đại lý đảm nhận tại địa phương cho các doanh nghiệp bên ngoài.
Các tour operator loại đầu tiên đã phát triển một cách mạnh mẽ ở Anh, Đức, các
nước Tây Bắc Âu khác và Nhật Bản. Các ngành công nghệ ở các quốc gia này hỗ trợ một
chuỗi các tour operator có khả năng cạnh tranh từ những chuyên gia cung cấp các sản phẩm
khác biệt hóa cao cho đến những doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm cung ứng đại trà cao
như Jettour (Nhật Bản), Thomson (Anh), TUI (Đức). Các điều kiện và thị hiếu thị trường ở
các nước khác đã không hoàn toàn ưa thích sự phát triển của loại tour operator này. Các
doanh nghiệp cạnh tranh của loại thứ ba và tư xuất hiện ở mọi nơi, một lần nữa ngoại trừ
cho đến gần đây ở những nước kế hoạch hóa tập trung nơi mà sự sắp xếp thì gần như toàn
bộ ở trong tay của các doanh nghiệp độc quyền nhà nước như Orbis (Ba Lan), Cedok (Tiệp
Khắc). Mặc dù vậy, cả hai công ty này đang đối diện với sự cạnh tranh của thị trường tự do
những năm 1990.
Vai trò và mục tiêu của tour operator cũng khác nhau từ tối đa hóa lợi nhuận cho đến
phát triển số khách du lịch ở các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, hay vận chuyển
nhiều khách du lịch nhất cho những ông chủ của tour operator mà có thể là các nhà vận
chuyển chẳng hạn. Điều này sẽ được bàn kỹ hơn ở section sau.
2.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG KINH TẾ-XÃ HỘI-MÔI TRƯỜNG CỦA DU LỊCH
Du lịch phát triển, hoạt động kinh tế rầm rộ hơn, môi trường, tài nguyên được khai
thác nhiều hơn, xuất hiện sự tiếp xúc gần giữa cư dân địa phương và một lượng lớn khách
du lịch,… tất cả sẽ để lại những tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đến hầu hết các mặt kinh
tế, xã hội, môi trường, cả tại vùng nhận khách (điểm đến du lịch), vùng gửi khách lẫn tuyến
đường.
Tuy nhiên, một hoạt động du lịch thường tác động đến cả ba khía cạnh kinh tế, xã
hội, môi trường, không thể tách bạch rạch ròi. Chẳng hạn, để tăng sức thu hút của điểm đến
Đà Nẵng, chính quyền thành phố dự định quy hoạch phát triển khu giải trí về đêm dọc sông
Hàn. Điều này sẽ tác động đến kinh tế địa phương thông qua việc kích thích khách du lịch
kéo dài thời gian lưu trú, tăng chi tiêu. Nhưng đồng thời sẽ xuất hiện những hậu quả văn
hóa, xã hội khi mà một bộ phận cư dân địa phương sẽ thay đổi hành vi, có thể họ sẽ sinh
hoạt ngoài phố khuya hơn và không loại trừ số lượng tội phạm tăng lên. Cuối cùng dễ thấy
là cùng với việc hình thành khu giải trí về đêm, sẽ dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm tiếng ồn, ô
nhiễm cảnh quan, ô nhiễm rác thải tại khu vực này. Ngay một tác động trên khía cạnh này
sẽ kéo theo tác động trên khía cạnh khác. Khu giải trí về đêm phát triển, một bộ phận dân cư
tăng thu nhập, điều này khiến lối sống, cách ăn mặc và cả chuẩn giá trị xã hội của họ thay
đổi… Thật khó để phân biệt rạch ròi tác động nào thuộc khía cạnh nào.
Mặt khác, cũng thật khó mà tách bạch rạch ròi giữa tác động tích cực và tiêu cực của
du lịch. Một tác động diễn ra, đối với người này là tích cực, đối với người kia là tiêu cực,
đối với người khác nữa là trung tính. Điều này phụ thuộc vào vị trí của họ trong hệ thống du
lịch (họ là khách du lịch, là người làm du lịch, chính quyền hay cư dân địa phương), phụ
thuộc vào đặc điểm văn hóa của cộng đồng và đặc điểm cá nhân của người đánh giá. Gần
như cứ mỗi tác động chúng ta đều thấy có cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nó mà ta sẽ
thấy ở phần sau của mục này.
Với sự tác động đa chiều trên, trong thực tế phân tích, chúng ta không nên và không
thể tách bạch các tác động của phát triển du lịch. Dù vậy, để thuận lợi cho quá trình nhận
thức, chúng ta bắt đầu nội dung này bằng việc phân loại các tác động theo từng khía cạnh.
Ở phần này, dù thỉnh thoảng chúng ta vẫn bàn đến những tác động đến vùng gửi khách,
tuyến đường, nhưng chủ yếu vẫn là các tác động đến vùng nhận khách.

2.2.1. NHỮNG TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH


Du lịch, do các hoạt động của khách du lịch trong thời gian lưu lại tại điểm đến, trực
tiếp và gián tiếp tạo ra nhu cầu và sự gia tăng các hoạt động kinh tế tại đây. Lợi ích kinh tế
dễ thấy nhất từ phát triển du lịch là việc gia tăng sự giàu có của người dân từ du lịch. Thay
đổi trong tài sản của người dân không chỉ thông qua việc tăng dòng thu nhập cho hộ gia
đình, mà còn thông qua sự thay đổi giá trị tài sản hiện có từ sự thay đổi giá trị thị trường của
chúng. Dễ thấy hơn cả là bất động sản. Du lịch phát triển, giá trị tài sản nhà, đất tại điểm
đến tăng lên mạnh mẽ (Đây là tác động tích cực hay tiêu cực? Rõ ràng là khác nhau đối với
những cư dân đang sở hữu một hoặc nhiều nhà, đất với những cư dân đang thuê nhà hoặc
đang có nhu cầu mua nhà). Nếu bỏ qua những thay đổi trong giá trị tài sản, sự thay đổi
trong thu nhập phát sinh từ hoạt động của các doanh nghiệp phát sinh từ việc cung ứng các
sản phẩm thỏa mãn các nhu cầu liên quan đến khách du lịch là tác động cần được phân tích
thấu đáo.
Mở rộng hơn, những tác động kinh tế chủ yếu của du lịch bao gồm những tác động
đến nguồn thu ngoại tệ, khả năng đóng góp vào thu ngân sách của chính phủ, khả năng giải
quyết việc làm, tạo ra thu nhập và khả năng kích thích phát triển các vùng trong nước. Hai
tác động đầu nằm ở cấp độ quốc gia, trong khi ba tác động sau xảy ra ở các cấp địa phương.
Cũng nhìn nhận như trên, những tác động này có mối quan hệ lẫn nhau, thật khó nói
một kết quả kinh tế nào đó là do một tác động riêng lẻ nào, nhưng về mặt nghiên cứu, chúng
ta cần phân tích các tác động này một cách phân biệt để có được một nhận thức rõ ràng về
ảnh hưởng của du lịch đối với nền kinh tế của một quốc gia hay một địa phương.
Trước khi đi vào phân tích những tác động này, cần lưu ý rằng, ngoại trừ tác động
đến nguồn thu ngoại tệ, các tác động kinh tế khác cũng có thể là kết quả của phát triển hoạt
động du lịch nội địa. Dù vậy, ngay cả ở đây, chúng ta thấy rằng, khuyến khích du lịch trong
nước cũng có thể cho phép tiết kiệm ngoại tệ, bởi nếu không, những khoản chi tiêu trong
nước này sẽ được chi cho du lịch nước ngoài. Khi chúng ta gia nhập WTO, việc thực hiện
những cam kết của WTO sẽ ngăn chặn các quốc gia thành viên sử dụng các biện pháp để
hạn chế người dân đi du lịch ra nước ngoài (du lịch outbound). Ở các nước đang phát triển,
tuy vẫn không được áp dụng các biện pháp hạn chế du lịch outbound, nhưng vẫn còn phổ
biến việc sử dụng biện pháp giới hạn số lượng ngoại tệ được mang ra trong việc đi du lịch
nước ngoài vì mục đích giải trí. Các biện pháp này nhằm bảo vệ dự trữ ngoại hối vốn ít ỏi.
Du lịch trong nước, ít nhiều ảnh hưởng đến nguồn thu ngoại tệ, ảnh hưởng đầy đủ đến các
tác động khác nên vẫn có ý nghĩa đáng kể đến nền kinh tế quốc gia. Nhưng không giống du
lịch quốc tế, du lịch trong nước chỉ thể hiện việc chuyển dịch sức mua giữa các bộ phận dân
cư trong nền kinh tế.

2.2.1.1. Tác động của du lịch lên quy mô tăng trưởng kinh Tế
Dễ dàng thấy rằng mục tiêu chính của hầu hết các chính phủ là phát triển kinh tế đất
nước, trước hết là tăng trưởng quy mô của nền kinh tế. Trong khi vẫn có những tranh cãi về
lựa chọn giữa tăng trưởng nhanh về quy mô (tăng nhanh GDP) và tăng trưởng chậm nhưng
bền vững, chất lượng, nhiều quốc gia vẫn chọn tăng trưởng nhanh. Đó là vì khi quy mô kinh
tế tăng sẽ đáp ứng được các nhu cầu trong nước và quốc tế, cung cấp thêm nhiều việc làm
và gia tăng thu nhập cho nhân dân, sẽ tăng nguồn thu ngân sách để tài trợ cho hoạt động
quốc phòng, an ninh, giáo dục, phòng cháy chữa cháy, hỗ trợ an sinh xã hội, xây dựng cơ sở
hạ tầng và các dịch vụ mang lại lợi ích khác. Trong ngắn hạn, một quốc gia có nền kinh tế
phát triển nhanh sẽ làm tăng sự lựa chọn dành cho dân cư và các tổ chức, dẫn đến cải thiện
chất lượng cuộc sống cho tất cả.
Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nào khác, sự phát triển của du lịch sẽ tạo ra sự gia
tăng GDP cho nền kinh tế. Nhưng là một trong những lĩnh vực lớn nhất của kinh tế thế giới,
trong 60 năm qua, du lịch được quan tâm bởi sự tăng trưởng cao và ổn định, ít bị biến động
so với các ngành khác. Trong những thập niên đến, chưa có dấu hiệu nào cho thấy nhu cầu
du lịch toàn cầu sẽ giảm.
Trong mô hình phân tích đầu vào - đầu ra (input - output analysis model, chúng ta
gọi là Bảng Cân đối liên ngành), ba loại hiệu ứng khác nhau được xác định: tác động trực
tiếp, gián tiếp và kéo theo (direct, indirect and induced effects).
1. Những tác động trực tiếp của du lịch đối với quy mô tăng trưởng kinh tế
Được tính là tác động trực tiếp chỉ bao gồm những tác động ngay lập tức từ những
nhu cầu có thêm do hoạt động của khách du lịch tại điểm đến lên quá trình sản xuất, cung
ứng hàng hoá và dịch vụ dưới dạng những hàng hóa và dịch vụ tăng thêm, giá trị tăng thêm
và các thành phần của nó (gọi là chi tiêu nội bộ du lịch - tourism internal consumption hay
tổng cầu nội bộ du lịch - total tourism internal demand).
Như vậy, nó là những tiêu thụ trực tiếp về sản lượng và giá trị gia tăng của ngành
công nghiệp du lịch và các ngành công nghiệp khác phục vụ khách du lịch. Tác động trực
tiếp này được phản ánh qua chi tiêu của khách du lịch.
Khối lượng chi tiêu này tăng lên nhanh chóng trong 60 năm qua trên thế giới đặc biệt
là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á của chúng ta. Năm 2013, chỉ riêng
du lịch quốc tế đã mang lại thu nhập lên đến 1.159 tỷ đô la Mỹ cho các nước trên thế giới.
Bảng 2.3. Thu nhập từ du lịch quốc tế
Thị Thu nhập DL Qtế
Tốc độ tăng thu nhập du phần
trên1 lượt
lịch quốc tế (%) 2013 Tỷ USD
khách
(%)
10/09 11/10 12/11 13/12 2012 2013 2013
Thế giới 5,2 4,5 4,2 5,3 100 1.078 1.159 1.070
Các nền kinh tế tiên tiến 5,8 5,9 4,0 6,0 64,3 688 745 1.280
Các nền kinh tế mới nổi 4,0 2,1 4,5 4,0 35,7 390 413 820
Phân theo khu vực bởi UNWTO:
Châu Âu -0,2 4,9 1,9 3,8 42,2 454,0 489,3 870
Bắc Âu 3,4 2,4 3,3 7,1 6,4 67,6 74,2 1.080
Tây Âu 1,4 3,9 2,7 1,7 14,5 157,9 167,9 960
Trung/Đông Âu -3,5 6,8 4,0 3,4 5,2 56,3 59,9 380
Nam Âu/ĐTHải -1,9 6,1 0,0 4,5 16,2 172,2 187,3 930
28 quốc gia thành viên EU 0,9 4,0 1,7 3,4 34,8 374,2 402,9 930
Châu Á-TBDương 14,9 8,3 6,7 8,2 31,0 329,1 358,9 1.450
Đông Bắc Á 21,4 9,2 7,9 9,3 15,9 167,2 184,7 1.450
Đông Nam Á 15,0 12,9 10,6 9,7 9,3 96,0 107,4 1.150
Châu Đại dương -3,0 -4,1 -1,3 1,9 3,7 43,0 42,6 3.410
Nam Á 10,7 11,6 -0,6 5,3 2,1 22,9 24,3 1.570
Châu Mỹ 4,2 5,1 5,7 6,4 19,8 212,9 229,2 1.360
Bắc Mỹ 6,0 5,9 6,7 7,8 14,8 156,4 171,0 1.550
Vùng Caribbean 0,7 -1,5 1,2 2,1 2,1 24,2 24,8 1.170
Trung Mỹ 0,3 9,7 7,5 3,2 0,8 8,7 9,4 1.020
Nam Mỹ -2,2 5,7 3,2 3,2 2,1 23,6 23,9 870
Châu Phi 2,6 1,7 7,3 0,0 3,0 34,3 34,2 610
Bắc Phi 0,2 -5,5 9,1 -1,4 0,9 10,0 10,2 520
Châu Phi hạ Sahara 3,8 5,0 6,5 0,6 2,1 24,3 24,0 660
Trung Đông 16,3 -17,2 2,2 -1,9 4,1 47,5 47,3 920
Số liệu 2013 là số liệu ước tính vào tháng 05/2014 Nguồn: UNWTO (2014)
Ở nước ta, năm 2013, khi bối cảnh nền kinh tế vẫn đang trong quá trình khắc phục
suy thoái, tái cấu trúc và từng bước tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, Du lịch là ngành
kinh tế duy nhất duy trì tốc độ tăng trưởng cao và là điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2013, cả nước đã đón 7,57 triệu lượt khách quốc tế, tăng trưởng +10,6%; 35 triệu lượt
khách nội địa; tổng thu trực tiếp từ khách du lịch đạt 200 nghìn tỷ đồng, đóng góp trên 6%
GDP.
2. Những tác động gián tiếp của du lịch
Nếu chỉ tính chi tiêu nội bộ du lịch, nhiều tác động khác của du lịch bị bỏ qua. Để
phục vụ khách du lịch, hoạt động sản xuất đòi hỏi sự gia tăng quy mô các yếu tố đầu vào: ví
dụ, các nhà hàng phải mua và chuẩn bị nhiều thức ăn hơn, khách sạn cần nhiều dịch vụ giặt
là và dịch vụ vệ sinh công cộng hơn, công viên nước tiêu thụ nhiều điện năng và nhiều nước
hơn, các doanh nghiệp vận tải phải mua xăng và phụ tùng nhiều hơn,… Thông thường, để
phục vụ lượng khách hàng tăng thêm thì phải tăng thêm đầu tư trực tiếp: xây dựng nhiều
đường giao thông hơn, nhiều khách sạn, nhà hàng hơn, nhiều bãi biển được thiết lập và bảo
vệ,… để đáp ứng các chi tiêu khởi phát từ khách du lịch. Đó là một đợt gia tăng nhu cầu để
sản xuất hàng hóa và dịch vụ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của họ về hàng hóa và dịch
vụ.
Những đầu vào hoặc hàng hóa trung gian cần phải được sản xuất hoặc nhập khẩu, và
điều này, đến lượt nó, kéo theo một chuỗi các nhu cầu bổ sung cho các yếu tố sản xuất khác
nhau (lao động và vốn), hiện tượng này tiếp tục diễn ra kéo dài qua nhiều vòng cho đến khi
kiệt sức bởi hiện tượng rò rỉ. Chuỗi các tác động mà các hoạt động trực tiếp phục vụ khách
du lịch tạo ra được gọi là tác động gián tiếp của du lịch tại điểm đến.
Chuỗi tác động gián tiếp của tiêu dùng du lịch lên các ngành công nghiệp khác là do
sự liên kết của các ngành phục vụ du lịch với các ngành khác cung cấp cho du lịch những
yếu tố đầu vào trung gian, kế tiếp là mối liên kết của các ngành này với những người khác
mà cung cấp cho chúng, và cứ kéo dài như vậy. Tác động này đồng thời tạo ra các chuỗi giá
trị gia tăng, chuỗi việc làm, tiền lương, thu nhập, chuỗi thuế, ngân sách, v.v…
3. Những tác động kéo theo của du lịch
Ngoài ra, sự gia tăng của thu nhập hình thành từ tiêu dùng của khách du lịch được
phân phối cho lực lượng lao động và các chủ sở hữu các doanh nghiệp sản xuất. Đến lượt
nó, khi người lao động và chủ sở hữu có thêm thu nhập từ phát triển du lịch, họ có nhu cầu
gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ thông thường thông qua một sự gia tăng trong tiêu dùng
hộ gia đình của họ. Nhu cầu bổ sung này tạo ra một chuỗi các tác động kéo theo trên một
loạt các hàng hóa và dịch vụ.
Tác động kinh tế tổng thể của du lịch vào nền kinh tế là một sự kết hợp của tác động
trực tiếp, gián tiếp và kéo theo.
Khi một khách du lịch chi tiêu 1 USD tại điểm đến, chi tiêu này tạo ra thu nhập 1
USD cho những người cung ứng sản phẩm du lịch (tác động trực tiếp của du lịch). Từ 1
USD đầu tiên này, người cung ứng du lịch sử dụng nó để mua các yêu tố đầu vào từ các
ngành khác (nguyên vật liệu, điện, nước, máy móc thiết bị, công trình xây dựng,…). Qua
mối quan hệ liên kết với các ngành khác, việc mua sắm này sẽ tạo ra nhu cầu và hình thành
nên thu nhập của các ngành khác (tác động gián tiếp). Cũng từ một USD tăng thêm này,
người cung ứng du lịch sử dụng để trả lương cho người lao động và để lại lợi nhuận cho chủ
sở hữu. Với thu nhập tăng thêm này, người lao động và chủ sở hữu tăng thêm tiêu dùng cá
nhân, tạo ra thu nhập cho những người sản xuất hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thông thường
khác (tác động kéo theo). Nhưng tác động của 1 USD đầu tiên không dừng ở đó, đến lượt
họ, các doanh nghiệp và dân cư nhận được thu nhập từ tác động gián tiếp và kéo theo cũng
phải chi tiêu, tạo ra làn sóng thu nhập thứ ba. Và cứ như vậy, tạo ra chuỗi làn sóng vô hạn.
Tóm lại, từ 1 USD đầu tiên của khách du lịch, nền kinh tế không chỉ tăng GDP 1 USD mà
hơn nhiều lần 1 USD nhờ sự liên kết trong nền kinh tế. Nhưng từ 1 USD, qua chuỗi vô hạn
các làn sóng, nền kinh tế không thể tăng lên con số vô hạn USD mà các làn sóng này, qua
sự rò rỉ, bị yếu dần và GDP chỉ tăng lên một con số USD có giới hạn.
Liên kết và rò rỉ là hai hiện tượng cần phải được xác định rõ ràng để đánh giá tác
động kinh tế của du lịch. Độ lớn của chúng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ mức độ và vai trò của du
lịch trong tác động đến nền kinh tế.
Liên kết là mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quá trình sản xuất khác nhau trong nền
kinh tế được thể hiện và tính toán qua mô hình input - output. Thống kê ngành thường sử
dụng chúng để thể hiện chính xác độ lớn của quan hệ liên kết này.
Rò rỉ xảy ra khi một phần của nhu cầu và các khoản thu nhập gia tăng tạo ra bởi du
lịch không được đưa vào nền kinh tế (tiết kiệm, không chi tiêu) hoặc không được giữ lại
trong nền kinh tế của quốc gia được khách du lịch đến thăm mà bị chiếm đoạt bởi các nền
kinh tế của quốc gia khác dưới hình thức nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ để phục vụ cho nhu
cầu của khách du lịch, hoặc thông qua các hình thức phân phối và phân phối lại thu nhập
được tạo ra bởi chi tiêu của khách du lịch như chuyển lợi nhuận về nước của chủ đầu tư.
Rò rỉ cũng mở rộng vào vòng thứ hai và các vòng tiếp theo của quá trình sản xuất, có
nghĩa là, chúng không chỉ bao gồm những hàng hóa nhập khẩu dành cho tiêu thụ trực tiếp
của khách du lịch, cho đầu tư du lịch hay cho các yêu tố trung gian (đầu vào) trực tiếp phục
vụ khách du lịch hay để sản xuất hàng hóa đầu tư du lịch (vòng đầu tiên), mà còn là nguyên
liệu nhập khẩu và tổng tài sản cố định cần thiết cho việc sản xuất các hàng hóa đầu vào và
đầu tư (vòng hai) và sau đó các đầu vào cần thiết cho sản xuất của các vòng sau. Sự rò rỉ
cũng diễn ra ở các dòng chảy liên quan đến việc phân phối và phân phối lại thu nhập và việc
sử dụng thu nhập trong nước để tăng tiêu dùng để cuối cùng có thể mở rộng hàng nhập
khẩu. Tổng của tất cả các hàng nhập khẩu bổ sung cho nền kinh tế và luồng ra của thu nhập
sẽ được gọi là rò rỉ gián tiếp.
Kết quả là từ 1 đồng đầu tiên, GDP tăng lên được K đồng. K được gọi là nhân tử Keynne 2.

2.2.1.2. Những tác động của du lịch lên hoạt động kinh tế đối ngoại
Trước khi đi vào ý nghĩa này của du lịch, chúng ta cần xem xét khái niệm xuất khẩu
và nhập khẩu du lịch, chỉ ra sự khác biệt giữa xuất nhập khẩu hàng hóa thông thường với
xuất nhập khẩu sản phẩm du lịch.
Nước nhập khẩu
*Xuất khẩu du lịch: Khi một người có thu nhập từ nước A đến du lịch tại nước B, anh ta
hàng hóa
mang tiền kiếm được từ nước A tiêu tại nước B, tức là anh ta đưa vào nước B một lượng
ngoại tệ, thông qua việc nhận ngoại tệ từ khách du lịch, B đã xuất khẩu sản phẩm du lịch
sang A.
Hàng hóa vật chất

Ngoại tệ
Nước xuất khẩu du
hàng
lịch B
Nước xuất khẩu
hóa
Khách du lịch

Ngoại tệ
Nước nhập khẩu du

Hình 2.2. Dòng vận chuyển trong xuất khẩu hàng hóa và xuất khẩu sản phẩm du lịch
Khác với xuất khẩu hàng hóa thông thường, chúng ta thu ngoại tệ từ việc đưa hàng
hóa ra nước ngoài, xuất khẩu du lịch lại thu ngoại tệ từ khách du lịch nước ngoài vào Việt
Nam.
lịch A

2
Những khái niệm về chi tiêu ban đầu, độ rò rỉ, tác động hiệu quả số nhân,… bạn đọc nghiên cứu thêm
trong nội dung về nhân tử Keynne của Kinh tế vĩ mô.
Quốc gia xuất khẩu du lịch là quốc gia tiếp nhận khách du lịch từ nước ngoài đến –
gọi chung là “quốc gia nhận khách”. Quốc gia nhận khách sẽ có được thu nhập bằng ngoại
tệ từ những chi tiêu của khách du lịch nước ngoài khi họ đến.
*Nhập khẩu du lịch: ngược lại với xuất khẩu du lịch, khi một người của quốc gia A đi du
lịch ở nước B và tiêu ở đấy tiền kiếm được tại A thì nước A đã nhập khẩu sản phẩm du lịch
vào nền kinh tế của họ.
Quốc gia nhập khẩu du lịch là quốc gia có cư dân của mình đi du lịch ở nước ngoài –
gọi chung là “quốc gia gửi khách” hay “quốc gia gốc”. Người dân của họ mang tiền ra nước
ngoài chi tiêu, với sự di chuyển ngoại tệ ra khỏi làm cho quốc gia gửi khách trở thành quốc
gia nhập khẩu du lịch.
Trong điều kiện ngày nay, hầu hết các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đều
công nhận rằng du lịch quốc tế là một trong những bộ phận quan trọng nhất của các dòng
thương mại toàn cầu. Là một hệ thống cung ứng liên kết toàn cầu, hoạt động trên nhiều lĩnh
vực rất khác nhau, tác động qua lại giữa du lịch và nền kinh tế quốc tế là rất phức tạp. Tuy
xét trên tổng thể của du lịch thế giới, sự phát triển của cầu du lịch khá ổn định, nhưng xét sự
phát triển của dòng khách từ một nước gửi khách đến một nước nhận khách cụ thể, lượng
cầu du lịch như đã phân tích ở Chương 1 là hết sức nhạy cảm với các biến động về kinh tế,
an ninh và môi trường.
Du lịch quốc tế có hai tác động chính; đầu tiên, trong thương mại, và thứ hai, trong
hiệu ứng tái phân phối của nó.
Tác dụng thương mại là một đặc điểm của cầu du lịch. Khi khách du lịch đến thăm
các nước, sự chi tiêu của họ sẽ kích thích hoạt động thương mại quốc tế. Hầu hết khách du
lịch quốc tế đến nước ta đến bằng đường hàng không với hầu hết các máy bay được sản
xuất và xuất khẩu từ Mỹ và Châu Âu. Tại các điểm đến, khách du lịch có thể sử dụng chỗ ở
thuộc sở hữu và quản lý bởi người nước ngoài. Họ có thể tiêu dùng thức ăn và đồ uống
không được cung cấp trong nước. Ví dụ, một khách du lịch Đức thăm Việt Nam có thể được
chở đến bởi Vietnam Airlines sử dụng máy bay Boeing 777 (sản xuất ở Mỹ), ở khách sạn
Sofitel thuộc sở hữu và quản lý của Pháp, uống rượu whisky Scotland và ăn thịt bò Úc. Với
khách du lịch Đức này, Việt Nam xuất khẩu sản phẩm du lịch nhưng nhập khẩu các sản
phẩm khác và diễn ra sự rò rỉ thu nhập ngoại tệ. Đối với nền kinh tế toàn cầu, chúng cấu
thành các cơ hội thương mại và tạo ra hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiệu ứng tái phân phối (phân phối lại) của du lịch quốc tế thể hiện ở chỗ khách du
lịch sử dụng thu nhập kiếm được ở nước này chi tiêu ở nước khác. Thực tế là hầu hết khách
du lịch quốc tế, họ đến từ các nước phát triển có thu nhập cao và dành một phần thu nhập
tùy ý của họ ở các nước thu nhập thấp bằng việc mua các kỳ nghỉ. Trong ý nghĩa này, một
số thu nhập thặng dư của các nước giàu có, thông qua du lịch, phân phối lại cho các nước
khác mà nhiều nước trong đó là các nước đang phát triển. Các quốc gia tương đối giàu có
của Tây Âu và Bắc Mỹ là các quốc gia gửi khách chính. Những nước có thặng dư cao trong
cán cân thanh toán, chẳng hạn như Nhật Bản, khuyến khích người dân đi du lịch ở nước
ngoài như một phương tiện của việc giảm và phân phối lại thặng dư. Những tác dụng tái
phân phối là quan trọng vì chúng cung cấp cho các nước đang phát triển một trong số rất ít
cơ hội để xuất khẩu sản phẩm miễn thuế.
Trên quan điểm du lịch là hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia, ý nghĩa kinh
tế của du lịch được xem xét trên hai mặt: sự ảnh hưởng đến cán cân vãng lai (cán cân
thương mại hàng hóa và dịch vụ) và sự góp phần tăng GNP của đất nước.
+Xuất khẩu sản phẩm du lịch làm gia tăng thu nhập ngoại tệ, ảnh hưởng đáng kể đến
cán cân vãng lai của nhiều quốc gia. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, do áp lực gây
ra từ nhập siêu, nên chính quyền một mặt có chính sách kích thích xuất khẩu du lịch
(marketing du lịch quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập cảnh,.. nhằm tạo khả năng thu
hút khách du lịch quốc tế), mặt khác hạn chế cư dân nước mình đi du lịch ở nước ngoài
(giới hạn lượng ngoại tệ mang ra, thủ tục xuất cảnh phức tạp,…).
+ Bên cạnh đó, sự gia tăng xuất khẩu du lịch đồng thời làm tăng tổng sản phẩm quốc
dân của đất nước bởi:
Y = C + P + G + (X – M)
Y: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
C: Chi tiêu của người tiêu dùng
P: Giá trị đầu tư
G: Chi tiêu của chính phủ
X: Xuất khẩu (giá trị hàng xuất khẩu)
M: Nhập khẩu (giá trị hàng nhập khẩu)
Nếu xuất khẩu du lịch cao hơn nhập khẩu du lịch sẽ làm cho GNP cao hơn so với GDP.

2.2.1.3. Tác động đến việc làm và thu nhập


Khó mà đo lường quy mô việc làm và thu nhập do du lịch tạo ra. Ngay ở các nước
phát triển, dữ liệu thống kê về việc làm và số lượng người làm việc tại bất kỳ một thời gian
nào luôn sẵn có, nhưng với số liệu việc làm trong du lịch, chúng ta chỉ ước tính và cũng rất
khó ước tính chính xác số lao động tham gia vào du lịch Đó là do tính đa ngành của du lịch.
Trong thực tế, việc ước tính việc làm và thu nhập từ du lịch được thực hiện từ các cuộc điều
tra mẫu, từ các nghiên cứu đa ngành hoặc từ bảng Cân đối liên ngành (input–output tables).
Ở cấp độ quốc gia hay địa phương, vấn đề cần xem xét là: cùng với một số tiền đầu
tư, liệu việc làm và thu nhập phát sinh trong du lịch nhiều hay ít hơn so với các lĩnh vực
khác. Cần lưu ý rằng, bên cạnh số lượng, chất lượng việc làm cũng là một vấn đề có ý
nghĩa. Do đó chúng ta xem xét tác động tạo việc làm của du lịch theo một số quan điểm
khác nhau.
1. Hiệu quả tạo số lượng việc làm trong du lịch
Sản phẩm du lịch về bản chất là dịch vụ, thường được mô tả như một chuỗi các hoạt
động lao động. Từ biểu hiện đơn giản này, chúng ta có thể hình dung rằng với mỗi đơn vị
đầu tư vốn, du lịch tạo ra nhiều việc làm hơn so với các lĩnh vực khác. Trong các ngành
công nghiệp có hiệu quả quy mô hay có công nghệ phức tạp, đầu tư lớn có thể tạo ra ít việc
làm. Chẳng hạn nhà máy lọc dầu đòi hỏi vốn đầu tư lớn để xử lý dầu nhưng tạo ra ít việc
làm.
Ở các nước đang phát triển, dân số tăng nhanh và mức thất nghiệp cao, năng suất lao
động có thể không được xem xét ưu tiên. Khi lao động được cung ứng dồi dào với giá rẻ,
đầu tư cho lao động thay thế cho đầu tư máy móc diễn ra ở nhiều lĩnh vực bao gồm cả du
lịch. Rõ ràng khách sạn sẽ không nhập khẩu cửa mở tự động nếu việc thuê nhân viên gác
cửa tốn ít chi phí hơn. Hơn nữa, trong rất nhiều trường hợp, tự động hóa thường mang lại
cảm giác chất lượng dịch vụ thấp hơn so với việc phục vụ của nhân viên.

Vấn đề về phương pháp do lường việc làm do du lịch tạo ra


Việc làm do du lịch tạo ra được phân loại thành việc làm trực tiếp và gián tiếp. Việc
làm trực tiếp được định nghĩa là việc làm được tạo ra đặc biệt bởi sự cần thiết phải cung cấp
và phục vụ khách du lịch. Chẳng hạn đó là những việc làm được tạo ra bởi việc mở một
khách sạn. Tuy nhiên, du lịch phát triển, đòi hỏi phải có một số lượng lớn yếu tố đầu vào từ
ngành xây dựng và những người lao động xây dựng cơ sở du lịch có việc làm từ phát triển
du lịch. Những công việc liên quan đến du lịch như vậy được coi là việc làm gián tiếp với ý
nghĩa rằng họ sẽ chuyển hướng sang phục vụ các lĩnh vực khác khi yêu cầu xây dựng công
trình du lịch bị giảm. Ở những nơi du lịch là ngành kinh tế chủ đạo, việc làm gián tiếp do du
lịch tạo ra tạo thành một khía cạnh quan trọng trong tổng số việc làm.
Trong tính toán, một kiểu ước tính hay dùng là đơn giản hóa, xem các phân ngành
khách sạn và nhà hàng là đại diện cho ngành du lịch. Kiểu cắt ngắn như vậy có thể đánh giá
thấp tổng số việc làm do du lịch tạo ra. Nhưng nó cũng có thể đánh giá quá cao vì lao động
trong ngành lưu trú và ăn uống cũng có thể phục vụ cư dân địa phương, phục vụ các bữa ăn
công nghiệp và suất ăn bệnh viện…
Ở những quốc gia không có số liệu thống kê tốt, phương pháp thực tế duy nhất là
thực hiện các cuộc điều tra, thường là điều tra chọn mẫu. Nhưng phương pháp này không
tính được việc làm gián tiếp từ du lịch. Để khắc phục, phương pháp lập bảng Cân đối liên
ngành được sử dụng, bắt đầu từ các cuộc điều tra đặc biệt khảo sát chi tiêu du lịch. Những
sản phẩm và dịch vụ du lịch nào được khách du lịch tiêu dùng, việc làm được tạo ra ở đây là
bao nhiêu. Để sản xuất các sản phẩm và dịch vụ du lịch này, các sản phẩm đầu vào nào
được tiêu dùng, việc làm được tạo ra từ sản xuất các sản phẩm đầu vào đó và tiếp tục,…
tương tự như xác định hiệu quả số nhân của thu nhập. Khảo sát việc làm bên cạnh cung cấp
số lượng việc làm cũng có thể mang lại dữ liệu định tính về các loại hình công việc, chất
lượng công việc và cho chúng ta biết nhiều hơn về yêu cầu lao động và việc làm. Đây là
loại khảo sát cơ bản phục vụ công tác hoạch định nguồn nhân lực du lịch.
2. Chất lượng việc làm
Ơ các nước, nhất là ở những nước phát triển, việc làm trong du lịch thường bị xem là
loại việc làm ít đòi hỏi tay nghề, thu nhập thấp. Ở nhiều quốc gia làm du lịch chủ yếu là phụ
nữ. Những ý kiến này có thể đúng hoặc không đúng cho từng trường hợp cụ thể. Được xem
là đúng, việc làm trong du lịch tạo thu nhập thấp, trước hết bởi cầu việc làm trong du lịch có
tính thời vụ. Vào ngoài mùa du lịch, hiện tượng sa thải nhân viên là phổ biến và điều này có
ý nghĩa quan trọng đối với người lao động và gia đình họ. Quy luật thời vụ là thuộc tính phổ
biến của du lịch, điều này ảnh hưởng đến thái độ của người lập kế hoạch sử dụng lao động.
Họ có xu hướng tăng cường sử dụng lao động thời vụ để hạn chế tác động của tính thời vụ.
Bên cạnh thu nhập thấp, lao động thời vụ thường là những công việc ít đòi hỏi tay nghề.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, đối với nhiều người, làm việc bán thời gian hoặc theo mùa là
một lựa chọn ưa thích.
Về vấn đề việc làm tay nghề thấp, không có sự khác nhau giữa du lịch và các ngành
khác. Trong du lịch, số lượng việc làm có tay nghề cao và được trả lương cao ngày càng
tăng, ví dụ, việc làm ở các khách sạn của các công ty đa quốc gia lớn, việc làm trong ngành
hàng không hay trong doanh nghiệp tiếp thị du lịch sử dụng công nghệ mới,… Mỗi ngành
sản xuất sẽ có một hệ thống cấp bậc công việc. Thách thức thực sự trong du lịch là có cơ
chế để đảm bảo rằng người lao động nếu phấn đấu có thể thăng tiến trong hệ thống cấp bậc
công việc. Đây là lĩnh vực chính sách, nhưng chính sách không thể phát triển mà không có
dữ liệu để cung cấp một thông tin về việc làm. Hệ thống dữ liệu này giúp xác định những kỹ
năng cần thiết và chỉ ra những kỹ năng này có thể được phát triển ở đâu và như thế nào.
Nếu lực lượng lao động tại chỗ không có khả năng này, chúng ta phải thuê chuyên gia nước
ngoài một cách lâu dài. Điều này không chỉ tạo ra mặt bằng lương thấp cho người lao động
trong nước, gây ra sự rò rỉ của nền kinh tế mà còn có thể dẫn đến những bất ổn xã hội và
chính trị.
Nhu cầu đào tạo phục vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch được xác định từ dữ liệu
phản ánh số lượng và chất lượng công việc tạo ra trong du lịch. Nếu không có dữ liệu như
vậy thì không thể xây dựng các chương trình đào tạo cụ thể và các cơ sở đào tạo sẽ không
thể nắm được nhu cầu nhân lực du lịch để đáp ứng. Trong một lĩnh vực có tính quốc tế như
du lịch, vấn đề không chỉ đơn giản là tạo việc làm, mà còn là đào tạo để có những người đủ
điều kiện đảm đương các công việc này. Trong đó, người làm công tác kế hoạch du lịch
quan tâm hơn đến số lượng việc làm tạo ra; nhưng những nhà quản trị du lịch lại quan tâm
nhiều hơn đến yêu cầu về chất lượng việc làm. Cả hai khía cạnh là phụ thuộc lẫn nhau. Vì
vậy, hai khía cạnh định lượng và định tính quan hệ chặt chẽ nhau liên quan nhau trong quy
hoạch nguồn nhân lực du lịch.
3. Tạo thu nhập
Tác động tạo thu nhập của du lịch đã được mô tả bằng cách sử dụng khái niệm hiệu
quả số nhân như đã trình bày ở trên. Rất khó để đánh giá liệu các hiệu ứng thu nhập phát
sinh từ việc làm du lịch là lớn hơn hoặc ít hơn so với các ngành khác. Nhưng do du lịch
thường phát triển ở các khu vực nông thôn, vùng núi, rừng nhiệt đới, bãi biển, những vùng
khó có điều kiện phát triển các ngành công nghiệp khác. Từ đó, ý nghĩa đầu tiên của nó là
du lịch tạo ra một thu nhập địa phương ở nơi mà các ngành khác không thể làm (chúng ta sẽ
bàn kỹ hơn vấn đề này ở mục bên dưới).
Về mặt kinh tế, du lịch có thể tạo ra nhiều lợi ích, bao gồm cả việc làm và thu nhập,
và có lẽ là cải thiện cơ sở hạ tầng như một hệ quả của phát triển du lịch. Về mặt xã hội, hoạt
động du lịch tại các khu vực kém phát triển về kinh tế mang lại sự phát triển đồng đều giữa
các khu vực cho phép hạn chế sự di dân đến các khu vực phát triển hơn của quốc gia. Ở
những vùng núi, chẳng hạn như Sapa, Bản Đôn, du lịch đã góp phần đa dạng hóa thu nhập
dân cư và duy trì cộng đồng. Điều tương tự cũng diễn ra ở những vùng dân cư từng có thời
kỳ phát triển mà nay điều kiện phát triển cũ không còn nữa. Chính du lịch phát triển đã
mang lại sự hồi sinh mà Hội An là trường hợp điển hình. Ở đó, du lịch đã trở thành hoạt
động kinh tế chi phối.
Cũng cần lưu ý rằng, ở nhiều nước đang phát triển, thu nhập du lịch tạo ra thường
cao hơn so với mức thu nhập trung bình. Yếu tố này dẫn đến những tác động cả trên bình
diện cá nhân,, khu vực lẫn quốc gia. Đối với cá nhân, việc làm du lịch thường không chỉ
cung cấp một mức thu nhập cao hơn mà còn có điều kiện làm việc dễ chịu hơn nhiều so với
những công việc thay thế có sẵn khác. Đối với khu vực, nền kinh tế được kích thích bởi chi
tiêu cao hơn và chính quyền có thể được hưởng lợi thông qua thuế. Đối với quốc gia, thu
nhập cao hơn trong lĩnh vực du lịch có thể dẫn đến nhu cầu tăng tiền lương trong các lĩnh
vực khác để giữ chân lực lượng lao động từ đó có thể gây ra các vấn đề lớn về chính sách.
Những tác động đến việc làm và thu nhập của du lịch có quan hệ chặt chẽ nhau. Tầm
quan trọng đặc biệt của chúng là khả năng kích hoạt hiệu ứng số nhân. Thu nhập và việc
làm, mặc dù được nghiên cứu như một số liệu thống kê, lại có ý nghĩa rộng hơn. Bản chất
và loại công việc du lịch có ý nghĩa xã hội và văn hóa; thực tế là việc làm trong du lịch có
thể dẫn đến những thay đổi đặc điểm và kết cấu xã hội. Những thay đổi này tạo ra các vấn
đề chính sách rất quan trọng cần tiếp tục nghiên cứu.

2.2.1.4. Tác động đến đầu tư và phát triển


Nhìn chung, sự phát triển của bất kỳ ngành nào cũng tạo ra cơ hội đầu tư. Nhưng
khác với các ngành khác, du lịch được tạo nên bởi rất nhiều doanh nghiệp nhỏ của hàng loạt
các loại hình dịch vụ khác nhau. Khi ngành công nghiệp ô tô, đóng tàu, luyện kim hay dệt
may,… có điều kiện phát triển, muốn kinh doanh trong những ngành này nhà đầu tư cần
phải huy động đủ một lượng vốn khổng lồ lên đến hàng triệu USD. Trong khi đó, khi nhà
nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng du lịch (hệ thống đường sá, công viên... ) và đôi khi cả kiến
trúc thượng tầng (nghệ thuật, lễ hội, văn hóa dân gian... ) nhằm tạo điều kiện cho du lịch
phát triển, các nhà đầu tư với nhiều mức quy mô vốn khác nhau đều có thể tham gia kinh
doanh du lịch từ xích lô du lịch, bán hàng lưu niệm, homestay,… với yêu cầu vốn vài trăm
đến vài ngàn USD cho đến các resort cao cấp hàng trăm triệu USD: Du lịch phát triển sẽ
kích thích sự tham gia đầu tư rộng rãi của các tầng lớp nhân dân và sự hình thành của các
doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn.
Vì qui mô nhỏ, đòi hỏi về vốn đầu tư tương đối thấp, do đó sự đầu tư được triển khai
rất nhanh. Sự đầu tư xuất phát từ du lịch sẽ kéo theo sự bùng nổ đầu tư ở các ngành sản xuất
vật chất và dịch vụ khác (xây dựng, giao thông vận tải, tiểu thủ công nghiệp, thông tin liên
lạc...). Một vấn đề nữa cần lưu ý, với quy mô thu hút vốn nhỏ, sự phát triển du lịch không
nhất thiết phải lôi kéo các nhà đầu tư bên ngoài mà dân cư địa phương hưởng lợi trực tiếp từ
điều này thông qua khả năng tham gia kinh doanh du lịch tại chỗ của họ.
Một điểm cần lưu ý là do khả năng sinh lợi thấp của đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ
tầng phục vụ cho việc tiếp cận các điểm du lịch nên chính nhà nước là người thực hiện công
tác đầu tư này.

2.2.1.5. Tác động đến nguồn thu ngân sách


Ở những quốc gia mà du lịch là một ngành quan trọng của nền kinh tế, du lịch có thể
mang lại ba khả năng tạo nguồn thu ngân sách. Thứ nhất, thuế trực thu từ thu nhập cá nhân
và thu nhập doanh nghiệp; Thứ hai, thuế gián thu và thuế nhập khẩu; và thứ ba, bởi phí cho
các dịch vụ mà chính quyền cung cấp.
Chính phủ nhận được nguồn thu từ du lịch có thể từ thuế trực thu hay gián thu.
Nguồn trực thu đến từ thuế thu nhập; ví dụ, thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp tạo
ra bởi việc làm và kinh doanh du lịch. Nguồn gián thu chủ yếu bao gồm các loại thuế và phí
đánh vào hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho khách du lịch.
Chính phủ muốn tăng thu ngân sách phải thúc đẩy hoạt động kinh tế. Đương nhiên
du lịch phát triển chính phủ sẽ mong đợi việc tăng việc làm và ngân sách. Ở các nước đang
phát triển, quy mô việc làm nhỏ, chủ yếu trong nông nghiệp và nguồn thu chính phủ hầu hết
từ các loại thuế gián thu, ví dụ về thuế sử dụng đất, thuế VAT, thuế nhập khẩu. Khi du lịch
phát triển, nó tạo khả năng mở rộng cơ sở thuế cả với thuế gián thu và trực thu. Đối với
nhiều quốc gia đang phát triển, trực thu là nguồn thu quan trọng.
Dù vậy, lạm thu ngân sách bằng thuế trực thu trên thu nhập cá nhân và công ty sẽ
không khuyến khích các nhà đầu tư và có thể ngăn chặn tái đầu tư. Ở một số nước, nơi du
lịch là một hoạt động quan trọng, đầu tiên chính phủ áp dụng miễn thuế thu nhập công ty,
và sau này giữ ở mức rất thấp, chẳng hạn như ở Bahamas. Ở đây, chính phủ tìm cách khác
để nâng cao nguồn thu và thường là thông qua thuế gián thu.
Có nhiều cách để thực hiện thuế gián thu trong du lịch. Bên cạnh các loại thuế đánh
vào hàng hóa, dịch vụ mua của khách du lịch, ở một số nơi như thành phố Rome chẳng hạn,
có loại thuế chỉ đánh vào khách du lịch quốc tế. Khách du lịch quốc tế thuê khách sạn, phải
nộp thêm một khoản thuế cho thành phố gọi là thuế du lịch mà người dân Italia không phải
nộp. Tương tự nhưng dưới dạng phí, ở Myanmar, tại một số thành phố du lịch như Bagan,
Nayung Shwe, khách du lịch quốc tế phải trả phí ngay khi bước vào thành phố. Đây được
xem là các phương tiện để nâng cao nguồn thu ngân sách từ khách du lịch. Điều tương tự
cũng được sử dụng trong việc áp dụng các loại thuế sân bay.
Ở nhiều nước đang phát triển, một tỷ lệ đáng kể nguồn thu là từ thuế nhập khẩu. Khi
du lịch phát triển, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa và nguyên vật liệu tăng lên, điều này tạo ra
nguồn thu đáng kể.
Chính phủ cung cấp các dịch vụ công phục vụ du lịch, như dịch vụ thông tin liên lạc,
y tế và an ninh. Chính phủ cũng có vai trò rất tích cực trong hỗ trợ du lịch phát triển như
cho thuê đất, dịch vụ sân bay và dịch vụ đào tạo. Ở một số nước đang phát triển như Ấn Độ,
Pakistan, Bangladesh và Trung Quốc, chính phủ cũng cung cấp các dịch vụ thương mại cho
khách du lịch thông qua các cơ quan chuyên môn, đôi khi được gọi là tập đoàn phát triển du
lịch. Tại các nước này, chính phủ cung cấp dịch vụ thu phí do khu vực tư nhân không có
khả năng hoặc không sẵn sàng cung cấp như các dịch vụ tham quan các công trình kiến
trúc, thắng cảnh hay các trung tâm thủ công mỹ nghệ. Ở các nước phát triển, chính phủ có
xu hướng tư nhân hóa các dịch vụ thương mại này.
Du lịch có thể đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, nhưng tổng nguồn thu
ngân sách do phát triển du lịch tạo ra là bao nhiêu thật khó đo lường. Chẳng hạn, ngay trong
ngành khách sạn và nhà hàng, bao nhiêu trong mức thuế là thuế tạo được từ khách du lịch
bởi các doanh nghiệp này cũng có những thu nhập phi du lịch. Bên cạnh đó, ở đây, một lần
nữa chúng ta lại gặp vấn đề xác định dòng chảy của khoản tiền thu từ hoạt động du lịch.
Khảo sát và nghiên cứu hiệu ứng số nhân lại được sử dụng để phân tách các luồng chi tiêu
nhằm theo dõi những đóng góp ngân sách cho các hoạt động trực tiếp, gián tiếp, kéo theo từ
phát triển du lịch. Điều này có ý nghĩa quan trọng bởi với một quốc gia mà du lịch có vai
trò lớn như nước ta chẳng hạn, nguồn thu chính phủ phụ thuộc nhiều vào du lịch, cần phải
đo lường đúng nguồn thu này. Vì một lý do nào đó, cầu du lịch biến động sẽ tác động trực
tiếp vào ngân sách chính phủ. Thâm hụt nguồn thu buộc chính phủ phải thay đổi hoặc đình
chỉ các mục tiêu phát triển. Bằng cách đo lường sự đóng góp doanh thu du lịch, chính phủ
sẽ có ý thức hơn về sự phụ thuộc và dễ bị tổn thương của họ về nguồn thu này.

2.2.1.6. Du lịch phát triển thúc đẩy sự phát triển của các địa phương
Du lịch phát triển, sự tiêu dùng của khách du lịch gia tăng sẽ làm cho luồng tiền và
cơ hội tìm việc làm tại địa phương tăng lên.
Ở đây có một khía cạnh cần lưu ý là chính sự phát triển du lịch giúp sự phát triển của
các địa phương đồng đều hơn. Những vùng giàu tài nguyên khoáng sản hoặc giao thông
thuận lợi có điều kiện phát triển công nghiệp, thương mại. Sự phát triển này dễ dẫn đến sự
đa dạng sinh thái, môi trường bị tàn phá, các di tích cổ xưa bị các nhà máy, khu dân cư nuốt
chửng. Hầu hết các vùng còn phong cảnh thiên nhiên đẹp, sinh thái đa dạng, môi trường
trong sạch, các di tích lịch sử và văn hóa còn được bảo tồn lại thường là những vùng nghèo
nàn về kinh tế. Các nước đang phát triển hay Huế, Hội An, Sapa, Bà Nà,… là những nơi
như vậy.
Do vậy, sự phát triển du lịch ở những vùng khó khăn về phát triển công nghiệp, nông
nghiệp dẫn đến hiện tượng thu nhập từ những vùng giàu có được mang đến những vùng
nghèo hơn và đem lại thu nhập cũng như công ăn việc làm cho những vùng này. Du lịch
phát triển là một trong những biện pháp hữu hiệu để phát triển những vùng vốn có tốc độ
tăng tưởng kinh tế thấp.
Những vấn đề nêu trên là những ý nghĩa kinh tế của phát triển du lịch. Và thật là
thiếu sót khi xét đến các tác động của du lịch nếu chúng ta không xét đến những ảnh hưởng
xã hội, môi trường của nó.

2.2.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Du lịch phát triển sẽ có những tác động to lớn đến cộng đồng cư dân địa phương về
văn hóa và xã hội. Cộng đồng ở đây có thể là dân cư của một quốc gia, khu vực hoặc địa
điểm, nói chúng là một nhóm những người sống chung trong một vị trí. Sau nhiều năm tồn
tại, một cộng đồng sẽ phát triển truyền thống, thái độ và phong cách sống riêng của mình có
thể có ít nhiều đặc biệt. Tất cả thường được kết hợp trong từ 'văn hóa'.
Có nhiều công trình nghiên cứu về những tác động phi kinh tế của du lịch, nhưng
đáng tiếc là trong lĩnh vực này, chúng ta thường gặp những phân tích về tác động tiêu cực
của phát triển du lịch nhằm yêu cầu phải có các giải pháp quản lý. Những công trình nghiên
cứu như vậy sẽ tiếp tục xuất hiện và thậm chí sẽ ngày càng nhiều hơn.
Một khu nghỉ có cơ sở hạ tầng dựa trên các tiêu chuẩn phương Tây được xây dựng
ngay cả trong các nước nghèo nhất. Khu nghỉ này cung cấp cho các khách du lịch phương
xa một 'bong bóng sinh thái' bảo vệ môi trường quen thuộc của họ - thậm chí cực đoan hơn
là việc xuất hiện các khu nghỉ mà trong nhân viên là người nước ngoài, cả điều kiện vật
chất, phong cách phục vụ, ngôn ngữ sử dụng,… tách rời hẳn với truyền thống địa phương.
Trong một nghĩa nào đó, khách du lịch nước ngoài không tích hợp thành một thành tố của
xã hội tại chỗ, mà đúng hơn, họ đối đầu với nó. Khi số lượng khách du lịch là lớn và thường
xuyên, phản ứng của cộng đồng cư dân bản địa là không tránh khỏi. Phản ứng có thể dưới
hai hình thức: hoặc là thái độ từ chối khách du lịch nước ngoài của người dân địa phương,
hoặc là chấp nhận những mô hình hành vi của người nước ngoài để tạo thành một “hiệu ứng
trình diễn” xã hội mà người dân địa phương bắt chước những gì người nước ngoài mặc và
làm. Trong cả hai trường hợp, vấn đề sẽ phát sinh. Mức độ tác động là khác nhau ở những
điểm đến khác nhau, nó lệ thuộc vào số lượng khách du lịch đến, sức mạnh văn hóa của
cộng đồng và khả năng hạn chế những tác động tiêu cực của địa phương thông qua các hoạt
động để giúp khách du lịch biết về phong tục địa phương, truyền thống và "điều cấm kỵ".
Các tác động xã hội và văn hóa cơ bản là vấn đề chất lượng chứ không phải là con số định
lượng vì vậy đây là lĩnh vực khó phân tích. Ví dụ, Seychelles đã xác định giới hạn tăng
trưởng hàng năm của các cơ sở lưu trú là 4.000 buồng phòng trong kế hoạch phát triển du
lịch của mình. Nhưng tại sao là con số 4.000 chứ không phải 5.000 hoặc thậm chí 3.000? Ở
một mức độ, giới hạn công suất được xác định theo đặc điểm của vùng và sự sẵn có của cơ
sở hạ tầng, điều này nghe có vẻ có cơ sở nhưng không xác định thực tế về khả năng chịu
đựng của điểm đến.

2.2.2.1. Tác động lên hành vi xã hội và các giá trị


Khi khách du lịch vào nước chủ nhà, họ không chỉ mang theo sức mua mà còn mang
theo lối sống của họ nữa. Trên tất cả, họ mang theo một kiểu hành vi khác mà có thể biến
đổi một cách sâu sắc những thói quen xã hội của địa phương thông qua việc loại bỏ và thay
đổi những tiêu chuẩn của dân cư sở tại. Ngoài ra, du lịch là một “sự kiện xã hội khổng lồ”
có thể dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc xã hội. Cả hai loại thay đổi trên mang tính phổ
biến ở khắp nơi trên thế giới.
Trong mùa du lịch, dân cư không chỉ phải chấp nhận những ảnh hưởng của tình trạng
quá đông mà họ còn phải thay đổi cách sống (gia tăng công việc thời vụ, làm việc theo ca)
và sống gần gũi với những đối tượng khách du lịch khác nhau, chủ yếu là dân thành thị,
những người đến đơn giản chỉ để giải trí. Sự 'chung sống' này thường dẫn đến các căng
thẳng xã hội và tinh thần bài ngoại, đặc biệt nơi dân cư, vì lý do tâm lý, văn hóa, xã hội,
chưa sẵn sàng để chấp nhận 'cuộc xâm lược du lịch'.
“Hiệu ứng trình diễn”, kết quả từ sự tương tác gần của các nhóm khác nhau dẫn đến
sự biến đổi của các giá trị. Phổ biến nhất là do kỳ vọng tăng lên của dân địa phương với
mong muốn đạt được tiêu chuẩn vật chất và giá trị của các khách du lịch. Những thay đổi
các giá trị xã hội đến lượt nó lại dẫn đến thay đổi những tiêu chuẩn chính trị, đôi khi đưa
đến những hậu quả đáng ngại. Bên cạnh đó, người ta cũng thấy sự suy giảm trong giá trị
đạo đức và tôn giáo hiển thị thông qua mức độ tội phạm gia tăng. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm
khi quy tất cả cho du lịch, đây là những thay đổi xã hội ảnh hưởng đến cộng đồng trong quá
trình hiện đại hóa. Du lịch chỉ làm tăng tốc quá trình chứ không tạo ra nó.

2.2.2.2. Tác động văn hóa


Ở đây bàn về tác động đến các hiện tượng văn hóa. Du lịch có thể tạo ra chi phí xã
hội, thường khó ước tính, nhưng không thể bỏ qua. Một ví dụ là mối đe dọa cho trang phục
truyền thống đặc thù của mỗi nước và mỗi vùng. Tuy nhiên, du lịch cũng có thể trở thành
người bảo trợ cho việc bảo vệ những truyền thống như là duy trì sức hấp dẫn của điểm đến.
Điều quan trọng trong bảo vệ và duy trì di sản văn hóa là việc đối phó với các vấn đề như
đào trộm di sản, mua bán bất hợp pháp cổ vật và động vật hoang dã, việc thương mại hóa
các sự kiện văn hóa truyền thống dẫn đến việc tạo ra các giả văn hóa, văn học dân gian phế
phẩm cho du lịch vốn không có giá trị văn hóa cho người dân địa phương hay khách du lịch.
Vấn đề là các xung đột tiềm tàng giữa kinh tế và lợi ích văn hóa, dẫn đến văn hóa bị hy sinh
cho lý do tạo ra một giá trị kinh tế bổ sung giá trị văn hóa bị mất. Tuy nhiên, tiếp xúc của
dân cư đến các nền văn hóa khác do du lịch là một quá trình không thể đảo ngược. Trên
mức độ xã hội, du lịch được tổ chức tốt có thể có lợi cho sự kết nối giữa khách du lịch và
người dân địa phương, khuyến khích trao đổi văn hóa, dẫn đến sự thưởng thức thân thiện và
có trách nhiệm. Cuối cùng, sẽ tăng cường liên kết giữa các quốc gia. Từ quan điểm của du
lịch có trách nhiệm, những tác động tích cực có thể có được mà những tác động quan trọng
nhất có thể là:
1. Du lịch hình thành một phương pháp phát triển và thúc đẩy nhất định những khu vực
nghèo hoặc phi công nghiệp hóa, nơi các hoạt động truyền thống bị mai một do thiếu hỗ trợ.
Mặt khác, sự phát triển du lịch cho phép cư dân địa phương không phải bỏ xứ tha hương,
cộng đồng vẫn còn nguyên vẹn và làm chậm quá trình di dân lên thành phố lớn. Việc lưu
giữ và tiếp tục của cộng đồng tại chỗ thường là cách tốt nhất để bảo tồn truyền thống và lối
sống. Các cơ hội thu nhập và việc phát sinh từ du lịch cung cấp một sự ổn định cho cuộc
sống cộng đồng. Hội An là minh chứng sống động cho tác động này.
2. Du lịch làm nổi bật các giá trị xã hội có sức hấp dẫn khách du lịch, du lịch phát triển đòi
hỏi một môi trường văn hóa chất lượng cao.
3. Với quản lý thích hợp, du lịch có thể đảm bảo việc bảo tồn lâu dài của vùng cảnh quan có
vẻ đẹp tự nhiên nổi bật và / hoặc có giá trị văn hóa thẩm mỹ, ví dụ Vịnh Hạ Long, Công
viên quốc gia ở Mỹ, Ayers Rock tại Úc.
4. Du lịch có thể kích thích phục hồi truyền thống kiến trúc địa phương, với điều kiện đặc
thù của khu vực, di sản của tổ tiên và môi trường văn hóa được tôn trọng. Nó cũng có thể
phục vụ như một bàn đạp cho sự hồi sinh của khu vực đô thị, ví dụ Huế, Hội An.
5. Du lịch góp phần vào sự hồi sinh của nghệ thuật địa phương và hàng thủ công và các hoạt
động văn hóa truyền thống trong một khung cảnh môi trường tự nhiên được bảo vệ, ví dụ
làng đá Non Nước mà nếu không có sự phát triển du lịch đã bị khai thác cạn kiệt cho nhu
cầu vật liệu xây dựng.
6. Trong trường hợp thuận lợi nhất, du lịch thậm chí có thể cung cấp một cách để làm sống
lại đời sống xã hội và văn hóa của người dân địa phương, do đó củng cố các cộng đồng dân
cư, khuyến khích liên lạc trong phạm vi cả nước, thu hút những người trẻ tuổi và ưu tiên
cho hoạt động địa phương.
Cần lưu ý rằng các tác động kinh tế của du lịch thường được quan sát thấy trong
ngắn hạn nếu không nói là ngay lập tức. Khách du lịch có thể nhìn thấy điều này khi đến
sân bay và chi tiêu tiền. Những tác động xã hội và văn hóa mất rất nhiều thời gian để bộc lộ,
và cũng như những thay đổi về chất khác, những thay đổi này tinh tế và khó đo lường. Vì
vậy, những thay đổi chậm chạp này tích lũy dần các mâu thuẫn cho đến một ngày chúng
bộc phát dưới hình thức bạo lực của sự bất mãn. Sự bùng phát như vậy sẽ ngăn chặn dòng
khách du lịch và thường mất nhiều năm kiên nhẫn (và tốn kém) để xây dựng lại hình ảnh.
Vấn đề là phải xác định các xung đột tiềm năng, xoa dịu tình huống trước khi chúng xảy ra.
Du lịch là một khái niệm trừu tượng đối với nhiều người dân ở các nước đang phát triển.
Khách du lịch là không trừu tượng - họ có mặt trong xã hội và có thể trở thành tâm điểm
cho sự oán giận của địa phương. Điều này phải được tránh, không chỉ vì lợi ích của du lịch
và khách du lịch, mà còn cho các cộng đồng địa phương. Khái niệm phát triển bền vững đã
được áp dụng cho du lịch. Nhà quy hoạch du lịch cần có ý thức về sự cần thiết phải nhìn
thấy sự phát triển du lịch trong một tầm nhìn dài hạn. Một trong những hướng trọng tâm là
trao cho cộng đồng quyền nhận được lợi ích từ phát triển du lịch lẫn quyền tham gia trong
cả quy hoạch và quản lý phát triển du lịch. Đây là loại hình “du lịch cộng đồng” được nhiều
nơi áp dụng thành công.
Cần lưu ý rằng du lịch là một sự mua bán tùy ý. Khách du lịch phải được thuyết
phục, họ không thể bị cưỡng chế để tham quan một đất nước. Nếu một quốc gia đã bị mang
tiếng có thái độ thù địch với khách du lịch, lượng khách đến sẽ dần suy giảm, không có điều
biện minh nào có thể thuyết phục khách. Trong quy hoạch du lịch, bảo vệ lợi ích của cộng
đồng địa phương cũng quan trọng như đảm bảo sự viếng thăm lâu dài và sự chấp nhận của
khách du lịch; cả hai mục tiêu này có quan hệ liên kết với nhau.

2.2.3. NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Có sự quan tâm ngày càng tăng về các tác động của một số hình thức phát triển du
lịch đến môi trường. Cần lưu ý rằng không phải chỉ phát triển du lịch làm thoái hóa môi
trường. Phát triển công nghiệp và nông nghiệp cũng mang lại hậu quả tai hại không kém ở
nhiều nơi. Chúng ta phải thấy rằng, thế giới đang phải đối mặt với sự xuống cấp của môi
trường. Trong một thế giới phẳng như hiện nay, những vấn đề địa phương đang thu hút sự
chú ý toàn cầu. Mặc dù phát triển du lịch không là tác nhân lớn và duy nhất, nhưng ở một số
nơi, do phát triển du lịch không có chương trình quản lý để kiểm soát các vấn đề, môi
trường tự nhiên và hoạt động kinh doanh du lịch đều sẽ bị ảnh hưởng. Điều dễ thấy đầu tiên
là khối lượng khách du lịch càng lớn, càng có xu hướng tạo ra các tác động môi trường lớn.
vì vậy, vấn đề hạn chế số lượng khách du lịch tại các điểm đến và các điểm tham quan đang
được nhiều nơi đặt ra.
Như một hệ quả của vấn đề môi trường, người lập kế hoạch du lịch ngày nay ý thức
hơn về trách nhiệm của mình cho các thế hệ tương lai để sử dụng môi trường cẩn thận hơn.
Trong định nghĩa rộng nhất của nó, môi trường đề cập đến môi trường vật lý trong đó bao
gồm các thành phần tự nhiên và xây dựng. Môi trường tự nhiên là những gì tồn tại từ thiên
nhiên - khí hậu và thời tiết, tính năng nước, địa hình và đất, thực vật và động vật, v.v… - và
Môi trường xây dựng, gồm những vật thể do con người tạo ra, chủ yếu là các tòa nhà và các
công trình kiến trúc khác. Tuy nhiên, phải thấy rằng, cần phân tích môi trường một cách
toàn diện, các yếu tố văn hóa xã hội và kinh tế của môi trường phải được bao gồm và, trên
thực tế, thường rất khó để tách rời các thành phần kinh tế, xã hội và vật chất của môi
trường. Tuyên bố Manila của Tổ chức Du lịch Thế giới, được thông qua vào năm 1980,
nhấn mạnh tầm quan trọng của cả hai nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa trong phát
triển du lịch, và sự cần thiết phải bảo tồn các nguồn tài nguyên vì lợi ích của du lịch cũng
như cư dân của khu du lịch. Tuyên bố chung của Chương trình Môi trường của WTO và
Liên Hợp Quốc, trong đó chính thức hóa sự phối hợp liên ngành về du lịch và môi trường
năm 1982.
Việc bảo vệ, tăng cường và cải thiện các thành phần khác nhau của môi trường là
một trong những điều kiện cơ bản cho sự phát triển hài hòa của du lịch. Tương tự như vậy,
quản lý hợp lý du lịch có thể đóng góp cho một mức độ lớn để bảo vệ và phát triển môi
trường vật lý và các di sản văn hóa, cũng như để cải thiện chất lượng cuộc sống ....
Có hai vấn đề môi trường chính. Một là tác động tạo đến môi trường do du lịch tạo ra
và cách thức duy trì, nếu cần thiết, nâng cao chất lượng tổng thể của khu du lịch.
Du lịch có thể tạo ra các tác động tích cực và tiêu cực về môi trường, tùy thuộc vào
sự phát triển được hoạch định và kiểm soát như thế nào. Những tác động chủ yếu được nêu
dưới đây. Không phải tất cả đều đồng thời xảy ra trong một khu vực. Những gì xảy ra và
mức độ tác động của từng hiện tượng phụ thuộc vào loại hình, quy mô phát triển du lịch và
các đặc điểm môi trường của khu vực.

2.2.3.1. Tác động tiêu cực


Ô nhiễm nguồn nước
Nếu khách sạn, khu nghỉ dưỡng hoặc các cơ sở du lịch khác không có hệ thống xử lý
nước thải thích hợp, sẽ xuất hiện tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngầm từ nước thải; hoặc
nếu cửa xả nước thải chưa xử lý tốt được xây dựng gần con sông hoặc vùng nước ven biển
sẽ gây ô nhiễm nước mặt. Nhiều khu du lịch như Pattaya Beach Resort, Thái Lan, người ta
sử dụng biểu tượng Cờ xanh của Cộng đồng châu Âu để chỉ những bãi biển và vùng nước
sạch như là một nỗ lực thông báo cho người sử dụng tiềm năng về việc đạt tiêu chuẩn của
môi trường bãi biển.
Ô nhiễm không khí
Du lịch thường được coi là một "ngành công nghiệp sạch", nhưng ô nhiễm không khí
do phát triển du lịch có thể là kết quả của vận chuyển khách, đặc biệt là tại các địa điểm thu
hút du lịch lớn. Vấn đề này là do công tác xác định tiêu chuẩn khí thải và việc bảo trì hệ
thống thải của máy bay, ô tô không đúng cách. Ngoài ra, ô nhiễm dưới dạng bụi bẩn trong
không khí có thể được tạo ra từ các khu vực phá dở, xây dựng các công trình kiến trúc du
lịch không được quản lý tốt.
Ô nhiễm tiếng ồn
Tiếng ồn tạo ra bởi sự tập trung của khách du lịch, xe du lịch, và đôi khi một số loại
điểm vui chơi hoặc đường đua xe ô tô/gắn máy có thể đạt đến mức độ khó chịu.
Ô nhiễm cảnh quan (ô nhiễm thị giác)
Khách sạn và các cơ sở du lịch được thiết kế và xây dựng kém, không phù hợp với
phong cách kiến trúc địa phương hoặc cảnh quan nơi đó, việc sử dụng quá nhiều bảng
quảng cáo lớn và xấu xí hay các tòa nhà và cảnh quan được bảo dưỡng kém đều mang lại
môi trường không hấp dẫn đối với cả khách du lịch và người dân.
Tình trạng quá tải và tắc nghẽn
Quá đông khách du lịch, đặc biệt là tại các điểm tham quan du lịch nổi tiếng, và tắc
nghẽn xe cộ là các vấn đề về môi trường do du lịch tạo ra, có thể dẫn đến sự bất bình của
một bộ phận cư dân tại khu vực.
Vấn đề sử dụng đất
Theo nguyên tắc quy hoạch, du lịch ưu tiên lựa chọn những khu đất ít có giá trị cho
các nhu cầu sử dụng đất khác như canh tác, xây dựng khu dân cư, khu công nghiệp và có lẽ
nên vẫn đặt dưới sự kiểm soát bảo tồn nghiêm ngặt.
Hủy hoại sinh thái
Một số vấn đề sinh thái có nguyên nhân từ việc phát triển du lịch không kiểm soát
được. Ví dụ như các môi trường tự nhiên mong manh bị khách du lịch sử dụng quá nhiều
dẫn đến thiệt hại sinh thái như làm diệt chủng hay làm chậm sự tăng trưởng của động thực
vật trong khu bảo tồn; việc mua bán các bộ sưu tập các loại vỏ sò, san hô, vỏ rùa quý hiếm
hoặc các mặt hàng khác sẽ làm cạn kiệt một số loài nhất định; phá và giết hại san hô bởi
thuyền, mỏ neo và hoạt động của thợ lặn, (san hô đòi hỏi nhiều thập kỷ để tái tạo); khai thác
quá mức đầm lầy ngập mặn sẽ ảnh hưởng đến môi trường sống quan trọng cho đời sống
biển và sự tuần hoàn nước.
Rủi ro môi trường
Xác định địa điểm và thiết kế kỹ thuật cơ sở du lịch kém có thể tạo ra sạt lở đất, lũ
lụt và bồi lắng của sông và các khu vực ven biển dẫn đến từ việc loại bỏ thảm thực vật, sự
gián đoạn của các kênh thoát nước tự nhiên, v.v…
Thiệt hại đối với di tích lịch sử và khảo cổ
Lạm dụng hoặc lạm dụng các địa điểm khảo cổ và lịch sử mong manh với môi
trường có thể dẫn đến tổn thương của các tính năng này thông qua quá mòn, rung động và
phá hoại.
Xả rác, xử lý chất thải không đúng cách
Rác thải trên khu vực cảnh quan là một vấn đề phổ biến ở các khu du lịch vì số lượng
lớn người sử dụng diện tích và loại hoạt động họ tham gia vào. Xử lý không đúng cách chất
thải rắn từ các khu nghỉ mát và khách sạn có thể tạo ra cả rác và vấn đề sức khỏe từ sâu bọ,
bệnh tật và ô nhiễm.

2.2.3.2. Tác động tích cực


Du lịch, nếu quy hoạch và kiểm soát tốt có thể giúp duy trì và cải thiện môi trường
với nhiều cách khác nhau như sau:
Bảo tồn các khu vực tự nhiên quan trọng
Du lịch có thể giúp giải thích và tài trợ cho việc bảo tồn các khu thiên nhiên, vui chơi
giải trí ngoài trời và bảo trì các điểm tham quan mà nếu không có sẽ làm các nơi này giảm
chất lượng về mặt sinh thái.
Bảo tồn các địa điểm khảo cổ và lịch sử
Du lịch cổ động và tài trợ cho việc bảo tồn các địa điểm khảo cổ và lịch sử (như các
điểm tham quan cho khách du lịch) mà nếu không có thể giảm chất lượng hoặc biến mất.
Nâng cao chất lượng môi trường
Du lịch có thể đóng góp vào hoạt động 'làm sạch' môi trường tổng thể thông qua sự
kiểm soát mức ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, rác và các vấn đề môi trường khác. Nó
cải thiện thẩm mỹ môi trường thông qua các công trình kiến trúc được thiết kế và xây dựng
phù hợp, bảo trì tốt, v.v... Mặc dù điều này vì lợi ích chủ quan nhưng phát triển các cơ sở du
lịch được thiết kế tốt có thể nâng cao một cảnh quan thiên nhiên hay đô thị, nếu không có sẽ
gây buồn tẻ và nhàm chán.
Cải thiện cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng địa phương, sân bay, đường giao thông, hệ thống thoát nước, viễn
thông v.v…, thường có thể được cải thiện thông qua phát triển du lịch, cung cấp các lợi ích
kinh tế cũng như môi trường.

2.2.4. VẤN ĐỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH


Nhận thức được những tác động của du lịch không chỉ có ý nghĩa trong kinh doanh
du lịch, mà còn có ý nghĩa quan trọng về trách nhiệm môi trường và xã hội. Như đã được
phân tích trong cấu trúc hệ thống không gian du lịch, nhiều lớp của các hệ thống, đặc biệt là
đối với vùng nhận khách, cần phải xem xét cộng đồng cư dân địa phương và môi trường nơi
đó như là một phần của sản phẩm du lịch bởi những tính chất khác nhau của hai yếu tố này
làm cho một điểm đến du lịch hấp dẫn hơn hay ngày càng mai một. Do đó, việc đánh giá tác
động của du lịch là rất quan trọng để hiểu được môi trường kinh doanh hiện đại của ngành
du lịch cũng như các mối quan hệ giữa du lịch và điểm đến.

2.2.4.1. Quan điểm toàn diện về đánh giá tác động của du lịch
Phát triển du lịch có tác động tích cực hay tiêu cực đến vùng nhận khách và ngay cả
vùng gửi khách là một trong những cuộc tranh luận quan trọng nhất của những nhà nghiên
cứu du lịch hiện nay. Một thời gian dài, du lịch được coi là nhân tố thuận lợi và có ảnh
hưởng tích cực đến điểm đến. Tuy nhiên, như đã nói ở chương 1, với sự ra đời của một thế
hệ mới máy bay phản lực vào cuối năm 1960 và đầu những năm 1970, và tăng trưởng du
lịch quốc tế vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, du lịch đã bộc lộ những tác động không mong
muốn cho các điểm đến bên cạnh các lợi ích kinh tế tiềm năng của nó. Tuy vẫn bàn đến một
ít về tác động của vùng gửi khách và tuyến đường, nhưng ở đây chúng ta sẽ thảo luận chủ
yếu về những tác động của du lịch đến vùng nhận khách.
Có một số vấn đề cần lưu ý:
 Những tác động này sẽ được giới thiệu một cách phân tích với việc
phân chia thành các tác động tích cực, tiêu cực, các tác động kinh tế, xã hội và môi
trường nhưng cũng xin nhấn mạnh rằng những tác động này không rời rạc mà luôn
có sự ảnh hưởng trong quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
 Một trong những khía cạnh quan trọng trong việc đánh giá tác động
của du lịch là việc nhận thức về tác động của du lịch thường khác nhau bởi những
người khác nhau. Ví dụ, việc gia tăng giá trị tài sản, một kết quả của phát triển du
lịch, thường được coi là tích cực đối với các chủ sở hữu và chính quyền (chủ thể
nhận được nguồn thu ngân sách từ thuế bất động sản); nhưng tiêu cực với những
người thuê tài sản vì họ gặp khó khăn khi giá thuê tăng và khó khăn hơn trong việc
mua bất động sản. Ngoài ra, sự khác biệt này cũng khác nhau giữa các địa điểm, tùy
thuộc vào thái độ khác nhau đối với du lịch liên quan đến những đặc thù văn hóa -
giá trị và mục tiêu hướng đến của cộng đồng.
 Du lịch phát triển gây ra sự thay đổi, có những thay đổi nhanh chóng
tức thời, nhưng cũng có những thay đổi rất chậm. Trường hợp thay đổi xảy ra rất
chậm và đang gia tăng trong tự nhiên thường tương đối ít có thái độ tiêu cực. Hầu hết
các trường hợp phản đối liên quan đến những thay đổi tiêu cực nhanh chóng của du
lịch như tăng chỉ số giá, tác nghẽn giao thông, ứ đọng rác thải,… bởi thay đổi nhanh
chóng làm cho cộng đồng khó khăn trong thích ứng với thay đổi. Thế nhưng những
thay đổi chậm cũng không kém phần nguy hại, nếu không muốn nói luôn có ảnh
hưởng lâu dài, khó khắc phục. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhận thức về
hậu quả của du lịch đã tăng đều đặn. do đó thái độ với du lịch không khác so với bất
kỳ hình thức nào khác của phát triển công nghiệp. Thật vậy, cộng đồng ngày càng
thấy rằng, du lịch có tiềm năng lớn trong việc làm thay đổi một số lĩnh vực như văn
hóa và quan hệ xã hội, bởi vì cùng với việc tạo ra những trải nghiệm cho khách du
lịch, bản chất du lịch đòi hỏi phải có sự trao đổi xã hội.
1. Mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các khía cạnh tác động
Một cách hàn lâm, như đã trình bày ở trên, tác động của du lịch được chia thành ba
loại chính: môi trường (đề cập đến môi trường vật lý, sinh thái), xã hội và kinh tế
(Matheson và Wall 1982). Việc phân loại này không tách bạch, một tác động có thể trên các
lĩnh vực khác nhau hoặc tác động trên lĩnh vực này rồi từ đó ảnh hưởng đến lĩnh vực khác
nhưng phân chia như vậy là cần thiết cho nhận thức về tác động của du lịch (điều này thể
hiện ở Hình 2.2). Các mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các khía cạnh kinh tế, môi
trường và xã hội có nghĩa là chúng có một vùng chung mà từ đó hình thành quan điểm về
phát triển du lịch bền vững.

Các tác động KT-XH


(phân phối thu nhập,…)
CÁCTÁC ĐỘNG CÁCTÁC
Cách tiếp cận
hội nhập của Các tác. động KT-
Các tácđộng XH-MT tác động. MT (giá trị kinh tế
(cảnh quan. của tổn thất môi
thay đổi …) trường…) .

CÁC TÁC ĐỘNG MÔI


TRƯỜNG VÀ NGUỒN LỰC
TỰ NHIÊN

Hình 2.2 Những mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau của các tác động du lịch
2. Vấn đề về phân biệt tác động ở các bộ phận khác nhau của hệ thống không gian du
lịch
Một vấn đề khác của tác động du lịch là chúng xảy ra ở các khu vực khác nhau và ở
các giai đoạn khác nhau của chuyến du lịch. Ví dụ, đối với các yếu tố của hệ thống không
gian du lịch (Bảng 2.3), rất nhiều các tác động của du lịch với xảy ra bên ngoài của điểm
đến. Việc xả thải gây hiệu ứng nhà kính từ các phương tiện giao thông chủ yếu xảy ra dọc
theo tuyến đường quá cảnh nhưng có tác dụng trên tất cả các yếu tố của hệ thống. Vì vậy,
những cộng đồng sống ở nơi diễn ra tất cả các giai đoạn của việc tạo ra chuyến đi sẽ bị ảnh
hưởng. Tuy vậy, vẫn thấy rằng tác động lớn nhất là vẫn ở vùng nhận khách.
3. Vấn đề về phân biệt mức độ ảnh hưởng của tác động
Một vấn đề nữa, trong thực tế, một số tác động được xem trọng hơn. Các tác động
kinh tế rõ ràng là quan trọng vì nó liên quan đến khía cạnh thu nhập và việc làm của cộng
đồng, sự đóng góp vào nguồn thu ngân sách của điểm đến và phát triển kinh tế đất nước.
Các chi phí cơ hội của phát triển du lịch, sự liên kết với các ngành khác và tác động của đầu
tư nước ngoài là những vấn đề thứ yếu hơn.
Mức độ thấy Loại tác động Môi trường
Vùng gửi Tuyến Vùng nhận
được hậu quả của (theo lĩnh vực bị ảnh bên ngoài
khách đường khách
tác động hưởng) chuyến đi
Cao Môi trường tự nhiên Tr.bình Tr.bình Cao Tr.bình

Môi trường xây dựng Yếu Tr.bình Khá Yếu

Môi trường kinh tế Tr.bình Yếu Tr.bình Yếu

Môi trường VH-XH Yếu Yếu Tr.bình Yếu

Môi trường SP-Dvụ Yếu Tr.bình Cao Yếu


Khá Yếu Tr.bình
Nhân viên – khách du
Khách DL Khách DL Khách DL Không
lịch

Nhân viên – Doanh


Thấp DN DN DN Không
nghiệp Yếu Tr.bình Tr.bình
Bảng 2.3 Ma trận về sự thay đổi do tác động của phát triển du lịch
Các tác động đến môi trường, sự chú ý thường tập trung vào ảnh hưởng của du lịch
đến việc mất nguồn tài nguyên tự nhiên, thay đổi cảnh quan, ô nhiễm môi trường và vấn đề
đa dạng sinh học. Mối quan tâm ít hơn tập trung vào những khía cạnh chuyên biệt như các
khu vực núi cao hoặc rạn san hô, mối quan hệ giữa du lịch và bảo tồn. Có lẽ đáng kể nhất
trong nhận thức về tác động của du lịch đến môi trường là thấy rằng tác động không chỉ
diễn ra tại điểm đến và do đó đã có những đánh giá lại đáng kể tác động môi trường của du
lịch hiện đại.
Các hậu quả xã hội và văn hóa của du lịch là vô cùng phức tạp vì chúng không chỉ
tác động đến khá nhiều khía cạnh khác nhau: các nền văn hóa, cộng đồng và cá nhân - mà
còn ảnh hưởng khác nhau trên các chủ thể khác nhau: khách du lịch, chính quyền, cộng
đồng cư dân địa phương và các nhà cung ứng dịch vụ du lịch. Vấn đề còn phức tạp hơn nữa
khi cùng một cá nhân nhưng họ sẽ có vai trò khác nhau vào các thời điểm khác nhau. Lúc là
khách du lịch, lúc là nhà cung ứng sản phẩm du lịch.
Ở cấp độ điểm đến, mức độ gây ra những thay đổi giá trị cá nhân hay văn hóa cộng
đồng của du lịch là một nội dung quan trọng cần phân tích. Về tác động văn hóa, xã hội của
du lịch, người ta thường lưu ý đến những tác động tiêu cực, tuy nhiên, trong một số trường
hợp, du lịch phát triển cũng tạo điều kiện bảo tồn văn hóa bởi nó làm cho các hoạt động văn
hóa vốn ít được bên ngoài quan tâm nay có được thị trường của mình và từ đó là nguồn kinh
phí bảo tồn. Đối với khách du lịch, khi trở lại quê hương mình, họ không chỉ phản ánh lại
các trải nghiệm mà những quan niệm và hiểu biết của bản thân, những quan hệ xã hội trong
gia đình hoặc nơi làm việc cũng có sự thay đổi. Đối với nhân viên du lịch, kinh nghiệm dịch
vụ không chỉ là nhiệm vụ cần thực hiện mà còn dẫn đến việc đánh giá lại các khái niệm về
bản thân và các mối quan hệ cá nhân.
4. Sự song hành của tính tích cực và tiêu cực của cùng một tác động
Nếu chỉ xem xét bên ngoài, một tác động được xem là tích cực hay tiêu cực phụ
thuộc vào quan điểm của người đánh giá và bối cảnh xảy ra của nó. Bảng 2.4 mô tả một số
tác động tích cực và tiêu cực chủ yếu trên quan điểm xem xét của các tổ chức theo sáu loại
khác nhau.
Bảng 2.4 Tác động của du lịch đến điểm đến du lịch
Loại Tích cực Tiêu cực
tác động
Kinh tế Tăng chi tiêu Lạm phát và tăng giá tại vùng chi tiêu
Tạo việc làm Lao động nhập cư thay lao động địa phương
Tăng khả năng cung ứng lao động Tăng thất nghiệp thời vụ
Giá trị của bất động sản tăng Xuất hiện hiện tượng đầu cơ bất động sản
Gia tăng tiêu chuẩn sống Gia tăng sự cách biệt thu nhập giữa người giàu
và người nghèo
Tăng đầu tư Tăng chi phí cơ hội của đầu tư
Phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công Cơ sở hạ tầng ở những nơi khác trong vùng và
nhiều dịch vụ công khác không nhận được hỗ trợ
Gia tăng thương mại tự do (xuất khẩu sản Không xem xét đầy đủ khả năng cung ứng vật tư
phẩm du lịch, nhập khẩu vật tư du lịch) du lịch tại chỗ
Thu hút đầu tư nước ngoài Không đánh giá đầy đủ chi phí phát triển du lịch,
mất quyền sở hữu địa phương
Du lịch / Nâng cao hình ảnh điểm đến Bị nhận tiếng xấu khi đầu tư cơ sở vật chất
Thương không đủ, thực hiện không tốt hoặc giá cả quá
mại cao
Nâng cao kiến thức đầu tư như tiềm năng Phản ứng tiêu cực từ các DNDL đang có bởi làm
đầu tư và hoạt động thương mại tại các điểm gia tăng cạnh tranh nguồn nhân lực và sự hỗ trợ
đến. của nhà nước
Phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh doanh Hình ảnh điểm đến và các nhãn hiệu không phù
mới, như khách sạn và các cơ sở giải trí. hợp.
Tăng khả năng tiếp cận.
Nâng cao hình ảnh điểm đến.
Môi Những thay đổi trong quá trình tự nhiên làm Những thay đổi trong quá trình môi trường tự
trường tăng giá trị môi trường nhiên
tự nhiên Duy trì đa dạng sinh học Mất đa dạng sinh học
Bảo tồn các công trình kiến trúc Làm ô nhiễm và hư hại công trình kiến trúc
Bảo tồn di sản thiên nhiên và văn hóa Hủy hoại di sản
Bảo dưỡng và tái tạo môi trường sống và hệ Tiêu hủy môi trường sống và hệ sinh thái
sinh thái. Vượt quá khả năng chịu đựng của sức chứa
Văn hóa / Tăng sự tham gia của địa phương trong các Thương mại hóa và công nghệ hóa các hoạt
xã hội hoạt động địa điểm và sự kiện động, sự kiện và vật thể có tính riêng tư của cộng
đồng
Đổi mới cộng đồng Thay đổi cấu trúc cộng đồng
Củng cố các giá trị và truyền thống của cộng Làm xói mòn hay mất đi các giá trị và truyền
đồng thống của cộng đồng
Tiếp xúc với những ý tưởng mới mang tính Gia tăng tội phạm
toàn cầu và xuyên quốc gia
Tạo ra các không gian cộng đồng mới Mất không gian cộng đồng
Gây chia rẻ trong cộng đồng
Vượt khả năng chịu đựng của xã hội
Mất tính xác thực
Tâm lý Tăng cường tự hào địa phương và tinh thần Xu hướng tăng thái độ bảo thủ
cộng đồng
Du lịch là lực lượng mang lại hòa bình Tăng khả năng hiểu lầm dẫn đến xuất hiện sự thù
địch chủ/khách các mức độ khác nhau
Nâng cao nhận thức về các giá trị và chuẩn Tăng sự tha hóa do những điều quen thuộc bị
mực của các cộng đồng khác thay đổi
Tăng cường công nhận quốc tế đối với khu Khai thác người dân địa phương để đáp ứng tham
vực điểm đến vọng của tầng lớp chính trị chóp bu
Cởi mở hơn về chính trị Sử dụng du lịch để hợp pháp hóa các quyết định
hoặc chế độ không được lòng dân
Phát triển các tổ chức hành chính mới Sử dụng du lịch để tài trợ cho chế độ đàn áp của
mình

2.2.4.2. Phương pháp đánh giá tác động của phát triển du lịch
1. Yêu cầu về thấu hiểu tác động của du lịch
Như đã nói ở trên, tác động của du lịch phải được xem xét trong những điều kiện cụ
thể. Điều này yêu cầu phải có một phương pháp phù hợp trong việc xác định và thấu hiểu
tác động của du lịch (đến điểm đến du lịch) (Hall 2008) (Hình 2.3):
1. Khái niệm du lịch: Là vấn đề muôn thuở, cần xác định thế nào là du lịch và khách du
lịch, phân biệt du lịch với các hoạt động giải trí và rời khỏi nhà khác (xem chương 1). Dù
khó khăn, nhưng chúng ta cần tách các tác động của du lịch khỏi tác động của các hình thức
di chuyển khác của con người.
2. Thực hiện sự phân biệt: Tiếp theo sự xác định phạm vi của du lịch, cần phân biệt tác
động của du lịch với các tác động của các ngành công nghiệp và các hoạt động văn hóa
khác, thấy được cả tác động tích cực lẫn tiêu cực của phát triển du lịch. Trong thực tế, du
lịch thường xuyên bị quy trách nhiệm cho việc thay đổi các điểm đến ở các nước đang phát
triển. Ví dụ, một trong những cuốn sách đầu tiên về quy hoạch du lịch của Baud-Bovy và
Lawson (1977: 183) nhận xét rằng du lịch 'là tác nhân gây ra sự thoái hóa không thể đảo
ngược những điểm thu hút, làm xói mòn tài nguyên thiên nhiên, làm hỏng cảnh quan bằng
các tòa nhà bê tông, gây ô nhiễm bãi biển, gây thiệt hại rừng, phá vỡ sự thống nhất và
không gian truyền thống của cộng đồng, thậm chí làm mất bản sắc văn hóa độc đáo bởi sự
du nhập ào ạt của các cơ sở kinh doanh nước ngoài. Tuy nhiên, bất kỳ hình thức phát triển
có thể ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và xã hội – cả tốt và xấu. Các chỉ trích nhằm vào
du lịch đặc biệt mạnh mẽ đối với các tác động về văn hóa. Mặc dù rõ ràng du lịch là một
phần của quá trình toàn cầu hóa văn hóa nhưng thật khó mà phân biệt đâu là ảnh hưởng của
du lịch và đâu là ảnh hưởng từ những phương tiện truyền thông, mạng Internet hoặc ngay cả
tôn giáo. Trong thực tế, có thể do tính hiển thị dễ thấy của khách du lịch và các cơ sở kinh
doanh du lịch, nó đã trở thành một tác nhân bị tập trung chú ý nhiều hơn các tác nhân khác.

Môi trường

Doanh nghiệp du lịch


Sự thấu hiểu về tác động của du lịch,
phụ thuộc vào:
Định nghĩa về Du lịch,
Thực hiện sự phân biệt,
Các cá nhân
Xác định bình diện phân tích,
Tác động qua lại, và tổ chức
Thông tin cơ bản, khác
Giám sát,
Phân mảnh,
Vấn đề định nghĩa, vai trò và sự công
nhận.
Khách du lịch
Hình 2.3 Thấu hiểu những tác động của môi trường
3. Bình diện (scale): Du lịch có tác động trên nhiều bình diện khác nhau, từ các cá nhân đến
các cộng đồng rồi các điểm đến và xa hơn nữa. Ngoài ra, du lịch tác động theo thời gian. Vì
vậy, trong nghiên cứu đánh giá các tác động của du lịch, xác định rõ phạm vi phân tích và
chỉ ra những ưu nhược điểm của ranh giới sử dụng là vô cùng quan trọng. Ví dụ, phần lớn
các nghiên cứu về tác động của du lịch dừng ở cấp độ điểm thu hút hay một điểm đến, nghĩa
là sẽ có một số những hiệu ứng toàn cầu của du lịch bị bỏ qua (Gössling và Hall 2006; xem
Chương 13) và, cũng với ý nghĩa vậy, nhiều nghiên cứu du lịch là nghiên cứu “chụp ảnh”
(nghiên cứu lát cắt tại một thời điểm) thay vì nghiên cứu “quay phim” (nghiên cứu cả một
quá trình kéo dài về thời gian). Phân tích như vậy không cho chúng ta thấu hiểu cách du lịch
ảnh hưởng đến một nơi theo thời gian. Các vấn đề về bình diện và phạm vi phân tích đã ảnh
hưởng nhiều đến các nghiên cứu về tác động kinh tế của du lịch. Hiện đã có những sai lầm
trong nhiều nghiên cứu về xác định phạm vi quy mô của nền kinh tế cần nghiên cứu - các
khu vực nhỏ được phân tích nhưng phân tích hiệu quả số nhân buộc chúng ta phải xét đến
những tác động ngoài vùng về thu nhập, việc làm, nguồn thu ngân sách. Vì vậy, như đã nói,
khi xác định phạm vi phân tích, cần chỉ rõ với phạm vi này, những yếu tố nào được phân
tích, những yếu tố nào không được phân tích trong đánh giá tác động kinh tế, xã hội và môi
trường.
4. Tác động qua lại: Du lịch thường được xem xét như một tác nhân tác động một chiều,
tức là du lịch ảnh hưởng đến điểm đến, mà không phân tích đầy đủ thực tế rằng du lịch và
điểm đến có tác động hai chiều, du lịch có ảnh hưởng tới điểm đến và ngược lại , điểm đến
ảnh hưởng đến du lịch. Đây là vấn đề quan trọng vì rõ ràng quá trình tương tác xảy ra ở tất
cả các cấp du lịch, từ quan hệ cá nhân giữa khách du lịch và các thành viên của cộng đồng
đến các xu hướng kinh tế và môi trường.
5. Thông tin cơ bản: Để thấu hiểu những tác động của du lịch, cần phải nắm rõ thực trạng
của vùng trước khi phát triển du lịch. Thật không may, chúng ta thường có rất ít dữ liệu cơ
bản như thế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta đành sử dụng các ước tính gần đúng
cả về khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
6. Giám sát: Ít điểm đến có sự giám sát liên tục về ảnh hưởng của phát triển du lịch. Ví dụ,
Úc, một quốc gia phát triển, theo Warnken và Buckley (2000), chỉ có 7,5 % điểm đến du
lịch tổ chức quá trình giám sát chính thức về tác động đến môi trường của phát triển du lịch.
Do hoạt động của con người là khó lường, các doanh nghiệp không muốn đầu tư cho giám
sát mà muốn khởi công xây dựng ngay sau khi nhận được phê duyệt, không có thời gian
phân tích thực trạng khu vực trước đầu tư, vì vậy chúng ta chỉ mới tổ chức giám sát sau khi
diễn ra sự kiện. Vì vậy. trong thiết kế đánh giá tác động môi trường, cần so sánh BA (trước,
sau), thậm chí cần sử dụng quy trình BACIP (trước, sau, điều khiển, tác động, lấy mẫu cặp-
before, after, control, impact, paired sampling).
7. Phân mảnh: Những kiến thức về tác động của du lịch rất rời rạc. Hiện tượng này là kết
quả của những vấn đề nêu trên, nhưng cũng bởi nghiên cứu du lịch thường chỉ tập trung vào
một số điểm đến hoặc chỉ một số bình diện nghiên cứu. Điều này yêu cầu phải có sự nghiên
cứu trên một số lượng đối tượng nhiều hơn và mang tính đa dạng hơn cho nhiều loại hình
du lịch như du lịch nghỉ biển nghỉ núi, tham quan thành phố, tham quan nông thôn, du lịch
sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch có trách nhiệm,… và so sánh với các điểm đến khác.
8. Vấn đề định nghĩa, vai trò và sự công nhận: Mặc dù nghe có vẻ hơi kỳ cục nhưng một
trong những vấn đề quan trọng nhất để phân tích tác động của du lịch là hiểu được thế nào
là tác động của du lịch. Phát triển du lịch tác động đến các đối tượng khác nhau theo cách
khác nhau. Tài nguyên du lịch là nguồn lực không khan hiếm, cách thức tác động của du
lịch đến tài nguyên chủ yếu là sự thậm dụng khác với cách thức tác động đến các nguồn lực
khác. Trong du lịch, chúng ta cũng có một số nguồn lực khác có đặc điểm tương tự như vậy.
Một vấn đề khác, nhiều tác động của du lịch được đánh giá khác nhau bởi những người giữ
vai trò khác nhau trong hệ thống du lịch. Khách du lịch, doanh nghiệp du lịch, chính quyền,
cư dân địa phương sẽ có khả năng nhận thức, góc độ tiếp cận, cách cảm nhận,… khác nhau
nên sẽ có những đánh giá khác nhau. Bên cạnh đó, những người khác nhau, dân tộc khác
nhau, với các giá trị văn hóa khác nhau có thể có nhận thức khác nhau về hậu quả của du
lịch, nhất là về các giá trị hoặc các phán đoán thẩm mỹ. Nói cách khác, có những tác động
của du lịch, ở cộng đồng này, người ta có thể công nhận đó là vấn đề nhưng với một cộng
đồng khác, điều này có thể không được công nhận là một vấn đề. Một resort được xây dựng
tại vùng cảnh quan, đối với người này, đó là sự ô nhiễm kiến trúc nhưng đối với người khác
lại được coi là đẹp và làm tăng giá trị cho khu cảnh quan.
9. Tích hợp: Phần lớn các nghiên cứu đã xem xét các tác động của du lịch trên một môi
trường cụ thể (môi trường kinh tế, môi trường xã hội và môi trường tự nhiên), hoặc trên một
vài thành phần nào đó của môi trường chứ không phải xem xét một cách toàn diện và ít có
công trình nghiên cứu có cách tiếp cận tích hợp để đánh giá các tác động của du lịch (Hall
và Härkönen 2006). Điều này có nghĩa rằng các vấn đề về tác động của du lịch thường được
thực hiện theo yêu cầu pháp lý trên một bình diện nào đó chứ không phân tích các vấn đề
trong mối quan hệ được hòa quyện vào nhau. Ví dụ, vấn đề môi trường tự nhiên thường là
kết quả của các vấn đề kinh tế và xã hội và vì vậy, không thể thấy nguyên nhân của nó trong
sự tách biệt và các biện pháp xử lý vấn đề môi trường sẽ không hiệu quả trừ phi chúng ta
đặt vấn đề phân tích và giải quyết nó qua sự phân tích toàn diện cả về môi trường tự nhiên,
xã hội và kinh tế.
2. Phương pháp tiếp cận trong đánh giá toàn diện
Để giải quyết vấn đề đánh giá tích hợp, có hai cách tiếp cận ngày càng được sử dụng
nhiều. Đó là cách tiếp cận tích hợp và tiếp cận hậu pháp lý.
2a. Phương pháp tiếp cận tích hợp
Phương pháp tiếp cận tích hợp tỏ ra đặc biệt thích hợp trong quản trị tài nguyên và
kết nối với những ý tưởng về mối quan hệ giữa các bên liên quan. Với tiếp cận tích hợp,
chiến lược hợp tác ngày càng được sử dụng nhiều trong quản trị vấn đề môi trường và tài
nguyên mà có nhiều bên liên quan, là những vấn đề có nhiều quan điểm về vấn đề và giải
pháp. Hợp tác là “một quá trình qua đó các bên nhìn thấy ở một vấn đề những khía cạnh
khác nhau, nó có thể khám phá sự khác biệt của họ và tìm các giải pháp vượt qua tầm nhìn
hạn chế riêng của các bên về những gì có thể” (Gray 1989: 5). Nó là một quá trình có sự
tham gia của nhiều bên cùng mong muốn:
1. Thống nhất một mục đích chung.
2. Đảm bảo giải quyết vấn đề một cách vừa toàn diện vừa minh bạch.
3. Cho phép các bên tham gia vào thiết kế quá trình.
4. Thúc đẩy hoạt động chung trong tìm kiếm và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
5. Nhấn mạnh vào trách nhiệm.
6. Phát triển một kế hoạch hành động.
7. Phát triển sự lãnh đạo hợp tác (Margerum 1999; Margerum và Whitall 2004).
Chẳng hạn trường hợp khai thác hồ nước cho du lịch, một loại hình du lịch rõ ràng
gắn liền với việc sử dụng nguồn lực tự nhiên và có nhiều bên khai thác, Hall và Härkönen
(2006) đã xác định bốn lý do tại sao phương pháp cộng tác và tích hợp được sử dụng trong
việc quản lý hệ thống hồ mà ở du lịch là hoạt động quan trọng:
1. Sự cạnh tranh giành nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng gia tăng, cùng
với ý thức về bảo tồn hệ sinh thái, đã làm tăng xung đột trong quản lý tài nguyên thiên
nhiên. Cách tiếp cận hợp tác được xem như là một thay thế tốt cho phương pháp tiếp cận
pháp lý thường gây tốn kém trong giải quyết xung đột.
2. Cùng với gia tăng hiểu biết về tính phức tạp của hệ thống tự nhiên và xã hội,
người ta càng thấy cần phải có những hoạt động mang tính tổng hợp trong quản trị với sự
tập hợp rộng lớn hơn các nhà hoạch định chính phủ và phi chính phủ có năng lực cung cấp
và phân tích thông tin.
3. Nhiều vấn đề môi trường hiện nay là kết quả của các hành động thứ phát như thay
đổi dòng nước, thay đổi mục đích sử dụng đất hay thay đổi nơi cư trú,… là những điều khó
được giải quyết thông qua các hành động pháp lý truyền thống. Do đó cách tiếp cận hợp tác
cho phép có được sự tham gia của nhiều bên sẽ phù hợp hơn trong thúc đẩy sự hiểu biết và
cam kết của một số lượng lớn những người ra quyết định.
4. Có nhiều cơ quan và tổ chức khác nhau có trách nhiệm chồng chéo. Rõ ràng cách
tiếp cận hợp tác tạo cơ hội để giảm lãng phí, trùng lặp, xung đột và cho phép chia sẻ dữ liệu
và chuyên gia.
2b. Phương pháp tiếp cận hậu pháp lý (post-disciplinary approache)
Cùng với những thay đổi trong các cách tiếp cận quản trị, chúng ta cũng có một cơ
sở triết lý khác để giải quyết vấn đề. Sự phức tạp của các tác động từ du lịch cho thấy rằng
chúng ta cần có những cách giải quyết vấn đề ngoài cách sử dụng pháp luật. Việc quản trị
nguồn lực đã dẫn đến phương pháp tiếp cận liên ngành và xuyên ngành trong đó các vấn đề
chứ không phải quan hệ pháp lý là mối quan tâm chính (Mitchell 1989). Trong du lịch, cách
tiếp cận như vậy gọi là quan điểm hậu pháp lý (Coles et al. 2006). Ví dụ, Coles et al. (2006:
18) đã quan sát thấy sự xuất hiện của các hình thức mới của du lịch và tính cơ động ngày
càng tăng của một số nhóm xã hội đòi hỏi sự tiếp cận đa chiều với sự đóng góp của các
chuyên gia từ ngoài lĩnh vực du lịch. Rõ ràng sự di chuyển chưa từng có của con người và
từ đó là sự phức tạp của các quan hệ giữa du lịch với thay đổi môi trường toàn cầu đã vượt
quá khả năng của cách tiếp cận pháp lý riêng lẻ. Cách tiếp cận hậu pháp lý, ở đó có sự phối
hợp giữa các cá nhân và tổ chức đa ngành và xuyên ngành không có nghĩa là những ngành
truyền thống đã biến mất hoặc sẽ biến mất, đúng hơn là chúng đang thay đổi và nên thay đổi
để giải quyết các vấn đề phức tạp của các vấn đề con người. Chúng ta không thể tiếp cận
các vấn đề phức tạp như vậy từ bất kỳ một ngành duy nhất nào'.
Trong một bài báo chuyên đề mô tả các kết nối giữa du lịch và bảo tồn, Budowski
(1976) đã xác định ba mối quan hệ khác nhau giữa du lịch và môi trường cần được sử dụng
để mô tả mối quan hệ giữa du lịch và tất cả các khía cạnh của môi trường điểm đến. Đó là
những quan hệ xung đột, cùng tồn tại và cộng sinh cả về xã hội và kinh tế:
1. Du lịch và môi trường có sự mâu thuẫn. Đó là khi du lịch được coi là có ảnh
hưởng xấu đến môi trường của cư dân ở điểm đến.
2. Du lịch và môi trường đang ở trong tình trạng cùng tồn tại. Đó là khi du lịch
không có tác động tiêu cực nhưng cũng không có đóng góp tích cực gì cho môi trường.
Tình trạng này hiếm khi tồn tại trong thực tế nhưng ta vẫn có thể sử dụng với hàm ý rằng
mọi thứ đang ở tình trạng thay đổi rất chậm.
3. Cuối cùng, có một mối quan hệ cộng sinh. Đó là khi du lịch tích cực đóng góp cho
môi trường và ngược lại. Đây là quan hệ win-win cổ điển, trong đó khách du lịch được
hưởng lợi và chất lượng cuộc sống của điểm đến nói chung được cải thiện như môi trường
xã hội, kinh tế và thể chất đều được tăng cường bởi du lịch.
Trạng thái cuối cùng này rõ ràng được coi là lý tưởng khi chúng ta đánh giá các hậu
quả của du lịch và nó là một trong những đòi hỏi không chỉ đánh giá tổng hợp các tác động
của du lịch, mà còn là một chiến lược quy hoạch tổng hợp.
***
Mục 2.2 này đã cung cấp một đánh giá các tác động của du lịch đến điểm đến và
những ảnh hưởng tổng thể của du lịch. Là một phần của một phương pháp tiếp cận các dịch
vụ du lịch hiện đại. Nội dung nêu bật thực tế rằng sự phối hợp tạo ra các trải nghiệm du
lịch, có nghĩa rằng ảnh hưởng của tác động sẽ khác nhau với những góc độ, bình diện đánh
giá khác nhau, nhưng điều này không có nghĩa là ít có tác động. Thay vào đó, nó chỉ ra rằng
một số yếu tố sẽ ảnh hưởng, bao gồm các quan điểm, tiêu chuẩn giá trị và vị trí của người
đánh giá trong hệ thống du lịch, dẫn đến họ (a) quan sát thấy như xảy ra và (b) liên quan
một cách tích cực, tiêu cực hay trung tính. Điều này có nghĩa rằng một tác động của ngành
du lịch tại cùng một nơi đồng thời được coi là tích cực với người này và tiêu cực với người
khác. Thật vậy, như đã lưu ý, tác động cũng có thể được nhìn nhận khác nhau khi xem xét
trạng thái hay quá trình. Vì vậy, trong việc tìm hiểu tác động của du lịch, vấn đề là chỉ ra tác
động mà quan trọng hơn là làm thế nào nó được cảm nhận và hiểu rõ nó ở những giác độ
khác nhau. Trải nghiệm du lịch được đồng sáng tạo nhưng kết quả của đồng tác tạo được
nhìn nhận khác nhau ở các bên liên quan khác nhau.

You might also like