You are on page 1of 44

1.

ĐỒNG CHÍ
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Chính Hữu (1926 - 2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ. Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về đề tài
người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Thơ ông
không nhiều nhưng có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm
súc. Năm 2000, Chính Hữu được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ Đồng chí ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của
quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp cuối năm 1947 lên khu căn
cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc trung đoàn Thủ đô, cùng
đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến dịch.
- Xuất xứ: Bài thơ Đồng chí được in trong tập Đầu súng trăng treo (1966).
- Nội dung: Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí
tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần
quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ tự do; chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng và giàu sức biểu
cảm.
+ Bút pháp tả thực kết hợp với lãng mạn một cách hài hòa, tạo nên hình ảnh thơ đẹp, mang ý
nghĩa biểu tượng.
+ Hình ảnh thơ sóng đôi, các biện pháp tu từ đặc sắc: liệt kê, điệp ngữ, hoán dụ, ẩn dụ,…
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
(Trích Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 128)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp tình đồng chí của người lính Cụ Hồ trong kháng
chiến chống Pháp được thể hiện trong đoạn thơ sau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá

1
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Trích Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 128, 129)

Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cơ sở hình thành tình đồng chí.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Chính Hữu và bài thơ Đồng chí.
- Hoàn cảnh ra đời và mạch cảm xúc của bài thơ.
- Vị trí đoạn thơ.
2. Cảm nhận
Cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính:
a. Chung hoàn cảnh xuất thân
Những câu thơ trong khổ thơ mở đầu giống như lời tâm sự, chia sẻ của những người chiến
sĩ. Trước tiên, họ tâm sự về hoàn cảnh gia đình, xuất thân:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
- Hai câu thơ đối xứng, song hành tạo ra sự hài hòa, cân xứng. Nước mặn đồng chua: Thành
ngữ chỉ vùng đất nhiễm mặn ở ven biển và vùng đất phèn có độ chua cao. Đất cày lên sỏi đá: Hình
ảnh chỉ vùng đất cằn cỗi khô hạn, đất đai bạc màu.
- Quê hương anh, làng tôi đều chung cái nghèo. Những người lính là những người nông dân,
là người con của làng quê lam lũ, vất vả với cày cấy, ruộng đồng.
- Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính.
Chính sự đồng cảm giai cấp đã giúp họ sát cánh bên nhau chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước.
b. Chung lòng yêu nước, chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu
- Từ những con người xa lạ chẳng hề quen biết, vì tình yêu Tổ quốc, họ đã đứng trong cùng
một đội ngũ, cùng nhau thực hiện mục đích, lí tưởng cao đẹp.
- Câu thơ Súng bên súng, đầu sát bên đầu sử dụng nghệ thuật tiểu đối, điệp ngữ để khẳng định
sự đồng cảm, gắn bó sâu sắc giữa những người lính. Súng và đầu vừa là hình ảnh thực vừa là hình
ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Súng tượng trưng cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đầu chính là chí
hướng, lí tưởng cao đẹp. Những người lính trong kháng chiến chống Pháp cùng chung nhiệm vụ và
lí tưởng chiến đấu. Chính điều đó đã gắn kết họ với nhau.
c. Sát cánh bên nhau, sẻ chia bao gian lao của buổi đầu kháng chiến
- Ngoài ra, họ còn chung hoàn cảnh chiến đấu gian khổ. Hình ảnh Đêm rét chung chăn thể
hiện sự gần gũi, sẻ chia những khó khăn, thiếu thốn trong đời lính.
- Trong đoạn thơ, những chữ anh, tôi đan cài, đối xứng thể hiện tình cảm gắn bó, keo sơn,
khăng khít giữa những người chiến sĩ. Chính vì vậy mà từ đôi người xa lạ, họ đã trở thành đôi tri kỉ.
- Không chỉ dừng lại ở đó, Chính Hữu nâng tình cảm đó lên một tầng cao hơn - tình đồng chí.
- Hai tiếng Đồng chí được tác giả tách ra thành một câu thơ như một dụng ý nghệ thuật vừa

2
tạo ra sự hài hoà, cân đối của bài thơ vừa tạo ra điểmnhấn. Câu thơ rất ngắn gọn, chỉ có hai tiếng
được tách ra thành một dòng thơ riêng: Đồng chí! đã khẳng định sự thiêng liêng cao đẹp của tình
bạn - tình người - tình tri kỉ - tình đồng chí, đồng đội.
3. Đánh giá
- Cơ sở hình thành tình đồng chí cao đẹp của những người lính cách mạng trong bài thơ Đồng
chí được nhà thơ Chính Hữu thể hiện thành công bằng những nét nghệ thuật đặc sắc: những câu thơ
đối nhau, hình ảnh thơ sóng đôi, ngôn ngữ thơ giản dị, chắt lọc tinh tế, nhiều hình ảnh mang tính
biểu tượng, sử dụng thành ngữ ...
Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp tình đồng chí của người lính Cụ Hồ.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Chính Hữu và bài thơ Đồng chí.
- Hoàn cảnh ra đời và mạch cảm xúc của bài thơ.
- Vị trí khổ thơ.
2. Cảm nhận
Vẻ đẹp tình đồng chí của người lính Cụ Hồ được biểu hiện qua:
a. Sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh và tâm tư của nhau
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
- Cùng là những người nông dân mặc áo lính, xa gia đình, xa quê hương, những người lính
luôn cảm thông sâu xa với tâm tư, nỗi lòng của nhau. Giọng điệu chậm rãi, tình cảm thiết tha khiến
câu thơ lắng sâu vào trong nỗi nhớ.
- Ruộng nương, Gian nhà, Giếng nước, gốc đa là những gì gắn bó, gần gũi, thân thiết với
người chiến sĩ xuất thân từ nông dân, song họ sẵn sàng gửi bạn thân cày, mặc kệ gió lung lay, chấp
nhận để lại phía sau, ra đi vì nghĩa lớn. Chí khí, nỗi niềm của người ra đi vì nghĩa lớn được thể hiện
qua từ mặc kệ. Hai tiếng mặc kệ thốt lên đầy khảng khái, rất lính. Qua đó làm toát lên sự kiên quyết,
dứt khoát, mạnh mẽ của người ra đi khi mục đích đã rõ ràng, lí tưởng đã chọn lựa. Đó là tình yêu
quê hương, đất nước sâu nặng của các anh.
- Nghệ thuật hoán dụ kết hợp nhân hóa Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính đã biểu đạt sâu
sắc tâm hồn và tình yêu của người lính với quê nhà và thể hiện tình cảm hậu phương dành cho
người ở tiền tuyến.
b. Chia sẻ, cảm thông với những gian lao, thiếu thốn nơi chiến trường khốc liệt
- Cuộc sống gian lao với những cơn sốt rét rừng:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
+ Địa bàn chiến đấu của người lính là vùng “rừng thiêng nước độc”, lạnh lẽo, âm u. Những
người chiến sĩ xa nhà, xa quê hương hầu hết đều mắc căn bệnh sốt rét ác tính. Là người trực tiếp
tham gia chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) nên Chính Hữu miêu tả vô cùng cụ thể và chính xác
những biểu hiện của căn bệnh quái ác này. Với một loạt các hình ảnh, chi tiết chọn lọc, tác giả đã tái
hiện cuộc sống đầy những gian lao, thiếu thốn, gian khổ của cuộc đời người lính.
+ Chính Hữu nói về căn bệnh này để làm sáng lên tình đồng chí, đồng đội của những người
lính. Bởi lẽ, ngay cả những lúc bị bệnh tật hành hạ, các anh vẫn luôn bên nhau: Anh với tôi biết từng
3
cơn ớn lạnh.
+ Hình ảnh ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, lời ít mà ý nhiều. Áo rách, Quần vá, Chân không
giày, tác giả đã sử dụng những hình ảnh liệt kê nối tiếp nhau để khắc họa hiện thực gian khổ của
buổi đầu kháng chiến: những tư trang tối thiểu, cần thiết nhất mà vẫn rách, vẫn thiếu.
+ Chính trong sự thiếu thốn khó khăn ấy, phẩm chất, tâm hồn, tình cảm của người lính càng
thêm đẹp đẽ. Cấu trúc sóng đôi Áo anh/Quần tôi đã tô đậm thêm sự gắn bó keo sơn của các anh. Họ
đã luôn cùng nhau sẻ chia những nhọc nhằn, gian khó.
c. Tinh thần lạc quan, truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin, sức mạnh.
+ Trong hoàn cảnh ấy, các anh vẫn luôn lạc quan, bền chí. Hình ảnh Miệng cười buốt giá là
một hình ảnh thơ vừa giản dị vừa giàu sức gợi. Người chiến sĩ luôn mỉm cười kiêu hãnh trước mọi
khó khăn, gian lao thử thách. Đó là nụ cười lạc quan, làm ấm lòng nhau. Nụ cười ấy còn thể hiện sự
thông cảm, chia sẻ, cùng khích lệ nhau vượt qua gian khó.
+ Tình đồng chí, đồng đội còn kết tụ trong một hành động thật đẹp Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay. Tình đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết: bàn tay tìm đến nhau để truyền cho
nhau hơi ấm, truyền cho nhau niềm tin và sức mạnh. Ta cũng bắt gặp cái bắt tay nghĩa tình ấy trong
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
+ Hai chữ Thương nhau được đặt lên đầu dòng thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về sức mạnh
của tình đồng chí thiêng liêng.
3. Đánh giá
- Thể thơ tự do, khổ thơ có những câu dài, ngắn đan xen linh hoạt; hình ảnh, ngôn ngữ giản
dị, giàu sức gợi. Giọng thơ tâm tình, thiết tha.
- Khổ thơ giúp người đọc cảm nhận được sức mạnh kì diệu của tình đồng chí đồng đội giản dị
mà thiêng liêng của người lính Cụ Hồ. Tình đồng chí là một trong những sức mạnh để các anh làm
nên chiến thắng. Khổ thơ có một vị trí đặc biệt quan trọng, làm nên thành công của bài thơ, đưa
Đồng chí trở thành một trong những tác phẩm hay viết về đề tài người lính.

2. ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ


I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Huy Cận (1919 - 2005) là nhà thơ trưởng thành từ phong trào Thơ mới và là một trong
những tên tuổi sáng giá trong trào lưu thơ ca lãng mạn trước năm 1945. Cảm hứng chính trong sáng
tác của ông thường là hướng về thiên nhiên, vũ trụ. Năm 1943, Huy Cận tham gia phong trào Văn
hoá cứu quốc và trở thành một nhà thơ cách mạng. Tuy nhiên, sự chuyển mình trong cảm hứng
nghệ thuật của Huy Cận diễn ra khá chậm. Phải đến năm 1958, sau những chuyến đi thực tế, hoà
mình với cuộc sống mới và những con người lao động mới thì cảm hứng sáng tác trong ông mới
thực sự chín muồi và nở rộ thành những chùm hoa nghệ thuật có giá trị.
- Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Ông đã được
Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời: Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng
Ninh. Từ chuyến đi thực tế này hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong cảm
hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài thơ Đoàn thuyền
đánh cá ra đời trong hoàn cảnh ấy.

4
- Xuất xứ: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
- Nội dung: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người
lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
- Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ
đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là cảnh hoạt động của
đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm, khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong
buổi bình minh lên.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng bút pháp lãng mạn với các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, phóng đại.
+ Xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
+ Cách gieo vần có nhiều biến hóa, linh hoạt.
+ Âm hưởng vừa khỏe khoắn, sôi nổi lại vừa phơi phới, bay bổng.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn cảm nhận về vẻ đẹp của khổ thơ sau:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 139)
Đề 2
Viết bài văn cảm nhận về khổ thơ sau:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 140)
Đề 3
Viết bài văn cảm nhận về khổ thơ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 140)

Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi hoàng hôn buông xuống.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
- Hoàn cảnh sáng tác, mạch cảm xúc của bài thơ.

5
- Vị trí khổ thơ.
2. Cảm nhận
a. Bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, tráng lệ
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
- Cảnh thiên nhiên vừa lộng lẫy, tráng lệ vừa gần gũi, ấm áp được dựng tả qua ngòi bút phóng
khoáng của Huy Cận. Cảnh biển vào đêm vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người.
- Hình ảnh Mặt trời xuống biển như hòn lửa là một quan sát rất tinh tế, so sánh rất chính xác,
tạo nên sự tương phản màu sắc và có sức gợi mạnh mẽ về không gian. Mặt trời cuối ngày được ví
như hòn lửa, khiến cho cảnh hoàng hôn trở nên rực rỡ và huy hoàng chứ không phải gợi cảm giác
ảm đạm, hiu hắt như nhiều nhà thơ xưa nay vẫn miêu tả trong các sáng tác của mình. Độc đáo hơn,
tác giả đã tả: Mặt trời xuống biển, một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ, nhưng có thể lí giải
được bởi phải chăng tác giả đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt
trời lặn xuống biển.
- Nghệ thuật so sánh và nhân hoá mặt trời xuống biển tựa như quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ
lặn xuống biển khơi đã khiến cảnh vật thiên nhiên trở nên sinh động, hùng vĩ, huyền ảo.
- Câu thơ Sóng đã cài then, đêm sập cửa là một cặp nhân hóa, ẩn dụ có cấu trúc tiểu đối gợi
cho chúng ta nhiều ấn tượng thú vị mới lạ về vũ trụ, nó hiện ra như một ngôi nhà lớn mà màn đêm
buông xuống là cánh cửa khổng lồ và những lượn sóng là tấm then cài. Khi cánh cửa màn đêm khép
lại, những con sóng là những chiếc then đã cài cửa, con người rời ngôi nhà của mình lại bước tới
căn nhà vũ trụ.
- Đây là câu thơ của lòng mến yêu vũ trụ và niềm tin yêu với cuộc đời.
b. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi với không khí đầy hứng khởi
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
- Trong cảnh hoàng hôn tráng lệ, người dân biển bắt đầu một chuyến ra khơi. Khi thiên nhiên
bước vào trạng thái nghỉ ngơi là lúc con người bắt đầu một công cuộc lao động mới.
- Cụm từ lại ra khơi đã thể hiện rõ điều đó. Phó từ lại cho ta hiểu đây là hoạt động, công việc
hằng ngày, thường xuyên của những người dân vùng biển nơi đây. Đó không phải là tiếng thở dài
nặng nề mà là tiếng reo vui náo nức của con người yêu lao động, tìm thấy niềm vui, hào hứng và hi
vọng trong công việc.
- Hình ảnh Đoàn thuyền (chứ không phải con thuyền đơn lẻ) gợi không khí làm ăn tập thể,
đông đúc của con người trong thời kỳ miền Bắc đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
- Câu hát chính là hình ảnh ẩn dụ cho niềm vui, sự phấn chấn của người lao động.
- Thủ pháp nhân hoá, lối nói cường điệu (Câu hát căng buồm) diễn tả vẻ đẹp khỏe khoắn
như có hình khối từ câu hát của người dân chài. Tiếng hát ấy làm căng buồm đưa đoàn thuyền ra
khơi, đã tạo nên một không khí vui tươi, tràn đầy hi vọng của những người lao động trên biển. Đó
là tiếng hát chan chứa niềm vui của người lao động được làm chủ thiên nhiên, đất nước.
- Khí thế hăm hở, hào hứng khi ra khơi của đoàn thuyền đánh cá xuất phát từ lòng hăng say
lao động, sự tự tin và niềm vui được làm chủ của con người trong thời đại mới.
3. Đánh giá
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ với sức liên tưởng độc đáo, thú vị; giọng thơ hào sảng, cách
nói khoa trương.
- Hình ảnh thiên nhiên kì vĩ, lãng mạn.
- Bức tranh hoàng hôn trên biển rực rỡ, tráng lệ và cảnh đoàn thuyền ra khơi với không khí
đầy hứng khởi. Qua đó khắc họa hình ảnh con người lao động mới với niềm vui, niềm tin yêu tha
thiết vào cuộc đời.

Đề 2

6
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
- Hoàn cảnh sáng tác, mạch cảm xúc của bài thơ.
- Vị trí khổ thơ.
2. Cảm nhận
a. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng
- Thuyền ta lái gió với buồm trăng
+ Thuyền ta: Đại từ ta gợi lên niềm tự hào và không khí làm ăn tập thể của thời kì đầu đi lên
Chủ nghĩa xã hội.
+ Hình ảnh ẩn dụ lái gió và buồm trăng vừa tả thực gió biển thổi mạnh và vầng trăng khuyết
hình cánh buồm, vừa cho ta thấy những liên tưởng thú vị của một nhà thơ tài hoa: Con thuyền có
gió làm lái, có trăng làm buồm, thênh thang lướt giữa mây cao, biển bằng. Không đối lập, thiên
nhiên hòa hợp với con người, lao động cùng con người. Trong sự hòa hợp đó, vẻ đẹp và sức mạnh
của con người càng trở nên nổi bật.
- Lướt giữa mây cao với biển bằng:
+ Động từ lướt tả vận tốc nhanh, đồng thời cho thấy tư thế chinh phục, làm chủ và sức mạnh
tràn đầy của người lao động.
+ mây cao, biển bằng: Hình ảnh đối lập mở ra một không gian rộng lớn, bao la, hùng vĩ.
- Giọng thơ hào sảng, cách nói có phần khoa trương đã làm bật lên hình ảnh con thuyền kì vĩ,
lãng mạn. Con thuyền là trung tâm của bức tranh biển khơi, làm chủ biển khơi.
b. Mục đích của chuyến ra khơi, tư thế làm chủ biển khơi của người lao động
- Ra đậu dặm xa dò bụng biển:
+ Ra đậu dặm xa: Ngư trường là vùng biển xa bờ, nhiều hải sản và ẩn chứa bao bí mật.
+ dò bụng biển: Nghệ thuật nhân hóa: Đoàn thuyền ra khơi là để thám hiểm biển khơi.
- Dàn đan thế trận lưới vây giăng:
+ Dàn đan thế trận: Các hoạt động phục vụ cho việc đánh bắt cá được hình dung như thể
chuẩn bị cho một cuộc chiến.
+ Lưới vây giăng: Dụng cụ đánh bắt cá biến thành vũ khí.
- Ngư trường là chiến trường, lưới là vũ khí, ngư dân là các chiến sĩ, việc đánh bắt cá biến
thành công cuộc chinh phục biển khơi. Tác giả đã chuyển trường từ vựng (từ trường từ vựng lao
động sang trường từ vựng chiến đấu) thật hay, thật độc đáo!
- Các động từ ra, đậu, dò, dàn đan, vây giăng được dùng chính xác, kết hợp nhịp thơ và vần
điệu chắc khỏe đã dựng lại được không khí một trận đánh lớn. Khoảnh khắc thả neo, buông lưới
thật mạnh mẽ, khẩn trương.
- Tác giả đã nâng tầm mục đích ra khơi của đoàn thuyền: không chỉ là đánh bắt cá mà còn là
thám hiểm, cao hơn nữa là chinh phục biển khơi, khai thác nguồn tài nguyên, xây dựng đất nước.
3. Đánh giá
+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ với sức liên tưởng độc đáo, thú vị; giọng thơ hào sảng, cách
nói khoa trương.
+ Hình ảnh con thuyền kì vĩ, lãng mạn, làm chủ biển khơi.
+ Khắc họa hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng. Qua đó khắc họa
hình ảnh con người lao động trong thời kì mới.

Đề 3
7
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp và sức sống của biển đêm.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
- Hoàn cảnh sáng tác
- Đề tài
- Vị trí khổ thơ
2. Cảm nhận
a. Sự giàu đẹp của biển đêm
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
- Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc
đen hồng, vàng chóe… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền
ảo như trong câu chuyện cổ tích về xứ sở thần tiên.
- Rất nhiều loài cá quý được liệt kê, mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: Cá nhụ cá
chim cùng cá đé/ Cá song lấp lánh đuốc đen hồng làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương, như
có một hội rước đuốc trong lòng biển thẳm. Và đẹp nhất là hình ảnh cá song, toàn thân nó như một
bó đuốc lung linh trong đêm, sắc đen và hồng vừa đối lập nhau vừa quấn quýt, đan bện vào nhau
trong một sự chuyển động nhịp nhàng.
- Sinh động nhất là lúc đuôi cá quẫy làm cho bóng trăng vàng tung toé, gợi cảm giác về sắc
vàng càng vàng hơn: vàng choé.
- Thủ pháp nhân hoá, tiếng em thân thương trìu mến đã biến cá thành những nàng tiên của
biển cả. Mỗi khi: Cái đuôi em quẫy, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên.
- Mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình, chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt
bởi bàn tay con người. Với họ - những người ngư dân này - cá là bạn, là em, là niềm cảm hứng cho
con người trong lao động và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
b. Sức sống của thiên nhiên, vũ trụ
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long
- Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Biển đêm
trong tưởng tượng của nhà thơ là một sinh vật đại dương khổng lồ. Nhịp thở của nó là từng đợt sóng
vỗ. Còn những bóng sao in trên mặt nước như trăm ngàn chú bé tinh nghịch đang lùa nước Hạ
Long. Sóng lóng lánh ánh bạc, cảnh biển đêm nhưng không tối tăm mà rực rỡ sắc màu của cá và lấp
lánh ánh trăng sao.
- Sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước
biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang lùa nước Hạ Long.
- Sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật đã tạo nên hình ảnh thơ kì diệu, lung linh và
huyền ảo.
3. Đánh giá
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ với sức liên tưởng độc đáo, thú vị; giọng thơ hào sảng, cách
nói khoa trương… đã khắc họa thành công vẻ đẹp và sức sống của biển đêm.

8
3. BẾP LỬA
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh
Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ
trưởng thành trong thời kì chống Mĩ.
Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả là sinh viên học
ngành luật ở nước ngoài.
- Xuất xứ: Bài thơ được đưa vào tập Hương cây - Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng
Việt và Lưu Quang Vũ.
- Nội dung:
Bếp lửa được đánh giá là một bài thơ hay viết về tình bà cháu. Tình cảm ấy thể hiện qua dòng
hồi tưởng của người cháu về những năm tháng tuổi thơ với biết bao nhiêu kỉ niệm, lại được đặt
trong những mốc thời gian và những sự kiện cụ thể.. Tuổi thơ ấy đã gắn với giai đoạn lịch sử đau
thương mà oai hùng của đất nước từ Cách mạng tháng Tám cho đến cuối cuộc kháng chiến chống
Pháp.
- Nghệ thuật:
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả và tự sự
+ Sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ
niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
(Trích Bếp lửa, Bằng Việt, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 143)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa 
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ 
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, 
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi 
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

9
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! 
(Trích Bếp lửa, Bằng Việt, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 144)

Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Những kí ức, những kỉ niệm tuổi thơ đói nghèo cơ cực nhưng ấm áp nghĩa tình bà cháu.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa.
- Hoàn cảnh sáng tác
- Đề tài
- Vị trí khổ thơ
2. Cảm nhận
a. Bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Điệp ngữ Một bếp lửa cùng với các từ láy chờn vờn, ấp iu tạo giọng điệu sâu lắng tâm tình,
gợi lên hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt
Nam. Bếp lửa ấm áp giữa cái lạnh của chờn vờn sương sớm thật thân thương với bao tình cảm nồng
đượm khơi gợi nguồn cảm xúc.
- Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên khơi gợi sự liên tưởng đến người nhóm lửa, nhóm bếp, đến nỗi
nhớ tình thương với bà của đứa cháu đang ở xa Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Hình ảnh ẩn dụ nắng mưa đầy sức gợi. Đó không chỉ là hiện tượng của đất trời mà còn là hình
ảnh diễn tả thời gian trôi đi, vừa ẩn dụ cho những khó khăn, gian khổ mà bà đã trải qua. Trong lòng
đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Thương bà suốt tháng suốt năm lặng lẽ
âm thầm. Chữ thương đi liền với bà, hai thanh bằng đặt liền nhau tạo ra âm vang ngân dài, xao xuyến,
như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.
- Hình ảnh bếp lửa đã gợi cho người cháu nỗi nhớ bà, nhớ gia đình, nhớ quê hương, đất nước.
Kỉ niệm về bếp lửa, về bà rất giản dị nhưng cũng rất sâu sắc gần gũi trong đời sống tình cảm của
con người. Tình yêu thương bà chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương gia đình, quê hương
và đó là khởi đầu của tình người, tình yêu đất nước.
b. Kí ức về những năm tháng ấu thơ bên bà
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
- Kỉ niệm của một thời ấu thơ bỗng sống lại thật mạnh, thật sâu, thành ấn tượng ám ảnh suốt
cả cuộc đời. Đó là cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ, thiếu thốn bên bóng đen ghê rợn của nạn
đói năm 1945:
+ Thành ngữ đói mòn đói mỏi và hình ảnh chọn lọc đầy sức tạo hình khô rạc ngựa gầy vừa
phản ánh chân thực đời sống vừa gợi hình dung, cảm nhận rõ về cái đói kéo dài, thê lương đầy
khủng khiếp…
+ Trong hoàn cảnh chung ấy, cuộc sống của bà, của cháu cũng thật lao đao Bố đi đánh xe khô
rạc ngựa gầy. Bà thì già, cháu thì nhỏ, con ngựa cũng gầy đến héo khô. Cách nói giàu hình ảnh, câu
thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện thật ấn tượng về hình ảnh xóm làng xơ xác, về cuộc sống cơ cực,
thương tâm, khốn khổ, đau xót.

10
- Không thể nào quên ấn tượng về cái đói nhưng đậm sâu hơn lại là ấn tượng về mùi khói:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
- Hình ảnh khói hun nhèm mắt rất chân thực và giàu sức gợi: Bếp lửa của rơm rạ, của củi còn
chưa kịp khô, khói nhiều, cay mắt. Hình ảnh thơ còn mang ý nghĩa tượng trưng: sự thiếu thốn, khốn
khó trong cuộc sống sinh nhai và tấm lòng yêu thương vô bờ của bà dành cho cháu.
- Nghĩ về bà và kỉ niệm tuổi thơ nhiều cơ cực, bên bếp lửa khói hun nhèm mắt, người cháu
xúc động, xót thương Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! Câu thơ đã thể hiện rất chân thực và xúc
động niềm thương về tuổi thơ gian khó, niềm thổn thức của người cháu khi nhớ về những năm
tháng tuổi nhỏ bên người bà kính yêu, cồn cào nỗi nhớ thương bà.
- Hình ảnh bếp lửa và kí ức tuổi thơ gợi nhớ bằng trí tưởng tượng, bằng nhiều giác quan, khứu
giác (sống mũi còn cay) rồi xúc giác (hun nhèm mắt cháu). Tác giả hướng mọi giác quan để quay về
sống lại kỉ niệm trong trí tưởng tượng. Dường như không có khoảng cách của thời gian, mọi hình
ảnh gắn với bếp lửa với tình bà được tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi.
3. Đánh giá
- Đoạn thơ có sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt: biểu cảm kết hợp tự sự, miêu tả. Giọng
thơ hồi tưởng và đầy chất suy ngẫm; cảm xúc mãnh liệt, dâng trào. Hình ảnh thơ vừa chân thực vừa
giàu ý nghĩa biểu tượng.
- Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng cảm xúc về bà và kí ức về những năm
tháng ấu thơ bên bà. Tình cảm bà cháu hiện ra bình dị, gần gũi mà thiêng liêng cao quý.

Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Những suy ngẫm sâu sắc của tác giả về người bà và bếp lửa.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa.
- Hoàn cảnh sáng tác
- Vị trí khổ thơ
2. Cảm nhận
a. Suy ngẫm của cháu về bà, về công việc nhóm bếp của bà
- Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu xúc động bày tỏ suy ngẫm về
cuộc đời, về lẽ sống của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
+ Từ láy tượng hình lận đận và hình ảnh ẩn dụ nắng mưa gợi ra cuộc đời gian nan, vất vả của
bà.
+ Cụm từ mấy chục năm kết hợp với phó từ tận, vẫn vừa chỉ thời gian dài vừa tái hiện hình
ảnh bà suốt một đời vất vả, tần tảo, hi sinh, chăm lo cho mọi người. Mấy chục năm ròng, đến tận
bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, vẫn làm công việc quen thuộc là nhóm lửa. Dậy sớm là thói
quen, đã trở thành ý thức của bà. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam
giàu đức hi sinh, dù gian truân vất vả vẫn ngời sáng tình yêu thương.
- Bà tần tảo, chịu thương chịu khó, lặng lẽ hi sinh cả một đời vì con vì cháu:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

11
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
- Điệp ngữ Nhóm không chỉ diễn tả sự khéo léo làm cho lửa và chất đốt bén vào nhau, cháy
lên mà còn gợi sự chi chút của tấm lòng người bà. Mỗi lần vang lên, điệp ngữ ấy lại mang một ý
nghĩa khác nhau, bồi đắp cao thêm, toả sáng dần dần những nét kì lạ và thiêng liêng của bếp lửa
cũng là để người đọc thấy được biết bao công việc bà làm cho mọi người và ý nghĩa cao cả của
những việc làm đó:
+ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm: Gợi hình ảnh ngọn lửa thực, gợi công việc quen thuộc,
thường ngày mà bà làm trong mấy chục năm trời. Và còn gợi đôi bàn tay khéo léo, tấm lòng chi
chút của người nhóm lửa.
+ Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi: Không chỉ gợi hình ảnh bếp lửa thực để luộc
khoai, luộc sắn mà còn mang nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho tình yêu thương, sự đùm bọc mà bà dành
cho cháu ngay cả khi cuộc sống muôn vàn khó khăn. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy
trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt.
+ Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui vừa hiểu theo nghĩa thực là nồi xôi gạo mới bà nấu để
duy trì sự sống, vừa là niềm vui, sự sẻ chia, vừa khơi dậy tình làng nghĩa xóm. Nhờ bếp lửa của bà mà
cháu biết mở rộng tấm lòng với mọi người, biết đoàn kết, gắn bó với xóm làng, quê hương, đất nước.
+ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ: Bà đã khơi dậy trong cháu một trời yêu thương, bà
dựng xây cho cháu một khung trời tuổi thơ đầy ước mơ, hi vọng; bà là người bạn tâm tình cho cháu
sự yêu thương, chăm sóc, bảo ban và chia sẻ.
- Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa - ngọn lửa của sự sống,
của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Cũng nhờ ngọn lửa lòng bà mà cháu đã đủ nghị lực để vượt
qua gian khó, để trưởng thành.
- Hình ảnh bếp lửa đơn sơ, giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái
tim, một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của mỗi con người.
b. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
- Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá về
một điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Đó còn là một điều chiêm nghiệm sâu sắc, thấm thía về ý
nghĩa của những gì thân thiết, gắn bó với tuổi thơ mỗi người. Bếp lửa là tình bà ấm nóng. Bếp lửa là
tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với những gian khổ đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là
nhóm lên niềm vui, sự sống, tình yêu thương. Từ bếp lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin về
ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
- Bếp lửa luôn đi cùng hình ảnh người bà - người phụ nữ Việt Nam tần tảo, nhẫn nại, yêu
thương, giàu đức hi sinh.
- Bếp lửa và hình ảnh người bà thân yêu đã trở thành một mảnh tâm hồn, một phần kí ức
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu. Bởi vậy mà bếp lửa thật kì lạ và thiêng liêng.
3. Đánh giá
- Đoạn thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả. Thể thơ tám chữ kết
hợp với bảy chữ, chín chữ. Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình phù hợp với việc diễn tả dòng cảm xúc và
suy ngẫm. Hình ảnh thơ sáng tạo: bếp lửa - hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
- Đoạn thơ ca ngợi đức hi sinh, sự tảo tần, tình yêu thương bao la của bà đồng thời bộc lộ nỗi
thương nhớ, lòng kính yêu, sự cảm phục và biết ơn sâu sắc cháu dành cho bà.

12
4. VIẾNG LĂNG BÁC
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất
của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông nhỏ nhẹ, giàu
tình cảm và chất mơ mộng ngay trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt ở chiến trường.

2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời: Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất
nước thống nhất, công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành. Nhà thơ Viễn
Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác trong dịp
đó.
- Xuất xứ: Bài thơ Viếng lăng Bác in trong tập Như mây mùa xuân (1978).
- Nội dung: Bài thơ thể hiện niềm xúc động và tình cảm sâu sắc của một người con miền Nam
lần đầu thăm lăng Bác, đồng thời cũng là tình cảm chung của nhân dân, của cả dân tộc với vị lãnh tụ
kính yêu.
- Mạch cảm xúc của bài thơ được diễn tả theo trình tự thời gian diễn ra hoạt động vào lăng
viếng Bác của nhân vật trữ tình: từ xa nhìn về lăng - đứng trước lăng - vào lăng - chuẩn bị chia xa.
Tâm trạng và thái độ của nhà thơ cũng thay đổi theo:. Tất cả những tình cảm ấy đã được tác giả diễn
tả một cách mộc mạc, chân thành, tha thiết theo một diễn biến tâm trạng rất hợp lí.
- Nghệ thuật:
+ Giọng điệu trang trọng và tha thiết, có sự thay đổi linh hoạt diễn tả các cung bậc cảm xúc
đồng thời phù hợp với đề tài viết về lãnh tụ.
+ Thể thơ tự do (linh hoạt số chữ trong từng câu), gieo vần không cố định (có khi liền, có khi
cách), nhịp thơ biến đổi (lúc nhanh lúc chậm, lúc dàn trải, lúc dồn dập)…
+ Nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm; ngôn ngữ bình dị mà cô đúc.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
(Trích Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 58)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
(Trích Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 58)
Đề 3
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:

13
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
(Trích Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 58)
Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về tác giả Viễn Phương, tác phẩm Viếng lăng Bác.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Viếng lăng Bác: Tháng 4 năm 1976, khi đất nước thống nhất,
công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được hoàn thành, ước mong được ra Hà Nội, được viếng
lăng Bác Hồ của đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện. Nhà thơ Viễn Phương cùng đồng bào chiến
sĩ từ miền Nam ra Hà Nội viếng Bác. Bài thơ Viếng lăng Bác đươc sáng tác trong dịp đó và sau này
được in trong tâp thơ Như mây mùa xuân (1978).
- Cảm hứng bao trùm bài thơ, mạch vận động của cảm xúc thơ: Cảm hứng bao trùm trong bài
thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác
giả. Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự vào lăng viếng Bác.
- Vị trí của khổ thơ trong bài: Khổ thơ thứ nhất
2. Cảm nhận
a. Lời giới thiệu về chuyến thăm lăng Bác
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
- Từ xưng hô đặt ở đầu câu (Con): mang đặc trưng cách xưng hô của người dân Nam Bộ, thân
mật, gần gũi, đầy kính trọng nhưng cũng rất tự nhiên, diễn tả tình cảm máu thịt, chân thành giữa
lãnh tụ và nhân dân.
- Biện pháp tu từ nói giảm nói tránh (động từ thăm): con về thăm nơi Bác ở, thăm chỗ Bác
nằm. Cách nói khẳng định sự bất tử của Bác, xoa dịu nỗi đau của cả dân tộc trước sự ra đi của
Người.
- Cụm từ ở miền Nam: thành đồng Tổ quốc, mảnh đất đau thương, anh dũng trong những năm
kháng chiến chống Mĩ gian khổ.
- Câu thơ mở đầu lời lẽ giản dị, gọn như một thông báo mà chứa đựng trong đó biết bao điều
sâu xa, thể hiện niềm xúc động của một người con từ nơi rất xa về thăm lăng Bác, thăm vị Cha già
dân tộc.
- Nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng thổn thức.
b. Cảm nghĩ về hình ảnh hàng tre trước lăng Bác:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
- Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét với tác giả về cảnh quan bên lăng Bác là hàng tre
bát ngát trải dài trong sương sớm - một hình ảnh hết sức quen thuộc, gần gũi, bình dị của làng quê Việt
Nam, đất nước Việt Nam.
- Những tính từ đồng thời là những từ láy bát ngát, xanh xanh được dùng để chỉ màu xanh đặc
trưng của hàng tre Việt Nam. Sắc màu mang ý nghĩa biểu tượng cho sức sống dồi dào, mãnh liệt
của dân tộc Việt Nam, linh hồn Việt Nam, cốt cách Việt Nam.

14
- Không chỉ dừng lại ở nghĩa tả thực, cây tre còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa: Hàng tre
xanh xanh Việt Nam chỉ con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
- Thành ngữ bão táp mưa sa và nghệ thuật nhân hóa đứng thẳng hàng đã khẳng định, ngợi ca
vẻ đẹp thanh cao, ý chí bất khuất, kiên cường, bền bỉ của con người Việt Nam. Một dân tộc với lịch
sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước đã trải qua biết bao biến cố, thăng trầm nhưng vẫn vững
vàng đi lên phía trước.
- Nhìn thấy hàng tre gần gũi thân thiết bên lăng Bác, tác giả đã không thể giấu được nỗi xúc
động. Câu cảm thán Ôi! thể hiện cảm xúc trào dâng một cách mãnh liệt. Đó là niềm tự hào sâu sắc
về Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong đấu tranh gian khổ nhưng phẩm chất tốt đẹp luôn
luôn ngời sáng, mà Bác Hồ là người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất.
3. Đánh giá
- Khái quát về giá trị nghệ thuật (giọng điệu, hình ảnh, thể thơ và nhịp điệu...)
- Qua khổ thơ, tác giả đã thể hiện được niềm xúc động lớn lao khi viếng lăng Bác, tình cảm
ngưỡng mộ, ngợi ca và tự hào về đất nước, con người Việt Nam.
- Có thể liên hệ với một số bài thơ khác có cùng đề tài viết về Bác Hồ.

Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của tác giả khi xếp hàng vào lăng viếng Bác.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về tác giả Viễn Phương, tác phẩm Viếng lăng Bác.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Viếng lăng Bác.
- Cảm hứng bao trùm bài thơ, mạch vận động của cảm xúc thơ.
- Vị trí của khổ thơ trong bài:Khổ thơ thứ hai
2. Cảm nhận
a. Cảm xúc khi đứng trước thềm lăng Bác
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
- Mặt trời đi qua trên lăng (Biện pháp tu từ nhân hóa) là hình ảnh tả thực, là mặt trời của thiên
nhiên đem lại nguồn sáng cho thế gian, hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, gợi sự kì vĩ, bất tử,
vĩnh hằng.
- Mặt trời trong lăng: là một hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho Bác, người đã soi đường chỉ lối
cho nhân dân ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ để đến với cuộc đời tự do, hạnh phúc.
- Đặt hai hình ảnh mặt trời song song để nâng Bác lên tầm cao của vũ trụ, khẳng định sự vĩ
đại, sự trường tồn của Bác; ca ngợi công lao trời bể của Bác đối với dân tộc đồng thời thể hiện niềm
tôn kính, lòng biết ơn vô hạn của nhân dân ta với vị lãnh tụ.
b. Cảm nghĩ về dòng người vào lăng viếng Bác
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
- Điệp ngữ Ngày ngày: khẳng định quy luật diễn ra không chỉ đối với tự nhiên mà còn đối với
con người (gợi cảm giác về chuỗi thời gian vô tận, bất biến, đồng thời nhấn mạnh và khẳng định
tấm lòng của nhân dân sẽ mãi mãi không nguôi nhớ Bác).
- dòng người đi trong thương nhớ: cách diễn đạt rất giản dị, chân thực về nỗi xúc động bồi
hồi, lòng tiếc thương kính cẩn của cả dân tộc và bè bạn quốc tế khi tới lăng viếng Bác.
- Hình ảnh ẩn dụ tràng hoa: gợi cảnh đoàn người vào viếng Bác nối nhau đi như thể kết thành
một tràng hoa bất tận. Mỗi con người vào viếng lăng giống như một bông hoa đẹp dâng lên Bác cả

15
tấm lòng, cả cuộc đời với tất cả niềm thương, nỗi nhớ.
- Hình ảnh hoán dụ bảy mươi chín mùa xuân: cuộc đời 79 tuổi của Bác được coi là 79 mùa
xuân mang hương sắc cho cuộc đời; thể hiện lòng biết ơn của nhân dân đối với Bác.
- Câu thơ dài 9 chữ gợi ra nhịp của những bước chân, sự vô tận của dòng người ngày ngày
vào lăng viếng Bác.
3. Đánh giá
- Giọng thơ trang nghiêm thành kính; nhiều hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ đẹp, sâu sắc; kết cấu
sóng đôi...
- Ca ngợi công lao to lớn của Bác và lòng kính yêu, biết ơn của nhân dân dành cho Bác Hồ.
- Có thể liên hệ với một số bài thơ khác có cùng đề tài viết về Bác Hồ.
Đề 3
Gợi ý:
I. Xác dịnh vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng Bác.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về tác giả Viễn Phương, tác phẩm Viếng lăng Bác.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Viếng lăng Bác.
- Cảm hứng bao trùm bài thơ, mạch vận động của cảm xúc thơ.
- Vị trí của khổ thơ trong bài: Khổ thơ thứ ba
2. Cảm nhận
a. Niềm xúc động trước hình ảnh Bác nằm yên nghỉ
- Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh nằm trong giấc ngủ bình yên: một giấc ngủ nhẹ nhàng,
thanh thản giống như một ông Tiên, Bác chỉ ngủ thôi, Bác vẫn sống mãi cùng non sông đất nước.
- Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền gợi nhiều liên tưởng:
+ Ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo, yên tĩnh, trang nghiêm trong lăng Bác.
+ Là hình ảnh ẩn dụ ngợi ca tâm hồn trong sáng, nhân cách thanh cao của Bác.
+ Mối quan hệ gắn bó giữa Bác và trăng lúc sinh thời.
- Hai câu thơ diễn tả sâu sắc nỗi xúc động, lòng thành kính của nhà thơ dành cho Bác
b. Niềm đau đớn, tiếc thương vô hạn khi nhận ra Bác đã mãi mãi đi xa
- Từ láy mãi mãi, biện pháp tu từ ẩn dụ trời xanh (chỉ Bác Hồ) cùng với các hình ảnh mặt
trời, vầng trăng đã tạo nên một hệ thống các hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ khẳng định sự vĩ đại của
Bác và tấm lòng thành kính của cả dân tộc dành cho Người.
- Cặp từ Vẫn biết…Mà sao: vẫn biết Bác còn sống mãi với non sông, đất nước nhưng tự
trong sâu thẳm đáy lòng vẫn không thể không đau đớn trước sự ra đi của Người.
- Câu thơ cuối của khổ thơ (với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, biểu cảm trực tiếp
nghe nhói) như một tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào diễn tả niềm tiếc thương vô hạn khi Bác đã mãi
mãi đi về cõi vĩnh hằng. Nỗi đau mất mát đến đây được diễn đạt một cách cụ thể. Đó là nỗi đau của
một người con mất Cha, của một người dân mất đi vị lãnh tụ vĩ đại muôn vàn kính yêu:
Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
(Tố Hữu)
Sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự mất mát to lớn của cả dân tộc và nhân dân lao động
yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
3. Đánh giá
- Đoạn thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm, thành kính vừa sâu lắng, xúc động, thiết tha. Kết
hợp một cách hài hoà giữa những hình ảnh thực với hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng; cách
16
dùng từ tinh tế…
- Đoạn thơ diễn tả sâu sắc và cảm động nỗi đau xót, niềm tiếc thương vô hạn của một người
con miền Nam, của cả dân tộc trước sự ra đi của Bác.
- Có thể liên hệ với một số bài thơ khác có cùng đề tài viết về Bác Hồ.

5. SANG THU
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Hữu Thỉnh, tên khai sinh là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, tại làng Phú Vinh, xã Duy
Phiên, huyện Tam Dương (nay là huyện Tam Đảo), tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập
ngũ, vào binh chủng Tăng - Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và
bắt đầu sáng tác thơ.
Hữu Thỉnh là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn,
về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời
trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ Sang thu được viết vào mùa thu 1977, khi nhà thơ Hữu Thỉnh
tham gia trại viết văn quân đội ở một làng ngoại ô Hà Nội (nay là Khương Hạ, Thanh Xuân, Hà
Nội). Đất nước ta lúc này vừa trải qua chiến tranh, cuộc sống thanh bình đã trở lại.
Nhà thơ Hữu Thỉnh tự bạch với Sang thu: Cuối bài thơ tôi đề là “Thu 1977”. Đây là chìa
khóa của bài thơ mà rất nhiều người giảng về bài thơ này không hiểu hoặc không chú ý”. Nếu như
họ lưu ý đến chữ “Thu 1977” thì sẽ hiểu được rằng đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của
người lính vừa bước ra khỏi chiến tranh và sự bình yên quý giá biết chừng nào... Nhà thơ kể về thời
khắc ông đặt bút viết bài thơ: Năm 1977, ông tham gia trại viết văn quân đội ở một làng ngoại ô Hà
Nội (nay là Khương Hạ, Thanh Xuân, Hà Nội). Đất nước ta lúc này vừa trải qua chiến tranh, cuộc
sống thanh bình đã trở lại. Trong cái mơ hồ phảng phất gió thu và lá thu đang ngả màu, nhà thơ đã
trèo lên cây ổi chín vàng trong cả một vườn ổi bạt ngàn ở nơi này. Không có gì đặc hơn, sánh hơn
cái màu, cái mùi ổi chín vàng nhuốm trong cái nắng vàng của mùa thu... Không gian cao vút, sâu
thẳm, yên tĩnh.
- Xuất xứ: Bài thơ Sang thu được in trong tập thơ Từ chiến hào đến thành phố (1991).
- Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế trước sự biến chuyển của thiên nhiên lúc giao mùa
từ hạ sang thu.
-Nghệ thuật: Đặc sắc nổi bật ở Sang thu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và
biểu cảm. Mạch thơ là mạch chảy tự nhiên của cảm xúc: từ ngỡ ngàng, bâng khuâng trước
những tín hiệu giao mùa nơi thôn xóm đến say mê trước những cảnh vật sang thu xa rộng, và
rồi trầm ngâm trước những biến đổi bên trong của thiên nhiên và con người. Hình ảnh vừa gần
gũi, thân thuộc, vừa mới mẻ, lạ lẫm. Ngôn từ giản dị mà gợi cảm, vừa miêu tả chính xác trạng
thái của tạo vật, vừa thổi hồn vào tạo vật những cảm giác rất người. Thể thơ 5 chữ, cách thể
hiện mộc mạc, tự nhiên như lối nói của người thôn quê. Sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về
giây phút thu đã về (nhận ra qua khứu giác và xúc giác: gió se và sương; diễn đạt qua các từ
ngữ: bỗng, nhận ra, phả, hình như, chùng chình…). Cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến
chuyển trong không gian (từ vườn, ngõ, sông, mây, sấm, hàng cây…) . Chút nghĩ suy về con
người và cuộc đời qua cách khép lại với hình ảnh tiếng sấm vừa thực vừa hàm ẩn suy tư.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

17
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(Trích Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 70)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
(Trích Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 70)

Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của thi nhân trước những tín hiệu báo thu sang.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang thu.
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ: Bài thơ được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần
đầu tiên trên báo Văn nghệ. Sau đó được in lại nhiều lần trong các tập thơ.
- Mạch cảm xúc của bài thơ xuyên suốt với hai nội dung nổi bật: cảm nhận về thiên nhiên và
những suy ngẫm, chiêm nghiệm lúc sang thu; từ ngoại cảnh hướng vào tâm cảnh, lắng dần vào suy
tư.
- Vị trí khổ thơ: Khổ thơ trên nằm ở đầu bài thơ thể hiện cảm xúc ban đầu của nhà thơ trước
những tín hiệu báo thu sang.
2. Cảm nhận
a. Tín hiệu báo thu về
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
- Nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận về mùa thu bắt đầu bằng hương ổi. Hương vị ấy đơn sơ, mộc
mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương.
- Hình ảnh gió se là làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh đầu thu, còn được gọi là gió heo may.
Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao
xuyến. Mùi hương ổi kết hợp với gió se tạo nên một bức tranh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ.
- Động từ phả thể hiện mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, sánh lại, đậm đặc hoà
vào gió heo may của mùa thu lan toả khắp không gian ...
- Hình ảnh làn sương chùng chình: Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ láy chùng chình gợi ra
những màn sương nhỏ, mỏng, mềm mại, như “cố ý” chậm lại, thong thả giăng mắc nhẹ nhàng
đường thôn ngõ xóm làng quê. Cảnh thu hiện lên thơ mộng, bình yên, huyền ảo.
- Mùi hương ổi, một làn sương, chút gió se là những sự vật gần gũi làm nên những đường nét
riêng của bức tranh mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ.
b. Cảm xúc của thi nhân

18
- Phút nhận ra khoảnh khắc sang thu thật bất ngờ: Bỗng nhận ra. Từ Bỗng được reo lên trong
niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá. Thu về với đất trời
quê hương, với lòng người mà không hề báo trước.
- Bằng sự tinh tế của các giác quan, thi nhân đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa
thu về.
- Có hương ổi, có gió se và sương. Mùa thu đã về trên quê hương mà sao thi nhân vẫn còn
dè dặt:
Hình như thu đã về
- Hình như là một thành phần tình thái diễn đạt ý chưa thật rõ, chưa chắc chắn, có chút nghi
hoặc. Phút giây giao mùa nhìn thấy rồi, cảm thấy rồi mà sao nhà thơ vẫn bối rối Hình như. Vì sao?
Có thể vì tín hiệu mùa thu nhà thơ quan sát được mơ hồ quá? Hay chính tâm hồn thi sĩ chưa kịp sẵn
sàng để đón nhận sự đổi thay của tạo vật?
- Từ Hình như hài hòa, hô ứng với từ Bỗng ở đầu khổ thơ đã diễn tả cảm giác bối rối, mơ hồ,
bâng khuâng của thi nhân vào phút nhận ra khoảnh khắc thu sang.
- Bức tranh thu không phải chỉ cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa.
3. Đánh giá
- Khổ thơ viết bằng thể thơ năm chữ, có nhiều hình ảnh đẹp, trong sáng, gợi cảm. Giọng thơ
êm ái, chậm rãi và nhẹ nhàng.
- Đoạn thơ là những cảm nhận của thi nhân về sự biến đổi nhẹ nhàng mà rõ rệt của bức tranh
thu ở làng quê Bắc Bộ.

Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Cảm xúc của nhà thơ trước sự biến chuyển của cảnh vật, đất trời lúc sang thu.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hữu Thỉnh và bài thơ Sang thu.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Sang thu.
- Mạch cảm xúc thơ.
- Vị trí của khổ thơ trong bài: Khổ thơ thứ hai
2. Cảm nhận
a. Những chuyển động của cảnh vật lúc sang thu
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
- Hình ảnh của dòng sông được nhân hóa Sông dềnh dàng. Dòng sông êm đềm, thướt tha
mềm mại, hiền hòa trôi một cách nhàn hạ, thanh thản khác hẳn với dòng chảy cuồn cuộn, gấp gáp,
dữ dội trong những ngày mưa lũ mùa hạ, gợi nên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu.
Cái dềnh dàng của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn
mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải
nghiệm trong cuộc đời.
- Tương phản với hình ảnh Sông dềnh dàng là sự gấp gáp, vội vàng của những cánh chim bắt
đầu vội vã. Thu sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim chiều
bắt đầu vội vã tìm nơi trú ngụ. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại
gợi được cái động.
- Hình ảnh thơ chân thực, bình dị, hai câu thơ đối rất nhịp nhàng, kết hợp với từ láy dềnh
dàng, vội vã nhà thơ đã dựng lên hai hình ảnh đối lập nhau: sông dưới mặt đất và chim trên bầu trời:
sông dềnh dàng, chậm rãi; chim vội vã, lo lắng. Đó chính là sự khác biệt của vạn vật trên cao và
dưới thấp lúc giao mùa - thời điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật. Cả hai câu thơ là đặc trưng
19
cho mùa thu ở vào lúc khởi đầu. Song nó không phẳng lặng, trôi xuôi êm đềm như cái nhìn trước
đây của những bậc tao nhân mặc khách. Đó là cái nhìn vừa đặc trưng vừa hiện đại.
b. Hình ảnh bầu trời mùa thu
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
- Nhà thơ cảm nhận thấy đám mây cũng như có sự phân chia cái ranh giới vô cùng mong
manh trên bầu trời Vắt nửa mình sang thu.
- Động từ Vắt để gợi ra trong thời điểm giao mùa, đám mây như kéo dài ra, nhẹ trôi như tấm
lụa mềm treo lơ lửng giữa bầu trời trong xanh, cao rộng. Hình như đám mây đó vẫn còn lại một vài
tia nắng ấm của mùa hạ nên mới Vắt nửa mình sang thu. Đám mây vắt lên cái ranh giới mỏng manh
và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không còn nữa, để cả đám mây mùa hạ hoàn
toàn nhuốm màu sắc thu. Hình ảnh đám mây mùa hạ là hình ảnh đẹp gợi nhiều liên tưởng độc đáo.
Có lẽ, đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi, khám phá của Hữu Thỉnh vào khoảnh khắc giao
mùa. Nó như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.
- Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu
tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì
của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (cánh chim), chiều rộng (mây) và chiều
dài (dòng sông). Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên
nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.
3. Đánh giá
- Bằng những hình ảnh thơ bình dị, trong sáng, giàu sức gợi, giọng thơ nhẹ nhàng, trầm lắng,
dịu ngọt, khổ thơ thứ 2 đã gợi tả tinh tế vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên lúc sang thu .
- Sang thu của Hữu Thỉnh là một bài thơ hay, đặc sắc viết về đề tài mùa thu. Đó là mùa thu
của nông thôn làng cảnh Việt Nam mang đậm hồn quê hương xứ sở được tái hiện bởi một tâm hồn
nhạy cảm và tinh tế, tràn đầy tình yêu tha thiết với cảnh sắc của quê hương
6. NÓI VỚI CON
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Nhà thơ Y Phương, sinh năm 1948, tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, người dân tộc Tày, quê
ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại
Sở Văn hóa - Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao
bằng, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VI.
- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của
con người miền núi.
2. tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Nói với con được viết năm 1980, năm năm sau ngày giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là giai đoạn mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cả
nước nói chung và đồng bào miền núi nói riêng còn rất nhiều khó khăn, vất vả.
- Nội dung: Bao trùm lên toàn bộ bài thơ là tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con.
Đồng thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và niềm tự hào về người đồng mình.
- Nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, sử dụng cách nói của người miền núi giàu
hình ảnh, phóng khoáng, vừa cụ thể, vừa giàu sức khái quát, vừa mộc mạc nhưng lại giàu chất thơ.
Các phép tu từ như so sánh, điệp ngữ được tác giả sử dụng triệt để kết hợp với những câu thơ ngắn
dài khác nhau đã góp phần không nhỏ vào việc diễn tả cuộc sống, phong cách của người miền núi.
Giọng điệu bài thơ thiết tha trìu mến, bố cục bài thơ chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về đoạn thơ sau:
20
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng…
(Trích Nói với con, Y Phương, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 72)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình trong đoạn thơ sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc…
(Trích Nói với con, Y Phương, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 72)

Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Đoạn thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người: gia đình
và quê hương.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Y Phương, tác phẩm Nói với con.
+ Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong
sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
+ Nói với con là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi
truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc.
- Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn thơ trong mạch cảm xúc toàn bài.
+ Bài thơ Nói với con được viết năm 1980, năm năm sau ngày giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Bao trùm lên toàn bộ bài thơ là tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con. Đồng
thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và lòng tự hào về Người đồng mình.
+ Những dòng thơ đầu của bài thơ là những lời tâm tình của người cha với con về cảnh gia
đình đầm ấm, yên vui và tình cảm yêu thương, đùm bọc của quê hương dành cho con.
2. Cảm nhận
a. Người cha nói với con về tình cảm gia đình

21
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
- Ngay từ những câu thơ đầu tiên, là hình ảnh đầm ấm của một gia đình qua cách nói thật lạ:
Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ.
- Niềm hạnh phúc của cha mẹ là khi con cất tiếng chào đời, là được theo dõi từng bước đi
trong cuộc đời của con.
- Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ láy lại tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt:
Chân phải - Chân trái, tới cha - tới mẹ.
- Lối liên tưởng ngộ nghĩnh: Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười. Tiếng nói,
tiếng cười vốn vô hình nhưng lại được hữu hình hóa để trở thành “cọc tiêu” định vị cho đứa trẻ
“bước tới”.
- Cách viết Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười là một phép ẩn dụ để cụ thể
hóa âm thanh vô hình. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc tràn ngập của cha mẹ khi được nâng đỡ,
đón đợi những bước đi đầu tiên của con.
- Những hình ảnh ấm êm, những âm thanh sống động, vui tươi với tiếng nói, tiếng cười là
những biểu hiện của một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh thơ
chất chứa nhiều sự ngọt ngào của tình yêu thương mà cha mẹ dành cho con, là niềm khát khao hạnh
phúc của mỗi con người. Và đó sẽ là hành trang quý báu đối với cuộc đời, tâm hồn con.
b. Người cha nói với con về vẻ đẹp quê hương
- Quê hương với cuộc sống lao động, với thiên nhiên tươi đẹp, tình nghĩa đã nuôi dưỡng con
trưởng thành:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
+ Quê hương hiện ra qua hình ảnh của Người đồng mình. Nói với con về những người đồng
mình, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người
dân quê mình gần gũi, thân thương. Cách biểu cảm trực tiếp yêu lắm cùng hô ngữ con ơi đã khiến
lời thơ càng trở nên tha thiết, trìu mến thể hiện sâu sắc tình cảm yêu mến, trân trọng những con
người quê hương.
+ Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý: Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà
ken câu hát. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật
đẹp: Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành nan hoa. Vách
nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn, những tiếng khèn
lá, khèn môi...
+ Các động từ cài, ken vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt
của những con người quê hương trong cuộc sống lao động.
- Cái yêu lắm của người đồng mình là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui
sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết
bao?
- Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn, cũng là quê hương với thiên
nhiên thơ mộng, nghĩa tình:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
+ Y Phương chọn hình ảnh hoa để nói về cảnh quan của rừng, có sức gợi rất lớn về những gì
đẹp đẽ và tinh tuý nhất, đồng thời khẳng định: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên
tâm hồn cao đẹp của con người ở nơi đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân
thương nhất. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi

22
người, bởi Con đường cho những tấm lòng. Điệp ngữ cho mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã
che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.
+ Bằng cách nhân hoá Rừng và Con đường qua điệp ngữ cho, người đọc có thể nhận ra lối
sống tình nghĩa của Người đồng mình. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống êm
đềm. 
- Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin cậy của người cha trao
gửi tới con.
3. Đánh giá
- Thể thơ tự do với nhiều hình ảnh thơ đẹp, giản dị, cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của
người miền núi. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa… được sử dụng linh hoạt, có giá trị biểu cảm
cao.
- Người cha muốn nói với con rằng: Vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình, nghĩa tình
sâu nặng của quê hương làng bản là cái nôi đã nuôi dưỡng con khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng
của con mà con cần phải khắc ghi.

Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp của người đồng mình.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
+ Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong
sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
+ Nói với con là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi
truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc.
- Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn thơ trong mạch cảm xúc toàn bài
+ Bài thơ Nói với con được viết năm 1980, năm năm sau ngày giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Bao trùm lên toàn bộ bài thơ là tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con. Đồng
thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và lòng tự hào về Người đồng mình.
+ Những dòng thơ đầu của phần hai bài thơ là những lời tâm tình của người cha với con về vẻ
đẹp truyền thống của người đồng mình, của quê hương, bản làng mình.
2. Cảm nhận
a. Người đồng mình giàu ý chí và niềm tin
- Nhà thơ đã diễn tả ý chí và sức sống mạnh mẽ của con người quê hương bằng những hình
ảnh thơ chân thực, cụ thể giàu chất suy tư của người miền núi:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn.
+ Người đồng mình được hiểu là người dân tộc mình, miền mình, vùng mình, rộng ra là
những người cùng quê hương, đất nước. Đây là cách gọi thân thương của người Tày. Kết hợp với
các từ ngữ cảm thán thương lắm con ơi vừa thể hiện tình yêu thương, sự trân trọng của nhà thơ đối
với con người của quê hương, vừa tạo được giọng điệu thiết tha, trìu mến.
+ Nhà thơ đã lấy độ cao của núi để đo nỗi buồn, nỗi nhọc nhằn, sự từng trải của con người.
Hai câu thơ Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn thật hàm súc, được đặt trong thế đối xứng, hài hoà
đã gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm. Cuộc sống của người đồng mình là thế, gắn với cái cao của
núi, cái xa của những con đường, nên họ lấy thiên nhiên để đo đếm những sự trải nghiệm, những
vui buồn trong cuộc sống. Trải qua bao nỗi buồn, bao kinh nghiệm sống, người ta mới có thể trưởng
thành, vững vàng như núi và cũng phải đi xa, tìm đến những chân trời mới, người ta mới có cơ hội

23
hun đúc nuôi dưỡng ý chí, khát vọng lớn lao của mình.
b. Người đồng mình thủy chung, gắn bó với quê hương
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
- Những hình ảnh đá gập ghềnh, thung nghèo đói là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gian
lao, vất vả mà Người đồng mình đã phải gồng mình gánh chịu. Mặc dù Người đồng mình chịu
thương chịu khó, cần cù sáng tạo trong lao động nhưng cuộc đời vẫn chưa đủ đầy. Phải chăng do
đất bạc màu, sỏi đá khô cằn, thiên tai rình rập?
- Cho dù cuộc sống như vậy song người đồng mình vẫn không chê bai, không một lời than
thở. Họ là những con người biết chịu đựng và suốt đời gắn bó thủy chung với nơi chôn rau cắt rốn.
Họ vượt lên hoàn cảnh, sống mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực.
- Điệp từ không chê, không lo để nhấn mạnh lòng mong muốn và lời nhắc nhở của người cha
với con về lối sống thủy chung, nghĩa tình, biết chấp nhận và vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Không chê bai, không phản bội quê hương, biết chấp nhận hoàn cảnh, không bi quan, không than
vãn mà cần có nghị lực để vươn lên.
c. Người đồng mình yêu thiên nhiên, sống phóng khoáng, mạnh mẽ, bền bỉ:
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
- Cuộc sống dù có gian lao vất vả đến mấy, dù có lên thác, xuống ghềnh cũng phải bền lòng
vững chí, có nghị lực vươn lên sống như sông như suối. Biện pháp tu từ so sánh đã tô đậm thêm đức
tính cao đẹp của người miền núi.
- Núi cao, vực sâu, sông dài, thác hiểm... không chỉ là thước đo vật lí mà là thước đo của lòng
dũng cảm, sự kiên trì của người đồng mình. Đó là điều cần thiết cho mỗi con người khi bước chân vào
đường đời lắm chông gai.
- Nếu nhà thơ Tố Hữu đã viết về lẽ sống cho và nhận ở đời: Sống là cho đâu chỉ nhận riêng
mình hay nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương Sống trong đời sống
cần có một tấm lòng thì nhà thơ dân tộc Tày - Y Phương - qua cách nói mộc mạc mà sâu sắc ý tình
đã đem đến bài học: sống phải có ý chí, niềm tin. Lời thơ tuôn chảy như dòng sữa ngọt lịm, tràn vào
cái bể khổ của những kiếp nghèo Người đồng mình, của người miền núi. Chỉ có một tình yêu chân
tình, thấm thía, sâu sắc những ngọt bùi, đắng cay với Người đồng mình, Y Phương mới có thể nói
với con như vậy.
3. Đánh giá
- Thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang
nghiêm. Các hình ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ.
- Đoạn thơ là lời tâm sự chân thành của một người cha dành cho đứa con yêu quý, dạy con
hãy biết yêu thương, quý trọng và phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.

24
8. LÀNG
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có sáng tác đăng báo từ trước Cách mạng tháng Tám
1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt
làng quê và cảnh ngộ của người nông dân sau lũy tre làng.
Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm
- Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp nhiều khó khăn, gian
khổ; đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Văn bản truyện khi đưa vào sách giáo khoa
có lược bỏ phần đầu (Phần giới thiệu về hoàn cảnh phải rời làng đến nơi tản cư của ông Hai và cái
tính thích khoe làng của ông).
- Nội dung:
Ông Hai yêu làng và hay khoe về làng mình .Trước đây ông khoe làng mình giàu có, có cái
sinh phần to nhất vùng. Khi đã giác ngộ, ông khoe làng ông có tinh thần kháng chiến. Khi nghe tin
đồn làng ông theo Việt gian, ông vô cùng đau khổ, cổ họng nghẹn ắng lại tưởng như đến không thở
được. Ông không đi đâu, không gặp ai, chỉ sợ nghe đồn về làng ông theo giặc. Nỗi lòng buồn khổ
đó càng tăng lên khi có tin người ta không chứa người làng Chợ Dầu Việt gian. Ông không biết bày
tỏ với ai. Không dám đi ra ngoài. Ông Hai chỉ còn biết nói chuyện với thằng con út cho vơi nỗi
buồn, cho nhẹ bớt những đau khổ tinh thần. Tình yêu làng mãnh liệt gắn với tinh thần yêu nước,
nhiệt tình kháng chiến nên ông có quan điểm rõ ràng: Làng theo Tây thì phải thù. Ông dứt khoát
không chịu quay về làng, bởi quay về làng Việt gian tức là theo giặc, là từ bỏ kháng chiến, bỏ Cụ
Hồ, trở về thân phận nô lệ. Thế rồi khi nhận được tin cải chính, ông Hai như bắt được vàng. Ông đi
khắp nơi loan tin, say sưa kể chuyện rành rọt, tỉ mỉ những trận đánh của làng ông. Ông hoa tay lên,
khoe tin làng ông không phải Việt gian mà việc nhà ông bị đốt nhẵn là một bằng chứng hùng hồn.
- Nghệ thuật:
+ Tạo tình huống truyện gay cấn.
+ Miêu tả tâm lí nhân vật chân thực và sinh động qua suy nghĩ, hành động, qua lời nói (đối
thoại và độc thoại).
+ Ngôn ngữ truyện đặc sắc: mang đậm tính khẩu ngữ và là lời ăn tiếng nói của người nông
dân; lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu; ngôn ngữ nhân vật ông
Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại mang đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Viết bài văn trình bày cảm nhận về nhân vật ông Hai trong đoạn trích sau:
… Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng
ra lối huyện cũ. Ở đây, những tốp người tản cư mới ở dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố cả ở dưới mấy
gốc đa xù xì, cành lá rườm rà ken vào nhau, rải xuống mặt đường và bãi cỏ một vùng bóng mát
rộng. Ông lão ngồi vào một cái quán gần đấy. Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi
nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran
một góc đường. Dưới chân đồi những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời nắng, lấp
loáng như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dật dờ…
- Các ông, các bà ở đâu ta lên đấy ạ?
Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời:
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ! Đi bốn năm hôm mới lên đến đây, vất vả quá!
- Ở Gia Lâm lên ạ! Lúa má dưới ta thế nào, liệu có cấy được không bác?
- Chả cấy thì lấy gì mà ăn. Cấy tất ông ạ. Chân ruộng dưới chúng cháu còn tốt hơn trên này
nhiều.
25
- Thì vưỡn! Lúa dưới ta tốt nhiều chứ.
Ông lão rít một hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu: “Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ
cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để.”
- Này, bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không?
Một người đàn bà cho con bú mé bên kia nói xen vào:
- Nó rút ở Bắc Ninh về qua Chợ Dầu, nó khủng bố ông ạ!
Ông Hai quay phắt lại lắp bắp hỏi:
- Nó… Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
Người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh:
- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.
Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở
được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi:
- Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại…
- Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại. Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ. Tây
vào làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu thì khuân cả tủ chè, đỉnh
đồng, vải vóc lên xe cam-nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.
Có người hỏi:
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
- Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người
mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con
bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương.
Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
(Trích Làng, Kim Lân, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 164, 165, 166)

Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Nhân vật ông Hai một người nông dân có tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần cách mạng
sâu sắc.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về tác giả Kim Lân, tác phẩm Làng, nhân vật ông Hai.
- Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp nhiều khó khăn, gian khổ;
đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
- Ông Hai là một nông dân ở làng Chợ Dầu. Yêu làng nhưng ông Hai phải rời làng đi tản cư.
Ông luôn hào hứng khi nói về tất cả những gì liên quan đến làng Chợ Dầu. Vậy mà ở nơi tản cư,
ông lại được tin làng ông theo giặc, ông đau đớn, tủi hổ không dám nhìn mặt ai, cũng không dám
bước chân ra khỏi nhà mà chỉ tâm sự với đứa con nhỏ trong nhà về một niềm tin tuyệt đối vào cách
mạng và Bác Hồ. Sau đó, tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông Hai mừng rỡ, hân hoan đi
khắp nơi khoe về điều đó mặc dù nhà ông đã bị Tây đốt.
- Đoạn trích nằm ở phần đầu truyện kể về nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo
giặc. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để bộc lộ chiều sâu tâm lí, tình cảm của nhân
vật.
26
2. Cảm nhận
Ông Hai là một người nông dân yêu làng quê, yêu đất nước và có tinh thần cách mạng.
a. Trước hết, tình yêu làng quê, yêu đất nước và tinh thần cách mạng của nhân vật ông
Hai được thể hiện qua tâm trạng vui sướng, tự hào của ông khi nghe tin thắng lợi của quân và
dân ta ở phòng thông tin, ở tấm lòng của ông luôn hướng về làng Chợ Dầu yêu dấu.
- Khi nghe quân ta đánh thắng được một trận, giết được một tốp quân địch, thu được một vài
khẩu súng,...thì ông Hai vô cùng vui sướng. Niềm hạnh phúc đó thể hiện bằng những cử chỉ, hành
động rất đời thường của ông: Hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép
cái miệng ngẫm nghĩ, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
- Khi người ta vui thì mọi vật xung quanh cũng trở nên đáng yêu, với ông Hai cũng vậy,
những âm thanh hỗn độn của Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của
cánh đi phá đường trở thành những tiếng râm ran, náo nức. Cảnh vật của nơi tản cư cũng trở nên
đẹp hơn, thơ mộng hơn: Dưới chân đồi, những thửa ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới trời
nắng, lấp loáng như một khúc sông.
- Tin tức thắng lợi của quân ta khiến cho tinh thần ông Hai phấn chấn hẳn lên: Ông lão rít một
hơi thuốc lào nữa, gật gù cái đầu rồi nhận định đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư
cứ tản cư… Hay đáo để.
- Đặc biệt, tấm lòng của ông luôn hướng về làng Chợ Dầu yêu dấu.
+ Khi một người đàn bà tản cư nói xen vào: - Nó rút ở Bắc Ninh về qua Chợ Dầu, nó khủng
bố ông ạ! Mới nghe đến tên làng Chợ Dầu thôi, ông lão đã xúc động lắm và quay lại lắp bắp hỏi.
Có thể nói, trong tâm trí ông Hai, không lúc nào nguôi nhớ, thôi yêu, thôi tin tưởng đến mức tuyệt
đối ngôi làng kháng chiến. Bởi thế, ông lão choáng váng khi nghe tin giặc về qua làng Chợ Dầu:
Nó…Nó vào làng Chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
- Bằng những hình ảnh miêu tả chân thực, giản dị, đời thường về cuộc sống của ông Hai và
những con người nơi tản cư, ta thấy tình yêu Tổ quốc, yêu làng luôn cháy bỏng trong lòng ông. Ở
nơi tản cư, nhưng ông vẫn thường xuyên theo dõi tình hình kháng chiến, đặc biệt là tình hình ở làng
Chợ Dầu quê ông.
b. Tình yêu Tổ quốc, yêu làng quê tha thiết, sâu nặng của nhân vật ông Hai được thể
hiện rõ qua tâm trạng sững sờ bàng hoàng, tủi hổ của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo
giặc.
- Khi nghe tin dữ quá đột ngột, ông Hai sững sờ, bàng hoàng: Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,
da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được
- Tin đồn ấy là mất danh dự, danh dự công dân, danh dự trước Tổ quốc … Nhà văn Kim Lân
đã khẳng định người nông dân có thể ngàn đời thiếu cơm, rách áo nhưng không thể mất danh dự. Ở
họ, tinh thần tự trọng, sự trong sạch luôn được giữ gìn. Đây chính là cơ sở của tình yêu đất nước.
- Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư
đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ vừa ở dưới ấy lên làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về
làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay
lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng
ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa. 
- Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám
ảnh, day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng
chửi bọn Việt gian, ông cúi gằm mặt mà đi…Chi tiết diễn tả nỗi nhục nhã nỗi đau đớn xót xa của
nhân vật.
- Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái: Cha mẹ tiên sư nhà
chúng nó. Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì
cứ cho mỗi đứa một nhát!
- Tất cả đã góp phần thể hiện nỗi đau và tâm trạng ông Hai bị ám ảnh, day dứt với mặc cảm
là kẻ bán nước. Mọi diễn biến tâm lí vui, buồn, đau khổ... của ông Hai cũng chính là biểu hiện của
tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến sâu sắc, cảm động trong trái tim ông.

27
3. Đánh giá
- Nhà văn Kim Lân đã tạo dựng một tình huống thử thách tâm lí nhân vật rất đặc sắc, qua đó, tính
cách, phẩm chất của nhân vật được khắc họa nổi bật.
- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, gần gũi, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo; ngôn ngữ mang
đậm tính khẩu ngữ, gần gũi với đời sống, thể hiện tâm hồn bình dị của người nông dân buổi đầu
kháng chiến: yêu làng tha thiết và một lòng theo kháng chiến.
- Đoạn trích đã cho ta thấy sự chuyển biến trong nhận thức của người nông dân Việt Nam:
tình yêu làng và tình yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của nhân vật ông
Hai. Hai tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện nhưng tình yêu nước đặt cao hơn, lớn rộng hơn, bao
trùm lên tình yêu làng quê.

LẶNG LẼ SA PA
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Nguyễn Thành Long (1925 - 1991) quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam. Ông viết văn từ thời
kháng chiến chống Pháp, tham gia hoạt động văn nghệ ở Nam Trung Bộ. Sau 1954, ông tập kết ra
Bắc, tiếp tục sáng tác và công tác ở các báo, nhà xuất bản và cơ quan Hội nhà văn.
Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí với phong cách viết điềm đạm,
sâu sắc, tinh tế và lịch lãm. Sáng tác của ông vì thế mà nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất kí và
giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình. Tác phẩm của ông thường viết về công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 60-70 thế kỉ XX, những người trí thức, vẻ đẹp của thiên nhiên,
đất nước.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh ra đời: Lặng lẽ Sa Pa được sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác
giả ở Lào Cai. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu với đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc. Tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa được in trong tập Giữa trong xanh (1972).
Văn bản được đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn.
- Nội dung:
+ Cốt truyện: Tác phẩm kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư nông nghiệp
Hà Nội với anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn tại Sa
Pa. Câu chuyện kể về công việc và cuộc sống một mình trên đỉnh núi chỉ có cây cỏ và mây mù của
người thanh niên đã khiến người họa sĩ già và cô gái vô cùng xúc động, cảm phục. Ông họa sĩ vừa
nghe anh nói vừa phác họa chân dung của anh. Cô gái khi chia tay đã cố tình để quên chiếc khăn
mùi soa như một vật ghi nhớ buổi gặp gỡ đầy ý nghĩa.
- Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật (tạo nền cảnh gợi trí tò mò cho độc giả trước khi nhân vật
chính xuất hiện; dùng nhân vật phụ để tôn vẻ đẹp của nhân vật chính và chủ đề tác phẩm; các nhân
vật không có tên cụ thể mà chỉ gọi theo tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính …)
+ Cách xây dựng tình huống truyện khá thú vị, bất ngờ, tự nhiên và hấp dẫn; chọn điểm nhìn
trần thuật từ nhân vật ông họa sĩ để dễ dàng quan sát, miêu tả các nhân vật khác và bộc lộ những
nhận xét, suy nghĩ qua độc thoại nội tâm. 
+ Nghệ thuật miêu tả giàu chất họa và chất thơ (chất họa thể hiện ở những bức tranh phong
cảnh điểm xuyết ở phần đầu và cuối tác phẩm; chất thơ thể hiện ở cảnh vật, tâm hồn, tình cảm của
các nhân vật, tình cảm với công việc và mọi người xung quanh…)
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích sau:
- Thôi, chấm dứt tiết mục hái hoa - Người con trai bất chợt quyết định - Bác lái xe chỉ cho ba
mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút,
28
mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm.
Công việc của cháu cũng quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn này thôi. Những cái máy vườn
trạm khí tượng nào cũng có. Dãy núi này có một ảnh hưởng quyết định tới gió mùa đông bắc đối
với miền Bắc nước ta. Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động
mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Đây là
máy móc của cháu. Cái thùng đo mưa này, ở đâu bác cũng trông thấy, mưa xong đổ nước ra cái
cốc li phân mà đo. Cái này là máy nhật quang kí, ánh nắng mặt trời xuyên qua cái kính này, đốt các
mảnh giấy này, cứ theo mức độ, hình dáng vết cháy mà định nắng. Đây là máy Vin, nhìn khoảng
cách giữa các răng cưa mà đoán gió. Ban đêm không nhìn máy, cháu nhìn gió lay lá hay nhìn trời,
thấy sao nào khuất, sao nào sáng, có thể nói được mây, tính được gió. Cái máy nằm dưới sâu kia là
máy đo chấn động vỏ quả đất. Cháu lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng máy bộ đàm
bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”. Công
việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác
ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa
tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn
ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc
đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi lớn muốn quét
đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc,
trở vào, không thể nào ngủ lại được.
Anh thanh niên đang nói, dừng lại. Và tại sao họa sĩ cảm giác mình bối rối? Vì nhác thấy
người con gái nhỏ nhẻ, e lệ, đứng giữa các luống dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa
trong tay, lắng tai nghe? Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét
thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi
dài.
(Trích Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam,
2015, trang 183,184)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên được thể hiện trong
đoạn trích sau:
Anh thanh niên bật cười khanh khách:
- Các từ ấy đều là của bác lái xe. Không, không đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên trạm
đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Làm khí
tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.
Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều:
- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu
cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa.
Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn
liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó
đi, cháu buồn đến chết mất. Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở
đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi, về Lai Châu cứ đến
đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng
tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô hội thì xoàng.
Cháu ở liền trong trạm hàng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu gan lì nhất
định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói: “Đấy, bác
cũng chẳng “thèm” người là gì?”.
(Trích Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, trang 184,185)

Đề 1

29
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên - một người có lòng yêu nghề sâu sắc, sống cởi mở,
chân thành.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thành Long và tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa.
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tình huống truyện: Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được xây dựng xoay quanh một tình huống
truyện khá đơn giản mà tự nhiên: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các nhân vật trên đỉnh núi Yên Sơn cao
2.600 m .
- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần trung tâm truyện, sau một đoạn miêu tả vẻ đẹp của
thiên nhiên Sa Pa, sau phần giới thiệu của nhân vật bác lái xe, đoạn trích kểvề phần đầu cuộc gặp gỡ
giữa các vị khách với nhân vật chính.
2. Cảm nhận
a. Anh thanh niên là một người có tình yêu nghề sâu sắc
- Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sống và làm việc của anh thanh niên.
- Tình yêu nghề sâu sắc của anh thanh niên:
+ Anh yêu công việc của mình, anh chủ động kể về nó một cách say sưa và tự hào khi có ông
họa sĩ và cô kĩ sư đến thăm nơi anh ở và làm việc: Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo
nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu. Đây là máy móc của cháu…
+ Ý thức được tầm quan trọng của công việc mình làm là phục vụ sản xuất, phục vụ chiến
đấu.
+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát, thúc giục, anh vẫn luôn tự giác,
tận tụy. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp” đúng giờ: Cháu lấy những con số, mỗi ngày báo về
“nhà” bằng máy bộ đàm bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong
ngành gọi là “ốp”. Phải ghi và báo về nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc một
giờ sáng, anh vẫn không ngần ngại...
+ Anh thuyết phục được người nghe vì không những anh giỏi nghề và thạo việc mà anh còn
biết và chủ động khắc phục khó khăn, chiến thắng bản thân, chiến thắng nỗi cô đơn, mệt mỏi, tính
chất đơn điệu của công việc và cả sự căng thẳng, sợ hãi: Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một
giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực
như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được.
+ Vì yêu nghề nên anh có tinh thần trách nhiệm với công việc, luôn nỗ lực khắc phục khó
khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
b. Anh thanh niên là một người sống cởi mở, chân thành
- Sống trong hoàn cảnh như thế, nhiều người có thể dần dần thu mình lại trong nỗi cô đơn, sầu
muộn, hoặc có thể trở nên cỗi cằn, giá lạnh.
- Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi thèm người, thèm nghe chuyện dưới xuôi.
Anh quý trọng từng giây để được trò chuyện với khách: Bác lái xe chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết
năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào
nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện...
- Kể về mình, anh không hề giấu giếm những phút yếu lòng trước hoàn cảnh sống và làm việc
nhiều khó khăn, thử thách; những khi ngần ngại trước điều kiện thời tiết hay sự thách thức quá sức
chịu đựng của công việc và anh cũng không giấu nỗi “thèm người”.

30
3. Đánh giá
- Thành công về nghệ thuật của nhà văn khi xây dựng nhân vật anh thanh niên:
+ Tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, truyền cảm, thuyết phục.
+ Nhân vật anh thanh niên xuất hiện qua lời kể của bác lái xe, lời tự giới thiệu về mình, qua
suy nghĩ của ông họa sĩ, cô kĩ sư.
+ Ngôn ngữ nhân vật: đối thoại - thể hiện tính cách nhân vật, độc thoại - thể hiện suy nghĩ,
cảm xúc.
- Về nội dung: Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân
dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Liên hệ mở rộng: Có thể liên hệ tới quan điểm sống đẹp trong một số bài thơ như: Mùa
xuân nho nhỏ của Thanh Hải, Một khúc ca xuân của Tố Hữu,...
Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên - một người yêu nghề, có lí tưởng sống cao đẹp; cởi mở,
chân thành và yêu con người, yêu cuộc sống...
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thành Long và tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa.
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tình huống truyện: Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được xây dựng xoay quanh một tình huống
truyện khá đơn giản mà tự nhiên.
- Vị trí đoạn trích: Sau khi đón khách lên thăm nhà mình và cắt hoa tặng cô gái, anh cùng
khách vào nhà uống trà và trò chuyện. Đoạn trích trên nằm ở giữa văn bản, kể lại sự việc anh thanh
niên chia sẻ với khách những suy nghĩ của mình về công việc và cuộc sống.
2. Cảm nhận
a. Anh thanh niên là một người yêu nghề và có lí tưởng sống cao đẹp
- Giới thiệu vài nét về hoàn cảnh sống và công việc của anh thanh niên.
- Lòng yêu nghề của anh thanh niên:
+ Công việc gian khổ là thế nhưng anh đã có suy nghĩ rất sâu sắc. Cùng lắng nghe lời tâm sự
của anh với ông họa sĩ: Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi
sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không nghĩ
như vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Qua lời bộc
bạch chân thành ấy, ta thấy được sự chuyển biến, trưởng thành trong nhận thức của anh về sự lẻ loi
trước và sau khi vào nghề. Gắn bó với công việc, anh không còn là ngôi sao lẻ loi một mình nữa bởi
với anh công việc là người bạn. Khi con người làm việc bằng tất cả sự say mê, thì công việc trở
thành bè bạn. Anh đã tâm sự rất thật: Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu
buồn đến chết mất. Chính lòng yêu nghề tha thiết, sâu sắc đã giúp anh làm việc hiệu quả.
- Lí tưởng sống cao đẹp của anh:
+ Anh thanh niên còn có nhận thức sâu sắc về ý nghĩa công việc mình làm. Anh đã tâm sự:
Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Hơn ai hết, anh hiểu
được công việc của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó góp phần phục vụ sản xuất, chiến đấu
và là mắt xích quan trọng trong chuỗi công việc chung. Nếu thiếu một lượng thông tin từ cái đài
quan sát của anh, biết đâu rằng việc dự báo thời tiết cho cả một huyện, một tỉnh, một vùng sẽ bị ảnh
hưởng? Vì vậy anh đã làm việc hết mình với một thái độ nghiêm túc, cần mẫn, tận tụy và một tinh
thần trách nhiệm cao. Với anh, công việc đã trở thành niềm vui, là lẽ sống, là cái đích để anh vươn
tới.
+ Anh có những suy nghĩ đúng đắn về con người và cuộc sống: Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở

31
đâu, mình vì ai mà làm việc? Đây là câu nói thể hiện rõ ràng mục đích sống và lí tưởng sống của
anh thanh niên. Sống trên đời, mỗi người cần xác định rõ mục tiêu để có thể sống và cống hiến hết
mình. Nhận thức đó cho thấy anh thanh niên trẻ tuổi nhưng không hời hợt. Anh sống một mình
nhưng không cô đơn vì lúc nào trong tư tưởng của anh mục đích sống, lẽ sống vẫn luôn luôn tồn tại
và nhắc nhở. Đó là một lí tưởng sống đẹp của thế hệ thanh niên trong thời kì đầu miền Bắc đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Anh thanh niên là người cởi mở, chân thành, yêu con người và cuộc sống
- Sống trong cảnh cô đơn, anh luôn khao khát được gặp gỡ, tiếp xúc, trò chuyện với mọi
người. Mỗi khi có khách đến chơi anh đón tiếp nồng nhiệt, cởi mở, chân tình.
- Mặc dù là lần gặp đầu tiên nhưng anh đã không ngần ngại bày tỏ những suy nghĩ rất thực,
rất chân thành của mình với ông họa sĩ. Chính sự cởi mở, gần gũi của anh đã khiến mọi người thực
sự cảm mến.
- Những lời tâm sự của anh còn thể hiện tình yêu con người, yêu cuộc sống của một chàng trai
giàu nghị lực và có lí tưởng sống cao đẹp. Lắng nghe lời tâm sự của anh về nỗi “thèm người”, ta lại
càng trân trọng và khâm phục anh: Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì,
mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc (...) Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật
ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng. Với anh nỗi “thèm người”, nhớ người là
xuất phát từ nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống, là
nhu cầu giao tiếp, là sự giao lưu, gắn bó với mọi người. Nỗi “thèm người” ở anh không phải là sự
thèm khát cuộc sống xa hoa, hào nhoáng nơi đô hội, chốn phồn hoa mà thực chất là khao khát được
giao lưu, giao tiếp, hòa nhập với mọi người, được sống và làm việc vì mọi người.
c. Anh thanh niên còn là một người rất khiêm tốn.
- Khiêm tốn, giản dị, anh cảm thấy những đóng góp của anh với cuộc đời chỉ là bình thường
và nhỏ bé so với bao nhiêu người khác... Anh thành thực chia sẻ với ông họa sĩ rằng: Một mình thì
anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn
cháu.
3. Đánh giá
- Thành công về nghệ thuật của nhà văn khi xây dựng nhân vật anh thanh niên:
+ Tình huống truyện hợp lí, cách kể chuyện tự nhiên, truyền cảm, thuyết phục.
+ Vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên được bộc lộ qua lời tự giới thiệu về mình.
+ Ngôn ngữ nhân vật: đối thoại - thể hiện tính cách nhân vật, độc thoại - thể hiện suy nghĩ,
cảm xúc.
- Về nội dung: Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên là vẻ đẹp của những con người trên mảnh
đất Sa Pa đang ngày đêm âm thầm lặng lẽ hiến dâng tuổi trẻ, tình yêu cho đất nước như anh thanh
niên trên đỉnh núi Phan-xi-păng, người cán bộ nghiên cứu sét… Đó cũng chính là vẻ đẹp tiêu biểu
của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm đầu miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

32
10.. CHIẾC LƯỢC NGÀ
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng
chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Sau năm 1954, tập
kết ra Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ
tham gia cuộc kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của ông có nhiều thể loại:
truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ
trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966 trong thời kì cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Khi đó, tác giả hoạt động ở chiến trường Nam
Bộ.
- Xuất xứ: Truyện Chiếc lược ngà được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Văn bản trong
Sách giáo khoa là đoạn trích phần giữa của truyện.
- Nội dung: Truyện ngắn Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm
thiết sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh; tình đồng chí của những
người cán bộ cách mạng. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như
một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. Phần văn bản trích
học chủ yếu tập trung khắc họa và ngợi ca tình cha con sâu nặng của hai nhân vật: ông Sáu và bé
Thu.
- Nghệ thuật:
Nguyễn Quang Sáng đã thực sự thành công trong việc xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn
tình huống bất ngờ, mà tự nhiên, hợp lí; miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, nhất là
đối với nhân vật bé Thu.
Ngoài ra tác giả cũng rất dụng công trong việc lựa chọn ngôi kể và ngôn ngữ lời thoại (cả đối
thoại và độc thoại) cho nhân vật người kể chuyện. Trong vai của một người kể chuyện (đại từ nhân
xưng ngôi thứ nhất) đã chứng kiến và kể lại toàn bộ diễn biến của câu chuyện với những tình
huống, cảnh ngộ thật éo le. Chính ngôi kể này đã góp phần làm cho câu chuyện đảm bảo tính khách
quan, chân thực, đáng tin cậy. Đồng thời người kể cũng hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể và
dẫn dắt nội dung diễn biến câu chuyện theo dòng cảm xúc của mình; chủ động xen vào những ý
kiến bình luận, nhận xét về hoàn cảnh, về thái độ hành động của các nhân vật để định hướng tình
cảm và nhận thức cho người đọc, người nghe… Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc ấy đã tạo nên sức
thuyết phục, hấp dẫn, khắc sâu tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về nhân vật bé Thu được thể hiện trong đoạn trích sau:
Vì đường xa, chúng tôi chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, con bé
không kịp nhận ra anh là cha… Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng
càng vỗ về con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé
chẳng bao giờ chịu gọi. Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:
- Thì má cứ kêu đi.
Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:
- Vô ăn cơm!
Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”. Con bé cứ đứng trong
bếp nói vọng ra:
- Cơm chín rồi!
Anh cũng không quay lại. Con bé bực quá, quay lại mẹ và bảo:

33
- Con kêu rồi mà người ta không nghe.
Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc
được nên anh phải cười vậy thôi. Bữa sau, đang nấu cơm thì mẹ nó chạy đi mua thức ăn. Mẹ nó
dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó không nói không rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi
cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua - nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhắc xuống để chắt nước
được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó
phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên:
- Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! - Nó cũng lại nói trổng.
Tôi lên tiếng mở đường cho nó:
- Cháu phải gọi "Ba chắt nước giùm con", phải nói như vậy.
Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên:
- Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!
Anh Sáu cứ vẫn ngồi im. Tôi dọa nó:
- Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cũng bị đòn. Sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một
tiếng "ba" không được sao?
Lúc đó nồi cơm sôi lên sùng sục. Nó hơi sợ, nó nhìn xuống, vẻ nghĩ ngợi, nhắc không nổi, nó
lại nhìn lên. Tiếng cơm sôi như thúc giục nó. Nó nhăn nhó muốn khóc. Nó nhìn nồi cơm, rồi nhìn
lên chúng tôi. Thấy nó luýnh quýnh tôi vừa tội nghiệp vừa buồn cười, nghĩ chắc thế nào nó cũng
chịu thua. Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lẩm bẩm điều gì không
rõ. Con bé đáo để thật.
Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó. Nó liền lấy đũa xoi
vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp
suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên:
- Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?
Tôi tưởng con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng
không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén,
rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho
dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Nó sang qua nhà ngoại, mét với
ngoại và khóc ở bên ấy...
(Trích Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập I,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 196, 197)
Đề 2
Viết bài văn trình bày cảm nhận về nhân vật bé Thu được thể hiện trong đoạn trích sau:
Đến lúc chia tay, mang ba lô trên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu mới đưa mắt
nhìn con, thấy nó đứng trong góc nhà.
Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy,
nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Tôi thấy đôi mắt mênh
mông của con bé bỗng xôn xao.
- Thôi! Ba đi nghe con! - Anh Sáu khe khẽ nói.
Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng,
đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng
kêu thét lên:
- Ba... a... a... ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.
Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng
nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt
lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên.
Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:
- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!
34
Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài
bên má của ba nó nữa.
Trong lúc đó, ngoại nó cho tôi biết, đêm qua, bà đã tìm hiểu được vì sao nó không chịu nhận
ba nó.[…] Té ra nó không nhận ba nó vì là cái vết thẹo, và bà cho nó biết, ba nó đi đánh Tây bị Tây
bắn bị thương - bà nhắc lại tội ác mấy thằng Tây ở đồn đầu vàm cho nó nhớ. Nghe bà kể nó nằm
im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Sáng hôm sau, nó lại bảo ngoại đưa nó về.
Nó vừa nhận ra thì ba nó đã đến lúc phải đi rồi.
Trong lúc đó, nó vẫn ôm chặt lấy ba nó. Không ghìm được xúc động và không muốn cho con
thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con:
- Ba đi rồi ba về với con.
- Không! - Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được
ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó
thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ, muốn bảo anh ở lại vài hôm.
Nhưng thật khó, chúng tôi chưa biết mình sẽ đi tập kết hay ở lại. Chúng tôi cần về đúng ngày nhận
lệnh để kịp chuẩn bị. Thế là đã đến lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm lại vỗ về nó, mẹ nó bảo:
- Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về.
Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ:
- Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược.
Con bé lại ôm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo:
- Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba! - Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ
tuột xuống.
(Trích Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 198, 199)
Đề 3
[…] Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó - buổi chiều sau một ngày mưa rừng, giọt mưa còn
đọng trên lá, rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới tấm ni lông nóc, tôi bỗng nghe tiếng
kêu. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên
khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà.
Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc
ngà thành từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố
công như người thợ bạc. Chẳng hiểu sao tôi thích ngồi nhìn anh làm và cảm thấy vui vui khi thấy
bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Một ngày, anh cưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược
được hoàn thành. Cây lược dài độ hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi, cây lược cho con gái,
cây lược dùng để chải mái tóc dài, cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sống lưng lược có
khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của
ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm
trạng của anh. Những đêm nhớ con, anh ít nhớ đến nỗi hối hận đánh con, nhớ con, anh lấy cây lược
ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong
gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không may xảy ra. Một ngày cuối năm năm mươi tám - năm đó
ta chưa võ trang - trong một trận càn lớn của quân Mĩ - ngụy, anh Sáu bị hi sinh. Anh bị viên đạn
của máy bay Mĩ bắn vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì,
hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi
và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ,
thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.
- Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu.
Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi.
(Trích Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập 1,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 199, 200)
Viết bài văn trình bày cảm nhận về nhân vật ông Sáu được thể hiện trong đoạn trích trên.
35
Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Bé Thu, một cô bé có cá tính mạnh mẽ và một tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Quang Sáng, tác phẩm Chiếc lược ngà.
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tình huống truyện.
- Vị trí đoạn trích.
2. Cảm nhận
a. Bé Thu, một em bé có cá tính mạnh mẽ, dứt khoát, rạch ròi
- Cự tuyệt dứt khoát trước những tình cảm, sự quan tâm của ông Sáu trong những ngày ông
Sáu nghỉ phép về thăm nhà:
+ Suốt ba ngày nghỉ phép ở nhà, ông Sáu càng gần gũi quan tâm con gái bao nhiêu thì Thu
lại càng tìm cách lẩn tránh và xa cách ông bấy nhiêu, thậm chí em lạnh lùng, ương bướng khi
ông Sáu càng vỗ về thì em càng đẩy ra.
+ Khi mẹ nhắc bé Thu mời ba vào ăn cơm thì con bé trả lời Thì má cứ kêu đi, khi bị mẹ dọa
đánh thì nó lại nói trổng: Vô ăn cơm, Con kêu rồi mà người ta không nghe… Thu coi ông Sáu là
người xa lạ, là “người ta”, tìm mọi cách lảng tránh.
+ Đang nấu cơm thì má chạy đi mua thức ăn và dặn con gái: ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp
cho. Đây thực sự là một công việc khó khăn, một thử thách với một em bé chín tuổi. Nồi cơm to,
sôi, nước nhiều, cần phải chắt bớt nước. Tình thế khó khăn và cần người giúp, bé Thu bất đắc dĩ
phải nhờ ông Sáu nhưng vẫn cương quyết không gọi một tiếng “ba” mà chỉ nói trổng: Cơm sôi rồi,
chắt nước giùm cái!, Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!...
+ Bị dồn vào thế bí, khi nồi cơm sôi lên sùng sục, tiếng cơm sôi như thúc giục, bé Thu cương
quyết giữ ý mình, bình tĩnh tìm cách tháo gỡ khó khăn: Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra
từng vá nước, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ.
+ Chứng kiến sự kiên quyết một cách đầy nỗ lực của con bé, bác Ba phải thốt lên: Con bé đáo
để thật.
- Kiên quyết chối bỏ sự quan tâm của ông Sáu trong bữa ăn.
+ Trong bữa cơm, ông Sáu đã gắp miếng trứng cá to để vào bát cho bé Thu, thế nhưng Nó liền
lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm.
+ Khi bị ông Sáu đánh mắng, bé Thu chỉ im lặng, sau đó Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại
cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, nó nhảy xuống
xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Thu
từ chối và cự tuyệt tình cảm của ông Sáu không chỉ bằng thái độ, cử chỉ, hành động, lời nói mà
bằng cả việc không bày tỏ sự giận hờn, không thổ lộ cảm xúc.
- Tất cả mọi cử chỉ, thái độ, hành động, phản ứng của bé Thu cho thấy Thu là một cô bé có cá
tính mạnh mẽ, dứt khoát, rạch ròi.
b. Bé Thu, một em bé có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt
- Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Vì em còn quá nhỏ, em
không hiểu hết được sự éo le của cuộc sống và người lớn cũng chưa kịp chuẩn bị gì cho em trước
cuộc gặp gỡ có nhiều bất ngờ này.
- Những ngày ông Sáu về thăm nhà, bé Thu luôn lạnh lùng, cố né tránh sự quan tâm, chăm
sóc, vỗ về của ông, thậm chí ương ngạnh, bướng bỉnh, vô lễ đối với người cha của mình. Cuộc
giằng co, tranh đấu suốt mấy ngày của bé Thu về hình ảnh ông Sáu ngoài đời không giống với

36
người cha trong tấm ảnh chính là do vết thẹo dài trên má của ông Sáu. Và đối với em, người cha mà
em tôn thờ, kính yêu là người cha trong tấm hình. Sự kiên định trong suy nghĩ ấy cũng chính là
bằng chứng về lòng trung thành và tình yêu son sắt mà Thu dành cho ba Sáu của em.
- Yêu cha hết mực nên hình ảnh người cha dù mới chỉ nhìn qua tấm ảnh nhỏ cũng đủ in sâu
trong tâm trí em để rồi trong buổi sáng hôm ấy, khi gặp lại người đàn ông lạ thì em đã kiên quyết từ
chối.
- Yêu cha hết mực nên dù thiếu thốn và khao khát tình cha, em vẫn cự tuyệt mọi dỗ dành, vỗ
về, chiều thương của ông Sáu và kiên quyết không nhận ông Sáu - người đàn ông lạ là ba của em.
- Mọi suy nghĩ, hành động của bé Thu trong những ngày ông Sáu về thăm nhà chính là
bằng chứng của một tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt.
3. Đánh giá
- Truyện có tình huống bất ngờ, đặc sắc. Xây dựng thành công nhân vật bé Thu qua ngôn ngữ,
lời nói và hành động. Miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, chân thực, tinh tế. Lối kể chuyện tự nhiên,
giàu cảm xúc. Lựa chọn ngôi kể phù hợp; ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ.
- Đoạn trích khắc họa thành công nhân vật bé Thu với cá tính mạnh mẽ, dứt khoát, rạch ròi.
Đặc biệt là tình cảm yêu quý, kính trọng mà em dành cho cha vô cùng sâu sắc, mãnh liệt.

Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Nhân vật bé Thu - một cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Quang Sáng, tác phẩm Chiếc lược ngà.
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tình huống truyện.
- Vị trí đoạn trích.
2. Cảm nhận
Bé Thu, một cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt:
a. Trước giờ phút ông Sáu lên đường trở về khu căn cứ
- Thái độ và cử chỉ của bé Thu với ông Sáu đã thay đổi hoàn toàn. Khi ông Sáu nhìn bé
Thu với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu thì bác Ba quan sát thấy đôi mắt mênh mông của con bé
bỗng xôn xao. Ẩn trong đôi mắt mênh mông ấy chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ, tình cảm.
- Thu nhận ra ba và nỗi niềm yêu thương trào dâng vỡ òa. Tình yêu cha bị kìm nén bao năm
được bộc lộ bằng chuỗi những cử chỉ, hành động:
+ Nó bỗng kêu thét lên: Ba... a... a... ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả
ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay,
tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó. Lời kể chuyện kết hợp với lời bình luận thể hiện khao
khát mãnh liệt của bé Thu được gọi ba từ bao lâu nay, tiếng kêu chứa đựng bao yêu thương khiến
người đọc xúc động… Tiếng “ba” thấm đẫm nước mắt và cảm xúc.
+ Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm
chặt lấy cổ ba nó… Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên
má của ba nó nữa. Tình phụ tử sâu sắc, cảm động được bộc lộ qua những cử chỉ, hành động vội vã,
cuống quýt. Hành động hôn cả vết thẹo dài vừa thể hiện tình yêu thương, vừa đan xen nỗi ân hận, tự
hào về một người cha anh hùng.
+ Sau bao mong đợi, Thu mới được cảm nhận hơi ấm của tình phụ tử. Có lẽ vì vậy nên cô bé
quyết giữ cha bằng mọi giá, không chỉ bằng lời nói: Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!
mà còn qua hành động, cử chỉ hai tay nó siết chặt lấy cổ, …dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó,

37
và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
b. Khi chia tay ba
- Phút yếu đuối qua đi, con người trở về với thực tại. Tình yêu thương của bà ngoại, của ba
má và có lẽ cả sự hiểu biết về trách nhiệm của mỗi công dân với Tổ quốc khi đất nước lâm nguy đã
giúp bé Thu can đảm chấp nhận cuộc chia li.
- Thu chia tay ba với lời hẹn: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba! Nó nói trong
tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống. Em không chỉ trao cho ba một tiếng gọi, một niềm tin, em
còn trao cho người ra đi cả sức mạnh vượt qua mọi xa cách, sức mạnh trở về.
3. Đánh giá
- Truyện có tình huống bất ngờ, đặc sắc. Xây dựng thành công nhân vật bé Thu qua ngôn ngữ,
lời nói và hành động. Miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, chân thực, tinh tế. Lối kể chuyện tự nhiên,
giàu cảm xúc. Lựa chọn ngôi kể phù hợp; ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ.
- Nhân vật bé Thu để lại ấn tượng trong lòng người đọc về tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh
liệt trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

Đề 3
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu: Một người cha yêu thương con tha thiết, sâu nặng; một người
chiến sĩ cách mạng dũng cảm, kiên trung.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Quang Sáng, tác phẩm Chiếc lược ngà.
- Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, tình huống truyện, vị trí đoạn trích.
2. Cảm nhận
a. Ông Sáu là một người cha yêu thương con tha thiết, sâu nặng
* Ông tự tay làm chiếc lược ngà để tặng con
- Khi kiếm được khúc ngà voi: Ông Sáu vô cùng vui sướng, khuôn mặt ông hớn hở như một
đứa trẻ được quà. Hình ảnh so sánh đã khắc họa rõ nét tâm trạng mừng vui, sung sướng, hạnh phúc
của một người cha yêu con tha thiết. Ông vui vì có thể giữ lời hứa với con, vì sẽ có một món quà
tặng con gái.
- Làm chiếc lược ngà:
+ Ông đã dồn hết tình cảm và tâm huyết vào việc làm chiếc lược ngà cho con.
+ Để làm lược, việc đầu tiên, ông lấy vỏ đạn hai mươi li của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây
cưa nhỏ....
+ Sau đó, ông miệt mài, dốc tất cả niềm say mê và tâm trí vào việc làm chiếc lược: ông đã cưa
khúc ngà thành từng miếng nhỏ, thận trọng, tỉ mỉ, cố công như người thợ bạc. Với nghệ thuật liệt
kê, so sánh đặc sắc, nhà văn đã làm nổi bật sự khéo léo, tài hoa, kì công và tâm huyết của ông Sáu
khi làm lược cho con, qua đó khắc họa tình yêu thương con sâu nặng, thắm thiết của ông.
+ Khi chiếc lược hoàn thành, ông lại tỉ mỉ khắc lên chiếc lược dòng chữ: Yêu nhớ tặng
Thu con của ba. Một hàng chữ thật giản dị nhưng chan chứa bao tình cảm trìu mến, sâu nặng
của người cha hướng về đứa con bé bỏng.
- Tâm trạng của ông Sáu khi làm xong lược:
+ Không lúc nào ông Sáu thôi nhớ con. Hằng đêm, nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía
rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt.
+ Luôn khao khát được gặp lại con. Cây lược không chỉ là cầu nối để ông có thể trò chuyện
cùng con trong tâm tưởng mà còn mang tới niềm hi vọng khắc khoải về một ngày mai sum họp.
* Trước lúc hi sinh

38
- Ông Sáu bị trúng đạn của kẻ thù. Trong thời khắc sinh tử, ông đã gửi lại chiếc lược ngà cho
người đồng đội thân thiết: Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình
như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và
nhìn tôi một hồi lâu. Tâm nguyện tha thiết của ông trong giờ phút ấy là trao lại chiếc lược ngà cho
con.
- Ánh mắt của ông Sáu chứa đựng bao sự kí thác, tin tưởng bác Ba sẽ thay mình trao lại chiếc
lược ngà tận tay cho con gái ông. Ánh mắt ấy như một bản di chúc không lời, là lời trăng trối cuối
cùng dành cho đứa con bé bỏng ngây thơ và cũng là tình yêu mà ông để lại trên thế gian này. Tình
yêu con bất diệt! Nên, chỉ đến lúc nhận được lời hứa: Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu, ông Sáu
mới nhắm mắt đi xuôi.
- Chiếc lược ngà là một món quà vô giá, là kỉ vật duy nhất của ông Sáu, là minh chứng
cho tình yêu con vô bờ bến của một người cha dành cho con.
b. Ông Sáu là một người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, kiên trung
- Dù yêu thương con tha thiết, ông Sáu vẫn ra chiến trường chiến đấu góp phần giải phóng
quê hương, đất nước. Ông đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
- Người chiến sĩ cách mạng ấy đã chiến đấu anh dũng và hi sinh trong những ngày tháng ác
liệt của cuộc kháng chiến: Một ngày cuối năm năm mươi tám - năm đó ta chưa võ trang - trong một
trận càn lớn của quân Mĩ - ngụy, anh Sáu bị hi sinh. Anh bị viên đạn của máy bay Mĩ bắn vào ngực.
Trong hàng ngàn người con ra đi để bảo vệ Tổ quốc, có những người mãi mãi không trở lại. Ông
Sáu đã nằm lại nơi chiến trường đau thương, đã  hiến dâng cho quê hương, đất nước cả nhịp đập
con tim và hơi thở cuối cùng. Sự hi sinh của người lính ở thời khắc lịch sử nào cũng oanh liệt bởi
mục đích cao cả vì từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
3. Đánh giá
- Thành công về nghệ thuật của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Sáu:
+ Xây dựng tình huống truyện cảm động làm nổi bật tính cách nhân vật.
+ Lối kể chuyện tự nhiên, giàu cảm xúc; lựa chọn ngôi kể phù hợp.
+ Nhân vật được khắc họa cụ thể, sinh động qua hành động và diễn biến tâm lí.
- Về nội dung: Nhà văn đã khắc họa thành công hình ảnh nhân vật ông Sáu - một người yêu thương
con vô bờ bến, một người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, kiên trung.

39
11. NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Trong kháng chiến
chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70. Bà là cây
bút chuyên về truyện ngắn với ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo, đặc biệt là tâm lí nhân vật
phụ nữ. Trong những năm chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của
tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyển
biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới.
Truyện ngắn của Lê Minh Khuê thể hiện một ngòi bút dung dị giàu nữ tính; một giọng điệu đa
sắc thái: khi thì tự hào, ngợi ca, khi lại mỉa mai, châm biếm, lúc lại trữ tình suy tư…
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Những ngôi sao xa xôi là một trong những tác phẩm đầu tay của
Lê Minh Khuê, viết năm 1971 trong khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra ác
liệt.
- Xuất xứ: Truyện Những ngôi sao xa xôi in trong tập truyện cùng tên (1973). Văn bản được
đưa vào sách giáo khoa có lược bớt một số đoạn.
- Nội dung: Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi viết về cuộc sống, chiến đấu vô cùng gian
khổ của các nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ.
Tác phẩm giống như một cuốn phim tài liệu, làm sống lại sự ác liệt của chiến tranh xung quanh một
cao điểm. Truyện đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống
chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam
trong thời kì chống Mĩ.
- Nghệ thuật: Cách lựa chọn ngôi kể phù hợp, nhân vật chính tự kể chuyện nên những nét tâm
lí, tính cách của nhân vật trong truyện được bộc lộ một cách tự nhiên. Thế giới nội tâm của nhân vật
được soi chiếu từ nhiều góc độ, nhiều thời điểm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là miêu tả tâm
lí nhân vật sinh động, chân thực cùng ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ
tình. Sử dụng nhiều câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, mỗi câu văn đều như nóng bỏng hơi thở của
đời sống chiến tranh ác liệt.
II. ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật Phương Định trong đoạn trích sau:
…Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm trong
không trung, che đi những gì từ xa. Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không? Chắc có, các
anh ấy có những cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm mắt. Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy
có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không
thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới.
Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẽ hai vòng
tròn màu vàng…
Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên.
Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi.
Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một
dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặt là mặt trời nung nóng.
Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái
lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió.
Tim tôi cũng đập không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là
chiếc kim đồng hồ. Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu. Còn đằng kia,

40
lửa đang chui bên trong cái dây mìn, chui vào ruột quả bom…
Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ tới cái
chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không?
Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh
bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi thấm vào môi tôi, mằn mặn, cát lạo xạo trong
miệng.
Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái, đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay mãi mới mở ra
được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thầm trong
những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu.
(Trích Những ngôi sao xa xôi, Lê Minh Khuê, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 117, 118)
Đề 2
…Việc của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố
bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Người ta gọi chúng tôi là tổ trinh sát mặt đường.
Cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng. Do đó, công việc cũng chẳng đơn giản.
Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm
răng loá lên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đó, chúng tôi gọi nhau là "những con quỷ mắt đen".
Đơn vị chăm chúng tôi ra trò. Có gì lại bảo "Để cho bọn trinh sát, chúng nó ở trên đó vắng".
Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Đơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn. Và làm việc có khi
suốt đêm.
Còn chúng tôi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày chạy trên cao điểm không
phải chuyện chơi. Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả bom. Tôi
bây giờ còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất nhiên, tôi không vào viện quân y. Việc nào
cũng có cái thú của nó. Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay
đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết
rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất
định sẽ nổ... Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về
hang. Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà ngay đến một thế giới khác. Cái mát lạnh
làm toàn thân rung lên đột ngột. Rồi ngửa cổ uống nước, trong ca hay trong bi đông. Nước suối
pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn
nhỏ mà lúc nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung tung... hình như ta sắp mở
chiến dịch lớn. Đêm nào xe cũng nườm nượp ngoài đường. Ban đêm chúng tôi được ngủ. Nhưng
mấy đêm nay thì chịu. Đứa nào cũng leo tót lên trọng điểm, cầm xẻng xúc, nói vài câu buồn cười
với một anh lái xe nào đó. Vui. Chỉ khổ đứa phải trực máy điện thoại trong hang.
Bây giờ là buổi trưa. Im ắng lạ. Tôi ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Tôi mê hát.
Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa lộn xộn mà ngớ ngẩn đến
tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình.
(Trích Những ngôi sao xa xôi, Lê Minh Khuê, Ngữ văn 9, tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam 2015, trang 114, 115)
Viết bài văn trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong được thể hiện
trong đoạn trích trên.

Đề 1
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định trong một lần phá bom giữa trọng điểm trên tuyến đường
Trường Sơn.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Lê Minh Khuê, tác phẩm Những ngôi sao xa xôi.

41
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tóm tắt truyện.
- Vị trí đoạn trích.
2. Cảm nhận
a. Hoàn cảnh chiến đấu
- Khung cảnh chiến trường trước giờ ra trận được nhà văn miêu tả rất kĩ qua không gian,
không khí, cảnh vật: Vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ từng
cụm trong không trung, che đi những gì từ xa.
- Những câu văn ngắn, từ ngữ giàu hình ảnh khắc họa hoàn cảnh khốc liệt nơi chiến trường.
Hoàn cảnh đó đã thử thách cao độ lòng gan dạ, sự bình tĩnh của Phương Định trong một lần phá
bom.
b. Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định
* Phương Định là một cô gái dũng cảm, kiên cường, có kinh nghiệm chiến đấu và tinh
thần trách nhiệm cao.
- Khi đến gần quả bom, cô đã đàng hoàng bước tới: Tôi sẽ không đi khom… Lòng dũng cảm
của Phương Định được hé mở ngay từ dáng đi thẳng, đàng hoàng bước tới ấy, cô đã bình tĩnh đối
mặt với tử thần.
- Khi ở bên quả bom, cận kề với cái chết, cô đã dùng kinh nghiệm chiến trường dày dặn để
phán đoán: Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặt
là mặt trời nung nóng. Những câu văn ngắn gọn với giọng điệu dồn dập đã làm nổi bật sự căng
thẳng trong công việc phá bom của Phương Định.Tuy đã nhiều lần làm công việc phá bom nhưng
lần nào Phương Định cũng cảm thấy hồi hộp, căng thẳng bởi mỗi lần phá bom là một lần đối diện
trực tiếp với tử thần. Dù vậy, từng động tác của cô vẫn rất thuần thục, chính xác.
- Hành động của cô vừa khẩn trương, nhanh gọn như muốn chạy đua với thời gian vừa hết
sức nhẹ nhàng, cẩn trọng: Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây
mìn dài, cong, mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình. Qua những hành động ấy,
Phương Định đã bộc lộ phẩm chất dũng cảm và kinh nghiệm chiến trường dày dặn, vững vàng.
- Trong lúc chờ bom nổ, Phương Định kể về công việc phá bom đầy mạo hiểm bằng giọng
điệu bình thản, nhẹ nhàng như không: Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày
nào ít, ba lần. Có lẽ với cô, việc đối mặt với nguy hiểm, hi sinh đã trở thành chuyện thường ngày,
không có gì đáng sợ, đáng bận tâm.
- Trong lúc ấy, cô có thoáng nghĩ đến cái chết. Song điều Phương Định quan tâm hơn cả lúc
này lại là liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Suy
nghĩ của cô đã thể hiện một tinh thần trách nhiệm rất cao trong công việc, là lòng quả cảm, không
sợ hi sinh.
- Trong không khí căng thẳng, khốc liệt của chiến trường, Phương Định đã bình tĩnh chạy đua
với thời gian để vượt qua cái chết, cô đã bộc lộ phẩm chất anh hùng của một người chiến sĩ trên
tuyến lửa Trường Sơn.
* Phương Định là cô gái có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế.
- Sự nhạy cảm của cô được thể hiện ngay trong nét tâm lý rất con gái khi cô đến gần quả bom.
Cô cảm thấy Có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình. Chính cảm giác ấy đã kích thích lòng tự trọng
và can đảm nơi cô.
- Khi thực hiện thao tác phá bom, những cảm giác của Phương Định cũng trở nên tinh tế và
sắc nhọn: Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào
da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm.
- Công việc phá bom nguy hiểm, căng thẳng đến nghẹt thở nhưng Phương Định vẫn có những
cảm nhận rất tinh tế, rất rõ mọi sự việc, hiện tượng, âm thanh diễn ra xung quanh Không có gió. Tim
tôi cũng đập không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc
kim đồng hồ. Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu. Còn đằng kia, lửa
đang chui bên trong cái dây mìn, chui vào ruột quả bom...

42
- Lúc quả bom nổ, cô cũng có những cảm giác rất cụ thể, chân thực về âm thanh, mùi thuốc
bom: Một thứ tiếng kì quái, đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc
bom buồn nôn... Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu.
3. Đánh giá
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật Phương Định:
+ Sử dụng vai kể là nhân vật chính, cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ trẻ trung, sinh động.
+ Miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, làm hiện lên một thế giới nội tâm phong phú.
- Nhân vật Phương Định hiện lên trong đoạn trích là một cô gái dũng cảm, kiên cường, có
tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và rất nhạy cảm, tinh tế. Vẻ đẹp của Phương Định cũng là
vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.

Đề 2
Gợi ý:
I. Xác định vấn đề nghị luận
- Vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
II. Triển khai vấn đề nghị luận
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về tác giả Lê Minh Khuê, tác phẩm Những ngôi sao xa xôi.
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
- Tóm tắt truyện.
- Vị trí đoạn trích.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong
a. Hoàn cảnh sống và chiến đấu
- Họ ở trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập
trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt.
- Công việc của họ càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi
mình ra giữa vùng trọng điểm bắn phá của máy bay địch: Còn chúng tôi thì chạy trên cao điểm cả
ban ngày. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ra trọng điểm, đo và ước tính khối lượng đất đá bị bom
địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng thuốc nổ để phá bom. Đó là một công việc phải
mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.
b. Vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong
* Lí tưởng sống, chiến đấu cao đẹp
- Tuy tuổi đời còn rất trẻ nhưng cả ba cô gái đều tình nguyện đến với Trường Sơn, tự hào kiêu
hãnh khi được tham gia chiến đấu. Ta luôn thấy niềm vui niềm kiêu hãnh qua đôi mắt lấp lánh, qua
nụ cười từ gương mặt lấm lem, qua cả cách họ gọi mình bằng cái tên đầy tự hào: tổ trinh sát mặt
đường. Điều đó thể hiện lý tưởng cao cả, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc của cả một thế hệ thanh niên
Việt Nam đương thời.
* Gan dạ, dũng cảm, luôn hòa mình vào cuộc chiến đấu
- Các cô luôn làm chủ cuộc sống, dũng cảm đối diện với những vất vả khó khăn bằng thái độ
điềm tĩnh. Họ kể về hoàn cảnh sống, hoàn cảnh chiến đấu với một thái độ bình thản, tuyệt nhiên
không kêu ca phàn nàn, sợ hãi: Còn chúng tôi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày
chạy trên cao điểm không phải chuyện chơi... Phương Định còn kể về sự nguy hiểm với giọng bình
thản pha chút bông đùa: Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những quả
bom.
- Phương Định có một vết thương chưa lành ở đùi nhưng cô không vào viện quân y điều trị mà
vẫn tiếp tục ở lại sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
- Thậm chí, chuyện sống chết hằng ngày, đối mặt với nguy hiểm còn được cô xem là một cái
thú riêng: Việc nào cũng có cái thú của nó. Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí
bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu,
43
chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể
chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ...
- Là những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, ba cô gái say mê chiến đấu và hòa mình vào cuộc
chiến đấu. Ở dưới hang nhưng các cô luôn hướng lên mặt đường, nghĩ suy về cuộc chiến: hình như
ta sắp mở chiến dịch lớn. Đêm nào xe cũng đi nườm nượp ngoài đường...
* Hồn nhiên, lạc quan, mơ mộng
- Các cô tự tạo ra một không gian thanh bình, êm dịu, tươi trẻ trong hang dưới chân cao điểm.
- Xong công việc, các cô trở lại hang - thế giới của sự thanh thản, hồn nhiên: nằm dài trên nền
ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc… Có thể nghe, có thể nghĩ lung tung…
- Ba cô gái luôn cảm nhận được những niềm vui tuổi trẻ trong cuộc sống chiến đấu: Đứa nào
cũng leo tót lên trọng điểm, cầm xẻng xúc, nói vài câu buồn cười với một anh lái xe nào đó. Vui.
- Và giữa không gian đầy đạn bom, họ vẫn cất lên tiếng hát lạc quan, yêu đời: Tôi ngồi dựa
vào thành đá và khe khẽ hát. Tôi mê hát…
3. Đánh giá
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Sử dụng vai kể là nhân vật chính, cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ trẻ trung, sinh động.
+ Miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, làm hiện lên một thế giới nội tâm phong phú.

44

You might also like