You are on page 1of 39

1.

TÍNH CẤP THIẾT VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang
phải đối mặt với nạn ô nhiễm môi trường mà nguyên nhân chủ yếu là do ý thức
của con người. Vấn đề môi trường sống của con người đang bị suy thoái là vấn
đề cấp bách đối với bất kì quốc gia nào, bởi nó gây nên những hiện tượng biến
đổi khí hậu và dẫn đến thảm họa khôn lường cho toàn nhân loại. Đặc biệt là môi
trường nước. Nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người hay bất kì
sinh vật sống nào trên trái đất. Đây là một trong những nguồn tài nguyên vô
cùng quý giá. Nước cần cho mọi sự sống và phát triển. Nước vừa là môi trường,
nhưng nó cũng chính là nguồn sống. Nước vừa mang theo vô vàn lợi ích cho sức
khoẻ. Nhưng cũng chính là đầu vào, là nguyên liệu trong các hoạt động sản suất,
nông nghiệp. Nói một cách dễ hiểu, nếu trái đất không có nước sẽ không thể tồn
tại được. Thế nhưng, hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường nước đang có xu
hướng gia tăng. Vì vậy, việc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống nói
chung và môi trường nước nói riêng đang đặt ra các thách thức lớn cho các nước
trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của Hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam, đặt nền móng ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người. Giai đoạn
từ 0 - 6 tuổi rất quan trọng trong cuộc đời mỗi con người, trong giai đoạn này trẻ
phát triển rất nhanh và mạnh về mặt thể chất, tâm lý và xã hội, tạo ra tiền đề cho
sự phát triển ở các giai đoạn lứa tuổi tiếp theo, xây dựng “nền móng nhân cách”
khá vững chắc cho con người.
Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là cung cấp cho trẻ những kiến
thức sơ đẳng về môi trường phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ nhằm tạo ra
thái độ, hành vi đúng của trẻ đối với môi trường xung quanh. Để đảm bảo cho
con người được sống trong một môi trường lành mạnh thì việc giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường sống nói chung và môi trường nước nói riêng cần được hình
thành và rèn luyện từ giai đoạn lứa tuổi mầm non. Cần cung cấp cho trẻ những

1
khái niệm ban đầu về môi trường sống, từ đó biết cách sống tích cực với môi
trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh toàn diện của trẻ. Do vậy, việc
giáo dục kĩ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ lứa tuổi này là vô cùng cần
thiết và hợp lí.
Để cung cấp cho trẻ những hiểu biết về môi trường nước và giáo dục trẻ biết
cách bảo vệ môi trường nước, giáo viên mầm non có thể thông qua nhiều hoạt
động khác nhau trong trường mầm non như: hoạt động học, hoạt động đón trả
trẻ, hoạt động vui chơi, hoạt động lao động, hoạt động ngày lễ hội, … trong đó
hoạt động ngoài trời là một hoạt động phù hợp với nhiều ưu thế. Thông qua hoạt
động ngoài trời, trẻ sẽ có cơ hội tiếp xúc với các đối tượng trong môi trường
nước. Từ đó, kích thích trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm và điều chỉnh hành vi
của mình, có thái độ tích cực khi tiếp xúc với môi trường nước.
Tìm hiểu bước đầu về hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non hiện nay cho
thấy các giáo viên đã chú ý tới việc giáo dục trẻ 5-6 tuổi kĩ năng bảo vệ môi
trường nước ở trường mầm non Ninh Khang thông qua HĐNT như bỏ rác vào
nơi quy định, không vứt rác bừa bãi,biết tiết kiệm nguồn nước....Tuy vậy, việc
giáo dục bảo vệ môi trường nước chưa thường xuyên qua các hoạt động giáo
dục,chưa quan tâm cho trẻ chủ động tham gia các hoạt động trải nghiệm giúp trẻ
có kinh nghiệm hợp lý trong việc bảo vệ môi trường nước phù hợp với năng lực
của trẻ. Bên cạnh đó GVMN còn nhận thức chưa đầy đủ về bản chất của ô
nhiễm môi trường nước, các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước để có
tác động phù hợp. Mặt khác, nhiều giáo viên chưa nhận định rõ tầm quan trọng
của giờ HĐNT đối với việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường nước. Do vậy, kĩ
năng bảo vệ môi trường nước của trẻ còn hạn chế nhất định.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu “Thực trạng
giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tuổi”.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ thế kỷ XIX cho đến nay, nhiều quốc gia đã đưa ra những đạo luật về
môi trường nước như: Luật cấm gây ô nhiễm nước sông của Anh năm 1876;
Luật sông của Nhật Bản năm 1896, ...

2
Trong tuyên bố của Hội nghị Liên Hiệp Quốc năm 1972 về “Môi trường và
con người” họp tại Stockholm đã nêu: “Việc giáo dục môi trường cho thế hệ trẻ
cũng như người lớn làm sao để học có được đạo đức, trách nhiệm trong việc bảo
vệ và cải thiện môi trường”. Tiếp ngay sau sự kiện đó, chương trình môi trường
của Liên Hiệp Quốc (UNEF) cùng với các tổ chức văn hóa –khoa học –giáo dục
của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã thành lập chương trình giáo dục môi trường
quốc tế (IEEP). Cho đến tháng 10/1975, chương trình giáo dục môi trường thế
giới đã tổ chức Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về Giáo dục môi trường ở
Beograde (Cộng Hòa Liên Bang Nam Tư), tại Hội thảo đã đưa ra được một nghị
định khung và tuyên bố về những mục tiêu và những nguyên tắc hướng dẫn giáo
dục môi trường. Trong nghị định nêu rõ mục tiêu giáo dục môi trường là nhằm
nâng cao nhận thức về vai trò của môi trường và hiểu biết về môi trường; giúp
cho mỗi cá nhân xác định thái độ và lối sống tích cực đối với môi trường; có
những hành động cho một môi trường tốt đẹp hơn. Bên cạnh Luật giáo dục thì
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 3288/QĐ_BGD&ĐT ngày
2/10/1998 phê duyệt và ban hành các văn bản về chính sách và chiến lược giáo
dục môi trường trong nhà trường phổ thông Việt Nam và một số văn bản hướng
dẫn kèm theo. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức triển khai
các hoạt động giáo dục môi trường ở các trường phổ thông và trường sư phạm
trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam.
Tháng 5/2019, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ và Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã ký kết chương trình phối
hợp về công tác bảo vệ môi trường giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Tài
nguyên và Môi trường giai đoạn 2019-2025. Trong nội dung ký kết có nêu:
“Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào các
cấp học, bậc học, trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục và đào tạo gắn với bảo vệ môi trường trong giai đoạn tới”.
Trên thực tế hiện nay vấn đề giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho
trẻ 5-6 tuổi cũng được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục quan tâm tìm hiểu và
được thể hiện qua các công trình nghiên cứu:

3
- Nghiên cứu về việc giáo dục kĩ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ mầm
non. Nước ta có nhiều nhà giáo dục quan tâm việc giáo dục trẻ mầm non bảo vệ
môi trường nói chung và bảo vệ môi trường nước nói riêng. Những giáo trình
“Phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh” của tác giả Hoàng
Thị Phương; Nguyễn Thị Xuân, Hoàng Thị Oanh giúp các nhà giáo dục có cơ sở
khoa học cho việc tổ chức hoạt động làm quen với môi trường xung quanh cho
trẻ ở trường mầm non, trong đó có việc hình thành các kiến thức, kĩ năng, thái
độ bảo vệ nguồn nước cho trẻ. Đặc biệt, cuốn “Giáo trình giáo dục môi trường
cho trẻ mầm non” của tác giả Hoàng Thị Phương chỉ ra tầm quan trọng của việc
giáo dục môi trường, thực trạng các vấn nan môi trường hiện nay, chỉ dẫn cụ thể
mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục
môi trường cho trẻ mầm non. Về môi trường nước, giáo trình cũng đã chỉ ra cần
phải hình thành biểu tượng cho trẻ về môi trường nước, giáo dục trẻ biết được
mối quan hệ giữa con người và môi trường nước, vấn đề ô nhiễm nguồn nước,
nguyên nhân, giải pháp, hình thành ý thức bảo vệ nguồn nước cho trẻ ngay từ
khi còn nhỏ. Giáo trình còn khẳng định giáo dục môi trường thông qua HĐNT là
hình thức quan trọng để GDMT cho trẻ MN, để trẻ có thể dễ dàng quan sát, học
hỏi, tiếp thu kiến thức về môi trường, giúp trẻ có thể hình hành các kỹ năng bảo
vệ môi trường [ tr.10;13;28;47;76].
Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Thanh Vân “Một số biện pháp giáo
dục môi trường trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời” đã hệ
thống lí luận về giáo dục môi trường cho trẻ mầm non, chỉ ra những hạn chế
trong nhận thức và kĩ năng, thái độ của trẻ về môi trường và giáo dục môi
trường; sự quan tâm của GV đối việc về việc giáo dục môi trường cho trẻ và
những hạn chế trong việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. Tuy vậy, những
tài liệu này mới nghiên cứu chung về giáo dục môi trường nói chung nhưng nó
là một phần tư liệu quan trọng để chúng tôi khái quát thực trạng, định hướng đề
xuất biện pháp giáo dụcbảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tuổi qua HĐNT hiện
nay ở trường MN.

4
Cuốn sách “Cùng bé tập làm nhà khoa học” của Vũ Thị Diệu Thúy, Phạm
Thị Thanh Vân, Nguyễn Thị Hương Lan, Trương Hải Yến, Lê Thị Tuyết Nhung
xuất bản năm 2018 của nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã quan tâm đến việc
hình thành ở trẻ những biểu tượng về nước thông qua việc tổ chức các thí
nghiệm để trẻ có được các biểu tượng về nước, hiểu được 1 số vai trò và ứng
dụng của các đặc điểm của nước: dùng phèn chua đề làm trong nước, dùng nước
bình thường để phân biệt trứng tươi và trứng hỏng,..[tr25-58]. Đây là một trong
những gợi ý cho việc xây dựng các biện pháp giáo dục trẻ 5-6 tuổi bảo vệ môi
trường nước thông qua HĐNT mà đề tài quan tâm nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
2.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục kĩ năng bảo vệ môi
trường nước cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời ở trường mầm non
Ninh Khang và mức độ phát triển kĩ năng bảo vệ môi trường nước của trẻ , bước
đầu đề xuất biện pháp giáo dục kĩ năng bảo vệ môi trường nước qua hoạt động
ngoài trời cho trẻ 5-6 tuổi.
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường
nước cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời
2.3.2. Điều tra thực trạng việc giáo dục kĩ năng bảo vệ môi trường nước
qua hoạt động ngoài trời ở trường mầm non Ninh Khang
2.3.3. Đề xuất 1 số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước
thông qua hoạt động ngoài trời
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tuổi
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Trẻ: 50 trẻ đang học 2 lớp 5a và 5b trường mầm non Ninh Khang
+ GVMN: 20 giáo viên đang dạy lớp 5-6 tuổi tại trường mầm non Ninh
Khang và một số trường mầm non khác

5
+ Hoạt động giáo dục: Hoạt động ngoài trời
+ Thời gian nghiên cứu tháng 1 đến tháng 11 năm 2022
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài
- Phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa các vấn đề nghiên cứu có liên quan
đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4.2.1. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu điều tra (anket) với giáo viên nhằm tìm hiểu nhận thức, thái
độ về việc giáo dục kỹ năng bảo vệ nguồn nước cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non Ninh Khang.
4.2.2. Phương pháp quan sát
- Quan sát việc tổ chức hoạt động ngoài trời giáo dục kỹ năng bảo vệ môi
trường nước cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non Ninh Khang
- Quan sát biểu hiện kỹ năng bảo vệ môi trường nước của trẻ 5-6 tuổi
4.2.3 Phương pháp đàm thoại
Trao đổi, trò chuyện, phỏng vấn giáo viên và trẻ ở trường mầm non Ninh
Khang nhằm thu thập thông tin có liên quan đến đề tài. Thông qua đó biết được
kỹ năng của trẻ trong việc bảo vệ môi trường nước, đánh giá nhận thức kinh
nghiệm của giáo viên, mức độ quan tâm của nhà trường trong việc dạy trẻ kỹ
năng bảo vệ môi trường nước qua hoạt động ngoài trời.
4.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu kế hoạch dạy trẻ 5-6 tuổi kỹ năng bảo vệ nguồn nước thông qua
hoạt động ngoài trời ở trường mầm non Ninh Khang.
4.2.5 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhằm tìm hiểu kinh nghiệm của giáo viên về việc dạy trẻ kỹ năng bảo vệ môi
trường nước cho trẻ 5-6 tuổi qua hoạt động ngoài trời ở trường mầm non Ninh
Khang.
4.3. Nhóm Phương pháp thống kê toán học

6
Sử dụng công thức toán học để xử lí số liệu thu được qua khảo sát thực trạng
giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tưởi thông qua hoạt động
ngoài trời ở trường mầm non Ninh Khang
Các phương pháp trên được tiến hành chặt chẽ và bổ sung cho nhau
5. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Đóng góp về mặt lí luận
Góp phần làm phong phú thêm lí luận và thực tiễn việc giáo dục kĩ năng
bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tuổi qua hoạt động ngoài trời
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Là tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non khi
học học phần cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, nội dung đề tài gồm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước
cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời
Chương 2: Thực trạng giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6
tuổi ở trường mầm non Ninh Khang

7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
CỦA VIỆC GIÁO DỤC KĨ NĂNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
NƯỚC CHO TRẺ 5-6 TUỔI QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI TRỜI
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Kĩ năng
Kỹ năng là một vấn đề phức tạp và được các nhà nghiên cứu bàn luận khá
nhiều. Khi nghiên cứu khái niệm kỹ năng là gì, có rất nhiều quan điểm đưa ra.
Không có một khái niệm nào là cụ thể và đồng nhất về kỹ năng. Tùy thuộc vào
mỗi người sẽ có những nhận định và định nghĩa khác nhau.

Chẳng hạn như:

Theo tác giả Thái Duy Tiên: “Kỹ năng chính là sự ứng dụng kiến thức trong
hoạt động”. Đối với mỗi kỹ năng sẽ bao gồm hệ thống các thao tác trí tuệ và
thực hành và thực hiện một cách trọn vẹn hệ thống thao tác này giúp đảm bảo
đạt được các mục tiêu đã đề ra cho hoạt động. Đặc biệt sự thực hiện các kỹ năng
sẽ luôn được kiểm tra thông qua ý thức. Điều này có nghĩa mỗi khi thực hiện bất
kỳ một kỹ năng nào thì đều cần phải hướng tới mục đích nhất định.

Theo L.Đ.Lêvitôv: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó
hay một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách
thức đúng đắn, có tính đến những điều kiện nhất định”. Theo ông những người
có kỹ năng là những người phải nắm và vận dụng một cách đúng đắn về những

8
cách thức hành động giúp cho việc thực hiện hành động đạt được hiệu quả.
Đồng thời ông cũng nhấn mạnh, con người có kỹ năng không chỉ đơn thuần nắm
lý thuyết và hành động mà còn phải được ứng dụng vào thực tế.

Theo tác giả Vũ Dũng thì kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả tri thức về
phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ
tương ứng.

Hay theo tác giả Đặng Thành Hưng, kỹ năng là một dạng hành động được
thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những
điều kiện sinh học – tâm lí khác của cá nhân (tức chủ thể của kỹ năng đó), như
nhu cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân... để đạt được kết quả theo mục
đích hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo chuẩn mực hay quy
định.

Nhìn chung, các tác giả đều cho rằng kỹ năng là quá trình áp dụng những tri
thức đúng đắn mà một cá nhân tích lũy được để thực hiện mục tiêu đã đề ra.

1.1.2. Bảo vệ môi trường nước

Môi trường nước được hiểu là môi trường mà những cá thể tồn tại, sinh sống
và tương tác qua lại đều bị ảnh hưởng và phụ thuộc vào nước. Môi trường nước
có thể bao quát trong một lưu vực rộng lớn hoặc chỉ chứa trong một giọt nước.
Môi trường nước là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học tự nhiên,
kỹ thuật và cả kinh tế – xã hội.

Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ gìn phòng ngừa cho môi trường
nước trở nên trong lành, sạch đẹp. Cải thiện môi trường nước, đảm bảo cân bằng
sinh thái. Ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên
gây ra cho môi trường nước. Khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nước
nhằm giữ cho môi trường nước trở nên trong lành.

1.1.3. Hoạt động ngoài trời.

9
Hoạt động ngoài trời là một hoạt động giáo dục trong chế độ sinh hoạt hàng
ngày ở trẻ ở trường mầm non, được tổ chức ở không gian bên ngoài lớp học
nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức, vận động và vui chơi của trẻ.

1.1.4. Giáo dục kĩ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tuổi qua hoạt
động ngoài trời

Giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-6 tuổi là quá trình tác
động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục nhằm hình thành và phát triển
ở trẻ 5-6 tuổi kĩ năng nhận biết vấn đề môi trường nước, thái độ và hành vi tích
cực để giữ gìn môi trường nước.

1.2. ĐẶC ĐIỂM NHẬN THỨC VỀ MÔI TRƯỜNG NƯỚC CỦA TRẺ 5-6
TUỔI.

Các nhà nghiên cứu sư phạm đã khẳng định: lứa tuổi mầm non có vị trí vô
cùng quan trọng trong cả quá trình phát triển nhân cách của cuộc đời mỗi con
người. Sự phát triển của trẻ từ 0 – 6 tuổi là giai đoạn phát triển có tính quyết
định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực trí tuệ trong tương lai. Trẻ em tiếp
nhận ngôn ngữ, đồng thời trí tuệ của trẻ trải qua các giai đoạn phát triển chính -
từ trực quan hành động đến tư duy logic. Kinh nghiệm sống của trẻ được tích
lũy nhanh chóng, phạm vi các biểu tượng được mở rộng, và xúc cảm của trẻ
cũng trở nên dễ điều khiển. Trẻ mẫu giáo nhận thức thông qua cảm nhận trực
tiếp từ các hành động cảm giác, tri giác cụ thể sự vật, hiện tượng trong môi
trường. Sự nhận cảm này được diễn ra theo kiểu trực giác và tổng thể. Hoạt
động tư duy theo kiểu trực quan hành động, trực quan hình tượng và thường gắn
liền với cảm xúc chủ quan. Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, bên cạnh kiểu tư duy trực
quan hình tượng đang phát triển mạnh mẽ, còn xuất hiện kiểu tư duy trực quan
sơ đồ. Nhờ đó, trẻ có thể khám phá các mối liên hệ phức tạp bên trong sự vật
hiện tượng và giữa nó với môi trường. Hình thức tư duy mới này là tiền đề của
tư duy lôgíc. Bước đầu trẻ có khả năng tự đặt mục đích hoạt động, tự điều khiển
bản thân vì thế trẻ dần biết được trách nhiệm của chúng, có ý thức trong việc

10
thức hiện nghĩa vụ và cố gắng thực hiện các hành vi văn minh trong các hoạt
động và sinh hoạt. Đối tượng nhận thức về MTN của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
không còn giới hạn bởi sự nhận thức các sự vật hiện tượng đơn lẻ, các thuộc tính
bên ngoài của sự vật hiện tượng mà trẻ có mong muốn được tìm hiểu bản chất,
mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng tự nhiên, xã hội.

Nội dung nhận thức về MT của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi: Trẻ phân biệt được
yếu tố của MT xung quanh trẻ bằng nhiều đặc điểm khác nhau; mối quan hệ
giữa chúng với nhau và với con người. Trẻ thấy cần thiết phải BVMT, biết phải
làm gì để góp phần BVMT ở xung quanh trẻ và cộng đồng. Biết tôn trọng giúp
đỡ những người làm công việc làm sạch đẹp MT, có nề nếp ăn uống sạch sẽ, biết
giữ vệ sinh nhà ở, trường học, nơi công cộng; biết thực hiện những biện pháp
đơn giản nhằm góp phần BVMTN (nhặt rác, không vứt rác bừa bãi, biết phân
loại rác, sử dụng tiết kiệm nguồn nước,...). Có ý thức nhắc nhở và tỏ thái độ đối
với những người có hành vi phá hoại và làm ô nhiễm MTN.

Phương thức nhận thức về MTN của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là tư duy trực
quan hình tượng, tư duy trực quan hành động và ở trẻ bắt đầu hình thành những
yếu tố đầu tiên của tư duy logic. Tuy nhiên, nhận thức của trẻ về MTN vẫn còn
mang tính trực quan, cảm tính. Trẻ nhận biết về MTN chủ yếu thông qua hoạt
động trực tiếp. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động cho trẻ trải nghiệm, khám phá
về MTN là phù hợp với với trẻ ở độ tuổi này.

Kết quả nhận thức của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi: Trẻ phân biệt được các yếu tố
của MTXQ bằng những đặc điểm nổi bật, dễ nhận, mối quan hệ giữa chúng với
nhau và với con người; Trẻ ý thức được sự cần thiết phải BVMTN ở xung quanh
trẻ và cộng đồng; Biết tôn trọng, giúp đỡ những người làm công việc làm sạch
đẹp MTN; Trẻ có kĩ năng tự chăm sóc, bảo vệ bản thân, có nề nếp ăn uống sạch
sẽ, biết giữ gìn nhà ở, trường học, nơi công cộng; Ngoài ra trẻ bước đầu có ý
thức quan tâm đến các vấn đề MTN, nhận biết được trách nhiệm trong việc
BVMTN, khả năng vận dụng những điều đã nhận biết vào việc liên hệ với cuộc

11
sống xung quanh của trẻ tốt hơn, trẻ thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, trẻ
hiểu được ý nghĩa của việc bảo vệ MTN và trẻ biết mình phải làm gì để giữ gìn
BVMTN. Với đặc điểm nhận thức của trẻ mẫu giáo về môi trường chúng ta
cóthể thấy rằng việc giáo dục môi trường cho trẻ ngay từ nhỏ không bao giờ là
quá sớm, bởi đây là giai đoạn hình thành nhân cách, phát triển ở trẻ những định
hướng giá trị trong thế giới xung quanh. Những năng lực của trẻ ở độ tuổi này
đều được huy động nhằm hình thành nền móng ban đầu cho việc GDMTN ở trẻ,
đặt nền móng đạo đức về mối quan hệ tương tác của con người với môi trường
xung quanh.

Từ những đặc điểm nhận thức của trẻ về môi trường, trong giáo dục môi
trường cần cho trẻ lĩnh hội những hiểu biết về môi trường phải gắn với thực tế.
Môi trường trẻ cần tìm hiểu là môi trường gần gũi nhất, trước hết phải xuất phát
từ bản thân trẻ. Kiến thức được cung cấp từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức
tạp, nâng cao và mở rộng dần theo độ tuổi.

1.3. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC TRẺ 5-6 TUỔI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC

Giáo dục trẻ 5-6 tuổi bảo vệ môi trường nước hướng tới các mục tiêu sau:

- Hình thành biểu tượng về môi trường nước, mối quan hệ của con người với
môi trường nước

- Giáo dục trẻ bước đầu có ý thức quan tâm đến các vấn đề về môi trường
nước, nhận biết được trách nhiệm trong việc BVMTN

- Hình thành 1 số kĩ năng BVMTN, ứng xử tích cực trong việc giải quyết các
vấn đề về môi trường nước, bước đầu có thói quen bảo vệ môi trường nước phù
hợp với lứa tuổi.

Các mục tiêu trên có liên quan mật thiết với nhau. Việc thực hiện các mục
tiêu được bắt đầu cung cấp từ các tri thức ban đầu về sự vật và hiện tượng xung
quanh cho trẻ đến hình thành cảm xúc, tình cảm tích cực của trẻ với môi trường.

12
Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội trải nghiệm luyện tập hành vi, thói
quen đúng trong quan hệ với môi trường nói chung, với môi trường nước nói
riêng.

1.4. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC TRẺ 5-6 TUỔI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC

Mục đích giáo dục kĩ năng BVMTN cần được cụ thể hóa ở các nhiệm vụ sau
đây:

- Tạo cơ hội để trẻ có thể được tiếp cận với môi trường nước, với các thành
phần cơ bản của nó thông qua phương tiện giáo dục ở trường mầm non.

- Giúp trẻ khám phá, tìm hiểu môi trường dựa trên khả năng kinh nghiệm của
trẻ ở các lứa tuổi và đặc điểm của mỗi trẻ.

- Tạo cơ hội để trẻ được trải nghiệm thông qua các hoạt động đa dạng ở
trường mầm non

- Tạo cơ hội cho trẻ được hiểu biểu biết, suy nghĩ, xúc cảm, tình cảm với bạn
và những người xung quanh về các vấn đề về môi trường nước và việc BVMTN

- Sử dụng các hoạt động đa dạng ở trường mầm non để rèn luyện kĩ năng,
hành vi, thói quen BVMTN cho trẻ.

1.5. NỘI DUNG GIÁO DỤC TRẺ 5-6 TUỔI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
NƯỚC.

1.5.1. Cơ sở xác định nội dung giáo dục trẻ 5-6 tuổi bảo vệ môi trường
nước.

Dựa theo cuốn giáo trình GDMT cho trẻ mầm non của Hoàng Thị Phương
chúng tôi đã xây dựng được cơ sở xác định nội dung giáo dục trẻ 5-6 tuổi
BVMTN gồm có:

1.5.1.1. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục môi trường nước cho trẻ.
13
Mục tiêu giáo dục môi trường nước cho trẻ mầm non là trang bị cho trẻ tri
thức, hình thành thái độ, kĩ năng, hành vi bảo vệ môi trường nước. Do vậy, nội
dung giáo dục bảo vệ môi trường nước cho trẻ mầm non cũng phải được xác
định theo các hướng trên để đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu đặt ra

Giáo dục bảo vệ môi trường nước cho trẻ mầm non sẽ tập trung vào 4 nội
dung lớn sau:

- Hình thành biểu tượng về môi trường nước với trẻ.

- Mối quan hệ giữa con người và môi trường nước.

- Sự ô nhiễm môi trường nước.

- Bảo vệ môi trường nước.

1.5.1.2. Căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi và khả năng nhận thức của trẻ
mầm non.

Sự phát triển của trẻ diễn ra theo nhiều lĩnh vực có liên quan chặt chẽ với
nhau: thể chất, nhận thức, tình cảm, xã hội. Sự phát triển của lĩnh vực này có
ảnh hưởng đến sự phát triển của các lĩnh vực khác. Sự phát triển của trẻ diễn ra
theo các bước có thể dự đoán trước trong đó có sự phát triển khác biệt ở từng cá
nhân ở tốc độ phát triển, do vậy GV cần phải lựa chọn nội dung giáo dục phù
hợp với từng lứa tuổi và từng trẻ riêng biệt.

MTN có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của trẻ, do vậy GV cần sử dụng
MTN làm phương tiện tác động để giáo dục thái độ đúng cho trẻ trong quan hệ
với MTN.

Trẻ mẫu giáo nhận thức thông qua hoạt động cảm giác, tri giác cụ thể sự vật,
hiện tượng trong MTN. Sự cảm nhận này diễn ra theo kiểu trực giác và cụ thể.
Hoạt động tư duy theo kiểu trực quan hành động và trực quan hình tượng
thường gắn liền với cảm xúc và ý muốn chủ quan. Do vậy, nội dung giáo dục

14
cần cung cấp cho trẻ theo hướng tích hợp sẽ phù hợp với sự phát triển và đặc
điểm nhận thức mang tính tổng thể ở trẻ.

1.5.1.3. Căn cứ vào chương trình giáo dục mầm non. Chuẩn phát triển trẻ
5 tuổi.

Trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non, nội dung giáo dục
theo cấu trúc chủ đề. Đó là nội dung hoặc một phần kiến thức mà trẻ có thể tìm
hiểu khám phá theo nhiều cách khác nhau dưới sự tổ chức và hướng dẫn của
giáo viên, diễn ra trong một khoảng thời gian thích hợp.

Một chủ đề có thể bao gồm một số chủ đề nhánh. Phạm vi kiến thức và hoạt
động của một chủ đề được mở ra rất linh hoạt, không bị khép kín (từ kiến thức
cốt lõi sẽ mở rộng, cho phép trẻ tìm hiểu và lĩnh hội tùy theo khả năng của lứa
tuổi và từng trẻ riêng biệt). Kiến thức trong một chủ điểm thường mang tính tích
hợp, nghĩa là để có được sự hiểu biết đầy đủ về một chủ đề nào đó, người dạy
hoặc người học phải vận dụng tri thức từ các ngành khoa học khác nhau như: tự
nhiên, khoa học xã hội, nghệ thuật, sức khỏe và dinh dưỡng...

Do vậy, để xác định nội dung giáo dục BVMTN cho trẻ mầm non, cần phải
nắm được hệ thống các chủ điểm có trong chương trình chăm sóc và giáo dục
trẻ, sự phân bố các chủ đề đó trong suốt năm học và yêu cầu nâng cao dần về nội
dung của nó ở các lứa tuổi. Từ đó, sẽ xác định các nội dung giáo dục môi trường
nước qua các chủ đề. Dựa vào việc thiết kế mạng hoạt động sẽ xác định giáo dục
BVMTN trong các hình thức giáo dục trẻ ở trường mầm non.

Chương trình GDMN đã có định hướng cho GV mầm non xác định các chủ
đề thông qua các nội dung mà chương trình xác định. Chương trình cũng đã xác
định nội dung mà GV bao gồm: các nguồn nước có trong sinh hoạt; ích lợi của
nước đối với con người và con vật, cây cối; một số đặc điểm tính chất của nước;
nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước và cách bảo vệ nguồn nước. Và
CTGDMN còn thể hiện rõ kết quả mong đợi sau khi giáo dục trẻ. Trẻ tò mò tìm

15
tòi, khám phá các sự vật, hiện tượng: Tại sao có mưa?... Trẻ biết phối hợp các
giác quan để quan sát, xem xét, thảo luận về sự vật, hiện tượng như sử dụng các
giác quan khác nhau để xem xét lá, hoa, quả... và thảo luận về đặc điểm của đối
tượng. Trẻ làm được các thí nghiệm và sử dụng công cụ đơn giản để quan sát, so
sánh, dự đoán, nhận xét và thảo luận. Ví dụ: Thử nghiệm gieo hạt/trồng cây
được tưới nước và không tưới, theo dõi và so sánh sự phát triển.
Ngoài ra, trẻ thu thập thông tin về đối tượng bằng nhiều cách khác nhau: xem
sách tranh ảnh, băng hình, trò chuyện và thảo luận. Biết nhận xét được mốiquan
hệ đơn giản của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: “Nắp cốc có những giọt nước do
nước nóng bốc hơi”. Giáo dục để trẻ biết giải quyết vấn đề đơn giản bằng các
cách khác nhau. Biết nhận xét, thảo luận về đặc điểm, sự khác nhau, giống nhau
của các đối tượng được quan sát. Thể hiện hiểu biết về đối tượng qua hoạt động
chơi, âm nhạc và tạo hình.

1.5.2. Một số nội dung giáo dục trẻ 5-6 tuổi bảo vệ môi trường nước.

Thống nhất giữa CTGDMN và giáo trình Giáo dục môi trường cho trẻ mầm
non chúng tôi xác định nội dung giáo dục trẻ 5-6 tuổi BVMTN bao gồm:

- Biểu tượng về môi trường nước: biết được tên gọi, đặc điểm, tính chất,...của
các nguồn nước trong môi trường sống.

- Mối quan hệ giữa con người và môi trường nước:

Sự cần thiết của nước đối với sự sống của con người và các loài động vật,
thực vật sống trên trái đất, nó cần cho việc duy trì sự sống, sinh hoạt.

Con người tác động đến nước làm thay đổi môi trường nước, có những tác
động tích cực như xây hồ, đập chứa nước; xử lý,lọc nước sạch; vệ sinh môi
trường nước,... Bên cạnh đó cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường
nước như sử dụng lãng phí nguồn nước, xả rác thải sinh hoạt, rác thải công
nghiệp,.. làm ô nhiễm môi trường nước.

16
- Ô nhiễm môi trường nước

Ô nhiễm môi trường nước là việc nguồn nước tại các ao, hồ, sông, suối,
kênh, rạch, mạch nước ngầm, biển…. chứa các chất độc hại với hàm lượng cao
gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người và động thực vật.

Nguyên nhân ô nhiễm môi trường nước được chia thành 2 loại:

+ Ô nhiễm môi trường nước có nguồn gốc tự nhiên chủ yếu là do xác chết
động vật lâu ngày bị phân hủy và ngấm vào lòng đất, chảy vào mạch nước
ngầm, hay các thiên tai bão lũ khiến các nguồn nước bị ô nhiễm lẫn vào các
dòng nước sạch làm ô nhiễm cục bộ nguồn nước.

+ Ô nhiễm môi trường nước có nguồn gốc nhân tạo là do các hoạt động sống
của con người (nước thải sinh hoạt, hoạt động sản xuất công nghiệp, hoạt động
sản xuất nông nghiệp, do rác thải y tế,...) Đây là nguyên nhân chủ yếu gây ra
tình trạng ô nhiễm môi trường nước trầm trọng hiện nay.

Ô nhiễm môi trường nước không những  gây hậu quả nguy hiểm trực tiếp tới
sức khỏe, đời sống của con người, động thực vật trên địa cầu mà còn kéo theo
nền kinh tế ngày càng sụt giảm.Sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm lâu ngày sẽ tăng
nguy cơ mắc các bệnh về đường ruột, dịch tả, các bệnh lý về da, nguy hiểm hơn
còn khiến chúng ta ngộ độc, mắc các bệnh như ung thư, dị tật bẩm sinh ở trẻ
nhỏ….Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tuổi thọ và năng suất làm
việc của con người chúng ta.Các hóa chất, vi khuẩn tồn tại trong nước khiến cho
các sinh, thực vật chết dần chết mòn, làm mất cân bằng hệ sinh thái.Khi con
người sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm sẻ khiến sức khỏe giảm sút, kéo theo
năng suất làm việc ngày càng kém. Làm mất mỹ quan đô thị khi lượng rác thải
và nước thải bốc mùi hôi thối khó chịu. Chính những tác nhân đó làm kìm
hãm sự phát triển kinh tế của xã hội.

- Bảo vệ môi trường nước:

17
+ Nâng cao ý thức cộng đồng,giữ gìn vệ sinh môi trường sống, tham gia các
hoạt động vệ sinh môi trường.

+ Xử lí nước thải và phân loại rác trước khi thải ra môi trường.

+ Sử dụng tiết kiệm nguồn nước sạch.

+ Giảm thiểu tối đa việc sử dụng túi nilong, nhựa dùng 1 lần, thay vào đó là
sử dụng túi tự phân hủy, túi giấy, các loại vật dụng từ vật liệu thiên nhiên.

+ Hướng tới nền nông nghiệp xanh, hạn chế việc sr dụng thuốc trừ sâu, phân
bón hóa học

+ Tận dụng các sản phẩm có thể tái chế

1.5.3. Khai thác nội dung giáo dục trẻ 5-6 tuổi bảo vệ môi trường nước
trong giáo dục mầm non.

Việc chuyển nội dung giáo dục BVMTN vào các cơ sở giáo dục mầm non
được thể hiện thông qua quá trình khai thác nội dung các chủ đề giáo dục.
Chương trình giáo dục trẻ mầm non được thiết kế theo hướng tích hợp thông qua
các chủ đề giáo dục đã tạo ưu thế cho việc giáo dục BVKK cho trẻ.

Quá trình khai thác nội dung giáo dục BVKK trong các chủ đề giáo dục được
tiến hành theo các bước sau đây:

Bước 1: Phân tích chủ đề giáo dục

Cần phải hiểu rõ cách thiết kế chủ đề giáo dục để xác định các cơ hội chuyển
nội dung giáo dục không khí vào các chủ đề giáo dục trẻ ở trường mầm non.
Chủ đề giáo dục tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục không khí cho trẻ
mầm non nhờ có một số đặc trưng sau:

18
- Tích tích hợp của nội dung mỗi chủ đề tạo điều kiện cho việc khai thác tất
cả các nội dung giáo dục BVKK trong mối quan hệ theo quy luật vận động của
tự nhiên xung quanh.

- Tính mở của mỗi chủ đề cho phép GV dễ dàng khai thác nội dung giáo dục
BVMTN một cách linh hoạt, phù hợp với lứa tuổi, khả năng của từng trẻ và tình
hình thực tế của địa phương.

- Tính độc lập tương đối của mỗi chủ đề giúp cho việc triển khai nội dung
giáo dục BVMTN theo một quy trình hoàn chỉnh thông qua các hoạt động đa
dạng của trẻ ở trường mầm non nhằm trang bị kiến thức, hình thành kỹ năng,
thái độ BVMTN cho trẻ.

Việc phân tích các chủ đề giáo dục cụ thể cần tiến hành dựa trên đặc trưng
chủ điểm với tính chất khác nhau về nguồn tri thức. Điều này quy định logic
hoạt động nhận thức nhằm khám phá chủ đề đó và còn phụ thuộc vào đặc điểm
lứa tuổi với năng lực trí tuệ, thể chất, đặc điểm xúc cảm, tình cảm của trẻ trong
mối liên quan tới việc khám phá chủ đề.

Bước 2: Xác định nội dung giáo dục BVMTN trong chủ đề

Các nội dung giáo dục BVMTN đều có thể triển khai thông qua các chủ đề
giáo dục. Tuy nhiên, mức độ đưa các nội dung này phụ thuộc vào đặc trưng chủ
đề, đặc điểm hoạt động nhận thức và lứa tuổi. Cần đảm bảo các yêu cầu sau đây
khi đưa nội dung giáo dục BVMTN vào các chủ đề giáo dục:

- Đảm bảo tính tự nhiên, hợp lí, khách quan của logic khám phá chủ đề. Nội
dung giáo dục không khí phải là một phần tri thức không tách rời của chủ điểm.
Đó là các tri thức mang tính khách quan xuất phát một cách tự nhiên từ nội dung
chủ đề, có tác dụng làm tăng ý nghĩa thực tiễn của nội dung chủ đề và gắn liền
với cuộc sống của trẻ.

19
- Đảm bảo tính hệ thống, trọn vẹn nội dung tri thức của chủ đề. Nội dung tri
thức giáo dục BVMTN đưa vào chủ điểm được xác định ở mức độ cần thiết giúp
cho trẻ có thể lĩnh hội được dựa trên khả năng nhận thức của chúng, với liều
lượng hợp lí để có thể hình thành thái độ đúng với môi trường không khí.

- Đảm bảo tính vừa sức cho trẻ. Cần tránh hiện tượng khai thác nội dung giáo
dục BVMTN cho trẻ mang tính hình thức (tiến hành một cách sơ sài hay rập
khuôn máy móc, gây ra cảm giác đơn điệu, nhàm chán) hoặc hiện tượng khai
thác quá tải làm rối loạn quá trình khám phá chủ điểm của trẻ. Đồng thời, cần
chú ý ưu tiên lựa chọn các nội dung hấp dẫn, thiết thực, gần gũi đối với trẻ.

Bước 3: Cụ thể hóa nội dung giáo dục BVMTN qua các hoạt động của trẻ ở
trường mầm non

Dựa vào đặc trưng các hoạt động của trẻ ở trường mầm non để xác định ưu
thế của các hoạt động này đối với việc giáo dục BVMTN cho trẻ nhằm mục đích
chuyên nội dung giáo dục BVMTN thành thái độ, hành vi của trẻ đối với môi
trường xung quanh. Cần làm rõ logic nhận thức của trẻ trong quá trình tham gia
vào các hoạt động cơ bản của trẻ ở trường mầm non để xác định mức độ và liều
lượng đưa nội dung giáo dục BVMTN vào các hoạt động này. Mặc dù mỗi hoạt
động có đặc trưng riêng, nhưng nhìn chung logic nhận thức của trẻ thường trải
qua các giai đoạn:

Giai đoạn 1: Khảo sát. Các hoạt động của trẻ ở trường mầm non thường được
bắt đầu bằng việc cho trẻ tiếp cận với đối tượng nhận thức được xác định trong
chủ điểm giáo dục. Trong quá trình này trẻ có nhiều cơ hội để sử dụng các để
khảo sát đối tượng. Nếu GV có dự chuẩn bị chu đáo về môi trường, tâm thế cho
trẻ và điều khiển hợp lí hoạt động của trẻ thì chúng sẽ hứng thú, tích cực, chủ
động và tự tích lũy được nhiều tri thức có liên quan đến đối tượng.

Giai đoạn 2: Hình thành khái niệm. Tri thức về đối tượng do trẻ tự tìm kiếm
được trong quá trình khảo sát đối tượng thường không đầy đủ, đôi khi thiếu

20
chính xác và đặc biệt là chưa hệ thống hóa, khái quát hóa. Do vậy, cần giúp trẻ
có biểu tượng, khái niệm đúng về sự vật, hiện tượng xung quanh và nó là cơ sở
để tạo ra thái độ đúng của trẻ.

Giai đoạn 3: Ứng dụng. Đây là giai đoạn quan trọng giúp trẻ lưu giữ thông
tin mà chúng lĩnh hội được về đối tượng. Với ý nghĩa giáo dục BVMTN thì đây
là cơ hội cho trẻ thể hiện thái độ đúng với sự vật, hiện tượng môi trường xung
quanh. Kết quả của nó là tri thức về giáo dục BVMTN được củng cố, kĩ năng
ngày càng phát triển và thái độ của trẻ đối môi trường với không khí ngày càng
trở nên có ý thức được thể hiện ở khía cạnh nhận thức, thẩm mĩ mà hành động
thực tế.

Như vậy, giai đoạn 1 và 2 của quá trình tổ chức các hoạt động của trẻ ở
trường mầm non cần cho việc hình thành các khái niệm BVMTN có liên quan
đến chủ điểm giáo dục; giai đoạn 3 của quá trình tổ chức các hoạt động của trẻ
có ưu thế đối với việc hình thành các việc làm BVMTN.

1.6. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC TRẺ 5-6 TUỔI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG NƯỚC

Trong giáo dục, phương pháp được định nghĩa là phương thức hoạt động gắn
bó giữa giáo viên và trẻ nhằm đạt được những nhiệm vụ giáo dục.

1.6.1. Phương pháp dạy học theo dự án.

Ngoài phương pháp giáo dục truyền thống đang được áp dụng rộng rãi thì
hiện nay giáo dục Việt Nam cũng đã tiếp cận và triển khai nhiều phương pháp
giáo dục hiện đại trên thế giới, trong đó có thể kể đến Phương pháp dạy học dự
án trong giáo dục mầm non.

Phương pháp dạy học dự án là phương pháp cho trẻ nghiên cứu sâu một đề
tài cụ thể. Trong quá trình khám phá, trẻ được tự lên kế hoạch, tự thực hiện và
điều hành các hoạt động trải nghiệm của chính mình, giáo viên chỉ có vai trò

21
định hướng, hỗ trợ trẻ trong các hoạt động. Dạy học dự án có mối liên hệ chặt
với Chương trình Khung của Bộ GD&ĐT ở các mảng kiến thức và kỹ năng cần
đạt trên trẻ ở từng độ tuổi.

Dạy học Dự án là một hình thức dạy học trong đó trẻ đóng vai trò trung tâm,
dưới sự giúp đỡ của cô giáo, trẻ tự giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính
phức hợp nào đó cả về lý thuyết lẫn thực hành. Qua đó trẻ tạo ra được các sản
phẩm của mình và có thể giới thiệu chúng với mọi người.

Với phương pháp Dạy học Dự án, giáo viên không còn giữ vai trò chủ đạo
mà là người hướng dẫn, giúp đỡ, tạo môi trường, tạo vai trò cho trẻ trong dự án.
Theo đó, tính tự lực, tích cực tham gia vào các hoạt động của trẻ được nâng cao;
đòi hỏi, khuyến khích và phát triển sự sáng tạo, tính trách nhiệm, kĩ năng làm
việc nhóm và đặc biệt phát triển ở trẻ kỹ năng tư duy, giải quyết các vấn đề phức
hợp.

Katz và Chard(1989) đã nêu ra 5 mục đích cơ bản của phương pháp dạy học
theo dự án như sau:

- Mở rộng và tăng cường sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh. Phát
huy ở trẻ khuynh hướng học tập tích cực, chủ động và sáng tạo.

- Tăng cường các hoạt động học tập theo chủ đề mà nội dung học tập

được triển khai thông qua việc giảng dạy có hệ thống hoặc các trò chơi mang
tính chất tự nguyện, tự giác.

Kết hợp chặt chẽ giữa cuộc sống sinh hoạt của trẻ với thực tiễn học tập ở
trường để không có khoảng cách và sự khác biệt giữa cuộc sống sinh hoạt của
trẻ với các hoạt động của trẻ ở trường mầm non.

22
- Giúp trẻ phát triển nhận thức về ý nghĩa quan trọng của việc học tập và làm
việc theo nhóm, hình thành và phát triển những tình cảm gắn bó với tập thể, bạn
bè.

- Giáo viên phải biết tạo ra các tình huống có vấn đề, khuyến khích trẻ suy
nghĩ và sáng tạo để tìm ra câu giải đáp bằng nhiều cách thức khác nhau.

Với những ý nghĩa như vậy thì phương pháp dạy học theo dự án được coi là
một trong những cách thức hiệu quả để giáo dục BVMTN cho trẻ.

Các bước triển khai phương pháp dạy học theo dự án để giáo dục BVKK cho
trẻ bao gồm:

Bước 1: Lựa chọn dự án

Ở bước này, GV hướng dẫn trẻ lựa chọn một chủ đề là một nội dung giáo dục
BVMTN. GV có thể dựa vào những quan sát hằng ngày về những quan
tâm,hứng thú của trẻ hoặc khơi gợi trẻ tò mò về một vấn đề của môi trường
nước.

Bước 2: Chuẩn bị

- Xây dựng mạng dự kiến: Mạng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức của
GV về chủ đề BVMTN đó. GV dự định những nội dung và hoạt động có khả
năng mang lại hiệu quả giáo dục cao.

- Lựa chọn những khái niệm trọng tâm về chủ đề giáo dục BVMTN đã chọn.

- Xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động và nội dung học tập.

- Chuẩn bị tài liệu và các đồ dùng cần thiết.

- Thông báo cho phụ huynh được biết:Trước khi tiến hành vào chủ đề, GV
gửi thông báo về nội dung, mục đích, thời gian tiến hành cụ thể cho phụ huynh

23
biết. Qua đó, GV nhận được sự hợp tác, giúp đỡ, đóng góp cần thiết để các nội
dung được diễn ra thuận lợi và hiệu quả hơn.

Bước 3: Thực hiện dự án

Mở đầu: Trò chuyện, trao đổi ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm với trẻ để

khơi gợi hứng thú và kích thích trẻ thể hiện những hiểu biết và kinh nghiệm của
bản thân mình về chủ đề giáo dục BVMTN. GV tập hợp ý kiến và cùng nhau
xây dựng chủ đề giáo dục BVMTN. Trên cơ sở đó, xây dựng hệ thống câu hỏi
và kế hoạch cho hoạt động. Thông qua kế hoạch hoạt động này GV có thể nắm
bắt và dự tính trước khả năng tiến hành của hoạt động chủ đề, cũng như chuẩn bị
và dự tính được trước những thông tin hoặc tài liệu cần thiết trong khi tiến hành
các hoạt động theo chủ đề giáo dục BVMTN.

- Triển khai:

+ Hoạt động tại lớp học: Trẻ em sẽ tiến hành các hoạt động điều tra, tìm kiếm
phát hiện những điều mà chúng còn muốn tìm hiểu qua các đối tượng là bạn bè
ở lớp, hỏi bố mẹ và những người lớn xung quanh, hoặc trẻ có thể tự tìm hiểu qua
chuyện tranh, sách báo, các phương tiện truyền thông hoặc qua cuộc sống sinh
hoạt hàng ngày của trẻ.

+ Tham quan học tập thực tiễn: Tìm kiếm địa điểm phù hợp nhất với chủ đề
sau đó cho trẻ đi tham quan, quan sát học tập thực tiễn. Để việc tham quan, học
tập thực tiễn của trẻ mang lại hiệu quả giáo dục hoạt động của trẻ phải được tiến
hành như sau:

• Quan sát quá trình hoạt động một cách tổng thể đặc biệt là điều tra và ghi
chép những điều mà trẻ tận mắt chứng kiến.

24
• Đưa ra nhiều các câu hỏi, mạnh dạn trình bày những thắc mắc của bản thân
với những người mà trẻ gặp ở nơi tham quan. Lắng nghe tiếp thu những lời giải
đáp.

Khi tham quan cô giáo nên động viên khích lệ để trẻ có thể ghi chép lại
những nội dung cũng như những hình ảnh thực mà trẻ được tận mắt nhìn thấy
bằng chữ viết, tranh ảnh, chữ số, chụp ảnh, đo đạt.

Sau khi kết thúc hoạt động tham quan học tập thực tiễn trẻ chở về lớp cùng
nhau thảo luận, trao đổi ý kiến, trình bày những kết quả mà chúng đã đạt được
trong khi tham quan học tập thực tiễn.

Để giúp cho trẻ có hiểu biết sâu thêm về những điều mà trẻ đã học tập được,
sau khi đã tiến hành các hoạt động nói trên giáo viên sẽ mời một nhà chuyên
môn hoặc người có nhiều kinh nghiệm phong phú liên quan đến dự án đang tiến
hành đến thăm lớp và trò chuyện, chia sẻ những kinh nghiệm cùng trẻ cũng như
trả lời và giúp trẻ những giải đáp mọi thắc mắc về chủ đề.

Để chuẩn bị cho buổi lễ tổng kết và trưng bày các sản phẩm của quá trình
hoạt động về chủ đề, cho trẻ cùng nhau suy nghĩ, thảo luận để cùng nhau làm ra
một sản phẩm tập thể hướng về chủ đề.

Bước 4: Đánh giá kết quả dự án và lên kế hoạch cho dự án tiếp theo

Ở bước đánh giá, trẻ trưng bày tất cả các sản phẩm cua toàn bộ quá trình hoạt
động theo chủ đề BVKK cho bố mẹ và GV cũng như các bạn ở trong lớp và các
lớp khác biết. Qua đó cùng thông báo về nội dung, các sản phẩm cũng như quá
trình diễn ra các hoạt động và nội dung các hoạt động cho mọi người biết. GV
để trẻ có cơ hội được tự đánh giá sản phẩm cũng như kết quả hoạt động cùng
nhau theo dự án. Trên cơ sở đó, GV cũng khơi gợi những ý tưởng tiếp theo của
trẻ về các chủ đề mới làm nền tảng xây dựng các dự án tiếp theo.

1.6.2. Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề

25
Một trong những cách thức thúc đẩy khả năng nhận thức cũng như hứng thú,
tích cực của trẻ là đặt trẻ vào những tình huống có vấn đề. Khi đó trẻ phải tìm ra
các cách khác nhau để phải quyết vấn đề đó. Nhờ vậy, trẻ phát triển khả năng
phân tích, so sánh của bản thân.

Phương pháp này được triển khai theo các bước cơ bản sau:

Bước 1: Xác định vấn đề môi trường nước

Trước khi hoạt động, GV khơi gợi hứng thú, định hướng hoạt động của trẻ và
kích thích trẻ tham gia tích cực, chú ý đến vấn đề môi trường nước. Đảm bảo trẻ
cảm thấy bất ngờ, phấn khích với vấn đề trẻ tìm thấy, hướng quan sát của trẻ gần
hơn đến vấn đề môi trường nước.

Bước 2: Phân tích và đánh giá

- Phân tích: Khả năng phân tích giúp cho việc nắm tri thức một cách có thức.
Trẻ MN có thể tiến hành các phân tích đơn giản và phức tạp. Việc phân tích đơn
giản giúp trẻ nhận ra các dấu hiệu bên ngoài của sự vật hiện tượng và tương ứng
với nó là sự tổng hợp giúp cho việc lĩnh hội tri thức một cách tổng thể. Những
phân tích phức tạp đòi hỏi phải xem xét mối liên hệ và sự phụ thuộc giữa các
dấu hiệu đã nêu ra trong quá trình phân tích đơn giản. Còn sự tổng hợp lại giúp
cho trẻ hiểu được mối liên hệ chủ yếu tồn tại trong đó.

So sánh: Trong quá trình tổ chức hoạt động, GV thường đặt ra những nhiệm
vụ so sánh các dấu hiệu giống và khác nhau. Quá trình so sánh sẽ hình thành ở
trẻ biểu tượng và tình cảm cụ thể, rõ ràng, thái độ đánh giá có ý thức hơn. Cần
nhớ rằng, trẻ mầm non thường dễ so sánh các dấu hiệu tương phản hơn là các
dấu hiệu tương đồng. Do vậy, cần dạy trẻ cách phân biệt các dấu hiệu khác nhau
trước khi yêu cầu chúng nêu các dấu hiệu khác nhau.

26
Đánh giá: Dưới sự hướng dẫn của giáo viên cùng với những so sánh,phân
tích về vấn đề, trẻ sẽ đưa ra những nhận xét, những cảm nhận cũng như ý kiến
cá nhân của bản thân về vấn đề đó.

Vì thế, khi dạy trẻ kỹ năng BVMTN thì GV cần tích cực đưa ra các vấn đề
khác nhau để trẻ so sánh, phân tích tìm ra mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng, tìm ra nguyên nhân hay so sánh các cách giải quyết để tìm ra cách thức
tốt nhất để giải quyết.

Bước 3: Đề xuất giải pháp

Trên cơ sở những kết quả của quá trình tìm hiểu, phân tích và đánh giá,

trẻ tự đưa ra những giải pháp cho vấn đề môi trường không khí. Tạo cơ hội cho
trẻ được bộc lộ ý tưởng về cách giải quyết vấn đề của trẻ. Khi trẻ tự tìm ra được
cách làm, trẻ sẽ dễ dàng ghi nhớ và thực hiện.

Bước 4: Thực hiện giải pháp

Tùy vào điều kiện của lớp, GV cho trẻ trực tiếp thực hiện các giải pháp đưa
ra. Có thể cho trẻ lên kế hoạch để thực hiện các giải pháp lâu dài. Chẳng hạn, trẻ
đưa ra các giải pháp p. GV có thể sử dụng các thùng bia được dán màu xanh và
màu đỏ và yêu cầu trẻ thực hiện phân loại và bỏ.

1.6.3. Phương pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm

Giáo dục theo hướng trải nghiệm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong

việc đạt được mục tiêu hình thành cho trẻ những năng lực chung. Tổ chức hoạt
động theo hướng trải nghiệm được hiểu là quá trình tác động có hệ thống của
nhà giáo dục đến trẻ thông qua các hoạt động thực tiễn để trẻ bằng vốn kinh
nghiệm cá nhân tự mình chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, thái độ để tạo thành kinh
nghiệm riêng của bản thân.

27
Quy trình tổ chức hoạt động trải nghiệm bao gồm 4 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: Trải nghiệm thực tế của trẻ: Trẻ được trực tiếp tham gia vào các
hoạt động do giáo viên tổ chức để tích lũy kinh nghiệm sống khác nhau. Giai
đoạn này bao gồm các công việc như sau:

- Lựa chọn chủ đề/ đề tài hoạt động: dựa vào chương trình giáo dục mầm non
để xác định chủ đề, sự kiện hấp dẫn, phù hợp với trẻ nhằm định hướng tới đối
tượng trải nghiệm.

1.6.4. Phương pháp sử dụng trò chơi


Trong giáo dục BVMTN cho trẻ mầm non, trò chơi được sử dụng như một
phương pháp giáo dục rất có hiệu quả. Nó giúp tăng cường hiệu quả lĩnh hội tri
thức ở trẻ, củng cố xúc cảm, làm cho quá trình nhận thức tự nhiên và hấp dẫn
hơn. Các trò chơi học tập, vận động, đóng vai không chỉ có giá trị trong việc
củng cố tri thức, kĩ năng cho trẻ mà luôn tạo được xúc cảm, hứng thú của trẻ
trong quá trình nhận thức. Trò chơi học tập có tác dụng củng cố, làm chính xác,
mở rộng tri thức của trẻ về sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội xung quanh; phát
triển trí nhớ, chú ý cho trẻ; tạo cơ hội cho trẻ học cách vận dụng tri thức vào
hoản cảnh mới; giúp trẻ khái quát hóa, hệ thống hóa tri thức; làm phong phú vốn
từ và phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Có thể sử dụng các loại trò chơi học
tập như: trò chơi với các vật liệu tự nhiên, trò chơi với tranh ảnh, trò chơi dùng
lời...
Trò chơi vận động là những hành động mô tả hành vi, hình tượng về cuộc
sống của động, thực vật, phản ánh sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra
xung quanh. Trò chơi vận động có tác dụng củng cố, làm sâu sắc hơn các dấu
hiệu đặc trưng của động, thực vật, lao động của người lớn, mối quan hệ và sự
phụ thuộc của sự vật và hiện tượng xung quanh, giáo dục tình cảm gắn bó, kích
thích hứng thú của trẻ với môi trường nước, giúp trẻ thay đổi trạng thái nặng nề
và giải tỏa căng thẳng về trí tuệ.

28
Trò chơi sáng tạo là trò chơi phản ánh những tri thức, ấn tượng trẻ tiếp nhận
được trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày. Trò chơi sáng tạo bao gồm các trò
chơi đóng vai, xây dựng, trò chơi với các vật liệu tự nhiên như cát, sỏi, nước.
Trò chơi sáng tạo có tác dụng mở rộng, bổ sung tri thức cho trẻ về hoạt động của
người lớn, các mối quan hệ trong quá trình sống và hoạt động của con người,
củng cố biểu tượng về thế giới xung quanh; phát triển chú ý, trí nhớ và sự tưởng
tượng phong phú ở trẻ.
1.6.5. Phương pháp sử dụng các phương tiện nghệ thuật
Hiệu quả tích hợp giáo dục BVMTN cho trẻ mầm non sẽ được nâng cao nếu
nó được trẻ lĩnh hội trong các dạng hoạt động có nội dung phong phú và mối
quan hệ logic. Một trong những hoạt động được ưa thích của mầm non chính là
hoạt động nghệ thuật. Thông qua âm nhạc, nhảy múa, đóng kịch, tạo hình... tiếp
nhận các tri thức về không khí và BVMTN một cách tự nhiên và nhiều cảm xúc.
Bước 1: Lựa chọn nội dung tác phẩm có nội dung giáo dục nước
Trước hết, GV cần dựa vào mục tiêu giáo dục BVMTN đã được xác định kế
hoạch để xây dựng nội dung hoạt động nói chung và hoạt động nghệ thuật nói
riêng. Tìm kiếm trên các nguồn khác nhau để có được kho nội dung câu chuyện,
bài thơ, bài hát, các tác phẩm hội họa ...liên quan đến chủ đề môi trường nước
phù hợp với từng độ tuổi trẻ.
Một số điểm cần lưu ý khi lựa chọn tác phẩm nghệ thuật có nội dung giáo
dục môi trường nước:
- Dung lượng không quá dài gây nhàm chán và quá tải nội dung khiến trẻ khó
ghi nhớ và hiểu được.
- Nội dung liên quan trực tiếp đến vấn đề môi trường nước cần giáo dục.
- Đảm bảo nguồn đáng tin cậy.
- Có tính vui tươi, hài hước với các tác phẩm âm nhạc, bài thơ, câu truyện.
- Đa dạng các thể loại, chất liệu khác nhau.
- Lưu ý đến khả năng lĩnh hội các tác phẩm của trẻ.

29
Các tác phẩm nghệ thuật của các tác giả nổi tiếng không chỉ cung cấp thông
tin cho trẻ về một sự vật, hiện tượng nào đó mà còn tác động đến tâm hồn tình
cảm của trẻ nhỏ, hình thành ở chúng những tình cảm cao đẹp.
Bước 2: Phân tích tác phẩm để xác định nội dung giáo dục môi trường nước
cần trong hoạt động.
Bước 3: Sử dụng tác phẩm trong tổ chức hoạt động
Để tạo tính tích cực xúc cảm, đôi khi GV cần nghĩ cách làm cho trẻ cười và
cùng cười với trẻ. Trạng thái vui vẻ không những làm cho trẻ chú ý đến GV, đến
đối tương nhận thức, mà còn làm cho chúng chú ý đến những gì GV yêu cầu trẻ
làm. Trẻ nhỏ rất thích các hoạt động nghệ thuật, nếu GV biết sử dụng nó một
cách hợp lý sẽ làm cho hoạt động trở nên hấp dẫn và dễ thực hiện. Những đoạn
thơ, ca dao, đồng dao có nhịp điệu nhanh, câu chuyện vui nhộn, các tình huống
kịch bất ngờ sẽ tạo bầu không khí thoải mái, gần gũi giữa giáo viên và trẻ. Đồng
thời các nội dung tích hợp được lồng ghép trong đó cũng được truyền tải một
cách khéo léo và giúp trẻ dễ tiếp nhận.
Sử dụng các sản phẩm tạo hình do chính trẻ tạo nên cũng là một trong những
phương tiện hữu hiệu trong giáo dục BVMTN GV có thể lựa chọn các chủ đề
liên quan trực tiếp đến các vấn đề của môi trường không khí để tổ chức các hoạt
động tạo hình phong phú. Khuyến khích trẻ lựa chọn các nguyên vật liệu khác
nhau với các chất liệu đa dạng để vừa tạo ra các sản phẩm đẹp, vừa góp phần tận
dụng các nguyên vật liệu tự nhiên hay tái chế để góp phần bảo vệ môi trường.
Hiệu quả giáo dục trẻ mầm non BVMTN phụ thuộc rất nhiều vào việc phối
hợp hợp lí các phương pháp giáo dục BVMTN cho trẻ. Sự phối hợp này được
xác định dựa vào mục đích giáo dục BVMTN mà hoạt động nào đó hướng tới
cũng như nội dung giáo dục BVMTN có thể khai thác được trong mỗi chủ đề và
đề tài cụ thể.
1.7. HÌNH THỨC GIÁO DỤC TRẺ 5 - 6 TUỔI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NƯỚC
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI TRỜI
a) Ý nghĩa của HĐNT đối với việc giáo dục BVMTN cho trẻ 5-6 tuổi.

30
- Hoạt động ngoài trời là hình thức quan trọng để tích hợp giáo dục bảo vệ
môi trường cho trẻ mầm non. Môi trường mầm non đều có sân chơi, vườn cây
để tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ. Trong sân chơi, vườn cây có các đối
tượng tự nhiên đa dạng, phong phú như các loại cây xanh, cây ăn quả, vườn hoa,
vườn rau và các yếu tố tự nhiên vô sinh cần cho sự phát triển của nó như đất,
nước, không khí, ánh sáng.... có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của trẻ.
Trong vườn trường trẻ có thể tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường
cùng với giáo viên thông qua các hoạt động quan sát, thí nghiệm, lao động bảo
vệ môi trường. Trong quá trình này, trẻ không những lĩnh hội tri thức về đặc
điểm sự vật, hiện tượng môi trường tự nhiên mà còn hình thành kỹ năng nhận
thức, kỹ năng lao động và có thái độ đúng với tự nhiên. Tham gia hoạt động
ngoài trời là cơ hội để trẻ trải nghiệm xúc cảm, tình cảm, thể hiện sự hiểu biết,
hành vi và thái độ bảo vệ môi trường xung quanh trong mối quan hệ xã hội.
[12,tr.76)
b) Xác định nội dung giáo dục BVMTN qua HĐNT
HĐNT góp phần củng cố các khái niệm môi trường nước, hình thành và phát
triển kỹ năng về BVMTN cho trẻ mầm non.
Các khái niệm về môi trường không khí được củng cố trong HĐNT:
Nước, ONMT, BVMTN...
- Các kỹ năng BVMTN có thể hình thành ở trẻ:
+ Kỹ năng nhận biết và thu thập thông tin.
+ Kỹ năng phân tích và đề xuất giải pháp.
+ Kỹ năng thực hiện hành động vì nước.
+ Kỹ năng làm rõ giá trị của nước đối với con người.
c) Tổ chức giáo dục BVMTN thông qua HĐNT.
Việc giáo dục trẻ bảo vệ nước thông qua hoạt động ngoài trời cần tiến hành
dựa trên các đối tượng có trong không gian hoạt động ngoài trời (trên sân
trường, vườn trường) để khai thác các kiến thức, kỹ năng về bảo vệ môi trường
có thể hình thành cho trẻ. Dựa vào cấu trúc của hoạt động ngoài trời, sự thay đổi
của các đối tượng này theo thời gian và mức độ yêu cầu về giáo dục bảo vệ nước

31
ở mỗi lứa tuổi để lựa chọn các phương pháp giáo dục đảm bảo thực hiện có hiệu
quả mục đích giáo dục các hoạt động cụ thể.
Có thể tiến hành như sau:
- Tổ chức cho trẻ quan sát: Nhằm mục đích củng cố và mở rộng tri thức của
trẻ về các đối tượng có trên sân vườn trường. Nhờ quan sát, trẻ có thêm tri thức
về đối tượng và mối quan hệ giữa các đối tượng cùng môi trường sống và ảnh
hưởng của nó đến cuộc sống của con người.
- Tổ chức cho trẻ lao động, thí nghiệm: Nhằm hình các kỹ năng bảo vệ môi
trường cho trẻ
Cần hình thành ở trẻ khả năng tiếp nhận và đặt nhiệm vụ lao động, dự kiến
kết quả lao động, xác định trình tự các thao tác, lựa chọn các dụng cụ cần thiết
và tự thực hiện quá trình lao động. Cá nhân nhận nhiệm vụ trong thời gian dài
hơn: Trẻ nhận nhiệm vụ tưới cây, chăm sóc vật nuôi trong 2 – 3 ngày.
Tổ chức trẻ trực nhật trong góc tự nhiên. Giáo viên cho trẻ làm quen với công
việc trực nhật, nhắc nhở trẻ chăm sóc động, thực vật trong góc tự nhiên cho trẻ
làm quen với kỹ năng mới. Cùng một lúc cho 2 – 3 trẻ trực nhật. Trẻ trực nhật 2
– 3 ngày. Giáo viên điều khiển trẻ trực nhật nhằm hình thành kỹ năng, thói quen
chăm sóc động, thực vật (xới đất, lau lá, tưới nước, chuẩn bị thức ăn, ...), phát
triển mối quan hệ tập thể, giáo dục thái độ đúng đối với lao động.
Giáo viên giúp trẻ lập kế hoạch trực nhật (khuyên nhủ, nhắc nhở, yêu cầu suy
nghĩ trình tự các công việc cần làm). Những trẻ làm trực nhật cần thỏa thuận
công việc cần làm mỗi ngày, trình tự các thao tác. Nếu trực nhật thực hiện việc
chăm sóc các đối tượng mới, giáo viên nên tham gia cùng trẻ. Khi đổi ca trực
nhật, trẻ phải kể cho lớp nghe chúng đã chăm sóc động, thực vật như thế nào, cái
gì mới hấp dẫn xuất hiện. Trẻ đánh giá công việc của trực nhật: chất lượng công
việc, thái độ của trẻ, quan hệ giữa trẻ trong quá trình trực nhật.
Tổ chức lao động tập thể. Trẻ được chia thành nhóm nhỏ, mỗi nhóm thực
hiện nhiệm vụ riêng để cùng đạt mục đích chung. Lao động cùng nhau được sử
dụng ở tuổi này: một nhóm xới đất, một nhóm làm hố, một nhóm gieo hạt. Giáo
viên giúp trẻ phân chia nhóm, chỉ dẫn, giải thích cho trẻ biện pháp làm việc.

32
Cùng một lúc, có thể chỉ cho trẻ toàn bộ quá trình lao động, mọi nhiệm vụ mà
trẻ thực hiện.
Trong quá trình điều khiển trẻ, giáo viên cần phát triển ở trẻ khả năng tự
đánh giá. Kiểm tra việc thực hiện của trẻ, đặt ra nhiệm vụ và hướng sự chú ý của
trẻ đến kết quả lao động, so sánh với nhiệm vụ, học hành đối chiếu hành động
của trẻ với sự chỉ dẫn của giáo viên. Đánh giá nhằm vào ưu điểm là chính,
nhưng theo các mực độ khác nhau phụ thuộc vào chất lượng công việc. Cho trẻ
tham gia vào đánh giá: Yêu cầu trẻ đánh giá bạn hoặc nhóm này đánh giá nhóm
khác.
Đặc điểm của việc tổ chức trẻ 5-6 tuổi lao động là giáo viên giải thích cho trẻ
cần phải làm gì, làm như thế nào. Cần dạy trẻ không chỉ làm việc mà phải biết
lập kế hoạch thực hiện, phân công trách nhiệm, chuẩn bị các dụng cụ cần thiết.
- Tổ chức thí nghiệm cho trẻ: Nhằm mục đích củng cố kiến thức và hình
thành kỹ năng bảo vệ nước cho trẻ. Bằng các thí nghiệm đơn giản, trẻ có thể xác
lập nguyên nhân của sự vật, hiện tượng, mối quan hệ giữa chúng và giữa chúng
với nước.
Trong quá trình thí nghiệm trẻ được tham gia tích cực vào việc xác định
nhiệm vụ thí nghiệm. Dựa vào mục đích thí nghiệm, cần xác định nhiệm vụ cụ
thể. Nhiệm vụ thí nghiệm do giáo viên đặt ra hoặc giáo viên giúp trẻ tự xác định.
Nhiệm vụ phải rõ ràng, được xác định theo trình tự nhất định. Việc giải quyết
nhiệm vụ nhận thức đòi hỏi sự tìm tòi tích cực; phân tích, đối chiếu cái đã biết
với cái chưa biết, đưa ra kết luận về nguyên nhân của hiện tượng, lựa chọn biện
pháp giải quyết, các điều kiện về việc tổ chức thí nghiệm. Trẻ cũng được tham
gia vào việc xác định điều kiện thí nghiệm dưới sự điều khiển của giáo viên.
Mọi điều kiện trong thí nghiệm cần được xác định và trẻ cần biết rằng các điều
kiện đó có ảnh hưởng đến kết quả.
Thí nghiệm có thể diễn ra trong thời gian ngắn hoặc dài như quan sát. Nếu
nhiệm vụ được giải quyết trong quá trình quan sát, việc thảo luận kết quả quan
sát cũng diễn ra ngay sau đó. Giáo viên cùng trẻ phân tích điều kiện tiến hành thí
nghiệm, so sánh kết quả và rút ra kết luận. Thời điểm cuối của thí nghiệm là rút

33
ra kết luận trên cơ sở các kết quả đã thu nhận được. Cần kích thích trẻ độc lập
rút ra kết luận.
Trong quá trình tổ chức thí nghiệm, không được làm ảnh hưởng xấu đến các
đối tượng. Vì vậy, khi xuất hiện những biến đổi rõ nét trên đối tượng thí nghiệm
cần thay đổi điều kiện của đối tượng ngay.
- Tổ chức trò chơi cho trẻ: Trong môi trường hoạt động ngoài trời có thể tổ
chức các trò chơi cho trẻ. Những trò chơi được sử dụng là trò chơi vận động, trò
chơi học tập, trò chơi sáng tạo và cho trẻ chơi tự do với các dụng cụ trên sân.
Mỗi trò chơi có ưu thế riêng trong việc củng cố tri thức, hình thành kỹ năng
bảo vệ nước cho trẻ.
+ Trò chơi vận động:
Đây là trò chơi mang tính tự nhiên, có liên quan đến sur bắt chước hành vi
động vật, hình tượng về cuộc sống của chúng, phản ánh sự vật, hiện tượng diễn
ra xung quanh. Việc sử dụng trò chơi này nhằm mục đích củng cố tri thức về,
những phụ thuộc của sự vật và hiện tượng xung quanh.
+ Trò chơi học tập:
Đây là trò chơi có nội dung và luật chơi có sẵn do người lớn nghĩ ra, trong đó
các hành động của trẻ được điều khiển bởi nhiệm vụ và luật chơi. Cấu trúc của
trò chơi học tập quy định rõ việc xác định nhiệm vụ nhận thức, luật chơi, hành
động chơi nên có thể sử dụng trong quá trình giáo dục môi trường cho trẻ trong
hoạt động ngoài trời.
Có thể sử dụng các loại trò chơi học tập sau đây:
• Trò chơi với các vật liệu tự nhiên
• Trò chơi dùng lời
• Bài tập dưới hình thức chơi
+ Trò chơi sáng tạo
Đây là trò chơi phản ánh những ấn tượng trẻ tiếp nhận được trên tiết học,
sinh hoạt hàng ngày, lao động của người lớn. Trong hoạt động ngoài trời có thể
tổ chức trò chơi xây dựng với các vật liệu tự nhiên (đất cát, sỏi và các vật liệu
khác có thể tìm thấy trên sân thượng). Loại trò chơi này rất hấp dẫn đối với trẻ

34
mẫu giáo. Sử dụng trò chơi nhằm mục đích mở rộng, bổ sung tri thức cho trẻ về
hoạt động lao động của người lớn, mối quan hệ của họ trong quá trình sống và
hoạt động, học cách sử dụng các vật liệu có mục đích, sử dụng tiết kiệm và vệ
sinh môi trường nơi làm việc, ...
Trong quá trình tổ chức trò chơi giáo viên nắm bắt được hứng thú, khả năng,
kinh nghiệm của trẻ để có sự hỗ trợ trẻ kịp thời. Đồng thời, cần quan tâm đánh
giá hoạt động của trẻ có liên quan đến việc bảo vệ không khí để khuyến khích
những hành vi tích cực của trẻ.
1.8. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIÁO DỤC TRẺ 5-6 TUỔI BẢO VỆ KHÔNG KHÍ
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG NGOÀI TRỜI
- Trẻ có kiến thức về không khí và đưa ra các hành động bảo vệ không khí
(nhặt rác, tuyên truyền, dọn dẹp vệ sinh xung quanh, trồng cây, không xả rác
bừa bãi, ...)
- Trẻ biết những việc gì nên làm không nên làm để bảo vệ môi trường không
khí.
- Trẻ biết được không khí vô cùng quang trọng đối với cuộc sống.
- Trẻ có thêm kiến thức kỹ năng bảo vệ không khí.
- Tự hào và có ý thức giữ gìn, bảo vệ những phong cảnh, địa danh tiếng của
quê hương, bảo vệ môi trường sống
- Hiểu biết về môi trường nước xung quanh.
- Biết quan tâm bảo vệ môi trường nước xung quanh trong sinh hoạt (Tiết
kiệm điện, nước, giữ gìn vệ sinh môi trường, ...); tham gia vệ sinh môi trường
(không vứt rác bừa bãi, tham gia vệ sinh, nhặc rác, phân loại rác, ...);
- Việc đưa các nội dung giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường nước cho trẻ 5-
6 tuổi thông qua hoạt động ngoài trời nhằm hình thành cho trẻ kỹ năng thói quen
tốt như; biết sử dụng tiết kiệm nguồn nước sạch, biết bỏ rác đúng nơi qui định,
biết phân loại rác, không vứt rác bừa bãi, ...Giúp cho trẻ yêu thích, gần gũi với
thiên nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường nước, có phản ứng đối với các hành vi
ảnh hưởng xấu đến môi trường nước như xả rác bừa bãi,sử dụng lãng phí nước
sạch, xả nước thải từ các nhà máy,nước thải trong sinh hoạt,…

35
- Trẻ có hiểu biết cơ bản về môi trường, về bảo vệ môi trường nước, tích cực
tham gia các hoạt động xây dựng môi trường nước “Xanh- sạch- đẹp, an toàn’
cho trẻ ở mọi nơi, làm gương cho trẻ, cùng với giáo viên rèn nề nếp tốt cho trẻ,
giáo dục trẻ bảo vệ môi trường nước.
-Việc giáo dục trẻ 5-6 tuổi BVMTN qua HĐNT góp phần giảm thiểu tình
trạng ô nhiễm nước và cải thiện dần môi trường xung quanh hơn. Cùng với việc
tuyên truyền cho người lớn, thì cũng cần giáo dục cho trẻ em ý thức bảo vệ môi
trường, hiểu được tác hại của các hành vi gây nguy hại đến môi trường, là một
nhiệm vụ rất cần thiết - rất thiết thực - và sẽ đạt được những hiệu quả rất cao,
khi tất cả trẻ em được dạy dỗ, hướng dẫn, tạo thành thói quen, nề nếp tốt trong
các hành vi sinh hoạt trong cuộc sống.
Khi một thói quen đã trở thành nếp sống, thì hành vi bỏ rác đúng nơi quy
định, phân loại rác thải, sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường, hạn chế
tối đa nguồn rác thải nhựa thải ra môi trường, sẽ là thước đo xác định nên nhân
cách, hình thành lối sống tiến bộ, có trách nhiệm với xã hội, yêu quý trân trọng
giá trị của thiên nhiên, có được ở một hành tinh xanh, trái đất tươi đẹp Việc giáo
dục trẻ 5-6 tuổi BVMTN qua HĐNT là vô cùng cần thiết. Giáo dục trẻ BVMTN
để cho trẻ có hiểu biết về nước, về đặc điểm, tính chất, tầm quan trọng của nước
đối với con người. Ngoài ra, trẻ còn biết các mối liên hệ giữa con người và
nước, bước đầu có ý thức và hành vi BVMTN. Ý nghĩa đó hướng dẫn trẻ đến ý
thức việc chia sẻ với những người làm công việc bảo vệ môi trường. Người lao
công, người quét rác, thu gom rác, xử lý rác đều là những người rất xứng đáng
được trân trọng. Sự thấu hiểu công việc và ích lợi của việc làm ấy sẽ khiến cho
tư tưởng, hành động của trẻ cân nhắc khi hành vi vô tình - cố tình xả rác bừa bãi
ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống của tất cả mọi người. Từ đó, trẻ sẽ biết
thực hiện hành động vì môi trường xanh, một cách tự nhiên, tự nguyện như là
một thói quen. Và khi những công việc đã thành nếp sống ngay từ thuở bé, thì
khi lớn lên trẻ sẽ rất ý thức trong việc chung tay làm nên một trái đất xanh.

36
HĐNT là một hình thức cho trẻ làm quen với môi trường nước trực tiếp và dễ
dàng nhất, giúp trẻ có những kiến thức thực tế, hiểu rộng và đúng hơn về môi
trường nước. HĐNT tạo môi trường thoải mái cho trẻ học tập, vui chơi, nó còn
giúp kích thích trí tò mò, ham hiểu biết ở trẻ. Ngoài ra, khi giáo dục trẻ qua
HĐNT trẻ có thể tham gia trực tiếp vào các hoạt động BVMTN cùng GV thông
qua các hoạt động quan sát, thí nghiệm, lao động...góp phần làm sạch môi
trường nước. Tham gia HĐNT là cơ hội để trẻ trải nghiệm xúc cảm, tình cảm,
thể hiện sự hiểu biết, hành vi và thái độ BVMTN, trải nghiệm để tích lũy quan
hệ xã hội, rèn luyện khả năng giao tiếp, tăng các mối quan hệ trong các hoạt
động chung.

Kết luận chương 1

Chương 1 của đề tài nghiên cứu những vấn đề sau:

Trẻ 5-6 tuổi đã có được những hiểu biết nhất định về môi trường nước. Trẻ
có khả năng chú ý nhất định, khả năng tư duy, tưởng tượng phát triển tích cực. Ở
lứa tuổi này có thể giáo dục cho trẻ bằng cách tạo cơ hội để trẻ được tiếp cận với
môi trường nước, với các thành phần cơ bản của nó thông qua các phương tiện
giáo dục ở trường mầm non. Có thể giúp trẻ khám phá, tìm hiểu môi trường
nước dựa trên khả năng kinh nghiệm của trẻ ở các lứa tuổi và đặc điểm riêng của
mỗi trẻ.Tạo cơ hội cho trẻ được chia sẻ hiểu biết, suy nghĩ, xúc cảm, tình cảm

37
với bạn và những người xung quanh về các vấn đề về môi trường nước và việc
bảo vệ môi trường nước.

Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục môi trường nước cho trẻ, vào đặc
điểm lứa tuổi và khả năng nhận thức của trẻ mầm non và căn cứ vào chương
trình chăm sóc và giáo dục mầm non có thể xây dựng nội dung giáo dục trẻ 5-6
tuổi BVMTN một cách hợp lý. Chúng ta giáo dục cho trẻ cho trẻ biết được các
biểu tượng về nước; mối quan hệ của nước và con người; vấn đề ONMTN và kỹ
năng BVMTN phù hợp với lứa tuổi góp phần thảo mãn được nhu cầu nhận thức,
muốn khám phá thế giới xung quanh của trẻ.

Hoạt động ngoài trời là hoạt động giáo dục quan trọng ở trường MN với cấu
trúc gồm 3 phần: hoạt động có chủ đích; trò chơi vận động; vui chơi tự do được
đan xen giữa trạng thái động và trạng thái tĩnh. Việc chạy nhảy, vui đùa giúp
tinh thần sảng khoái, trẻ tiếp thu bài học một cách dễ dàng hơn. Ở HĐNT, trẻ
được thoải mái vận động, tự do khám phá về thế giới xung quanh, trẻ được trực
tiếp quan sát, trải nghiệm, học về không khí. Giúp quá trình giáo dục kỹ năng
BVMTN và quá trình tiếp thu của trẻ dễ dàng hơn. Trẻ hiểu được và hiểu đúng
về nước, lợi ích của nước, được hành động, tham gia các hoạt động BVMTN
giúp trẻ thích hơn và nhớ lâu hơn.

HĐNT có thể tiến hành qua nhiều phương pháp như: quan sát, thí nghiệm,
lao động, tổ chức trò chơi.... HĐNT có ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục
và hình thành kỹ năng BVMTN cho trẻ 5-6 tuổi, nó là một hoạt động có tính
chất lấy trẻ là trung tâm và mang lại hiệu quả tốt nhất. Giúp mang lại niềm vui
và những kiến thức cần thiết về môi trường nước, tạo cho trẻ sự chủ động, tích
cực trong các hoạt động BVMTN nói chung và bảo vệ môi trường nói riêng.

38
39

You might also like