Professional Documents
Culture Documents
a) b)
c) d)
Hình 5.1. Cắt ren bằng phương pháp phay
a - Cắt ren bằng dao phay đĩa; b, c- Cắt ren bằng dao phay răng lược;
d – Cắt ren bằng dao phay mặt đầu
* Phay ren: Phay ren được tiến hành trên máy phay chuyên dùng để cắt ren trên các chi tiết
lớn, ren nhiều đầu mối hoặc cắt ren trên các chi tiết có rãnh hoặc có thành mỏng. Phay ren có thể
gia công ren ngoài hoặc ren trong, đạt cấp chính xác 7 ÷ 8 trên các chi tiết hình trụ hoặc hình côn.
Thường được dùng ở dạng sản xuất hàng loạt. Khi cắt ren bằng dao phay đĩa, để bảo đảm chính
xác biên dạng ren gia công, trục dao và trục phôi được gá trên hai mặt phẳng song song nhưng
chéo nhau một góc bằng góc nâng của ren (Hình 5.1a). Cắt ren bằng dao phay răng lược thường
tiến hành trên các máy rêvonve, bán tự động và tự động (Hình 5.1b,c). Ngoài ra còn có thể cắt ren
bằng dao phay ren mặt đầu (Hình 5.1d).
* Đầu cắt ren: Phương pháp này được dùng để cắt ren ngoài và ren trong trên máy khoan,
rêvonve, máy tự động, máy chuyên dùng, máy tiện ren vạn năng (Hình 5.2). Trên thân của đầu cắt
ren được lắp các dao cắt ren răng lược lăng trụ hoặc tròn, dao được gá tiếp tiến hoặc hướng kính.
Ở cuối hành trình cắt, các dao răng lược được nới rộng đường kính (khi cắt ren ngoài) hoặc thu
hẹp đường kính (khi cắt ren trong). Khi đó, lưỡi cắt của dao không tiếp xúc với bề mặt ren gia
công. Do đó, hành trình rút dao (hành trình chạy không) được tiến hành rất nhanh, làm giảm thời
gian phụ.
Cắt ren bằng đầu cắt ren cho năng suất rất cao nên được dùng ở dạng sản xuất hàng loạt lớn
hoặc hàng khối. Ưu điểm của đầu cắt ren là điều chỉnh được đường kính trung bình của ren gia
công. Ngoài ra, có thể cắt các loại ren có bước và đường kính khác nhau bằng cách thay các dao
cắt ren răng lược tương ứng.
a) b) c)
d) e)
Hình 5.2. Cắt ren bằng đầu cắt ren
a- Dao cắt ren răng lược gá hướng kính;
b, d- Dao cắt ren răng lược gá tiếp tuyến
c,e- Dao tiện ren răng lược dạng đĩa gá hướng kính
* Mài ren : Phương pháp này dùng để gia công ren yêu cầu chính xác cao (cấp 5÷7) như
ren trên các ca líp ren, ta rô, con lăn ren, bàn cán ren. Có thể dùng đá một vòng ren hay nhiều
vòng ren (Hình 5.3). Đá một vòng ren được dùng phổ biến hơn vì cho độ chính xác gia công cao.
Khi dùng đá một vòng ren phải gá đường tâm đá và đường tâm chi tiết ở trong hai mặt phẳng
song song nhưng chéo nhau một góc bằng góc nâng của ren. Còn khi dùng đá nhiều vòng thì do
phải gá đường tâm đá và đường tâm chi tiết song song với nhau nên độ chính xác gia công thấp
hơn so với dùng đá một vòng ren nhưng năng suất lại cao hơn nhiều.
a) b)
Hình 5.3. Các phương pháp mài ren
a- Mài ren bằng đá 1 vòng ren; b – mài ren bằng đá nhiều vòng ren
* Cán ren: Đây là phương pháp gia công ren bằng biến dạng dẻo cho năng suất cao, độ
bền của ren cao, nên thường dùng ở dạng sản xuất hàng loạt lớn và hàng khối. Có thể cán ren
ngoài, ren trong, ren một đầu mối hoặc nhiều đầu mối. Dụng cụ cán ren là bàn cán ren hay con lăn
ren thể hiện như trên Hình 5.4. Bàn cán ren được lắp trên đồ gá có thể làm việc trên đầu máy bào
hoặc máy chuyên dùng. Thường dùng để cán những chi tiết ren kích thước nhỏ.
Cán ren bằng con lăn ren thực hiện trên máy cán ren chuyên dùng.
a) b) c) d)
Hình 5.4. Các phương pháp cán ren
a – Bàn cán ren, b – Cán ren bằng bán cán ren,
c – Con lăn cán ren, d – Cán ren bằng con lăn cán
5.2. Tiện ren
Các chuyển động trong quá trình tiện ren được thể hiện như trên Hình 5.5.
- Chuyển động cắt chính: Là chuyển động quay tròn của phôi.
- Chuyển động chạy dao dọc Sd (mm/vòng): Nhằm cắt tạo ra chiều dài ren.
Ta có: Sd = S (S là bước ren gia công).
- Chuyển động chuyển dao: Nhằm cắt tạo ra chiều cao của ren.
S'
S'
S S S' S
S''
a) b) c)
Hình 5.6. Các sơ đồ tiện ren
a) Sơ đồ cắt hai phía; b) Sơ đồ cắt một phía; c) Sơ đồ cắt tổ hợp
5.2.2. Kết cấu dao tiện ren
5.2.2.1. Dao tiện ren tam giác
Dao tiện ren có ba loại: Dao dạng thanh (Hình 5.7a), dạng đĩa (Hình 5.7b) và dạng lăng trụ
(Hình 5.9a, b). Dao tiện ren dạng thanh được dùng phổ biến hơn cả vì nó đơn giản. Nhưng khi
mòn, được mài lại cả mặt trước và mặt sau nên tuổi thọ thấp. Dao tiện ren dạng lăng trụ và dạng
đĩa (một răng hay răng lược) khi mòn chỉ mài lại theo mặt trước, do đó tuổi thọ cao hơn.
a) b)
Hình 5.7. Dao tiện ren tam giác
a - Dao tiện ren dạng thanh ;b- Dao tiện ren dạng đĩa
Nói chung bề mặt ren dùng trong các mối lắp ghép thuộc ngành cơ khí thường là bề mặt vít
acximét. Do đó để đảm bảo độ chính xác hình học của ren, dao tiện ren phải có góc trước bằng
không (γ = 0). Khi đó, góc mũi dao trên mặt trước bằng góc dạng ren gia công. Khi gá dao phải
bảo đảm mặt trước của dao nằm trong mặt đáy đi qua tâm chi tiết. Khi gia công thô ren, có thể lấy
góc trước γ = 5o ÷ 25o tuỳ theo vật liệu gia công và vật liệu dao. Với γ ≠ 0, góc mũi dao được tính
bằng công thức:
(5.1)
. (5.2)
(5.4)
(5.5)
(5.6)
Dấu trên ứng với tiện ren phải; Dấu dưới ứng với tiện ren trái.
Góc µx chính là góc nâng của ren gia công ứng với điểm đang khảo sát trên lưỡi cắt. Nếu xét tại
một điểm nằm trên đường kính trung bình của ren gia công, ta có:
S
tg x (5.7)
.d tb
Trong đó: S = bước ren, mm.
dtb - đường kính trung bình của ren gia công, mm.
Khi cắt ren tam giác, thường góc µx nhỏ (nhỏ hơn 2 ÷ 3o) có thể bỏ qua. Khi đó có thể chế
tạo với αt = αf.
a) b) c)
Hình 5.8. Thông số hình học trong quá trình cắt của dao tiện ren
a - Trường hợp γt =γf = 0; b-Trường hợp γt =0;γf = μ;
c- Trường hợp gá dao mặt trước vuông góc với đường ren
Khi tiện ren thang, ren vuông hoặc ren tam giác nhiều đầu mối, do bước xoắn lớn nên góc
µx lớn. Khi đó phải chú ý đến góc sau động. Khi cắt, phải bảo đảm αct và αcf không được nhỏ hơn
2o ÷ 3o.
Để góc γcf = γct , ta có thể mài mặt trước như Hình 5.8b.
Khi tiện thô ren, để tránh phải mài lại hai góc sau khác nhau đồng thời để cải thiện điều kiện
cắt ở lưỡi cắt bên phải (tại đây góc trước có giá trị âm) ta quay dao tiện quanh trục của nó một
góc.
Khi đó góc sau động ở hai lưỡi cắt bằng nhau (Hình 5.8c): αct = αcf và γct = γcf = 0.
Góc sau ở đỉnh dao tiện ren thường lấy α= 15o ÷ 20o.
5.2.2.2. Dao tiện ren răng lược
Dao tiện ren răng lược là dao tiện ren có nhiều răng cắt, thường bao gồm từ 6 ÷ 8 vòng ren.
Trong đó phần cắt đuợc vát theo góc để giảm tải trọng trên các răng cắt, bao gồm 1,5 ÷ 2 vòng
ren. Nó cho phép có thể thực hiện một lần chuyển dao là cắt xong toàn bộ biên dạng ren. Phần sửa
đúng gồm 4,5 ÷ 6 vòng ren làm nhiệm vụ sửa đúng hình dáng kích thước ren gia công.
Dao tiện ren răng lược cũng có dạng thanh, dạng lăng trụ và dạng tròn (Hình 5.9). Thường
dạng tròn được dùng nhiều hơn vì chế tạo đơn giản, tuổi thọ lớn. Nó gồm hai loại: Loại có đường
ren phân bố trên vòng tròn, chỉ dùng khi tiện ren bước nhỏ. Loại có đường ren phân bố trên đường
xoắn vít, chế tạo phức tạp hơn nhưng có thể gia công được ren bước lớn.
Dao tiện ren răng lược dùng để gia công ren ngoài và ren trong.
- Khi tiện ren trong, phương ren gia công trùng với phương ren của dao.
- Khi cắt ren ngoài, phương ren gia công ngược với phương ren của dao. Khi tiện ren
ngoài phải thì dùng dao có ren trái. Còn với chi tiết có ren ngoài trái thì dùng dao có ren phải.
Đường kính trung bình của dao lớn hơn của phôi n lần:
(5.8)
Trong đó: Dtb - đuờng kính trung bình của dao tiện ren răng lược, mm.
dtb - đường kính trung bình của ren gia công, mm.
n - số đầu mối ren của dao.
Khi đó bảo đảm góc nâng ren của dao và của chi tiết gia công bằng nhau.
Hình 5.11. a- Ta rô ren trên thân hộp giảm tốc; b – Bộ ta rô tay 3 chiếc; c-Ta rô đai ốc;
d, f-Ta rô máy tổ hợp (thô-tinh); e- Ta rô bậc; g-Ta rô ren ống.
Ta rô được dùng để cắt ren hoặc sửa đúng ren trong. Ta rô có rất nhiều loại, tùy theo công
dụng và kế cấu ta rô có thể được phân loại như sau:
- Ta rô tay (Hình 5.11a,b) được dùng để cắt ren bằng tay, để giảm lực cắt ta rô được chế tạo
thành bộ hai hoặc ba chiếc.
- Ta rô máy (Hình 5.10c,f) được dùng để cắt ren trên máy tiện, máy khoan, máy tự động…
- Ta rô đai ốc được dùng trên máy chuyên dùng (Hình 5.11c).
- Ta rô tổ hợp (Hình 5.11d).
- Ta rô bậc (Hình 5.11e).
- Ta rô ren ống (Hình 5.11g).
5.3.2. Kết cấu của ta rô
Ta rô có hai phần chính: Phần làm việc và phần chuôi hay còn gọi là phần cán (Hình 5.12).
Phần cán dùng để kẹp ta rô trong đầu kẹp và để truyền mô men xoắn. Ở cuối phần cán có chuôi
vuông để kẹp ta rô trong tay quay khi làm việc bằng tay. Ngoài ra phần cán còn là nơi ghi nhãn
hiệu của ta rô.
Phần làm việc bao gồm hai phần: phần cắt và phần sửa đúng.
5.3.2.1. Phần cắt
Phần cắt là yếu tố kết cấu quan trọng làm nhiệm vụ tạo phoi và tạo ra hình dáng của bề mặt
gia công. Phần cắt có dạng côn, đường sinh của nó hợp với trục ta rô một góc nghiêng φ (Hình
5.13). Chiều dài phần cắt l1 có ảnh hưởng đến năng suất cắt, tuổi bền của dao và độ chính xác của
ren gia công.
a)
b) c)
Hình 5.17. Điều chỉnh và kẹp chặt bàn ren
a – Tay quay bàn ren và bàn ren có rãnh điều chỉnh; b – Bèn ren có rãnh điều chỉnh
c – Kẹp bàn ren trong tay quay bàn ren; 1 – Vít hãm, 2 – Vít điều chỉnh,
3 – tay quay bàn ren, 4 – Bàn ren
5.5. Gia công ren bằng biến dạng dẻo
5.5.1. Đặc điểm của quá trình cán ren
Hình 5.18. Thớ kim loại trên ren được gia công
bằng phương pháp cán (a) và cắt gọt (b).
Cán ren là phương pháp gia công ren bằng biến dạng dẻo ở nhiệt độ thường, được sử dụng ở
dạng sản xuất hàng loạt lớn và hàng khối để gia công ren trên bu lông, vít, trục, ta rô... Khi cán do
tác dụng của lực hướng kính, các đường vít của ren dụng cụ cán sẽ làm biến dạng phôi và tạo
thành ren trên chi tiết gia công. Khi cán ren, các thớ kim loại của ren gia công được hình thành
liên tục chứ không bị cắt rời thành đoạn như các phương pháp gia công ren bằng cắt (Hình 5.18).
Do đó bề mặt ren được gia công bằng phương pháp cán có độ cứng và độ bền cao. Ngoài ra
phương pháp cán ren cho năng suất cao và tiết kiệm được vật liệu gia công.
Cán ren có nhiều phương pháp khác nhau. Vì vậy dụng cụ cán ren cũng có nhiều loại khác
nhau. Trong thực tế thường dùng phổ biến hai phương pháp: Cán ren bằng bàn cán phẳng và cán
ren bằng con lăn cán (Hình 5.19). Cán ren bằng bàn cán phẳng cho năng suất cao (100 - 120 chi
tiết/phút) nhưng độ chính xác gia công thấp và chỉ cần ren được trên chi tiết có đường kính từ 3 ÷
24mm. Cán ren bằng con lăn cán cho độ chính xác cao (cấp 6 ÷ 7) và độ nhẵn bề mặt gia công cao
(cấp 7 ÷ 9) vì có thể mài prôfin ren trên con lăn cán. Con lăn cán bảo đảm gá lắp và điều chỉnh
đến kích thước ren cần cán rất đơn giản. Các con lăn cán làm việc với áp suất nhỏ sinh ra trong
quá trình cán, do đó cho phép cán được ren trên các chi tiết rỗng hay có thành mỏng cũng như
trên các chi tiết có độ cứng cao (đến HRC 35 ÷ 40). Ngoài ra có thể cán được ren trên chi tiết có
đường kính từ 2 - 60mm, nhưng năng suất thấp (60 ÷ 80 chi tiết/ phút).
a) b)
Hình 5.19. Sơ đồ cán ren. a) bằng bàn cán ren phẳng; b) bằng con lăn ren
5.5.2. Dụng cụ cán ren
5.5.2.1. Bàn cán ren phẳng
a) b)
Hình 5.20.a) Hình ảnh của bàn cán ren phẳng; b) Kết cấu của bàn cán ren phẳng
Một bộ bàn cán ren phẳng gồm hai khối phẳng có các đường ren trải trên mặt phẳng (Hình
5.20). Một bàn ren di động được kẹp trên bàn xe dao di chuyển dọc. Còn bàn ren kia cố định. Hai
bàn cán được gá song song với nhau, bước ren trên hai bàn cán lệch nhau một lượng 0,5.S so với
mặt chuẩn.
Ren trên hai bàn cán được chế tạo với cùng một góc nghiêng nhưng hướng ren ngược
nhau, sai lệch của góc không được vượt quá ±10. Phôi được đặt vào giữa hai bàn cán và vuông
góc với mặt chuẩn của bàn cán.
S
tg
d tb (5.19)
Kết cấu bàn cán ren cố định bao gồm phần côn cán l1, phần sửa đúng l2 và phần thoát l3.
Bàn cán ren được chế tạo từ thép X120Cr13, 9CrSi, ...Sau khi nhiệt luyện bảo đảm độ cứng
HRC 58 ÷ 61.
* Phần côn cán l1:
Phần côn cán l1(Hình 5.21) là yếu tố kết cấu quan trọng quyết định tốc độ hình thành ren và
sự phân bố tải trọng trên các đường ren của phần côn cán. Phần côn cán có nhiều kiểu, trong đó
được sử dụng phổ biến hơn cả là côn cán ngắn và côn cán dài.
- Phần côn cán ngắn l1 = .dtb. Phần côn cán ngắn chỉ chế tạo cho bàn cán ren cố định, được
hình thành sau khi mài đỉnh ren theo góc φ.
Còn ở bàn cán ren di động không có phần côn cán ngắn. Khi làm việc, bàn cán ren cố định
do có các đỉnh răng bị vát nên chỉ hơi ấn vào phôi, trong khi đó bàn cán ren di động có các đỉnh
sắc nhọn ăn vào phôi dễ hơn và sâu hơn. Thực tế, một mình bán cán ren di động tạo ra ren, toàn
bộ ren được tạo thành sau một vòng quay của phôi. Trong đó kim loại bị biến dạng lớn nhất ở thời
điểm bắt đầu sửa đúng ren, ở phần này ren của bàn ren nhanh bị hỏng làm tuổi bền của bàn cán
ren thấp, độ chính xác và độ nhẵn bề mặt ren cán thấp.
Hình 5.21. Kết cấu phần côn cán của bàn cán ren phẳng
Bàn cán ren có phần côn cán ngắn thường dùng để cán ren có bước ren S ≤ 1mm và độ
chính xác ren thấp.
- Phần côn cán dài l1 = (3 ÷ 4)..dtb: Được chế tạo trên cả hai bàn cán cố định và di động.
Nó được hình thành do mài prôfin ren một góc φ.
(5.20)
Trong đó: h - chiều cao ren, h = 0,6946S.
d0 - đường kính ngoài của ren, mm.
dzmax - đường kính phôi lớn nhất, mm.
l1 - chiều dài phần côn cán, mm.
Bàn cán ren có phần côn cán dài khắc phục được những nhược điểm của kiểu côn cán ngắn
và dùng để cán ren có bước ren S > 1mm với độ chính xác ren cao.
* Phần sửa đúng l2: Làm nhiệm vụ sửa đúng kích thước và độ chính xác của ren gia công.
Độ chính xác và độ ổn định các kích thước ren gia công phụ thuộc vào chiều dài phần sửa đúng.
Trên phần côn cán, prôfin ren được hình thành xong hoàn toàn. Để sửa đúng thường lấy
bằng: l2 = (2 ÷ 3).dtb
* Phần thoát l3: Còn gọi là phần đẩu ra, dùng để đẩy chi tiết thoát ra khỏi bàn cán và đảm
bảo cho chi tiết không bị kéo vào giữa hai bàn cán trong hành trình chạy lùi của bàn cán di động.
Ngoài ra có thể thay phần côn cán khi phần này bị mòn làm tăng tuổi thọ của bàn ren, chiều dài và
kết cấu phần thoát được lấy tương tự như phần côn cán.
Bàn cán ren di động không cần làm phần thoát. Tuy nhiên, điều này không bắt buộc mà phụ
thuộc vào kết cấu của máy.
* Chiều dài tổng cộng của bàn cán ren: Theo tiêu chuẩn, đối với ren có đường kính từ 3,5
÷ 24mm, chiều dài tổng cộng của bàn cán ren cố định được lấy bằng L = (5 ÷ 8).dtb. Khi cán ren
ta rô ứng với mọi kích thước của ta rô, cho phép lấy: L = 7.dtb.
Để bảo đảm đẩy chi tiết thoát ra khỏi bàn cán và để tránh khả năng chi tiết có thể bị kéo trở
lại trong hành trình chạy ngược, bàn ren di động được làm hơn bàn cán ren cố định từ 15 ÷ 25mm.
Để kẹp chặt bàn cán ren được chắc chắn và cứng vững, hai mặt đầu của bàn cán được làm
vát một góc 850.
* Chiều rộng bàn cán ren: được lấy bằng:
(5.21)
Trong đó: lp - chiều dài phổ biến nhất của chi tiết, mm.
S - bước ren, mm.
* Chiều dầy bàn cán ren T: Được chọn phụ thuộc vào độ bền cơ học và khả năng phục hồi
bàn cán ren khi mòn. Thường lấy:T = 25 ÷ 50mm.
5.5.2.2. Con lăn cán ren
Điều kiện cơ bản để nhận được độ chính xác của ren gia công là các góc nâng ren của con
lăn và của chi tiết phải bằng nhau. Muốn thế, cần phải chế tạo con lăn có nhiều đầu mối ren. Điều
đó xuất phát từ các hệ thức sau:
(5.22)
(5.23)
Trong đó: d, Sd, Dtb – góc nâng, bước ren, đường kính trung bình của ren con lăn.
, S, dtb – góc nâng, bước ren, đường kính trung bình của ren chi tiết.
Vì: d = nên:
(5.24)
Trong đó:
i - số đầu mối ren của con lăn, phải là một số nguyên khi tăng đường kính con lăn, quá trình
cán ren tốt hơn. Vì thế khi tính toán nên tận lượng chọn Dtb lớn nhất. Song việc chọn đó bị hạn
chế bởi kích thước của máy cán ren và phạm vi di chuyển của các con lăn ren. Với các máy cán
ren thông dụng, đường kính trung bình lớn nhất cho phép của con lăn Dtbmax = 150mm, đường
kính trung bình nhỏ nhất cho phép Dtbmin = 130, ngoài ra phải bảo đảm điều kiện:
Trong đó: L - Khoảng cách lớn nhất giữa hai con lăn ren, mm.
Khi tính toán, số đầu mối ren i có thể là một số phân, phải quy tròn về số nhỏ hơn và gần
nhất với số lỗ của đĩa chia dùng để mài ren nhiều đầu mối trên máy mài ren.
Để dự trữ mòn và mài lại ren trong quá trình sử dụng, trên bản vẽ chế tạo con lăn ren, không
ghi Dtb mà ghi hai kích thước đường kính ren trung bình của con lăn mới và con lăn đã mòn.
Nghĩa là:
(5.25)
(5.26)
Trong đó: Dtbtt - đường kính trung bình tính toán của ren con lăn, mm.
m - lượng dự trữ mòn. Thường lấy: m = 0,0175.Dtbtt
Đường kính ngoài của con lăn ren bằng: D = Dtb + 2h’
Trong đó: h’ - chiều cao đầu ren con lăn, mm.
Các kích thước đường kính lỗ con lăn ren và rãnh then được chọn theo đường kính trục
chính của máy cán ren. Dung sai lỗ theo H6. Chiều rộng con lăn ren phải lớn hơn chiều dài chi tiết
gia công khoảng (2 ÷ 3).S.
Sai lệch của Dtb và D có thể chọn theo IT9, nhưng đối với các con lăn trong một bộ sai lệch
này không quá 0,05mm. Thường lấy từ 0,03 ÷ 0,05mm.
Con lăn cán ren thường được chế tạo bằng thép hợp kim X120Va. Sau khi nhiệt luyện bảo
đảm đạt độ cứng HRC 58 ÷ 60.
5.5.2.3. Các phương pháp cán ren bằng con lăn
Cán ren bằng con lăn có hai phương pháp chính: Cán ren bằng chạy dao hướng kính và cán
ren bằng chạy dao tiếp tuyến.
* Cán ren bằng chạy dao hướng kính
Hình 5.22. Cán ren bằng con lăn chạy dao hướng kính
1 - Con lăn cố định; 2 - Con lăn di động; 3 - Phôi; 4 - Phiến tì; 5 - Cữ
Con lăn di động 2 tiến vào phôi 3 và con lăn cố định 1 (Hình 5.22). Việc tạo ren chi tiết
được thực hiện bằng hai con lăn ren trong một mức độ giống nhau. Vì thế mỗi con lăn di chuyển
theo hướng tâm chi tiết một đoạn gần bằng chiều cao chân ren (với điều kiện đường kính phôi gần
bằng đường kính trung bình của ren). Khi tiến vào, các đường ren của con lăn cán vào chi tiết và
tạo thành ren trên đó. Các con lăn quay theo cùng một chiều với tốc độ vòng bằng nhau và làm
cho phôi quay không vượt. Phôi được đặt trên thước tỳ 4 và tỳ mặt đầu vào cữ 5.
Để tránh cho phôi không bị hất lên khỏi con lăn cán, tâm của phôi so với đường tâm của các
con lăn cán phải cao hơn 0,1 ÷ 0,3mm đối với bu lông và thấp hơn 0,2 ÷ 0,6mm đối với ta rô. Khi
việc tạo ren trên phôi kết thúc, chạy dao hướng kính dừng lại và các con lăn quay trơn không có
chạy dao, tiếp tục sửa đúng ren với mục đích tăng thêm độ nhẵn và ép chặt lớp bề mặt của ren.
Để cho các đường ren của hai con lăn trùng với ren được cán, các con lăn phải đạt lệch nhau
0,5S.
* Cán ren bằng chạy dao tiếp tuyến(Hình 5.23)
Cán ren bằng chạy dao tiếp tuyến được thực hiện khi đặt phôi 3 vào giữa hai con lăn cán 1
và 2 quay với vận tốc dài V1 ≠ V2, khi đó. Hai con lăn 1 và 2 quay cùng chiều nhau. Có hai
phương pháp thực hiện:
- Hai con lăn có cùng đường kính (Dtb1 = Dtb2) quay với số vòng quay khác nhau (n1 ≠ n2).
- Hai con lăn có đường kính khác nhau (Dtb1 = Dtb2) quay với số vòng quay bằng nhau (n1 =
n2).
Cả hai phương pháp trên đều dẫn tới V1 ≠ V2. Theo sơ đồ trên, nên lấy V1> V2. Khi đó, phôi
được kéo vào giữa hai con lăn cán và bắt đầu quay đồng thời di chuyển xuống với tốc độ bằng
V V2
một nửa hiệu số tốc độ dài của hai con lăn ( V f 1 ). Ren sẽ được cán xong sau khi phôi đi
2
qua hai con lăn cán.
Giả sử chọn Dtb1> Dtb2, để phôi tự đi xuống cần có điều kiện sau:
Dtb1
1,10 1,25
Dtb 2
Có nghĩa là con lăn bị dẫn (Dtb2) phải có số đầu mối ren nhỏ hơn so với con lăn dẫn (Dtb1), và
Dtb1 = dtb.i.
Trong đó: i - số đầu mối ren của con lăn dẫn.
Hình 5.23. Cán ren bằng chạy dao tiếp tuyến