Mô hình quản lý nhà nước về báo chí truyền thông (Quản lý tập
trung, phi tập trung, kết hợp)
1 Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí truyền thông QLNN về báo chí truyền thông là hoạt động của bộ máy nhà nước được giao trách nhiệm, quyền hạn QLNN về báo chí truyền thông; là hoạt động thể chế hóa và hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng về báo chí truyền thông thành pháp luật, chính sách, cơ chế của Nhà nước; thông qua đó, các chủ thể quản lý tổ chức, điều khiển, kiểm tra, giám sát có tổ chức các hoạt động liên quan đến báo chí của các đối tượng quản lý là báo chí truyền thông, các cơ quan quản lý, nhà báo theo những yêu cầu nhất định, trong khuôn khổ pháp luật, nhằm phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí truyền thông trong nước cũng như xu thế hội nhập với báo chí truyền thông thế giới; bảo đảm cho báo chí truyền thông thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin theo mục tiêu, yêu cầu đề ra 2 Thực trạng quản lý nhà nước về báo chí truyền thông hiện nay Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ quan quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương (Bộ Thông tin và truyền thông); các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). 2.1 Quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy định, Bộ Thông tin và truyền thông thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí trên nhiều lĩnh vực, điển hình là các lĩnh vực sau: 2.1.1 Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát triển sự nghiệp báo chí Thời gian qua, hoạt động này được Bộ Thông tin và truyền thông thực hiện nghiêm túc, đúng định hướng và sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, “Bộ đã và đang tiếp tục tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xác định những ấn phẩm chồng chéo về tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ, không phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999; trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành “Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010”... xây dựng quy hoạch hệ thống báo chí in toàn quốc” (1). Tuy nhiên, việc quy hoạch làm không đều, liên tục. Thêm nữa, công tác quản lý nhà nước về báo chí còn “thiếu chủ động trong định hướng chiến lược; chạy theo vụ việc, lúng túng trong quy hoạch, sắp xếp” (2). Thực tế hoạt động báo chí hiện nay vẫn tồn tại hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu, nhất là tình trạng có nhiều tờ báo trùng lặp về nội dung và thiếu ở chỗ nội dung một số mảng đề tài không được đề cập đến, nhất là mảng đề tài về các ngành khoa học. Thừa, thiếu còn thể hiện ở việc báo được xuất bản, phát hành phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị, còn nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, nhân dân có rất ít báo hoặc không có báo để đọc. “Nhiều cơ quan báo chí chỉ coi trọng địa bàn thành phố, thị xã vì ở đó có thể phát hành được nhiều, còn các địa bàn khác không được quan tâm đúng mức. Tình trạng đó dẫn đến mức hưởng thụ sách báo quá chênh lệch giữa thành phố, thị xã và vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hiện nay, 75% báo chí chủ yếu phát hành ở thành phố, thị xã, vùng trung tâm, còn 25% báo chí phát hành ở vùng nông thôn” (3). 2.1.2 Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí Từ năm 1999 đến nay, Bộ Thông tin và truyền thông đã chủ trì, phối hợp xây dựng và trình Chính phủ ký ban hành, tự ban hành hơn 30 văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Cùng với Luật Báo chí, các văn bản pháp luật này bước đầu phục vụ có hiệu quả công tác quản lý báo chí. Tuy nhiên, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự thay đổi nhanh chóng của đời sống thì nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật này còn thiếu đồng bộ, việc sửa đổi, bổ sung chậm được tiến hành. Với chức năng là cơ quan quản lý cấp trung ương, Bộ Thông tin và truyền thông chưa kịp thời, chủ động trong việc tổ chức tập huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý của các sở; đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí còn hạn chế (4). 2.1.3 Thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp. “Từ năm 1999 đến nay, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.750 đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh về những thông tin không chính xác trên báo chí do các cá nhân, tổ chức trong cả nước gửi tới liên quan đến gần 1.000 vụ việc” (5). Một số nhà báo lợi dụng uy tín nghề nghiệp làm trái với đạo đức, trách nhiệm của người làm báo, vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý nghiêm bằng các hình thức: cảnh cáo, tịch thu thẻ nhà báo, phê bình, khiển trách. Những người đứng đầu cơ quan báo chí có người vi phạm, do buông lỏng quản lý cũng phải chịu những hình thức kỷ luật đúng mức. Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí nhằm thực hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng hiện nay, vẫn có một số tạp chí không thực hiện nộp lưu chiểu hoặc lưu chiểu không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật. Điều đó dẫn đến việc phát hiện chậm các vi phạm, gây không ít khó khăn cho quá trình xử lý và để lại hậu quả phức tạp. Hơn nữa, “khối lượng công việc phải xử lý trong công tác quản lý nhà nước về báo chí ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý trong tình hình mới” (6). 2.2 Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ Các bộ, cơ quan ngang bộ - với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí - đã có nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền trong việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chuẩn về chính trị, nghiệp vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng quy chế quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo chí hoạt động đúng quy định, có sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và trong công tác phối hợp của cơ quan báo chí với các đơn vị liên quan thuộc Bộ Thông tin và truyền thông. Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí theo luật định chưa được thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch. Nhiều trường hợp cơ quan chủ quản buông lỏng vai trò, trách nhiệm của mình. Một số cơ quan chủ quản không kiên quyết sáp nhập những tờ báo có tôn chỉ, mục đích trùng lặp, hoặc không đình chỉ những cơ quan báo chí thiếu các điều kiện đảm bảo cho tờ báo hoạt động bình thường, gây khó khăn cho việc quy hoạch hệ thống báo chí cả nước… Tình trạng buông lỏng chỉ đạo, quản lý của một số cơ quan chủ quản vẫn diễn ra. Không ít tờ báo xa rời tôn chỉ mục đích, chạy theo mục đích thương mại, không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo, quản lý của cấp trên. Báo thuộc lĩnh vực này lại đưa tin về lĩnh vực khác, nhiều khi những sự kiện lớn của ngành mình, lĩnh vực mình lại phản ánh rất mờ nhạt, nhưng cơ quan chủ quản vẫn bỏ qua hoặc có nhắc nhở nhưng cơ quan báo chí không thực hiện thì cũng không xử lý. Tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí của nhiều cơ quan chủ quản thực hiện không chặt chẽ. Không ít cơ quan chủ quản phó mặc cho cơ quan báo chí tuyển chọn phóng viên, cộng tác viên, thu nhận cả những người không đủ tư cách đạo đức, chuyên môn vào làm báo. Có cơ quan chủ quản sau khi xin ra số phụ đã khoán trắng cả về nội dung lẫn kinh phí. Vẫn còn hiện tượng cơ quan chủ quản bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Một số cơ quan chủ quản báo chí không thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, không gửi văn bản thỏa thuận tới cơ quan quản lý nhà nước. Một số cơ quan xin thành lập cơ quan báo chí khi chưa đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như: điều kiện về trụ sở, trang thiết bị, nguồn tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ... Một số cơ quan báo chí chấp hành sự chỉ đạo không nghiêm túc, thường xuyên vi phạm hoặc có những vi phạm nghiêm trọng, Bộ Thông tin và truyền thông đã nhắc nhở, phê bình nhiều lần nhưng cơ quan chủ quản không tích cực chấn chỉnh, xử lý kỷ luật; hoặc xử lý không nghiêm (7). 2.3 Quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương Trong thời gian qua, các Sở Thông tin và truyền thông đã chú trọng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương. Các Sở cũng chú trọng công tác tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về quy hoạch báo chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hướng dẫn việc thực hiện các văn bản pháp quy về báo chí trên cơ sở nội dung của Luật Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP; thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt động của các Văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí trung ương và địa phương khác trên địa bàn… Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí ở địa phương còn những mặt hạn chế. Nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có cán bộ chuyên trách quản lý báo chí, xuất bản. Trong công tác quản lý hoạt động phát thanh, truyền hình, Internet - lĩnh vực có tính đặc thù, đòi hỏi phải có kiến thức về công nghệ, kỹ thuật - trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu; đa số địa phương chưa có kinh phí đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công tác quản lý. UBND và Sở Thông tin và truyền thông một số tỉnh, thành phố chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý các đài phát thanh, truyền hình thuộc quyền quản lý của mình. Một số địa phương, mặc dù có nhiều cơ quan báo chí, nhưng cho đến nay vẫn không có tổ chức bộ máy hoặc cán bộ chuyên trách giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí. Một số địa phương thực hiện việc xử lý vi phạm của cơ quan báo chí không nghiêm, có nơi không thực hiện đúng thẩm quyền. 3 Tổng quan về mô hình quản lý báo chí - truyền thông ở Việt Nam Theo Luật Báo chí Việt Nam 2016, Việt Nam hiện có bốn loại hình báo chí: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo mạng). Thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam cho biết, tính đến tháng 12 năm 2015, Việt Nam có 857 cơ quan báo in. Báo in có hai dạng: báo (nhật báo) và tạp chí. Về báo, có 86 cơ quan báo Trung ương, 113 cơ quan báo địa phương. Về tạp chí, có 521 tạp chí Trung ương, 137 tạp chí địa phương. Những tờ báo có số lượng phát hành lớn và ổn định từ 200.000 đến 300.000 bản/ngày, bao gồm: Nhân Dân, Tuổi Trẻ, Thanh Niên. Một số tờ báo khác có số phát hành khoảng 50 - 100.000 bản/ngày bao gồm: Lao Động, Hà Nội mới, Sài Gòn Giải Phóng,.. Việt Nam có 67 đài Phát thanh - Truyền hình, trong đó có hai đài quốc gia là Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và Đài truyền hình Việt Nam (VTV). Các đài truyền hình lớn nhất ở Việt Nam gồm: Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), Đài Truyền hình Kỹ thuật số (VTC), Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) và Đài truyền hình Bình Dương (BTV). Những đài truyền hình này đã sản xuất 75 kênh chương trình truyền hình trả tiền và mua thêm 75 kênh truyền hình nước ngoài để phát sóng tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có 700 đài phát thanh - truyền hình cấp quận, huyện, 8.000 đài truyền thanh xã, phường, thị trấn. Việt Nam có một hãng thông tấn Nhà nước có tên gọi là Thông tấn xã Việt Nam, 105 báo, tạp chí điện tử (trong đó có 83 báo, tạp chí là phiên bản điện tử của cơ quan báo in và 22 báo, tạp chí điện tử độc lập chỉ phát hành trên mạng), 1.525 trang thông tin điện tử tổng hợp và 420 trang mạng xã hội được cấp phép hoạt động. Tính đến cuối năm 2015, Việt Nam có khoảng 35.000 người làm việc trong lĩnh vực báo chí. Trong đó, có 19.000 nhà báo được cấp thẻ nhà báo và khoảng 5.000 phóng viên chưa được cấp thẻ. Tỉ lệ nhân lực có trình độ đại học khoảng 94% và trên đại học là 5,5%. Theo quy hoạch báo chí (đến năm 2025) đã được Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt, đến hết năm 2017, số lượng các cơ quan báo in sẽ giảm và về cơ bản, các cơ quan báo chí này sẽ phải tự cân đối tài chính. Điều 7, Luật Báo chí Việt Nam 2016 quy định rõ về chủ thể quản lý Nhà nước về báo chí: Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về báo chí; Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về báo chí; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý Nhà nước về báo chí; ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý Nhà nước về báo chí tại địa phương (Trích điều 7 - Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, luật báo chí 2016),...Các cơ quan chủ quản báo chí là các cơ quan liên đới chịu trách nhiệm về các hoạt động của tờ báo mà họ đứng ra xin giấy phép ra báo và quản lý hoạt động. Ở Việt Nam, Chính phủ không cấp phép cho báo chí tư nhân. Vì vậy, theo điều 14 Luật Báo chí Việt Nam 2016, chỉ có một số đối tượng được phép xin thành lập cơ quan báo chí. Những đối tượng này được gọi là cơ quan chủ quản, bao gồm: Cơ quan của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo từ cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên, hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được thành lập cơ quan báo chí; Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật Giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật khoa học và công nghệ; bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên được thành lập tạp chí khoa học. Những cơ quan báo chí có cơ quan chủ quản ở Trung ương (Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng Sản,...) được xếp vào loại báo chí cấp một, báo có cơ quan chủ quản thuộc tỉnh thành (Báo Sài Gòn Giải Phóng, Báo Đồng Nai,...) xếp loại báo chí cấp hai, báo có cơ quan chủ quản trực thuộc tỉnh thành (Báo Tuổi Trẻ, Báo Phụ Nữ Thành phố Hồ Chí Minh,...) xếp loại báo chí cấp ba. 4 Mô hình quản lý báo chí truyền thông ở Việt Nam 4.1 Mô hình chung Đảng Cộng sản Việt Nam (Ban Tuyên giáo): Định hướng phát triển báo chí truyền thông; Quản lý tổ chức cán bộ; Giám sát, kiểm tra quá trình phát triển của báo chí truyền thông. (2) Nhà nước: Chính phủ thống nhất quản lý báo chí truyền thông; Chiến lược, quy hoạch, phát triển báo chí; Đầu tư phát triển (đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ,...); Quản lý hoạt động theo pháp luật. (3) Cơ quan chủ quản: Đứng tên đề nghị cấp phép hoạt động báo chí truyền thông; Thành lập, bổ nhiệm; Nguồn kinh phí; Quản lý hoạt động. (4) Hội Nhà báo: Tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp; Bảo vệ quyền lợi hội viên; Tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch; Tham gia thẩm định, bồi dưỡng, giám sát. (5) Báo chí: Cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và diễn đàn của nhân dân; Chức năng: thông tin, tuyên truyền cổ động, giám sát đấu tranh chống tiêu cực; Hoạt động theo pháp luật của Nhà nước và Luật Báo chí. 4.2 Mô hình quản lý NN về báo chí truyền thông (1) Chính phủ. (2) Bộ Thông tin & Truyền thông (Cục báo chí). (3) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố (Sở Thông tin và Truyền thông; Sở Ngoại vụ) (4) Các hoạt động báo chí ở Việt Nam và báo chí Việt Nam hoạt động ở nước ngoài. (5) Bộ ngoại giao -(Vụ Thông tin-Báo chí) (6) Đài Tiếng nói Việt Nam - Đài Truyền hình Việt Nam. (7) Phóng viên nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. (8) Các đài phát thanh truyền hình địa phương, khu vực 4.3 Mô hình quản lý tập trung 4.3.1 Ưu điểm của mô hình quản lý tập trung Một chuỗi mệnh lệnh rõ ràng: Một tổ chức tập trung được hưởng lợi từ một chuỗi mệnh lệnh rõ ràng, do đó tất cả mọi người trong tổ chức đều biết phải làm gì và làm như thế nào, cũng như những quy tắc nhất quán trong quá trình làm việc. Tầm nhìn tập trung: Khi một tổ chức tuân theo một cấu trúc quản lý theo hình thức dạng tập trung thì có thể tập trung vào việc thực hiện tầm nhìn của nó một cách dễ dàng. Có những đường dây truyền thông rõ ràng và giám đốc điều hành cấp cao có thể truyền đạt tầm nhìn của tổ chức tới nhân viên và hướng dẫn nhân viên hướng tới việc đạt được tầm nhìn. Nếu không, sẽ có sự không nhất quán trong việc chuyển thông điệp đến khách hàng Giảm chi phí: Một tổ chức quản lý theo hình thức tập trung tuân thủ các quy trình và phương pháp tiêu chuẩn hướng dẫn tổ chức, giúp giảm chi phí nhân sự, văn phòng. Những người ra quyết định chính được đặt tại trụ sở chính do đó, không cần phải triển khai thêm các phòng ban và thiết bị cho các chi nhánh khác. Ngoài ra, tổ chức không cần phải chịu thêm chi phí để thuê chuyên gia cho các chi nhánh của mình vì các quyết định quan trọng được đưa ra tại trụ sở chính và sau đó được truyền đạt tới các chi nhánh. Cải thiện chất lượng công việc: Nhờ các quy trình được tiêu chuẩn hóa, do đó đầu ra công việc sẽ đảm bảo tính thống nhất và chất lượng đồng đều. 4.3.2 Nhược điểm mô hình quản lý tập trung Lãnh đạo quan liêu, thiếu lòng trung thành của nhân viên: Quản lý theo hình thức tập trung khiến nhân viên khó có thể đóng góp vào quá trình ra quyết định của tổ chức và họ chỉ đơn thuần là người thực hiện các quyết định được đưa ra ở cấp cao hơn, do đó thiếu động lực để thực hiện các quyết định của các nhà quản lý cấp cao mà không có đầu vào của nhân viên cấp thấp hơn. Bởi vì không có sáng kiến trong công việc vì nhân viên thực hiện các nhiệm vụ được khái niệm hóa bởi các giám đốc điều hành hàng đầu. Nó hạn chế sự sáng tạo và lòng trung thành của họ đối với tổ chức do sự cứng nhắc của công việc. Chậm trễ trong công việc: Chiến lược quản lý theo hình thức tập trung giới hạn sự sáng tạo đối với người quản lý hàng đầu. Điều này có thể dẫn đến các vấn đề cho tổ chức đang cố gắng thích nghi với một thị trường thay đổi. Các tổ chức tập trung mạnh mẽ liên quan đến một sản phẩm phát triển nhanh và các ngành công nghiệp thay đổi nhanh chóng không thể phản ứng nhanh với nhu cầu thay đổi của khách hàng. 4.4 Mô hình quản lý phi tập trung Mô hình quản lý phi tập trung không cần đến chức danh, cấp bậc. Quyền lực giữa các cá nhân được phân bổ như nhau. Mô hình quản lý phi tập trung, công việc sẽ được phân công theo vai trò. Các đặc điểm của mô hình này. Thứ nhất, Nhà nước ban hành Luật Báo chí và các văn bản quản lý báo chí, truyền thông Trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, truyền thông, Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí và các văn bản pháp lý, là cơ sở để quản lý nhà nước về báo chí truyền thông. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được xây dựng mới hoặc rà soát, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh kịp thời những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn. Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan công quyền trong cung cấp thông tin cho báo chí, đồng thời xác định rõ thẩm quyền, giới hạn của nhà báo khi tiếp cận thông tin. Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025 đang là cơ sở để sắp xếp tổ chức lại bộ máy các cơ quan báo chí, khắc phục tình trạng chồng chéo đầu tư, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời mục đích, đáp ứng yêu cầu phát triển của báo chí truyền thông trong tình hình mới. Thứ hai, Nhà nước cung cấp kinh phí, những thông tin mới và quản lý chặt chẽ hoạt động báo chí truyền thông Hầu hết các cơ quan báo chí truyền thông hoạt động dựa vào ngân sách nhà nước. Nhà nước chỉ đạo và giúp cơ quan báo chí truyền thông chủ động trong công tác tuyên truyền, đấu tranh có hiệu quả với những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước; xây dựng đề án và chỉ đạo tuyên truyền trên báo chí truyền thông đối với các sự kiện lớn, quan trọng của đất nước; chỉ đạo các cơ quan báo chí truyền thông trong việc phát hiện, cổ vũ, nhân rộng điển hình tiên tiến trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân; cung cấp thông tin và chỉ đạo báo chí truyền thông thông tin theo định hướng về các chương trình, mục tiêu lớn của Chính phủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội; ủng hộ và đồng hành cùng Chính phủ trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quyết định của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Thứ ba, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và chính quyền địa phương tăng cường quản lý báo chí truyền thông Đa số các cơ quan chủ quản báo chí truyền thông, nhất là các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh đã cử người trực tiếp phụ trách công tác báo chí truyền thông; thường xuyên chỉ đạo, quản lý toàn diện mọi hoạt động và thông tin trên báo chí truyền thông thuộc quyền. Các Sở Thông tin - Truyền thông thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật đối với hoạt động báo chí truyền thông trên địa bàn, xử lý các sai phạm. Qua đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đội ngũ phóng viên, cộng tác viên; ngăn ngừa các hiện tượng giả danh, mạo danh nhà báo; kịp thời xử lý các thông tin từ báo chí truyền thông phản ánh không đúng sự thật. Thứ năm, nhà nước chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí truyền thông Trong những năm qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội Nhà báo Việt Nam và nhiều cơ quan, tổ chức trong nước triển khai các lớp đào tạo kỹ năng cho phóng viên, biên tập viên; các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý cho lãnh đạo báo chí truyền thông nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đã có hàng ngàn lượt phóng viên, biên tập viên tham gia các lớp về chính trị, nghiệp vụ chuyên môn, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch biên tập viên, phóng viên chính do các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí truyền thông, các trường, trung tâm đào tạo tổ chức; tổ chức các đoàn khảo sát về quản lý báo chí truyền thông ở một số nước trên thế giới. Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí truyền thông ở Trung ương cũng đã tổ chức lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, lãnh đạo cơ quan báo chí truyền thông để thi nâng ngạch theo quy định của nhà nước. Có thể nói, về cơ bản đội ngũ những người làm báo chí truyền thông đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ báo chí, giúp họ nâng cao nhận thức chính trị, trình độ chuyên môn và bắt nhịp nhanh với phương pháp làm báo chí truyền thông hiện đại. 4.4.1 Lợi ích của mô hình quản lý phi tập trung Nhanh nhạy, kịp thời vì cập nhật hàng ngày, hàng giờ, giảm bớt sự cồng kềnh do bộ máy tập trung, Văn phòng Chính phủ thường xuyên nắm bắt, tổng hợp thông tin, phát hiện những vấn đề, sự việc nổi cộm liên quan đến công tác quản lý phần lớn từ kênh truyền thông báo chí , trên cơ sở đó báo cáo, kiến nghị lãnh đạo để chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, địa phương liên quan kiểm tra xác minh và có biện pháp xử lý, giải quyết kịp thời, thỏa đáng. Nội dung truyền thông báo chí ngày càng đa dạng phong phú với nhiều đổi mới, hấp dẫn sinh động, nhanh chóng và kịp thời hơn; phản ảnh đầy đủ, khách quan đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước và quốc tế. Nhờ vậy, mà người dân Việt Nam có thêm hiểu biết về trong nước và thế giới, để tiếp tục hội nhập quốc tế; thông qua truyền thông báo chí bạn bè thế giới cũng hiểu nhiều và đúng hơn về đất nước và con người Việt Nam để thúc đẩy hợp tác, đầu tư, đôi bên cùng có lợi. Phương thức đưa tin của truyền thông báo chí cũng rất phong phú, từ các hình thức báo chí truyền thống cho đến thông tin điện tử hiện đại và đang phát triển nhanh chóng về số lượng, chất lượng, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi về thông tin ngày càng cao của công chúng. Trình độ đội ngũ nhà báo và cộng tác viên báo chí cũng được nâng cao. 4.4.2 Nhược điểm của mô hình quản lý phi tập trung Không tuân thủ các chính sách thống nhất: Theo quản lý phi tập trung, cơ quan báo chí khó có thể tuân theo các chính sách thống nhất và quy trình chuẩn. Mỗi người quản lý sẽ làm việc và đóng khung chính sách theo tài năng của mình. Gánh nặng tài chính: Quản lý phi tập trung đòi hỏi việc sử dụng nhân viên được đào tạo để chấp nhận thẩm quyền, nó liên quan đến gánh nặng tài chính nhiều hơn và một doanh nghiệp nhỏ không thể đủ khả năng để bổ nhiệm các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau Yêu cầu nhân viên có trình độ: Quản lý phi tập trung trở nên vô dụng khi không có nhân viên cấp dưới thiếu trình độ và năng lực, điều này sẽ gây tổn thất lớn cho tổng thể doanh nghiệp khi họ phạm sai lầm Xung đột: Quản lý phi tập trung gây áp lực nhiều hơn cho người đứng đầu bộ phận để nhận ra lợi nhuận bằng bất cứ giá nào. Thông thường trong việc đáp ứng các kế hoạch lợi nhuận mới của họ, mang lại xung đột giữa các nhà quản lý 4.5 Mô hình kết hợp Mô hình kết hợp hay còn gọi là “Tòa soạn đa phương tiện”. Thuật ngữ truyền thông đa phương tiện (multimedia) xuất hiện ở Mỹ từ những năm 50 của thế kỷ XX. Các cơ quan báo chí đã tận dụng tối đa các tiện ích của công nghệ thông tin ứng dụng trong sản xuất sản phẩm báo chí. Thuật ngữ “Cơ quan báo chí đa loại hình”, “Tòa soạn đa phương tiện” được các nước như: Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia áp dụng để quản trị tòa soạn có ít nhất từ hai loại hình, sản phẩm báo chí trở lên. Hiện nay, một số cơ quan báo chí ở Việt Nam cũng đã thực nghiệm tổ chức theo mô hình Tòa soạn đa phương tiện. Tuy nhiên, do chưa tường minh về mô hình và hiểu đúng bản chất của thuật ngữ "multimedia", nên tổ chức hoạt động tòa soạn chưa hiệu quả. Bản chất của mô hình này là “hiện đại hóa” mô hình tập trung và mô hình phi tập trung dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin. Tòa soạn đa phương tiện được hiểu đầy đủ bản chất bằng 5 chữ “đa” (multi), bao gồm: 1) Tòa soạn có khả năng tích hợp sản xuất đa loại hình báo chí (từ 2 loại hình báo chí trở lên) trong một tòa soạn. Điều này trước đây các tòa soạn áp dụng mô hình cơ quan báo chí truyền thống chỉ sản xuất được một loại hình, sản phẩm báo chí (tòa soạn đơn phương tiện). 2) Tác phẩm và sản phẩm báo chí tích hợp biểu đạt bằng đa mã ngôn ngữ (text, image, audio clip, video clip, interactive...). Điều này trước đây các cơ quan báo chí áp dụng theo mô hình cơ quan báo chí truyền thống ít có khả năng thực hiện được (ngôn ngữ đơn phương tiện). 3) Tòa soạn tận dụng tối đa kỹ thuật - công nghệ cao trong quản trị sản xuất sản phẩm báo chí; đặc biệt là dựa trên đa nền tảng của công nghệ thông tin, số hóa dữ liệu , internet vạn vật , điện toán đám mây (icloud), trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence)... Trong tòa soạn áp dụng mô hình quản trị này, nhà báo không chỉ là người sáng tạo nội dung mà còn phải là một chuyên gia về công nghệ. Nếu như ở các mô hình tổ chức cơ quan báo chí truyền thống coi việc sáng tạo nội dung là “vua” thì ở mô hình này, đối với nhà báo, công nghệ còn phải được coi là “nữ hoàng”. 4) Tòa soạn hình thành mô hình “nhà báo đa năng” (multi-journalist). Các nhà báo hoạt động trong mô hình tòa soạn truyền thống thường được tổ chức phân công công việc theo chức danh nghề nghiệp và chuyên môn chuyên sâu, do đó thường có sự phân lập rành mạch về chức trách, nhiệm vụ cá nhân trong quy trình sáng tạo tác phẩm và tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí theo tính chất “đơn năng”. Tính chuyên biệt này có những ưu điểm, nhưng cũng có những hạn chế, đặc biệt là đối với việc tác nghiệp báo chí trong môi trường số hóa, tích hợp đa loại hình, phương tiện. Hình thành mô hình “nhà báo đa năng” là để đáp ứng việc sáng tạo tác phẩm báo chí đa phương tiện và tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí đa loại hình trong điều kiện chuyển đổi từ mô hình cơ quan báo chí truyền thống sang mô hình cơ quan báo chí đa phương tiện, trong điều kiện không cho phép “phình to” tổ chức bộ máy cũng như tăng nhân lực lao động báo chí. 5) Tòa soạn tận dụng tối đa khả năng tương tác (interactive) đa chiều trong các sản phẩm, tác phẩm báo chí cũng như các dịch vụ xã hội để kéo gần khoảng cách giữa công chúng với báo chí, tạo nên sự dân chủ hóa trong truyền thông và tăng hiệu quả, hiệu lực hoạt động của báo chí. 5 Thành tựu Trong năm 2021, các cơ quan báo chí đã thực hiện nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, bám sát mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tạo đồng thuận của xã hội và niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ; thông tin kịp thời, trung thực, toàn diện đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở trong nước và quốc tế, là diễn đàn tin cậy của Nhân dân. Công tác thông tin trên báo chí đã chủ động, kịp thời, đạt hiệu quả trong tuyên truyền về những vấn đề, sự kiện quan trọng của đất nước, đặc biệt, nhiều thông tin thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, thống nhất nhận thức và tạo sự đồng thuận xã hội. Trong đó tuyên truyền hiệu quả một số nội dung trọng tâm lớn như: Đại hội XIII của Đảng và đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống; cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; công tác phòng, chống dịch COVID-19... Công tác thông tin, tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái của thế lực thù địch tiếp tục được tăng cường với nhiều hình thức, nội dung thông tin phong phú. Công tác thông tin, tuyên truyền về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước được quan tâm, chú trọng. Các cơ quan báo chí đối ngoại chú trọng thông tin nổi bật thành quả toàn diện của đất nước năm 2021 nói chung, của đối ngoại nói riêng. Các cơ quan quản lý tiếp tục đẩy mạnh công tác rà soát, phát hiện và xử lý nghiêm các thông tin sai sự thật; triển khai các biện pháp kỹ thuật, tích cực đàm phán, yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới tuân thủ pháp luật Việt Nam ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu, độc, phản động, sai sự thật, quảng cáo vi phạm pháp luật. Các cơ quan chuyên môn của Bộ Thông tin và Truyền thông đã xử phạt vi phạm hành chính 20 cơ quan báo chí; 11 trường hợp vi phạm quy định thông tin điện tử; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động báo chí đối với 1 cơ quan báo chí và thu hồi thẻ nhà báo của 3 trường hợp do có sai phạm nghiêm trọng; tước quyền sử dụng giấy phép mạng xã hội và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm đối với 3 trường hợp. 6 Hạn chế Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, xu hướng hội tụ về công nghệ giữa viễn thông, truyền thông và internet diễn ra mạnh mẽ, do đó nhiều quy định của Luật Báo chí hiện hành đã không còn phù hợp, tạo nên những vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước về báo chí. Mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí chưa được quy định một cách rõ ràng; nhiều trường hợp cơ quan chủ quản buông lỏng vai trò, trách nhiệm của mình làm cho tờ báo xa rời tôn chỉ, mục đích, không hoàn thành nhiệm vụ của mình, việc chấn chỉnh, xử lý những sai phạm của cơ quan báo chí đôi khi còn thiếu kiên quyết, nể nang. Việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan báo chí, trong một số trường hợp, còn thiếu chặt chẽ; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa được một số cơ quan chủ quản coi trọng nên dẫn đến việc một số cá nhân ở cơ quan báo chí phản ứng, thậm chí có khiếu nại, tố cáo đối với cơ quan chủ quản. Đặc biệt, có trường hợp người đứng đầu cơ quan báo chí mất uy tín lãnh đạo trầm trọng, nhưng cơ quan chủ quản vẫn không có phương án thay thế, nên để nội bộ cơ quan báo chí mất đoàn kết kéo dài. Một số cơ quan chủ quản chưa quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị cho phóng viên, biên tập viên của cơ quan báo chí thuộc quyền. Công tác chỉ đạo, quản lý thông tin đôi lúc còn chưa chủ động, chạy theo sự vụ. Trong năm 2019, các cơ quan quản lý nhà nước đã tiến hành thanh, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính 29 cơ quan báo chí với tổng số tiền là 675,1 triệu đồng, trong đó có 6 trường hợp lĩnh vực phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử, 23 trường hợp báo, tạp chí in, điện tử. Các hành vi bị xử phạt chủ yếu là hành vi thông tin sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng. Cơ quan quản lý nhà nước cũng đã ban hành các quyết định thu hồi Thẻ nhà báo đối với 3 trường hợp do có sai phạm và bị xử lý kỷ luật (Cục Báo chí - Bộ Thông tin và Truyền thông, 2019). Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, năm 2021, hoạt động báo chí vẫn còn những hạn chế, cần được khắc phục. Theo đánh giá của Ban Tuyên giáo TW, thời gian qua, thông tin trên báo chí chưa toàn diện, chưa phản ánh đầy đủ hoạt động đa dạng của xã hội. Một số trường hợp, thông tin trên báo chí còn chậm, chưa kịp thời định hướng dư luận xã hội, nhất là các vụ việc phức tạp, nhạy cảm. Tính thuyết phục, xây dựng, phản biện, sức chiến đấu của một số chương trình, tin bài chính luận chưa cao, còn khô cứng, thiếu tính sáng tạo, phong phú, hấp dẫn... Kết quả công tác rà soát, đánh giá bằng công nghệ cho thấy số lượng các cơ quan báo chí hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích vẫn còn nhiều, chủ yếu là tạp chí. Kết quả thanh tra, kiểm tra 13 cơ quan tạp chí cho thấy hầu hết đều không thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích ghi trong giấy phép hoạt động báo chí. Tình trạng "báo hóa" tạp chí điện tử bước đầu được khắc phục song vẫn còn gây dư luận xấu trong xã hội; thông tin nặng về phản ánh mặt trái, tiêu cực của xã hội, tin, bài giật tít phản cảm chưa có nhiều chuyển biến. Vẫn còn tình trạng gỡ, sửa tin bài, cá biệt một số trường hợp việc sửa tin, bài có dấu hiệu tiêu cực. Vẫn còn tình trạng một số cơ quan báo chí buông lỏng công tác chỉ đạo chuyên môn, không chú trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp, thả nổi khâu duyệt tin, bài, quá chú trọng vào việc tăng nguồn thu từ hoạt động tác nghiệp báo chí mà quên mất định hướng nội dung, tôn chỉ mục đích... Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, trong năm 2021, các cơ quan quản lý báo chí đã điều chỉnh kế hoạch thanh, kiểm tra, chuyển mạnh sang hình thức giám sát, kiểm tra đột xuất theo chuyên đề khi có dấu hiệu vi phạm. Triển khai thanh tra, kiểm tra chuyên sâu về thực hiện quy định của giấy phép, thực hiện tôn chỉ, mục đích của các tạp chí, tập trung giải quyết vấn đề "báo hóa tạp chí" đã đạt được kết quả cụ thể, được xã hội đồng tình, ủng hộ. Các cơ quan chuyên môn của Bộ Thông tin và Truyền thông đã xử phạt vi phạm hành chính 20 cơ quan báo chí, tổng số tiền 780,9 triệu đồng; 11 trường hợp vi phạm quy định thông tin điện tử với tổng số tiền trên 467,5 triệu đồng; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động báo chí đối với 1 cơ quan báo chí; thu hồi thẻ nhà báo của 3 trường hợp do có sai phạm nghiêm trọng. Một hạn chế tiếp theo trong lĩnh vực báo chí đó là sự tụt hậu về công nghệ, về phương thức làm báo hiện đại trong bối cảnh truyền thông xã hội, đặc biệt là mạng xã hội nước ngoài có bước phát triển vượt bậc về khoa học, ứng dụng công nghệ. 7 Giải pháp Thứ nhất, về quản lý nhà nước về báo chí: - Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, kết hợp với sự đồng thuận trong nhân dân để phát huy vai trò của báo chí. Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan trực tiếp chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền; Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí. Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Xuất bản Việt Nam phát huy vai trò của trong việc nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, đạo đức nghề nghiệp của những người làm báo. - Tiếp tục thực hiện Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025, sắp xếp hệ thống báo chí hợp lý, tránh trùng lặp, lãng phí và phù hợp với thực tế phát triển của đất nước hiện nay. Rà soát, chấn chỉnh tình trạng cơ quan báo chí xa rời tôn chỉ, mục đích, không chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về báo chí. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí để có hành lang pháp lý sát thực tế, tạo điều kiện cho báo chí phát triển và tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về báo chí. - Nhà nước cần đầu tư có trọng điểm nhằm phát triển cơ sở vật chất hạ tầng cho các cơ quan báo chí, quy định rõ yêu cầu về nội dung cho các dòng sản phẩm báo chí. Nhà nước đầu tư cho các cơ quan báo chí chủ lực gắn với yêu cầu hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ truyền thông tiên tiến và có cơ chế khuyến khích các cơ quan báo chí tiếp cận công nghệ truyền thông tiên tiến; Đầu tư nghiên cứu, phát triển các công cụ, giải pháp kỹ thuật để quản lý tốt báo chí điện tử, thông tin mạng. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, các chương trình, đề án, dự án bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng, tăng diện bao phủ thông tin chính thống, đúng định hướng, đồng thời ngăn chặn, hạn chế tác động của thông tin độc hại, tiêu cực. - Tăng cường lãnh đạo công tác cán bộ, chỉ đạo, quản lý nội dung, định hướng chính trị của báo, về kinh tế của cơ quan báo chí. Tăng cường và thực hiện nghiêm túc việc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; rà soát, kiện toàn, bố trí cán bộ lãnh đạo và đội ngũ phóng viên báo chí, bảo đảm tiêu chuẩn chính trị, nghiệp vụ. Chỉ đạo, kiểm tra các hoạt động kinh doanh dịch vụ, tài trợ của cơ quan báo chí theo đúng quy định của pháp luật. - Tập trung xử lý căn bản các tồn tại kéo dài, như: “báo hóa” tạp chí, trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội, nhũng nhiễu cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, không tuân thủ tôn chỉ, mục đích, vi phạm đạo đức người làm báo... Thứ hai, về phía cơ quan chủ quản báo chí: - Cơ quan chủ quản báo chí chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả định hướng thông tin của Ban Tuyên giáo Trung ương; tôn chỉ, mục đích được quy định trong giấy phép hoạt động báo chí; giữ vững kỷ luật thông tin; xử lý nghiêm, kịp thời các sai phạm của cơ quan báo chí và các cá nhân liên quan. - Thực hiện trao đổi thông tin thường xuyên giữa cơ quan chủ quản báo chí với Ban Tuyên giáo Trung ương nhằm nâng cao hiệu quả chỉ đạo, định hướng thông tin. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí. - Xây dựng, hoàn thiện quy chế làm việc giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí. Thứ ba, về phía các cơ quan báo chí: - Cần nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên cả về chính trị, tư tưởng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp. - Tăng cường công tác xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các cơ quan báo chí. - Rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý, quy chế hoạt động, quy trình nghiệp vụ chuyên môn, tăng cường tính công khai, minh bạch, phát huy dân chủ, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng vị trí công tác, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. - Tăng cường chất lượng thông tin, tuyên truyền; chú trọng tính định hướng chính trị - tư tưởng, tính văn hóa, khoa học; - Chuẩn bị đầy đủ điều kiện và năng lực để chuyển dần sang in ấn, phát hành báo chí số; nâng cao chất lượng bản thảo qua sự chủ động, tích cực tìm kiếm những đề tài đúng với “hơi thở” của thời đại, đáp ứng kịp thời nhu cầu của độc giả; tăng cường năng lực ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ; lựa chọn những mảng in ấn, phát hành báo chí đặc thù để xây dựng thương hiệu riêng, độc đáo cho mình. - Phát triển thị trường báo điện tử và dịch vụ in ấn, phát hành báo chí mới trên cơ sở “kết hợp hài hòa” với thị trường báo in truyền thống. Khẳng định và nâng cao vai trò của báo chí trong việc định hướng xã hội về tính nhân văn, đạo đức, hướng tới các giá trị văn hóa như chân, thiện, mỹ, hòa bình, hội nhập, phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi trước hết mỗi cơ quan báo chí phải xây dựng và thực hiện chuẩn mực văn hóa, đạo đức trong chính đơn vị mình theo tinh thần Hội nghị Văn hóa toàn quốc; phấn đấu mỗi cơ quan báo chí là một cơ quan văn hóa tiêu biểu. 8 Câu hỏi ôn tập 1. Trong bài thuyết trình của nhóm 1 đã đưa ra mấy giải pháp về quản lý nhà nước về kinh tế? A: 1 B: 2 C: 3 D: 4 2. Đâu là ưu điểm của mô hình quản lý phi tập chung? A: Xác định rõ vai trò và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tổ chức B: Yêu cầu nhân viên có trình độ: C: Giảm chi phí: D: Chậm trễ trong công việc 3. Mô hình chung của mô hình quản lý báo chí truyền thông ở Việt Nam được chia làm mấy chủ thể ? A: 3 B:4 C: 5 D:6 4. Điền từ thích hợp vào chỗ trống cho câu sau? Mô hình quản lý phi tập trung không cần đến chức danh, cấp bậc. Quyền lực giữa các cá nhân được phân bổ như nhau. Khác với mô hình phẳng, với mô hình quản lý phi tập trung, công việc sẽ được phân công theo vai trò. 5. Theo Luật Báo chí Việt Nam 2016, Việt Nam hiện có mấy loại hình báo chí: ( đáp án: 4) 6. Đâu KHÔNG PHẢI là nhược điểm của mô hình quản lý phi tập trung? Không tuân thủ các chính sách thống nhất B. Không yêu cầu nhân viên có trình độ C. Gánh nặng tài chính D. Xung đột 7. Mô hình nào dưới đây thuộc mô hình chung quản lý NN về báo chí truyền thông ở Việt Nam hiện nay? A. Bộ Thông tin & Truyền thông (Cục báo chí). B. Các đài phát thanh truyền hình địa phương, khu vực C. Cả A và B đều sai D. Cả A và B đều đúng 8. Đâu là ưu điểm của mô hình quản lý tập trung? A. Tầm nhìn tập trung B. Cải thiện chất lượng cuộc sống C. Tăng chi phí D. Chuỗi mệnh lệnh chung chung 9. Đâu là thành tựu trong quản lý NN về báo chí truyền thông? A. Thông tin kịp thời, trung thực, toàn diện đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở trong nước và quốc tế. B. Bám sát mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tạo đồng thuận của xã hội và niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ. C. Cả A và B đều đúng D. Cả A và B đều sai 10. Một trong những đặc điểm của mô hình phi tập trung là “nhà nước không chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí truyền thông” là đúng hay sai? A. Đúng B. Sai Tự luận 1. Nhóm bạn hãy nên cho mình một vài thách thức mà lĩnh vực báo chí (truyền thông ) sẽ phải đối mặt trong thời gian tới: Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất, điều hướng nội dung, đáp ứng nhu cầu, sở thích người dùng diễn ra nhanh, đòi hỏi các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí phải có khả năng nắm bắt nhanh và dự báo sớm được tác động của xu thế này trong việc định hướng báo chí và truyền thông trên mạng. Các cơ quan báo chí cần nâng cao cảnh giác và thường xuyên kiểm soát các thông tin, bình luận khi tham gia, cập nhật thông tin lên mạng xã hội. Chuyển đổi mô hình, cách thức hoạt động sau khi thực hiện Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 đặt ra nhiều thách thức đối với các cơ quan báo chí, nhất là vấn đề sắp xếp tổ chức bộ máy và kinh tế báo chí. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động của cơ quan báo chí nói riêng vẫn tiếp tục là nguy cơ lâu dài đòi hỏi cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, tăng cường các giải pháp hỗ trợ cơ quan báo chí thực hiện chuyển đổi số, kiến nghị tăng kinh phí đặt hàng, giao nhiệm vụ cho báo chí thực hiện nhiệm vụ chính trị, thông tin thiết yếu. Tốc độ phát triển kinh tế - xã hội diễn ra nhanh, nhiều hành vi vi phạm pháp luật ngày càng tinh vi, phức tạp, nguy hiểm đòi hỏi công tác bảo vệ nhà báo, phóng viên trong quá trình tác nghiệp cần phải được coi trọng và tăng cường, nhất là đối với các phóng viên, nhà báo cũng cần phải thường xuyên học hỏi, nâng cao nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và đạo đức khi tác nghiệp. Năm 2022, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; thách thức của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh phi truyền thống; tác động của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tiềm ẩn nhiều nguy cơ khủng hoảng, suy thoái về kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Những thách thức lớn đối với hội nhập toàn cầu, xây dựng kinh tế số, xã hội số và tăng trưởng xanh, bất bình đẳng, nghèo đói và các vấn đề an sinh xã hội do ảnh hưởng của dịch Covid-19 sẽ có tác động không nhỏ tới việc phục hồi kinh tế xã hội và đời sống của người dân. 2. Tại sao quản lý nhà nước phải gắn liền với báo chí truyền thông ? QLNN về báo chí truyền thông là hoạt động của bộ máy nhà nước được giao trách nhiệm, quyền hạn QLNN về báo chí truyền thông; là hoạt động thể chế hóa và hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng về báo chí truyền thông thành pháp luật, chính sách, cơ chế của Nhà nước; thông qua đó, các chủ thể quản lý tổ chức, điều khiển, kiểm tra, giám sát có tổ chức các hoạt động liên quan đến báo chí của các đối tượng quản lý là báo chí truyền thông, các cơ quan quản lý, nhà báo theo những yêu cầu nhất định, trong khuôn khổ pháp luật, nhằm phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí truyền thông trong nước cũng như xu thế hội nhập với báo chí truyền thông thế giới; bảo đảm cho báo chí truyền thông thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin theo mục tiêu, yêu cầu đề ra. 3. Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 tới công tác quản lý báo chí truyền thông hiện nay? Trong lĩnh vực báo chí truyền thông, CMCN 4.0 tác động đến công tác quản lý và thực thi các hoạt động báo chí truyền thông ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu, từ các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước tới các doanh nghiệp, tổ chức, từ cấp lãnh đạo, quản lý đến các cấp thực thi trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Cuộc CMCN 4.0 gây ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các yếu tố của chu trình báo chí truyền thông, bao gồm chủ thể truyền thông, nội dung thông điệp, kênh truyền thông và đối tượng tiếp nhận và đến toàn bộ quá trình quản lý báo chí truyền thông: Thứ nhất, các phương tiện báo chí truyền thông truyền thống đang đối mặt với cuộc chiến sinh tồn. Xu hướng hội tụ truyền thông buộc lãnh đạo phải thay đổi cách thức quản lý, vận hành và tổ chức quy trình làm báo tại tòa soạn, cơ quan báo chí hay tổ chức truyền thông theo hướng đồng bộ, tinh gọn và hiệu quả. Những người làm truyền thông cũng cần nắm bắt những xu hướng mới trong quá trình tác nghiệp. Cách mạng công nghệ số cũng đòi hỏi các phóng viên, nhà báo, các chuyên gia trong lĩnh vực truyền thông phải có các kỹ năng tổng hợp (biết viết, biết quay phim, chụp ảnh hay biết cả đồ họa, dựng hình và lập trình). Sự phát triển của mạng xã hội cũng đòi hỏi những người làm báo và truyền thông phải có sự linh hoạt và nhạy bén để phân tích và xử lý dữ liệu, thông tin một cách nhanh chóng và chính xác đồng thời phải có kỹ năng chọn lọc và tìm ra được các góc độ tiếp cận mang tính thời sự thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội. Thứ hai, các công nghệ được sử dụng trong báo chí truyền thông không ngừng biến đổi dẫn đến sự thay đổi trong hành vi tiếp nhận các sản phẩm báo chí truyền thông của công chúng. Khác với việc tiếp nhận thông tin thụ động như trước đây, hiện nay công chúng không chỉ chủ động lựa chọn thông tin, quyết định thông tin mình muốn tiếp nhận mà còn chủ động tham gia vào quá trình truyền thông và góp phần tạo nên thông điệp cho quá trình truyền thông đó. Đặc biệt, trong thời đại CMCN 4.0, truyền thông mang đậm dấu ấn của mạng xã hội đã tạo ra thế hệ công chúng 4.0. Mạng xã hội với đặc điểm kết nối và giao lưu giữa người dùng, nên nhanh chóng trở thành “quốc gia” đông dân cư nhất. Theo thống kê của Cục dân số thế giới vào tháng 4-2017 thì dân số toàn cầu đạt 7,5 tỷ người. Như vậy tính trung bình cứ 4 người thì lại có 1 người dùng Facebook. Với sự phát triển, xâm lấn mạnh mẽ của mạng xã hội, đã thay đổi cách chúng ta giao tiếp và cách làm truyền thông với công chúng trong kỷ nguyên số. Mạng xã hội thúc đẩy tạo ra một xã hội thông tin ở đó mỗi công chúng hay khách hàng trở thành một kênh thông tin mang thương hiệu cá nhân. Mỗi công chúng thế hệ 4.0 giờ đây đều có thể trở thành kênh truyền thông. Nguồn phát thông tin không chỉ độc quyền từ phía thương hiệu hay báo chí, mà mỗi cá nhân đều có thể trở thành nguồn cung cấp. Công chúng đã vượt ra khỏi phạm vi bị động trong chu trình chiến dịch truyền thông mà trở thành người làm chủ, và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Vì vậy, những mô hình chiến dịch truyền thông phải thay đổi, hình thức và nội dung thông điệp trong các chiến dịch cũng phải biến đổi để phù hợp với cách vận hành trên mạng xã hội. Thứ ba, cùng với sự phát triển của các nền tảng báo chí truyền thông, công tác chỉ đạo, quản lý truyền thông đang gặp không ít khó khăn. Sự bùng nổ của mạng xã hội như Facebook, Youtube,... khiến cho các cơ quan chức năng khó lòng kiểm soát thông tin. Công tác quản lý báo chí truyền thông phải đối mặt với các vấn đề quản lý thông tin trên một không gian “mở” nhưng “ảo”, những vấn đề về an ninh truyền thông, hacker tin tặc, các loại tội phạm thông tin đặc biệt nguy hiểm. Do vậy, việc đưa ra biện pháp hợp lý để hạn chế ảnh hưởng xấu của các thông tin sai lệch trên mạng đối với dư luận xã hội là điều vô cùng cấp thiết. Một mặt, CMCN 4.0 có thể có tác động tích cực, tạo ra sự đồng đều về cơ hội cho tất cả các đối tượng trong xã hội đặc biệt là các nhóm yếu thế và các nhóm thiểu số, nhưng đồng thời cũng tạo cơ hội cho những đối tượng ở bên lề xã hội như những thành phần phản động, chống đối chính phủ trong phạm vi quốc gia hay thậm chí là lực lượng cực đoan, khủng bố ở phạm vi thế giới. Trên mạng xã hội, các đối tượng này thường ẩn dưới những cái tên giả hay nick ảo. Điều này khiến cho việc điều tra và truy lùng tung tích trở nên phức tạp và khó khăn hơn bao giờ hết. Mặt khác, trong thời đại CMCN 4.0, trong khi đã vươn lên 4.0, thì nơi khác có thể mới trải qua giai đoạn 3.0, 2.0, 1.0 hoặc thậm chí chưa trải qua cuộc cách mạng nào. Song họ vẫn đang đồng thời tham gia vào xã hội với những nền tảng nhận thức không đồng đều, nên dễ dẫn đến sự xung đột về sở thích, nhận thức, văn hóa... 4. Hiện nay, có rất nhiều thông tin xấu và độc hại được chia sẻ tràn lan trên không gian mạng. Vậy các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí và truyền thông cần làm gì để ngăn chặn các thông tin độc hại này? Từ góc độ là cơ quan quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông, Bộ TTTT đã và đang triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn chặn những thông tin xấu, độc hại trên không gian mạng: Thứ nhất, ngoài Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Thông tư số 09/2014/TT- BTTTT đã ban hành, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực này, Bộ TTTT đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện hàng lang pháp lý làm cơ sở cho việc thực hiện công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin. Bộ TTTT đã chủ trì xây dựng Luật An toàn thông tin. Bên cạnh đó, Bộ cũng sẽ tăng cường công tác phối hợp liên ngành với các cơ quan chức năng như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an … để phối hợp xử lý, đấu tranh. Thứ hai, nâng cao hiệu quả thực thực thi quản lý thuê bao di động trả trước để hạn chế sim rác, tin nhắn rác, tăng cường quản lý các loại hình dịch vụ nội dung trên mạng, cương quyết loại bỏ các dịch vụ nội dung không lành mạnh, vi phạm quy định của pháp luật. Để xử lý vấn đề này, đã có các văn bản như: Nghị định số 90/2008/NĐ-CP, Nghị định số 77/2012/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số 12/2008/TT-BTTTT của Bộ TTTT về chống thư rác. Đưa ra giải pháp đối phó với tình hình bùng phát một số thư điện tử giả mạo hiện nay. Tổng đài tiếp nhận phản ánh tin nhắn rác là đầu số 456. Các thuê bao di động khi nhận được tin nhắn rác có thể và nên chuyển tiếp (forward) tin nhắn này vào đầu số 456 để cơ quan chức năng nắm được và xử lý. Các tin nhắn chuyển tiếp này là miễn phí. Thứ ba, Bộ TTTT sẽ phối hợp cùng Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan, doanh nghiệp liên quan nghiên cứu, tổ chức triển khai hệ thống giải pháp kỹ thuật phù hợp với thông lệ, kinh nghiệm quốc tế để phục vụ việc đấu tranh ngăn chặn, xử lý các nguồn phát tán thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam trên mạng Internet. Thứ tư, Đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan báo chí, truyền thông trên internet; nâng cao nhận thức và tinh thần chủ động đấu tranh trên mặt trận truyền thông là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Báo chí truyền thông là công cụ sắc bén và là lực lượng đi đầu trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, tội phạm không gian ảo, nếu như chúng ta không tích cực, chủ động cung cấp thông tin thì vô hình trung sẽ tạo nên khoảng trống cho sự tồn tại của các luận điệu bịa đặt, xuyên tạc. Cung cấp thông tin một cách kịp thời, thường xuyên, chính xác, đầy đủ là sự phản bác có hiệu quả nhất đối với những luận điệu xuyên tạc, chống phá và cũng là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện yêu cầu “cần thoát khỏi thế “chống đỡ” để chuyển mạnh sang thế “tấn công” các thế lực thù địch”. Tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh này đòi lực lượng làm công tác thông tin đại chúng - những “chiến sỹ xung kích” trên mặt trận tư tưởng văn hóa phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ nghiệp vụ cao, ngòi bút sắc bén. Hiệu quả của cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch còn phụ thuộc rất nhiều vào tài trí của đội ngũ những người tác nghiệp trên Internet. Tài trí thể hiện ở chỗ vạch trần được bản chất, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, góp phần tích cực triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế của Việt Nam. Muốn vậy, lực lượng này cần được thường xuyên trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ. Trong quá trình tác nghiệp, thông tin trước khi được đưa ra và đăng tải trên Internet, những người làm báo mạng cần phải trung thực, cách tiếp cận sự kiện, cách nêu vấn đề cần phải đứng trên lợi ích lâu dài của đất nước, dân tộc; thông tin mang tính chất xây dựng, nói cái xấu để khắc phục, nêu cái tốt để khuyến khích phát triển. Thứ năm, Thường xuyên nâng cao cảnh giác, ngăn chặn mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc trên Internet của các thế lực thù địch. Trong thời đại “thế giới phẳng”, “cuộc sống số”, thông tin đang dần trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi cá nhân, tổ chức. Thông tin được khai thác trên Internet có nội dung ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều chiều. Các phương tiện tiếp nhận thông tin ngày càng hiện đại, tinh vi. Khó có thể cấm đoán công dân khai thác thông tin trong một xã hội thông tin hiện đại. Do vậy, tất yếu chúng ta phải có những giải pháp tối ưu giảm thiểu tác động của nó đến nhận thức của những chủ thể tiếp cận thông tin. Để làm tốt công tác này, cần chú trọng tới một số nội dung: - Các cấp ủy đảng chú trọng giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, trang bị phương pháp xem xét, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, khoa học. - Nâng cao cảnh giác, đấu tranh với những nhận thức không đúng, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin ngược chiều với quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Trong thời gian vừa qua, trên một số trang thông tin điện tử có máy chủ đặt ở nước ngoài liên tục đăng tải những thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, không đúng sự thật nhằm bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước ta. Đây là mưu đồ nhằm gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội, phương hại lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, cần nâng cao ý thức tự giác, kỷ luật trong quá trình tiếp xúc, xử lý thông tin. Chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin, tham gia tích cực đấu tranh chống truyền thông tin xấu, thông tin thất thiệt. Đối với các cơ quan hữu quan và cơ quan chuyên trách cần có sự phân loại thông tin và điều chỉnh những cách thức đấu tranh, hạn chế, bài trừ cho phù hợp: - Đối với nguồn tin do các thế lực phản động tự khai thác, đăng tải trên Internet và trên các trang báo mạng quốc tế đặt máy chủ ở nước ngoài, ta khó có thể tác động trực tiếp bằng luật pháp hay các công cụ quản lý. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng vẫn có thể hạn chế bằng cách kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ những thông tin đó xuất phát từ nguồn nào, khi cần có thể dùng biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn một cách kịp thời, hiệu quả. Nhưng quan trọng và căn bản vẫn là tạo sức đề kháng cho mỗi cư dân mạng để có thể chống đỡ tác động từ thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Muốn vậy cần tăng cường thông tin chính thống để thỏa mãn nhu cầu thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và đông đảo bạn bè quốc tế. - Đối với nguồn tin được cung cấp có chủ đích trong nước và nguồn tin từ báo chí của ta, chúng ta có khả năng chủ động giảm thiểu để dẫn tới khắc phục một cách căn bản bằng các giải pháp như giáo dục và thực hiện nghiêm luật và các quy định về giữ bí mật, hướng dẫn nghiệp vụ các cơ quan, tổ chức, cho đội ngũ nhà báo thường xuyên tác nghiệp trên Internet Các bộ, các ngành chức năng cùng phối hợp tổ chức tốt công tác nắm tình hình dư luận xã hội, các luồng tư tưởng, tâm lý, chủ động cập nhật thông tin về đường lối chính trị, kinh tế, chính sách đối ngoại của các nước; âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng nước ta... Từ đó, tham mưu cho Đảng, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, nhất là trên các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong nước, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Ngoài ra, tăng cường hợp tác văn hóa thông tin với các nước, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế nhưng cần đấu tranh để giữ thế chủ động; đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia, đồng thời không làm tổn hại đến quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và