Professional Documents
Culture Documents
Bài Giảng Chương 2
Bài Giảng Chương 2
Tuy nhiên, các phương tiện sử dụng để vận chuyển hành khách trong du lịch là hết
sức đa dạng, bao gồm cả vận chuyển đường không, đường bộ, đường sắt và đường thủy.
Xét trên khía cạnh vận chuyển khách du lịch, các nhân tố chính ảnh hưởng đến sự lựa
chọn của khách du lịch là:
tiện nghi cho hành khách trong vận chuyển (tốc độ vận chuyển, các dịch vụ cung ứng
trong vận chuyển, sự mệt nhọc của hành khách khi tham gia vận chuyển,…),
khả năng khám phá không gian du lịch (khả năng đưa khách đến sát các điểm du
lịch, khả năng thưởng thức cảnh quan trong khi di chuyển,..)
và giá cước vận chuyển.
Mỗi phương tiện vận chuyển có những ưu nhược điểm khác nhau:
Dịch vụ hàng không có tốc độ nhanh nhất và sự thoải mái cao khi vận chuyển nhưng
giá cước cao và các điểm đón, nhận khách cũng như khả năng thưởng thức cảnh quan trên
đường bị hạn chế. Máy bay càng lớn (chẳng hạn, máy bay phản lực sức chứa lớn), sẽ càng
nhanh, càng mang lại sự tiện nghi nhưng càng kém khám phá không gian du lịch so với các
máy bay nhỏ và chậm (trực thăng, cánh quạt).
Ngược lại, dịch vụ vận chuyển đường bộ chậm và nhiều khách du lịch không chịu
đựng nổi sự vất vả khi di chuyển nhưng có thể mang khách du lịch đến cả các điểm du lịch
hẻo lánh và nếu biết lựa chọn tuyến hành trình thì bản thân quá trình di chuyển cũng mang
lại sự trải nghiệm du lịch thú vị. Vận chuyển đường bộ có một sự đa dạng rất cao các
phương tiện vận chuyển từ xe ô tô trên 50 chỗ xuống dần đến xe 4 chỗ cho đến xe gắn máy,
xe ngựa, cyclo, xe đạp và đi bộ. Càng kém tiện nghi hơn nhưng theo thứ tự trên, càng về
sau, khả năng khám phá không gian du lịch càng rộng mở hơn.
Đường sắt, với các loại hình tàu cao tốc, tàu suốt, tàu chợ,… có lẽ có những ưu
nhược điểm trung bình so với các phương tiện vận chuyển trên.
Vận chuyển đường sông luôn mang lại khả năng thưởng ngoạn cao cho khách khi mà
cảnh quan hai bên bờ sông không ngừng thay đổi trước mắt khách du lịch. Còn vận chuyển
đường biển du lịch, ngày nay, với các cruise ship trở thành một loại phương tiện vận chuyển
- lưu trú đặc thù của du lịch.
Mỗi loại hình vận chuyển có những ưu nhược điểm riêng vì vậy chỉ có sự sử dụng đa
dạng các loại phương tiện mới có thể tạo nên một trải nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài
lòng. Thông thường, với khoảng cách trên 500 km, đường không được sử dụng nhiều, từ
200 km đến 500 km là đường sắt, dưới 200 km là đường bộ. Trong nội thị, trong phạm vi
của một điểm thu hút, các phương tiện vận chuyển thô sơ được ưa chuộng.
2.1.2.1. Sự phân tán và đa dạng của ngành kinh doanh lưu trú
Ngành kinh doanh lưu trú toàn thế giới có lẽ phân tán và đa dạng hơn bất kỳ ngành
nào khác trong du lịch. Phân tán tức là ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp nhỏ, đa dạng tức
là ngành có nhiều loại hình, cấp hạng, phong cách,… khác nhau. Đó là do:
Thứ nhất, ngành kinh doanh lưu trú mang tính thương mại đã phải cạnh tranh với
việc cung cấp chỗ lưu trú bởi bạn bè và người thân vốn thường chiếm khoảng 30 -
50% đêm lưu trú của khách du lịch, bao gồm cả khách du lịch công vụ. Đặc thù
ngành dẫn đến quy mô tối ưu của một khách sạn thường không lớn.
Thứ hai, hệ thống sản phẩm lưu trú là một chuỗi các loại sản phẩm đa dạng. Từ bãi
cắm trại đơn giản đến những khách sạn cao cấp và tàu cruise, khai thác những đặc
điểm về cảnh quan, bản sắc văn hóa và vật liệu địa phương, ngành kinh doanh lưu trú
có thể có sự dị biệt hóa sản phẩm hầu như vô tận.
Thứ ba, các doanh nghiệp cung ứng luôn đa dạng bởi dịch vụ này có thể được cung
cấp bởi những cá nhân, tổ chức rất khác nhau: từ những Công viên quốc gia thuộc sở
hữu nhà nước vốn cung cấp một sản phẩm 'miễn phí' vì những lý do xã hội hơn là
kinh tế, rồi những cá nhân hay gia đình vốn có thể cho thuê căn hộ hoặc nhà của
mình chỉ với mong muốn vượt qua chi phí biến đổi của những gì liên quan đến tài
sản phục vụ kỳ nghỉ, cho đến các Công ty đa quốc gia hoạt động với mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận.
Nói chung, giá trị của 'sản phẩm lưu trú' có thể được hợp thành bởi ba bộ phận (sub-
pproduct) chính như trong hình 2.7. Việc phân chia này thuận lợi cho các nhà quản trị cơ sở
lưu trú trong phân tích để chọn cho mình cách phối hợp các bộ phận hợp thành tạo nên sự
khác biệt hóa sản phẩm, phục vụ sự định vị sản phẩm trên thị trường của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu Dịch vụ cho khách du lịch Dịch vụ cho nhà cung ứng
Bảo hiểm du lịch In ấn quảng cáo
Dịch vụ tại nơi gửi Tài chính du lịch Hướng dẫn và kế hoạch
khách VISA & hộ chiếu Hệ thống ĐKGC qua mạng
Thông tin du lịch Phân phát tập gấp
Hướng dẫn tour Hỗ trợ thông tin du lịch
Dịch vụ tại điểm Banking Huấn luyện du lịch
đến Y tế Hỗ trợ marketing
Thông tin địa phương Tài chính chuyên ngành
Bản chất của thị trường và mức độ tinh tế của những hoạt động này phụ thuộc vào
quốc gia hay khu vực mà chúng được triển khai. Hầu hết các hoạt động của các Văn phòng
du lịch quốc gia và vùng là một hoạt động của chính quyền mang tính độc quyền mà mục
tiêu của nó nói chung là tối đa hóa số lượng khách du lịch hay doanh thu du lịch. Bản thân
các Văn phòng du lịch quốc gia là một đơn vị thực hiện các hoạt động của nó hay cung ứng
các dịch vụ trong khuôn khổ một ngân sách định trước.
Một lĩnh vực thú vị của nguồn cung quốc tế là hệ thống đăng ký giữ chỗ qua mạng
(CRS: Computerized reservation systems). Dựa trên CRS của hàng không, nối kết với các
đầu cuối chung của các cơ sở lưu trú, cho thuê xe v.v…, đã hình thành một hệ thống hữu
ích cho đại lý du lịch nhờ độ rộng bao phủ của nó. Hậu quả là công nghệ CRS đã trở thành
một thị trường cạnh tranh độc quyền mang tính quốc tế của các nhóm được thống trị bởi
một vài CRS bao phủ toàn thế giới như Sabre, Covia/Galileo và Gemini/Pars. Hầu hết các
hệ thống này là công ty liên doanh hoạt động với mục tiêu tối đa hóa độ bao phủ thị trường
cho các doanh nghiệp chủ của nó.
2.1.4. NGÀNH LỮ HÀNH VÀ CÁC DỊCH VỤ TRUNG GIAN DU LỊCH KHÁC
Nhóm cuối cùng của các doanh nghiệp du lịch bao gồm "các nhà trung gian" sắp xếp
và phân phối các sản phẩm du lịch. Các đơn vị này chủ yếu là các Đại lý du lịch và các Tour
operator.
2.2.1.1. Tác động của du lịch lên quy mô tăng trưởng kinh Tế
Dễ dàng thấy rằng mục tiêu chính của hầu hết các chính phủ là phát triển kinh tế đất
nước, trước hết là tăng trưởng quy mô của nền kinh tế. Trong khi vẫn có những tranh cãi về
lựa chọn giữa tăng trưởng nhanh về quy mô (tăng nhanh GDP) và tăng trưởng chậm nhưng
bền vững, chất lượng, nhiều quốc gia vẫn chọn tăng trưởng nhanh. Đó là vì khi quy mô kinh
tế tăng sẽ đáp ứng được các nhu cầu trong nước và quốc tế, cung cấp thêm nhiều việc làm
và gia tăng thu nhập cho nhân dân, sẽ tăng nguồn thu ngân sách để tài trợ cho hoạt động
quốc phòng, an ninh, giáo dục, phòng cháy chữa cháy, hỗ trợ an sinh xã hội, xây dựng cơ sở
hạ tầng và các dịch vụ mang lại lợi ích khác. Trong ngắn hạn, một quốc gia có nền kinh tế
phát triển nhanh sẽ làm tăng sự lựa chọn dành cho dân cư và các tổ chức, dẫn đến cải thiện
chất lượng cuộc sống cho tất cả.
Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nào khác, sự phát triển của du lịch sẽ tạo ra sự gia
tăng GDP cho nền kinh tế. Nhưng là một trong những lĩnh vực lớn nhất của kinh tế thế giới,
trong 60 năm qua, du lịch được quan tâm bởi sự tăng trưởng cao và ổn định, ít bị biến động
so với các ngành khác. Trong những thập niên đến, chưa có dấu hiệu nào cho thấy nhu cầu
du lịch toàn cầu sẽ giảm.
Trong mô hình phân tích đầu vào - đầu ra (input - output analysis model, chúng ta
gọi là Bảng Cân đối liên ngành), ba loại hiệu ứng khác nhau được xác định: tác động trực
tiếp, gián tiếp và kéo theo (direct, indirect and induced effects).
1. Những tác động trực tiếp của du lịch đối với quy mô tăng trưởng kinh tế
Được tính là tác động trực tiếp chỉ bao gồm những tác động ngay lập tức từ những
nhu cầu có thêm do hoạt động của khách du lịch tại điểm đến lên quá trình sản xuất, cung
ứng hàng hoá và dịch vụ dưới dạng những hàng hóa và dịch vụ tăng thêm, giá trị tăng thêm
và các thành phần của nó (gọi là chi tiêu nội bộ du lịch - tourism internal consumption hay
tổng cầu nội bộ du lịch - total tourism internal demand).
Như vậy, nó là những tiêu thụ trực tiếp về sản lượng và giá trị gia tăng của ngành
công nghiệp du lịch và các ngành công nghiệp khác phục vụ khách du lịch. Tác động trực
tiếp này được phản ánh qua chi tiêu của khách du lịch.
Khối lượng chi tiêu này tăng lên nhanh chóng trong 60 năm qua trên thế giới đặc biệt
là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á của chúng ta. Năm 2013, chỉ riêng
du lịch quốc tế đã mang lại thu nhập lên đến 1.159 tỷ đô la Mỹ cho các nước trên thế giới.
Bảng 2.3. Thu nhập từ du lịch quốc tế
Thị Thu nhập DL Qtế
Tốc độ tăng thu nhập du phần
trên1 lượt
lịch quốc tế (%) 2013 Tỷ USD
khách
(%)
10/09 11/10 12/11 13/12 2012 2013 2013
Thế giới 5,2 4,5 4,2 5,3 100 1.078 1.159 1.070
Các nền kinh tế tiên tiến 5,8 5,9 4,0 6,0 64,3 688 745 1.280
Các nền kinh tế mới nổi 4,0 2,1 4,5 4,0 35,7 390 413 820
Phân theo khu vực bởi UNWTO:
Châu Âu -0,2 4,9 1,9 3,8 42,2 454,0 489,3 870
Bắc Âu 3,4 2,4 3,3 7,1 6,4 67,6 74,2 1.080
Tây Âu 1,4 3,9 2,7 1,7 14,5 157,9 167,9 960
Trung/Đông Âu -3,5 6,8 4,0 3,4 5,2 56,3 59,9 380
Nam Âu/ĐTHải -1,9 6,1 0,0 4,5 16,2 172,2 187,3 930
28 quốc gia thành viên EU 0,9 4,0 1,7 3,4 34,8 374,2 402,9 930
Châu Á-TBDương 14,9 8,3 6,7 8,2 31,0 329,1 358,9 1.450
Đông Bắc Á 21,4 9,2 7,9 9,3 15,9 167,2 184,7 1.450
Đông Nam Á 15,0 12,9 10,6 9,7 9,3 96,0 107,4 1.150
Châu Đại dương -3,0 -4,1 -1,3 1,9 3,7 43,0 42,6 3.410
Nam Á 10,7 11,6 -0,6 5,3 2,1 22,9 24,3 1.570
Châu Mỹ 4,2 5,1 5,7 6,4 19,8 212,9 229,2 1.360
Bắc Mỹ 6,0 5,9 6,7 7,8 14,8 156,4 171,0 1.550
Vùng Caribbean 0,7 -1,5 1,2 2,1 2,1 24,2 24,8 1.170
Trung Mỹ 0,3 9,7 7,5 3,2 0,8 8,7 9,4 1.020
Nam Mỹ -2,2 5,7 3,2 3,2 2,1 23,6 23,9 870
Châu Phi 2,6 1,7 7,3 0,0 3,0 34,3 34,2 610
Bắc Phi 0,2 -5,5 9,1 -1,4 0,9 10,0 10,2 520
Châu Phi hạ Sahara 3,8 5,0 6,5 0,6 2,1 24,3 24,0 660
Trung Đông 16,3 -17,2 2,2 -1,9 4,1 47,5 47,3 920
Số liệu 2013 là số liệu ước tính vào tháng 05/2014 Nguồn: UNWTO (2014)
Ở nước ta, năm 2013, khi bối cảnh nền kinh tế vẫn đang trong quá trình khắc phục
suy thoái, tái cấu trúc và từng bước tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, Du lịch là ngành
kinh tế duy nhất duy trì tốc độ tăng trưởng cao và là điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2013, cả nước đã đón 7,57 triệu lượt khách quốc tế, tăng trưởng +10,6%; 35 triệu lượt
khách nội địa; tổng thu trực tiếp từ khách du lịch đạt 200 nghìn tỷ đồng, đóng góp trên 6%
GDP.
2. Những tác động gián tiếp của du lịch
Nếu chỉ tính chi tiêu nội bộ du lịch, nhiều tác động khác của du lịch bị bỏ qua. Để
phục vụ khách du lịch, hoạt động sản xuất đòi hỏi sự gia tăng quy mô các yếu tố đầu vào: ví
dụ, các nhà hàng phải mua và chuẩn bị nhiều thức ăn hơn, khách sạn cần nhiều dịch vụ giặt
là và dịch vụ vệ sinh công cộng hơn, công viên nước tiêu thụ nhiều điện năng và nhiều nước
hơn, các doanh nghiệp vận tải phải mua xăng và phụ tùng nhiều hơn,… Thông thường, để
phục vụ lượng khách hàng tăng thêm thì phải tăng thêm đầu tư trực tiếp: xây dựng nhiều
đường giao thông hơn, nhiều khách sạn, nhà hàng hơn, nhiều bãi biển được thiết lập và bảo
vệ,… để đáp ứng các chi tiêu khởi phát từ khách du lịch. Đó là một đợt gia tăng nhu cầu để
sản xuất hàng hóa và dịch vụ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của họ về hàng hóa và dịch
vụ.
Những đầu vào hoặc hàng hóa trung gian cần phải được sản xuất hoặc nhập khẩu, và
điều này, đến lượt nó, kéo theo một chuỗi các nhu cầu bổ sung cho các yếu tố sản xuất khác
nhau (lao động và vốn), hiện tượng này tiếp tục diễn ra kéo dài qua nhiều vòng cho đến khi
kiệt sức bởi hiện tượng rò rỉ. Chuỗi các tác động mà các hoạt động trực tiếp phục vụ khách
du lịch tạo ra được gọi là tác động gián tiếp của du lịch tại điểm đến.
Chuỗi tác động gián tiếp của tiêu dùng du lịch lên các ngành công nghiệp khác là do
sự liên kết của các ngành phục vụ du lịch với các ngành khác cung cấp cho du lịch những
yếu tố đầu vào trung gian, kế tiếp là mối liên kết của các ngành này với những người khác
mà cung cấp cho chúng, và cứ kéo dài như vậy. Tác động này đồng thời tạo ra các chuỗi giá
trị gia tăng, chuỗi việc làm, tiền lương, thu nhập, chuỗi thuế, ngân sách, v.v…
3. Những tác động kéo theo của du lịch
Ngoài ra, sự gia tăng của thu nhập hình thành từ tiêu dùng của khách du lịch được
phân phối cho lực lượng lao động và các chủ sở hữu các doanh nghiệp sản xuất. Đến lượt
nó, khi người lao động và chủ sở hữu có thêm thu nhập từ phát triển du lịch, họ có nhu cầu
gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ thông thường thông qua một sự gia tăng trong tiêu dùng
hộ gia đình của họ. Nhu cầu bổ sung này tạo ra một chuỗi các tác động kéo theo trên một
loạt các hàng hóa và dịch vụ.
Tác động kinh tế tổng thể của du lịch vào nền kinh tế là một sự kết hợp của tác động
trực tiếp, gián tiếp và kéo theo.
Khi một khách du lịch chi tiêu 1 USD tại điểm đến, chi tiêu này tạo ra thu nhập 1
USD cho những người cung ứng sản phẩm du lịch (tác động trực tiếp của du lịch). Từ 1
USD đầu tiên này, người cung ứng du lịch sử dụng nó để mua các yêu tố đầu vào từ các
ngành khác (nguyên vật liệu, điện, nước, máy móc thiết bị, công trình xây dựng,…). Qua
mối quan hệ liên kết với các ngành khác, việc mua sắm này sẽ tạo ra nhu cầu và hình thành
nên thu nhập của các ngành khác (tác động gián tiếp). Cũng từ một USD tăng thêm này,
người cung ứng du lịch sử dụng để trả lương cho người lao động và để lại lợi nhuận cho chủ
sở hữu. Với thu nhập tăng thêm này, người lao động và chủ sở hữu tăng thêm tiêu dùng cá
nhân, tạo ra thu nhập cho những người sản xuất hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thông thường
khác (tác động kéo theo). Nhưng tác động của 1 USD đầu tiên không dừng ở đó, đến lượt
họ, các doanh nghiệp và dân cư nhận được thu nhập từ tác động gián tiếp và kéo theo cũng
phải chi tiêu, tạo ra làn sóng thu nhập thứ ba. Và cứ như vậy, tạo ra chuỗi làn sóng vô hạn.
Tóm lại, từ 1 USD đầu tiên của khách du lịch, nền kinh tế không chỉ tăng GDP 1 USD mà
hơn nhiều lần 1 USD nhờ sự liên kết trong nền kinh tế. Nhưng từ 1 USD, qua chuỗi vô hạn
các làn sóng, nền kinh tế không thể tăng lên con số vô hạn USD mà các làn sóng này, qua
sự rò rỉ, bị yếu dần và GDP chỉ tăng lên một con số USD có giới hạn.
Liên kết và rò rỉ là hai hiện tượng cần phải được xác định rõ ràng để đánh giá tác
động kinh tế của du lịch. Độ lớn của chúng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ mức độ và vai trò của du
lịch trong tác động đến nền kinh tế.
Liên kết là mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quá trình sản xuất khác nhau trong nền
kinh tế được thể hiện và tính toán qua mô hình input - output. Thống kê ngành thường sử
dụng chúng để thể hiện chính xác độ lớn của quan hệ liên kết này.
Rò rỉ xảy ra khi một phần của nhu cầu và các khoản thu nhập gia tăng tạo ra bởi du
lịch không được đưa vào nền kinh tế (tiết kiệm, không chi tiêu) hoặc không được giữ lại
trong nền kinh tế của quốc gia được khách du lịch đến thăm mà bị chiếm đoạt bởi các nền
kinh tế của quốc gia khác dưới hình thức nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ để phục vụ cho nhu
cầu của khách du lịch, hoặc thông qua các hình thức phân phối và phân phối lại thu nhập
được tạo ra bởi chi tiêu của khách du lịch như chuyển lợi nhuận về nước của chủ đầu tư.
Rò rỉ cũng mở rộng vào vòng thứ hai và các vòng tiếp theo của quá trình sản xuất, có
nghĩa là, chúng không chỉ bao gồm những hàng hóa nhập khẩu dành cho tiêu thụ trực tiếp
của khách du lịch, cho đầu tư du lịch hay cho các yêu tố trung gian (đầu vào) trực tiếp phục
vụ khách du lịch hay để sản xuất hàng hóa đầu tư du lịch (vòng đầu tiên), mà còn là nguyên
liệu nhập khẩu và tổng tài sản cố định cần thiết cho việc sản xuất các hàng hóa đầu vào và
đầu tư (vòng hai) và sau đó các đầu vào cần thiết cho sản xuất của các vòng sau. Sự rò rỉ
cũng diễn ra ở các dòng chảy liên quan đến việc phân phối và phân phối lại thu nhập và việc
sử dụng thu nhập trong nước để tăng tiêu dùng để cuối cùng có thể mở rộng hàng nhập
khẩu. Tổng của tất cả các hàng nhập khẩu bổ sung cho nền kinh tế và luồng ra của thu nhập
sẽ được gọi là rò rỉ gián tiếp.
Kết quả là từ 1 đồng đầu tiên, GDP tăng lên được K đồng. K được gọi là nhân tử Keynne 2.
2.2.1.2. Những tác động của du lịch lên hoạt động kinh tế đối ngoại
Trước khi đi vào ý nghĩa này của du lịch, chúng ta cần xem xét khái niệm xuất khẩu
và nhập khẩu du lịch, chỉ ra sự khác biệt giữa xuất nhập khẩu hàng hóa thông thường với
xuất nhập khẩu sản phẩm du lịch.
Nước nhập khẩu
*Xuất khẩu du lịch: Khi một người có thu nhập từ nước A đến du lịch tại nước B, anh ta
hàng hóa
mang tiền kiếm được từ nước A tiêu tại nước B, tức là anh ta đưa vào nước B một lượng
ngoại tệ, thông qua việc nhận ngoại tệ từ khách du lịch, B đã xuất khẩu sản phẩm du lịch
sang A.
Hàng hóa vật chất
Ngoại tệ
Nước xuất khẩu du
hàng
lịch B
Nước xuất khẩu
hóa
Khách du lịch
Ngoại tệ
Nước nhập khẩu du
Hình 2.2. Dòng vận chuyển trong xuất khẩu hàng hóa và xuất khẩu sản phẩm du lịch
Khác với xuất khẩu hàng hóa thông thường, chúng ta thu ngoại tệ từ việc đưa hàng
hóa ra nước ngoài, xuất khẩu du lịch lại thu ngoại tệ từ khách du lịch nước ngoài vào Việt
Nam.
lịch A
2
Những khái niệm về chi tiêu ban đầu, độ rò rỉ, tác động hiệu quả số nhân,… bạn đọc nghiên cứu thêm
trong nội dung về nhân tử Keynne của Kinh tế vĩ mô.
Quốc gia xuất khẩu du lịch là quốc gia tiếp nhận khách du lịch từ nước ngoài đến –
gọi chung là “quốc gia nhận khách”. Quốc gia nhận khách sẽ có được thu nhập bằng ngoại
tệ từ những chi tiêu của khách du lịch nước ngoài khi họ đến.
*Nhập khẩu du lịch: ngược lại với xuất khẩu du lịch, khi một người của quốc gia A đi du
lịch ở nước B và tiêu ở đấy tiền kiếm được tại A thì nước A đã nhập khẩu sản phẩm du lịch
vào nền kinh tế của họ.
Quốc gia nhập khẩu du lịch là quốc gia có cư dân của mình đi du lịch ở nước ngoài –
gọi chung là “quốc gia gửi khách” hay “quốc gia gốc”. Người dân của họ mang tiền ra nước
ngoài chi tiêu, với sự di chuyển ngoại tệ ra khỏi làm cho quốc gia gửi khách trở thành quốc
gia nhập khẩu du lịch.
Trong điều kiện ngày nay, hầu hết các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đều
công nhận rằng du lịch quốc tế là một trong những bộ phận quan trọng nhất của các dòng
thương mại toàn cầu. Là một hệ thống cung ứng liên kết toàn cầu, hoạt động trên nhiều lĩnh
vực rất khác nhau, tác động qua lại giữa du lịch và nền kinh tế quốc tế là rất phức tạp. Tuy
xét trên tổng thể của du lịch thế giới, sự phát triển của cầu du lịch khá ổn định, nhưng xét sự
phát triển của dòng khách từ một nước gửi khách đến một nước nhận khách cụ thể, lượng
cầu du lịch như đã phân tích ở Chương 1 là hết sức nhạy cảm với các biến động về kinh tế,
an ninh và môi trường.
Du lịch quốc tế có hai tác động chính; đầu tiên, trong thương mại, và thứ hai, trong
hiệu ứng tái phân phối của nó.
Tác dụng thương mại là một đặc điểm của cầu du lịch. Khi khách du lịch đến thăm
các nước, sự chi tiêu của họ sẽ kích thích hoạt động thương mại quốc tế. Hầu hết khách du
lịch quốc tế đến nước ta đến bằng đường hàng không với hầu hết các máy bay được sản
xuất và xuất khẩu từ Mỹ và Châu Âu. Tại các điểm đến, khách du lịch có thể sử dụng chỗ ở
thuộc sở hữu và quản lý bởi người nước ngoài. Họ có thể tiêu dùng thức ăn và đồ uống
không được cung cấp trong nước. Ví dụ, một khách du lịch Đức thăm Việt Nam có thể được
chở đến bởi Vietnam Airlines sử dụng máy bay Boeing 777 (sản xuất ở Mỹ), ở khách sạn
Sofitel thuộc sở hữu và quản lý của Pháp, uống rượu whisky Scotland và ăn thịt bò Úc. Với
khách du lịch Đức này, Việt Nam xuất khẩu sản phẩm du lịch nhưng nhập khẩu các sản
phẩm khác và diễn ra sự rò rỉ thu nhập ngoại tệ. Đối với nền kinh tế toàn cầu, chúng cấu
thành các cơ hội thương mại và tạo ra hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiệu ứng tái phân phối (phân phối lại) của du lịch quốc tế thể hiện ở chỗ khách du
lịch sử dụng thu nhập kiếm được ở nước này chi tiêu ở nước khác. Thực tế là hầu hết khách
du lịch quốc tế, họ đến từ các nước phát triển có thu nhập cao và dành một phần thu nhập
tùy ý của họ ở các nước thu nhập thấp bằng việc mua các kỳ nghỉ. Trong ý nghĩa này, một
số thu nhập thặng dư của các nước giàu có, thông qua du lịch, phân phối lại cho các nước
khác mà nhiều nước trong đó là các nước đang phát triển. Các quốc gia tương đối giàu có
của Tây Âu và Bắc Mỹ là các quốc gia gửi khách chính. Những nước có thặng dư cao trong
cán cân thanh toán, chẳng hạn như Nhật Bản, khuyến khích người dân đi du lịch ở nước
ngoài như một phương tiện của việc giảm và phân phối lại thặng dư. Những tác dụng tái
phân phối là quan trọng vì chúng cung cấp cho các nước đang phát triển một trong số rất ít
cơ hội để xuất khẩu sản phẩm miễn thuế.
Trên quan điểm du lịch là hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia, ý nghĩa kinh
tế của du lịch được xem xét trên hai mặt: sự ảnh hưởng đến cán cân vãng lai (cán cân
thương mại hàng hóa và dịch vụ) và sự góp phần tăng GNP của đất nước.
+Xuất khẩu sản phẩm du lịch làm gia tăng thu nhập ngoại tệ, ảnh hưởng đáng kể đến
cán cân vãng lai của nhiều quốc gia. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, do áp lực gây
ra từ nhập siêu, nên chính quyền một mặt có chính sách kích thích xuất khẩu du lịch
(marketing du lịch quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập cảnh,.. nhằm tạo khả năng thu
hút khách du lịch quốc tế), mặt khác hạn chế cư dân nước mình đi du lịch ở nước ngoài
(giới hạn lượng ngoại tệ mang ra, thủ tục xuất cảnh phức tạp,…).
+ Bên cạnh đó, sự gia tăng xuất khẩu du lịch đồng thời làm tăng tổng sản phẩm quốc
dân của đất nước bởi:
Y = C + P + G + (X – M)
Y: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
C: Chi tiêu của người tiêu dùng
P: Giá trị đầu tư
G: Chi tiêu của chính phủ
X: Xuất khẩu (giá trị hàng xuất khẩu)
M: Nhập khẩu (giá trị hàng nhập khẩu)
Nếu xuất khẩu du lịch cao hơn nhập khẩu du lịch sẽ làm cho GNP cao hơn so với GDP.
2.2.1.6. Du lịch phát triển thúc đẩy sự phát triển của các địa phương
Du lịch phát triển, sự tiêu dùng của khách du lịch gia tăng sẽ làm cho luồng tiền và
cơ hội tìm việc làm tại địa phương tăng lên.
Ở đây có một khía cạnh cần lưu ý là chính sự phát triển du lịch giúp sự phát triển của
các địa phương đồng đều hơn. Những vùng giàu tài nguyên khoáng sản hoặc giao thông
thuận lợi có điều kiện phát triển công nghiệp, thương mại. Sự phát triển này dễ dẫn đến sự
đa dạng sinh thái, môi trường bị tàn phá, các di tích cổ xưa bị các nhà máy, khu dân cư nuốt
chửng. Hầu hết các vùng còn phong cảnh thiên nhiên đẹp, sinh thái đa dạng, môi trường
trong sạch, các di tích lịch sử và văn hóa còn được bảo tồn lại thường là những vùng nghèo
nàn về kinh tế. Các nước đang phát triển hay Huế, Hội An, Sapa, Bà Nà,… là những nơi
như vậy.
Do vậy, sự phát triển du lịch ở những vùng khó khăn về phát triển công nghiệp, nông
nghiệp dẫn đến hiện tượng thu nhập từ những vùng giàu có được mang đến những vùng
nghèo hơn và đem lại thu nhập cũng như công ăn việc làm cho những vùng này. Du lịch
phát triển là một trong những biện pháp hữu hiệu để phát triển những vùng vốn có tốc độ
tăng tưởng kinh tế thấp.
Những vấn đề nêu trên là những ý nghĩa kinh tế của phát triển du lịch. Và thật là
thiếu sót khi xét đến các tác động của du lịch nếu chúng ta không xét đến những ảnh hưởng
xã hội, môi trường của nó.
2.2.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG VĂN HÓA - XÃ HỘI CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Du lịch phát triển sẽ có những tác động to lớn đến cộng đồng cư dân địa phương về
văn hóa và xã hội. Cộng đồng ở đây có thể là dân cư của một quốc gia, khu vực hoặc địa
điểm, nói chúng là một nhóm những người sống chung trong một vị trí. Sau nhiều năm tồn
tại, một cộng đồng sẽ phát triển truyền thống, thái độ và phong cách sống riêng của mình có
thể có ít nhiều đặc biệt. Tất cả thường được kết hợp trong từ 'văn hóa'.
Có nhiều công trình nghiên cứu về những tác động phi kinh tế của du lịch, nhưng
đáng tiếc là trong lĩnh vực này, chúng ta thường gặp những phân tích về tác động tiêu cực
của phát triển du lịch nhằm yêu cầu phải có các giải pháp quản lý. Những công trình nghiên
cứu như vậy sẽ tiếp tục xuất hiện và thậm chí sẽ ngày càng nhiều hơn.
Một khu nghỉ có cơ sở hạ tầng dựa trên các tiêu chuẩn phương Tây được xây dựng
ngay cả trong các nước nghèo nhất. Khu nghỉ này cung cấp cho các khách du lịch phương
xa một 'bong bóng sinh thái' bảo vệ môi trường quen thuộc của họ - thậm chí cực đoan hơn
là việc xuất hiện các khu nghỉ mà trong nhân viên là người nước ngoài, cả điều kiện vật
chất, phong cách phục vụ, ngôn ngữ sử dụng,… tách rời hẳn với truyền thống địa phương.
Trong một nghĩa nào đó, khách du lịch nước ngoài không tích hợp thành một thành tố của
xã hội tại chỗ, mà đúng hơn, họ đối đầu với nó. Khi số lượng khách du lịch là lớn và thường
xuyên, phản ứng của cộng đồng cư dân bản địa là không tránh khỏi. Phản ứng có thể dưới
hai hình thức: hoặc là thái độ từ chối khách du lịch nước ngoài của người dân địa phương,
hoặc là chấp nhận những mô hình hành vi của người nước ngoài để tạo thành một “hiệu ứng
trình diễn” xã hội mà người dân địa phương bắt chước những gì người nước ngoài mặc và
làm. Trong cả hai trường hợp, vấn đề sẽ phát sinh. Mức độ tác động là khác nhau ở những
điểm đến khác nhau, nó lệ thuộc vào số lượng khách du lịch đến, sức mạnh văn hóa của
cộng đồng và khả năng hạn chế những tác động tiêu cực của địa phương thông qua các hoạt
động để giúp khách du lịch biết về phong tục địa phương, truyền thống và "điều cấm kỵ".
Các tác động xã hội và văn hóa cơ bản là vấn đề chất lượng chứ không phải là con số định
lượng vì vậy đây là lĩnh vực khó phân tích. Ví dụ, Seychelles đã xác định giới hạn tăng
trưởng hàng năm của các cơ sở lưu trú là 4.000 buồng phòng trong kế hoạch phát triển du
lịch của mình. Nhưng tại sao là con số 4.000 chứ không phải 5.000 hoặc thậm chí 3.000? Ở
một mức độ, giới hạn công suất được xác định theo đặc điểm của vùng và sự sẵn có của cơ
sở hạ tầng, điều này nghe có vẻ có cơ sở nhưng không xác định thực tế về khả năng chịu
đựng của điểm đến.
2.2.3. NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Có sự quan tâm ngày càng tăng về các tác động của một số hình thức phát triển du
lịch đến môi trường. Cần lưu ý rằng không phải chỉ phát triển du lịch làm thoái hóa môi
trường. Phát triển công nghiệp và nông nghiệp cũng mang lại hậu quả tai hại không kém ở
nhiều nơi. Chúng ta phải thấy rằng, thế giới đang phải đối mặt với sự xuống cấp của môi
trường. Trong một thế giới phẳng như hiện nay, những vấn đề địa phương đang thu hút sự
chú ý toàn cầu. Mặc dù phát triển du lịch không là tác nhân lớn và duy nhất, nhưng ở một số
nơi, do phát triển du lịch không có chương trình quản lý để kiểm soát các vấn đề, môi
trường tự nhiên và hoạt động kinh doanh du lịch đều sẽ bị ảnh hưởng. Điều dễ thấy đầu tiên
là khối lượng khách du lịch càng lớn, càng có xu hướng tạo ra các tác động môi trường lớn.
vì vậy, vấn đề hạn chế số lượng khách du lịch tại các điểm đến và các điểm tham quan đang
được nhiều nơi đặt ra.
Như một hệ quả của vấn đề môi trường, người lập kế hoạch du lịch ngày nay ý thức
hơn về trách nhiệm của mình cho các thế hệ tương lai để sử dụng môi trường cẩn thận hơn.
Trong định nghĩa rộng nhất của nó, môi trường đề cập đến môi trường vật lý trong đó bao
gồm các thành phần tự nhiên và xây dựng. Môi trường tự nhiên là những gì tồn tại từ thiên
nhiên - khí hậu và thời tiết, tính năng nước, địa hình và đất, thực vật và động vật, v.v… - và
Môi trường xây dựng, gồm những vật thể do con người tạo ra, chủ yếu là các tòa nhà và các
công trình kiến trúc khác. Tuy nhiên, phải thấy rằng, cần phân tích môi trường một cách
toàn diện, các yếu tố văn hóa xã hội và kinh tế của môi trường phải được bao gồm và, trên
thực tế, thường rất khó để tách rời các thành phần kinh tế, xã hội và vật chất của môi
trường. Tuyên bố Manila của Tổ chức Du lịch Thế giới, được thông qua vào năm 1980,
nhấn mạnh tầm quan trọng của cả hai nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa trong phát
triển du lịch, và sự cần thiết phải bảo tồn các nguồn tài nguyên vì lợi ích của du lịch cũng
như cư dân của khu du lịch. Tuyên bố chung của Chương trình Môi trường của WTO và
Liên Hợp Quốc, trong đó chính thức hóa sự phối hợp liên ngành về du lịch và môi trường
năm 1982.
Việc bảo vệ, tăng cường và cải thiện các thành phần khác nhau của môi trường là
một trong những điều kiện cơ bản cho sự phát triển hài hòa của du lịch. Tương tự như vậy,
quản lý hợp lý du lịch có thể đóng góp cho một mức độ lớn để bảo vệ và phát triển môi
trường vật lý và các di sản văn hóa, cũng như để cải thiện chất lượng cuộc sống ....
Có hai vấn đề môi trường chính. Một là tác động tạo đến môi trường do du lịch tạo ra
và cách thức duy trì, nếu cần thiết, nâng cao chất lượng tổng thể của khu du lịch.
Du lịch có thể tạo ra các tác động tích cực và tiêu cực về môi trường, tùy thuộc vào
sự phát triển được hoạch định và kiểm soát như thế nào. Những tác động chủ yếu được nêu
dưới đây. Không phải tất cả đều đồng thời xảy ra trong một khu vực. Những gì xảy ra và
mức độ tác động của từng hiện tượng phụ thuộc vào loại hình, quy mô phát triển du lịch và
các đặc điểm môi trường của khu vực.
2.2.4.1. Quan điểm toàn diện về đánh giá tác động của du lịch
Phát triển du lịch có tác động tích cực hay tiêu cực đến vùng nhận khách và ngay cả
vùng gửi khách là một trong những cuộc tranh luận quan trọng nhất của những nhà nghiên
cứu du lịch hiện nay. Một thời gian dài, du lịch được coi là nhân tố thuận lợi và có ảnh
hưởng tích cực đến điểm đến. Tuy nhiên, như đã nói ở chương 1, với sự ra đời của một thế
hệ mới máy bay phản lực vào cuối năm 1960 và đầu những năm 1970, và tăng trưởng du
lịch quốc tế vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, du lịch đã bộc lộ những tác động không mong
muốn cho các điểm đến bên cạnh các lợi ích kinh tế tiềm năng của nó. Tuy vẫn bàn đến một
ít về tác động của vùng gửi khách và tuyến đường, nhưng ở đây chúng ta sẽ thảo luận chủ
yếu về những tác động của du lịch đến vùng nhận khách.
Có một số vấn đề cần lưu ý:
Những tác động này sẽ được giới thiệu một cách phân tích với việc
phân chia thành các tác động tích cực, tiêu cực, các tác động kinh tế, xã hội và môi
trường nhưng cũng xin nhấn mạnh rằng những tác động này không rời rạc mà luôn
có sự ảnh hưởng trong quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Một trong những khía cạnh quan trọng trong việc đánh giá tác động
của du lịch là việc nhận thức về tác động của du lịch thường khác nhau bởi những
người khác nhau. Ví dụ, việc gia tăng giá trị tài sản, một kết quả của phát triển du
lịch, thường được coi là tích cực đối với các chủ sở hữu và chính quyền (chủ thể
nhận được nguồn thu ngân sách từ thuế bất động sản); nhưng tiêu cực với những
người thuê tài sản vì họ gặp khó khăn khi giá thuê tăng và khó khăn hơn trong việc
mua bất động sản. Ngoài ra, sự khác biệt này cũng khác nhau giữa các địa điểm, tùy
thuộc vào thái độ khác nhau đối với du lịch liên quan đến những đặc thù văn hóa -
giá trị và mục tiêu hướng đến của cộng đồng.
Du lịch phát triển gây ra sự thay đổi, có những thay đổi nhanh chóng
tức thời, nhưng cũng có những thay đổi rất chậm. Trường hợp thay đổi xảy ra rất
chậm và đang gia tăng trong tự nhiên thường tương đối ít có thái độ tiêu cực. Hầu hết
các trường hợp phản đối liên quan đến những thay đổi tiêu cực nhanh chóng của du
lịch như tăng chỉ số giá, tác nghẽn giao thông, ứ đọng rác thải,… bởi thay đổi nhanh
chóng làm cho cộng đồng khó khăn trong thích ứng với thay đổi. Thế nhưng những
thay đổi chậm cũng không kém phần nguy hại, nếu không muốn nói luôn có ảnh
hưởng lâu dài, khó khắc phục. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhận thức về
hậu quả của du lịch đã tăng đều đặn. do đó thái độ với du lịch không khác so với bất
kỳ hình thức nào khác của phát triển công nghiệp. Thật vậy, cộng đồng ngày càng
thấy rằng, du lịch có tiềm năng lớn trong việc làm thay đổi một số lĩnh vực như văn
hóa và quan hệ xã hội, bởi vì cùng với việc tạo ra những trải nghiệm cho khách du
lịch, bản chất du lịch đòi hỏi phải có sự trao đổi xã hội.
1. Mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các khía cạnh tác động
Một cách hàn lâm, như đã trình bày ở trên, tác động của du lịch được chia thành ba
loại chính: môi trường (đề cập đến môi trường vật lý, sinh thái), xã hội và kinh tế
(Matheson và Wall 1982). Việc phân loại này không tách bạch, một tác động có thể trên các
lĩnh vực khác nhau hoặc tác động trên lĩnh vực này rồi từ đó ảnh hưởng đến lĩnh vực khác
nhưng phân chia như vậy là cần thiết cho nhận thức về tác động của du lịch (điều này thể
hiện ở Hình 2.2). Các mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các khía cạnh kinh tế, môi
trường và xã hội có nghĩa là chúng có một vùng chung mà từ đó hình thành quan điểm về
phát triển du lịch bền vững.
Hình 2.2 Những mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau của các tác động du lịch
2. Vấn đề về phân biệt tác động ở các bộ phận khác nhau của hệ thống không gian du
lịch
Một vấn đề khác của tác động du lịch là chúng xảy ra ở các khu vực khác nhau và ở
các giai đoạn khác nhau của chuyến du lịch. Ví dụ, đối với các yếu tố của hệ thống không
gian du lịch (Bảng 2.3), rất nhiều các tác động của du lịch với xảy ra bên ngoài của điểm
đến. Việc xả thải gây hiệu ứng nhà kính từ các phương tiện giao thông chủ yếu xảy ra dọc
theo tuyến đường quá cảnh nhưng có tác dụng trên tất cả các yếu tố của hệ thống. Vì vậy,
những cộng đồng sống ở nơi diễn ra tất cả các giai đoạn của việc tạo ra chuyến đi sẽ bị ảnh
hưởng. Tuy vậy, vẫn thấy rằng tác động lớn nhất là vẫn ở vùng nhận khách.
3. Vấn đề về phân biệt mức độ ảnh hưởng của tác động
Một vấn đề nữa, trong thực tế, một số tác động được xem trọng hơn. Các tác động
kinh tế rõ ràng là quan trọng vì nó liên quan đến khía cạnh thu nhập và việc làm của cộng
đồng, sự đóng góp vào nguồn thu ngân sách của điểm đến và phát triển kinh tế đất nước.
Các chi phí cơ hội của phát triển du lịch, sự liên kết với các ngành khác và tác động của đầu
tư nước ngoài là những vấn đề thứ yếu hơn.
Mức độ thấy Loại tác động Môi trường
Vùng gửi Tuyến Vùng nhận
được hậu quả của (theo lĩnh vực bị ảnh bên ngoài
khách đường khách
tác động hưởng) chuyến đi
Cao Môi trường tự nhiên Tr.bình Tr.bình Cao Tr.bình
2.2.4.2. Phương pháp đánh giá tác động của phát triển du lịch
1. Yêu cầu về thấu hiểu tác động của du lịch
Như đã nói ở trên, tác động của du lịch phải được xem xét trong những điều kiện cụ
thể. Điều này yêu cầu phải có một phương pháp phù hợp trong việc xác định và thấu hiểu
tác động của du lịch (đến điểm đến du lịch) (Hall 2008) (Hình 2.3):
1. Khái niệm du lịch: Là vấn đề muôn thuở, cần xác định thế nào là du lịch và khách du
lịch, phân biệt du lịch với các hoạt động giải trí và rời khỏi nhà khác (xem chương 1). Dù
khó khăn, nhưng chúng ta cần tách các tác động của du lịch khỏi tác động của các hình thức
di chuyển khác của con người.
2. Thực hiện sự phân biệt: Tiếp theo sự xác định phạm vi của du lịch, cần phân biệt tác
động của du lịch với các tác động của các ngành công nghiệp và các hoạt động văn hóa
khác, thấy được cả tác động tích cực lẫn tiêu cực của phát triển du lịch. Trong thực tế, du
lịch thường xuyên bị quy trách nhiệm cho việc thay đổi các điểm đến ở các nước đang phát
triển. Ví dụ, một trong những cuốn sách đầu tiên về quy hoạch du lịch của Baud-Bovy và
Lawson (1977: 183) nhận xét rằng du lịch 'là tác nhân gây ra sự thoái hóa không thể đảo
ngược những điểm thu hút, làm xói mòn tài nguyên thiên nhiên, làm hỏng cảnh quan bằng
các tòa nhà bê tông, gây ô nhiễm bãi biển, gây thiệt hại rừng, phá vỡ sự thống nhất và
không gian truyền thống của cộng đồng, thậm chí làm mất bản sắc văn hóa độc đáo bởi sự
du nhập ào ạt của các cơ sở kinh doanh nước ngoài. Tuy nhiên, bất kỳ hình thức phát triển
có thể ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và xã hội – cả tốt và xấu. Các chỉ trích nhằm vào
du lịch đặc biệt mạnh mẽ đối với các tác động về văn hóa. Mặc dù rõ ràng du lịch là một
phần của quá trình toàn cầu hóa văn hóa nhưng thật khó mà phân biệt đâu là ảnh hưởng của
du lịch và đâu là ảnh hưởng từ những phương tiện truyền thông, mạng Internet hoặc ngay cả
tôn giáo. Trong thực tế, có thể do tính hiển thị dễ thấy của khách du lịch và các cơ sở kinh
doanh du lịch, nó đã trở thành một tác nhân bị tập trung chú ý nhiều hơn các tác nhân khác.
Môi trường