You are on page 1of 40

PHỤ LỤC

TRẢ LỜI NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC CỦA


CÔNG AN ĐỊA PHƯƠNG TRONG CÔNG TÁC PCCC VÀ CNCH
(Ban hành kèm theo Công văn số 4873/C07-P1 ngày 23/12/2020)

I. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG


MẮC TRONG VIỆC ÁP DỤNG, THỰC HIỆN CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT, CÁC TIÊU CHUẨN, QUY CHUẨN HIỆN HÀNH VÀ TRANG
BỊ PHƯƠNG TIỆN, THIẾT BỊ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
1. Tại PC07 Công an các địa phương không có cán bộ chuyên trách làm
công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC và CNCH. Cán
bộ làm công tác này thường do cán bộ làm công tác kiểm tra hoặc tham mưu
kiêm nhiệm, công việc quá tải, dẫn đến không chuyên tâm vào công tác tuyên
truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC và CNCH. Các điều kiện bảo
đảm thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền PCCC và CNCH (phương tiện, kinh phí)
chưa được quan tâm đầu tư, chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác (Thái
Bình, Đồng Tháp, Cần Thơ).
 C07 đã đề xuất và được lãnh đạo Bộ cho phép xây dựng Đề án “Đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục, pháp luật và kiến
thức PCCC và CNCH”, trong đó đề xuất tại PC07 Công an địa phương có tối thiểu
01 cán bộ chuyên trách làm công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân
PCCC và CNCH; đồng thời, đề xuất phương tiện kèm theo phục vụ công tác này.
Hiện nay kinh phí phục vụ cho công tác tuyên truyền chủ yếu dựa vào
nguồn kinh phí bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Do đó để đáp ứng công tác tuyên
truyền tại địa phương, các đơn vị cần chủ động nghiên cứu, đề xuất thêm nguồn
kinh phí của địa phương, vận động các nguồn kinh phí xã hội hóa… đúng quy
định, phù hợp với tình hình thực tế.
2. Một số người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, một bộ
phận Nhân dân chưa nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công
tác PCCC; chưa nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật về PCCC,
thiếu kỹ năng thoát hiểm hoặc xử lý các sự cố cháy, nổ ngay từ đầu. Cá biệt một
số nơi vẫn coi việc phòng cháy, chữa cháy là trách nhiệm của lực lượng Cảnh
sát PCCC... (Nghệ An, Thái Nguyên, Bình Định, TP Hồ Chí Minh).
 Quy định của pháp luật về PCCC trước đây chưa cụ thể, chặt chẽ về
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, do đó
dẫn đến việc nhận thức chưa rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công tác
2

PCCC. Tuy nhiên, đến nay qua công tác tuyên truyền, hướng dẫn và nhất là
công tác kiểm tra, xử phạt đối với các trường hợp không thực hiện nghiêm túc
các quy định về PCCC thì nhận thức, ý thức về việc chấp hành pháp luật về
PCCC đã được nâng lên và tại Nghị định số 136/2020/NĐ-CP đã quy định cụ
thể về trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở, chủ phương tiện giao thông cơ
giới có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm an toàn PCCC, chủ hộ gia đình, chủ rừng
trong công tác PCCC.
Để làm tốt công tác này, PC07 Công an địa phương cần: (1)Tăng cường các
hình thức tuyên truyền PCCC phù hợp với từng loại đối tượng; (2)Tổ chức huấn
luyện nghiệp vụ PCCC và CNCH chặt chẽ, nội dung thiết thực, phù hợp; (3)Tăng
cường kiểm tra, kiến nghị và thực hiện chế tài xử phạt đối với các đơn vị, cơ sở
không thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về PCCC và CNCH.
3. Tăng cường mở các lớp tuyên truyền, tập huấn nghiệp vụ cho đối
tượng Công an cấp huyện, xã; xây dựng tài liệu hướng dẫn thực hiện nghiệp
vụ tuyên truyền, kiểm tra an toàn PCCC... để cấp phát cho lực lượng này
(Tuyên Quang).
 Năm 2020, C07 đã báo cáo lãnh đạo Bộ cho phép tổ chức 15 lớp tập
huấn cho Công an cấp huyện, 136 lớp tập huấn công tác quản lý nhà nước về
PCCC và CNCH cho Công an cấp xã trên toàn quốc. Thời gian tới, C07 tiếp tục
báo cáo lãnh đạo Bộ tổ chức các lớp tập huấn trên. Ngoài ra, địa phương cũng cần
đề xuất các nguồn kinh phí của địa phương để tự tổ chức các lớp tập huấn cho đối
tượng này. Hiện nay, C07 đã xây dựng tài liệu và đăng tải trên Website của C07
(mục hướng dẫn công tác PCCC và CNCH - hướng dẫn nghiệp vụ nội bộ; mật
khẩu “canhsatpccc@#” hoặc liên hệ với Phòng 2/C07, Phòng 3/C07 để được cung
cấp) đề nghị Công an địa phương khai thác để tổ chức tập huấn tại địa phương.
4. Công tác phối hợp với các cơ quan thông tin và truyền thông của trung
ương trong công tác tuyên truyền về PCCC và CNCH chưa được thường xuyên;
việc xây dựng các chuyên trang, chuyên mục về PCCC và CNCH còn gặp nhiều
khó khăn do thiếu nguồn lực, cán bộ có chuyên môn; việc phát sóng các tin bài,
phóng sự về PCCC và CNCH trên phương tiện thông tin đại chúng vào các
khung giờ vàng còn hạn chế (Thái Bình).
 Đề nghị Công an địa phương tham mưu cho Ban Giám đốc báo cáo
UBND tỉnh chỉ đạo các đơn vị thông tin và truyền thông thực hiện trách nhiệm
tuyên truyền theo quy định của pháp luật. Tham mưu Ban Giám đốc ký kế hoạch
phối hợp với Đài phát thanh, truyền hình và một số cơ quan đoàn thể tại địa
phương. Phối hợp chặt chẽ với PX03 Công an địa phương và Công an cấp huyện
kịp thời nắm thông tin các vụ cháy, nổ, cứu nạn, cứu hộ chủ động ghi hình, cung
3

cấp thông tin cho các cơ quan báo đài ở địa phương và trung ương, X04, C07 để
phối hợp tuyên truyền. Đồng thời, chủ động phối hợp, gặp gỡ, tranh thủ sự quan
tâm của các cơ quan báo, đài tại địa phương để tuyên truyền về các hoạt động
PCCC và CNCH.
5. Đa số các đội PCCC cơ sở, đội dân phòng làm việc theo chế độ kiêm
nhiệm, thời gian chủ yếu tập trung vào sản xuất, kinh doanh, chưa thường
xuyên quan tâm đến công tác PCCC/Việc xây dựng, củng cố lực lượng PCCC
tại cơ sở, nhất là các Đội PCCC cơ sở, dân phòng… có nơi còn hình thức,
không có phương tiện, chế độ chính sách đối với lực lượng này chưa được thực
hiện; kỹ năng, nghiệp vụ chữa cháy còn yếu/Trang, thiết bị phục vụ công tác
PCCC còn hạn chế nên việc chữa cháy ban đầu có lúc còn lúng túng, hiệu quả
chưa cao/Nghiên cứu đề xuất thay đổi lực lượng PCCC tại địa bàn khu dân cư
bằng một lực lượng phù hợp hơn như: Lực lượng bảo vệ dân phố, lực lượng trị
an cơ sở, lực lượng Công an cấp xã (Thái Bình, Nghệ An, Ninh Thuận, Nam
Định, Bình Định, Bắc Giang, Đồng Tháp, TP Hồ Chí Minh, Cao Bằng).
 Về tổ chức biên chế của lực lượng PCCC cơ sở, lực lượng dân phòng
được quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 32 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP và đã được
sửa đổi tại khoản 2 Điều 30, khoản 3 Điều 31 Nghị định số 136/2020/NĐ-CP (có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/01/2021). Đề nghị Công an các địa phương thực
hiện tốt công tác quản lý nhà nước, tổ chức kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các nội
dung trên của các đơn vị, cơ sở. Tổ chức công tác huấn luyện nghiệp vụ PCCC,
CNCH chặt chẽ, nội dung thiết thực, phù hợp với các đối tượng tập huấn.
Về chế độ, chính sách của lực lượng PCCC cơ sở, lực lượng dân phòng
được quy định cụ thể tại Thông tư liên tịch số 52/2015/TTLT-BLĐTBXH-BCA-
BTC. Tuy nhiên, để bảo đảm động viên, khuyến khích lực lượng PCCC cơ sở, lực
lượng dân phòng tham gia hoạt động PCCC tại Nghị định số 136/2020/NĐ-CP đã
giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có hướng dẫn cụ thể về chế độ,
chính sách đối với lực lượng PCCC cơ sở, dân phòng. C07 đang phối hợp với
các đơn vị chức năng thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng
Thông tư hướng dẫn về chế độ, chính sách đối với lực lượng này.
Để đánh giá thực trạng hoạt động của lực lượng dân phòng, ngày
06/11/2019, C07 đã tham mưu lãnh đạo Bộ Công an ban hành Kế hoạch số
382/KH-BCA-C07 tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng của lực lượng dân
phòng làm công tác PCCC. Qua đó, C07 tổng hợp và báo cáo lãnh đạo Bộ Công
an tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết thí điểm giao nhiệm vụ của
dân phòng cho lực lượng bảo vệ dân phố. Ngoài ra, hiện Bộ Công an đang xây
dựng Luật lực lượng tham gia đảm bảo an ninh trật tự ở cơ sở trong đó có đề
4

xuất sát nhập 03 lực lượng (Bảo vệ dân phố, dân phòng, Công an xã bán chuyên
trách) thành lực lượng tham gia bảo đảm ANTT ở cơ sở (Luật đã trình Quốc Hội
cho ý kiến). Khi luật được ban hành thì tại khu dân cư chỉ có lực lượng duy nhất
là lực lượng tham gia đảm bảo an ninh trật tự ở cơ sở.
6. Việc đánh giá chất lượng hoạt động của các đội dân phòng, đội
PCCC cơ sở và đội PCCC chuyên ngành hiện chưa có tiêu chí cụ thể, gây khó
khăn trong việc đánh giá phân loại để xét “Điển hình tiên tiến về PCCC”
(Cần Thơ). Việc công nhận đơn vị điển hình tiên tiến về PCCC còn nhiều bất
cập vì chưa có hình thức biểu dương, khen thưởng cao đối với đơn vị nhiều năm
liền được công nhận điển hình tiên tiến về PCCC, nên chưa thu hút nhiều đơn vị
đăng ký tham gia (Đồng Tháp).
 Về nội dung này, C07 đã có hướng dẫn Công an địa phương, cụ thể:
Ngày 18/02/2020, C07 có Quyết định số 380/QĐ-C07-P2 về việc ban hành quy
định phân loại đội PCCC cơ sở và đội dân phòng. Ngày 25/10/2019, C07 có
Quyết định số 3443/QĐ-C07-P2 về việc xét, công nhận đơn vị điển hình tiên
tiến trong phong trào toàn dân tham gia PCCC. Đề nghị Công an các địa phương
nghiên cứu, tổ chức thực hiện. Điển hình tiên tiến là cơ sở để khen các đơn vị
có thành tích trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, ngoài ra các
địa phương có thể vận dụng đề xuất các hình thức khen thưởng phù hợp với
tình hình, điều kiện ở địa phương.
7. Chưa có quy định thống nhất về thời hạn sử dụng của giấy chứng nhận
huấn luyện nghiệp vụ PCCC và CNCH: Theo Thông tư số 66/2024/TT-BCA thì
thời hạn sử dụng của Giấy chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ PCCC là 02 năm;
theo Nghị định số 83/2017/NĐ-CP thì thời hạn sử dụng của giấy chứng nhận
huấn luyện nghiệp vụ CNCH là 05 năm (Nam Định, Hà Nam).
 Về vấn đề này, đã được sửa đổi thống nhất tại Điều 33 Nghị định số
136/2020/NĐ-CP (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/01/2021), theo đó: Chứng
nhận huấn luyện nghiệp vụ PCCC và CNCH có giá trị sử dụng trên phạm vi cả
nước, có cùng thời hạn sử dụng 05 năm kể từ ngày cấp và theo Mẫu số 02 ban
hành kèm theo Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày 18/7/2017 quy định về công
tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng PCCC.
8. Đối với chỉ tiêu 60% thôn, ấp, bản, tổ dân phố có đội dân phòng, chỉ
tiêu này khó thực hiện được, vì trong thực tế số lượng thôn, ấp, bản, tổ dân phố
rất nhiều, địa bàn rộng lớn, trong khi đó số cán bộ quản lý địa bàn, cơ sở của
PC07 quá ít, lực lượng Công an cấp huyện, cấp xã đa số chưa có chuyên ngành
về PCCC, tại địa phương thì không có nguồn kinh phí để thành lập và duy trì
5

hoạt động. Ngoài ra một số chỉ tiêu khó thực hiện do diễn biến dịch Covid19 và
CBCS phải tham gia bảo vệ đại hội đảng các cấp (Bình Phước, Ninh Bình).
 Theo quy định của Luật PCCC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật PCCC thì tại thôn, ấp, bản, phum, sóc, tổ dân phố phải thành lập đội
dân phòng. Tuy nhiên, theo khảo sát thực tế tại các địa phương tỷ lệ đội dân
phòng được thành lập trung bình khoảng 20%. Vậy để bảo đảm tiêu chí 04 tại
chỗ được phát huy có hiệu quả và từng bước thực hiện đúng quy định của pháp
luật, C07 đưa ra tiêu chí 60% để Công an các địa phương đôn đốc, tham mưu
cho UBND các cấp từng bước thực hiện. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30
Nghị định số 136/2020/NĐ-CP thì Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm quyết
định thành lập, ban hành quy chế hoạt động, bảo đảm kinh phí, nơi làm việc,
trang bị phương tiện, bảo đảm các điều kiện cần thiết và duy trì hoạt động của
đội dân phòng.
9. Đề nghị C07 hướng dẫn rõ trường hợp nào được cấp giấy phép vận
chuyển theo chuyến, trường hợp nào cấp giấy phép vận chuyển theo thời kỳ; các
loại hồ sơ để làm căn cứ cấp giấy phép các trường hợp trên (Quảng Nam).
 Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm phải
tuân thủ theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Nghị định số 42/2020/NĐ-CP
của Chính phủ cho cả hai trường hợp vận chuyển theo chuyến và theo từng thời
kỳ. Trong đó, riêng trường hợp vận chuyển theo từng thời kỳ trong hồ sơ đề nghị
cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm không yêu cầu thành phần hồ sơ
quy định tại điểm c và điểm d khoản 2 Điều 17 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP
của Chính phủ (bản sao hoặc bản chính Bảng kê danh sách phương tiện tham gia
vận chuyển kèm theo bản sao giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường của phương tiện vận chuyển còn thời hạn hiệu lực do cơ quan
có thẩm quyền cấp; đối với vận chuyển hàng hoá nguy hiểm trên đường thuỷ nội
địa gửi kèm theo bản sao chứng chỉ chuyên môn đặc biệt).
10. Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP về
hồ sơ cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm, trong thành phần hồ sơ
có “Bản sao Giấy phép kinh doanh vận tải bằng ô tô, trong đó loại hình kinh
doanh vận tải hàng hóa”. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định số
10/2020/NĐ-CP quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô
tô và thông tin trao đổi với Sở GTVT tỉnh thì đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (có vốn đầu tư trực tiếp trên 49%) không thuộc đối tượng phải cấp
phép kinh doanh vận tải bằng ô tô. Trong trường hợp này doanh nghiệp nói trên
có được cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm không? Trường hợp
được cấp thì thành phần hồ sơ đề nghị cấp giấy phép của doanh nghiệp có cần
6

phải có Giấy phép kinh doanh vận tải bằng ô tô không hay có văn bản nào có
thể thay thế? (Quảng Nam).
 Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định số 10/2020/NĐ-CP
ngày 17/01/2020 của Chính phủ về kinh doanh, điều kiện kinh doanh vận tải
bằng xe ô tô quy định “Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài có Giấy phép kinh doanh (Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) hoặc
Giấy chứng nhận đầu tư trước ngày Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam có
hiệu lực, trong đó có ngành nghề kinh doanh vận tải đường bộ được tiếp tục
tham gia hoạt động kinh doanh vận tải”. Như vậy, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài đáp ứng theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định
số 10/2020/NĐ-CP thì đủ điều kiện để cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa
nguy hiểm.
Theo Hiệp định về Thương mại và Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
quy định như sau: “... kể từ ngày gia nhập, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
được cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa và vận tải hành khách thông qua hợp
đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước
ngoài không quá 49%. Sau 3 năm kể từ khi gia nhập, tùy theo nhu cầu thị
trường, được phép thành lập liên doanh để cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa,
trong đó tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 51% và 100%
lái xe của liên doanh phải là công dân Việt Nam”. Do vậy, các doanh nghiệp có
tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài vượt 49% thì trong Giấy chứng nhận đầu tư
không có mã ngành kinh doanh vận tải nên không được cấp Giấy phép kinh
doanh vận tải bằng ô tô. Theo đó, doanh nghiệp này không đủ điều kiện cấp
Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm do hồ sơ đề nghị cấp giấy phép vận
chuyển không có Giấy phép kinh doanh vận tải bằng ô tô theo quy định tại 2
Điều 17 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP.
11. Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất hàng nguy hiểm (không đăng ký kinh
doanh vận tải), thực hiện việc vận chuyển hàng hóa nguy hiểm cung cấp (bán
hàng) cho các đơn vị khác và các đối tượng kinh doanh vận tải không thu tiền
trực tiếp thì có thuộc đối tượng phải cấp phép vận chuyển hàng nguy hiểm
không? Trường hợp phải cấp giấy phép vận chuyển thì yêu cầu về hồ sơ đề nghị
cấp giấy phép như thế nào? (Quảng Nam).
 Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 17 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP,
các doanh nghiệp này nếu không có Giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ô tô,
trong đó phải có loại hình kinh doanh vận tải hàng hóa (áp dụng đối với đơn vị
kinh doanh vận tải bằng xe ô tô) hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh
7

nghiệp, hợp tác xã (áp dụng đối với đơn vị kinh doanh vận tải đường thủy nội
địa) thì không đủ điều kiện cấp giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm.
12. Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP,
phương tiện vận chuyển phải đủ điều kiện tham gia giao thông theo quy định
của pháp luật; quy định này còn mang tính chung chung, khó khăn trong việc
hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện, đặc biệt là điều kiện an toàn trong vận
chuyển hàng hóa nguy hiểm. Đề nghị C07 có hướng dẫn rõ hơn về điều kiện an
toàn đối với phương tiện vận chuyển các nhóm hàng hóa nguy hiểm theo trách
nhiệm của lực lượng Cảnh sát PCCC; đồng thời, thực hiện cấp Giấy phép vận
chuyển hàng hóa nguy hiểm có thực hiện kiểm tra điều kiện an toàn về PCCC
đối với phương tiện tham gia vận chuyển không? Ngoài ra, đối với phương tiện
vận chuyển nhóm hàng nguy hiểm thuộc thẩm quyền cấp Giấy phép của hệ lực
lượng Cảnh sát QLHC (PC06) thì PC07 có trách nhiệm kiểm tra điều kiện an
toàn về PCCC trước khi cấp Giấy phép vận chuyển không? (Quảng Nam).
 Phương tiện vận chuyển hàng hóa nguy hiểm bằng phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ, vận chuyển hàng hóa nguy hiểm trên đường thủy nội
địa phải đủ điều kiện tham gia giao thông theo quy định tại Điều 53 Luật Giao
thông đường bộ, Điều 24 Luật Giao thông đường thủy nội địa và phải đảm bảo
các yêu cầu theo quy định tại Điều 9, Điều 13 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP và
Điều 10 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP, Điều 6 Thông tư số 66/2014/TT-BCA (kể
từ ngày 10/01/2021, bảo đảm các yêu cầu theo quy định tại Điều 8 Nghị định số
136/2020/NĐ-CP)
Về trình tự, thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa quy định tại Điều
18 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP không có nội dung kiểm tra điều kiện an toàn
về PCCC đối với phương tiện tham gia vận chuyển. Do vậy, trong quá trình thực
hiện việc cấp phép không tổ chức kiểm tra điều kiện an toàn PCCC của phương
tiện vận chuyển.
13. Đối với các phương tiện vận chuyển xăng dầu bằng đường thủy nội
địa được xác định là cửa hàng xăng dầu mặt nước theo quy định tại QCVN
10:2015/BCT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng
dầu mặt nước, thực hiện việc vận chuyển và bán lẻ xăng dầu trên một vùng
đường thủy nội địa nhất định (theo giấy phép hoạt động) có thuộc đối tượng cấp
Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm không? (Quảng Nam).
 Các phương tiện vận chuyển xăng dầu bằng đường thủy nội địa được
xác định là cửa hàng xăng dầu mặt nước theo quy định tại QCVN 01:2020/BTC
- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về yêu cầu thiết kế cửa hàng xăng dầu (Cửa hàng
xăng dầu trên mặt nước là cửa hàng xăng dầu xây cố định trên mặt nước hoặc
8

tàu vỏ thép, xà lan đã được cải hoán hoặc các phương tiện nổi khác) thuộc đối
tượng cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm theo quy định nếu bảo
đảm các điều kiện hoạt động của phương tiện thủy nội địa theo Điều 24 Luật
giao thông đường thủy nội địa.
14. Đề nghị C07 hướng dẫn về trình tự thủ tục cấp lại Giấy phép vận
chuyển hàng hóa nguy hiểm theo các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 17
Nghị định số 42/2020/NĐ-CP (Quảng Nam).
 Đối với trường hợp có sự thay đổi liên quan đến nội dung của Giấy
phép hoặc Giấy phép bị mất, bị hỏng thì trình tự, thủ tục cấp lại theo quy định
tại khoản 2 Điều 18 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP và thành phần hồ sơ cấp lại
gồm: Giấy đề nghị cấp lại Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm kèm theo
Giấy phép bị hỏng (đối với trường hợp Giấy phép bị hỏng), hồ sơ chứng minh
sự thay đổi thông tin liên quan đến nội dung Giấy phép quy định tại điểm a, b và
c khoản 1 Điều 15 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP. Đối với trường hợp Giấy phép
bị thu hồi, bị tước thì trình tự, thủ tục cấp lại như thủ tục cấp mới theo quy định
tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 42/2020/NĐ-CP và thành phần hồ sơ cấp lại
gồm: Giấy đề nghị cấp lại Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm kèm giấy
tờ, tài liệu chứng minh việc đã khắc phục xong vi phạm là nguyên nhân dẫn đến
bị thu hồi, bị tước.
15. Quy định cấp giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ
của Nghị định số 79/2014/NĐ-CP và Nghị định số 42/2020/NĐ-CP đang không
đồng nhất, cụ thể: Quy định về thành phần hồ sơ đề nghị cấp, thời hạn giải
quyết hồ sơ, thời hạn cấp phép… gây khó khăn cho Công an các địa phương
trong triển khai thực hiện (Quảng Nam).
 Hiện nay, việc thực hiện cấp Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy
hiểm phải tuân theo quy định tại Nghị định số 42/2020/NĐ-CP. Trình tự, thủ tục
cấp, cấp lại Giấy phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm đối với phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ và đường thủy nội địa quy định tại Điều 18 Nghị định số
42/2020/NĐ-CP. Các quy định về PCCC đối với người điều khiển phương tiện
vận chuyển hàng hóa nguy hiểm, người áp tải và đổi với phương tiện vận
chuyển thực hiện theo quy định của Luật PCCC và các văn bản quy định chi tiết
thi hành.
16. Mẫu PC05 ban hành kèm theo Thông tư 66/2014/TT-BCA ngày
14/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định mẫu biên bản kiểm tra an toàn
PCCC. Mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày
18/7/2017 quy định về công tác cứu nạn, cứu hộ của lực lượng PCCC cũng quy
định biên bản kiểm tra về PCCC và CNCH gây khó khăn cho việc triển khai
9

thực hiện biểu mẫu theo đúng quy định (Nghệ An).
 Nghị định số 83/2017/NĐ-CP ngày 18/7/2017 của Chính phủ quy định
về công tác CNCH của lực lượng PCCC (có hiệu lực từ ngày 04/10/2017) giao
trách nhiệm quản lý nhà nước về CNCH cho cơ quan Công an (Điều 39, 40) và
ban hành biểu mẫu Biên bản kiểm tra về PCCC, CNCH - Mẫu số 03 (điểm c
Điều 43). Hướng dẫn thực hiện Nghị định này, Bộ Công an đã ban hành Thông
tư số 08/2018/TT-BCA, trong đó tại Điều 6 quy định “Việc kiểm tra các điều
kiện bảo đảm an toàn về CNCH đối với cơ sở được kết hợp với kiểm tra an toàn
về PCCC; lập biên bản kiểm tra theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị định
số 83/2017/NĐ-CP”. Theo đó, khi cơ quan Công an thực hiện kiểm tra về
PCCC, CNCH đối với các đối tượng thuộc diện quản lý về PCCC thì sử dụng
Biên bản kiểm tra theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Nghị định số
83/2017/NĐ-CP. Từ ngày 10/01/2021, sử dụng Biên bản kiểm tra theo Mẫu số
PC10 ban hành kèm theo Nghị định số 136/2020/NĐ-CP.
17. Theo chủ trương phát triển năng lượng tái tạo của Chính phủ, hiện
nay trên địa bàn tỉnh các dự án điện mặt trời, điện gió được quy hoạch và phát
triển nhanh, tuy nhiên chưa có các tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định việc bảo đảm
an toàn PCCC đối với loại hình công trình này (Ninh Thuận).
 Hiện nay, các công trình điện mặt trời, điện gió đang được đầu tư xây
dựng và phát triển mạnh ở nước ta. Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật,
tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC hiện hành chưa có quy định cụ thể các điều
kiện an toàn về PCCC đối với các loại công trình trên. Do đó, việc bảo đảm các
điều kiện về an toàn PCCC; yêu cầu về trang bị, lắp đặt hệ thống, phương tiện
PCCC cho các công trình này được thực hiện theo quy định của quy chuẩn,
tiêu chuẩn chung về PCCC cho nhà, công trình (QCVN 06:2020/BXD; TCVN
2622:1995; TCVN 3890:2009…).
Quá trình thực hiện, cơ quan Cảnh sát PCCC và CNCH ngoài việc hướng
dẫn cơ sở thực hiện theo quy định của quy chuẩn, tiêu chuẩn chung về PCCC
cần phải nghiên cứu dây chuyền công nghệ, đặc điểm nguy hiểm cháy, nổ và
căn cứ vào thực tiễn để đánh giá, đưa ra các giải pháp yêu cầu, kiến nghị cơ sở
thực hiện nhằm bảo đảm các điều kiện an toàn về PCCC (việc đánh giá, đưa ra
các giải pháp có thể tham khảo, nghiên cứu nội dung hướng dẫn tại Công văn số
3288/C07-P4 ngày 08/9/2020 của C07 về hướng dẫn công tác thẩm duyệt thiết
kế về PCCC đối với nhà máy điện mặt trời và hệ thống điện mặt trời mái nhà).
Trong đó, cần lưu ý trong quá trình triển khai thực hiện hướng dẫn của C07 tại
Công văn số 3288/C07-P4 ngày 08/9/2020 với nội dung “khuyến khích sử dụng
tấm pin dạng tinh thể”, một số đơn vị địa phương còn vận dụng máy móc, không
10

cho phép các dự án, công trình sử dụng và lắp đặt tấm pin dạng phim mỏng mà
chỉ được phép sử dụng tấm pin dạng tinh thể, gây khó khăn cho Chủ đầu tư
trong quá trình triển khai dự án. Việc lựa chọn chủng loại tấm pin thuộc trách
nhiệm của Chủ đầu tư trên cơ sở bảo đảm tính kinh tế - kỹ thuật của dự án và
chấp hành các quy định về PCCC. Về lâu dài, C07 sẽ phối hợp với các cơ quan,
đơn vị chức năng tham mưu cho cấp có thẩm quyền xây dựng tiêu chuẩn, quy
chuẩn về PCCC cho công trình điện gió, điện mặt trời.
18. Việc xử lý vi phạm hành chính đối với các vụ cháy, nổ xảy ra tại hộ
gia đình được quy định cụ thể tại Điều 47 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 của Chính phủ áp dụng hình thức phạt tiền và không quy định hình
thức phạt cảnh cáo gây khó khăn cho việc xử lý vi phạm hành chính vì những
vụ cháy, nổ xảy ra tại hộ gia đình thường gây thiệt hại về tài sản, chủ hộ gia
đình không có khả năng nộp phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính
(Đồng Nai, Tiền Giang).
 Về vấn đề này, C07 đã đề xuất bổ sung hình thức phạt cảnh cáo và sửa
đổi mức giá trị thiệt hại do cháy gây ra vào Điều 47 dự thảo Nghị định thay thế
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, theo đó với vi
phạm để xảy ra cháy, nổ tại hộ gia đình gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng sẽ
không bị xử phạt vi phạm hành chính và vi phạm để xảy ra cháy, nổ gây thiệt
hại từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng sẽ áp dụng hình thức phạt cảnh
cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Ngoài ra, trường hợp vi
phạm để xảy ra cháy, nổ tại hộ gia đình mà cá nhân vi phạm bị phạt tiền từ
3.000.000 đồng trở lên thì theo quy định tại khoản 1 Điều 77 Luật xử lý VPHC,
người có thẩm quyền có thể xem xét giảm, miễn tiền phạt ghi trong quyết định
xử phạt đối với cá nhân vi phạm do đang gặp khó khăn đột xuất về kinh tế do
cháy, nổ gây ra.
19. Một số cơ sở vi phạm là cơ sở kinh doanh mang tính chất phúc lợi xã
hội thuộc sự quản lý của cơ quan Nhà nước như: Chợ, Trung tâm thương mại…,
khi vi phạm việc thi hành quyết định xử lý gặp nhiều khó khăn do nguồn kinh phí
phụ thuộc vào cơ quan quản lý Nhà nước. Có những cơ sở mới đi vào hoạt
động, trong quá trình sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn; một số cơ sở
sản xuất kinh doanh cầm chừng, theo mùa vụ của người nông dân nên có thời
gian tạm ngưng sản xuất (kéo dài từ 04-06 tháng). Khi vi phạm quy định về
PCCC thì việc thi hành quyết định xử lý VPHC gặp nhiều khó khăn do cơ sở tạm
ngưng sản xuất hoặc phá sản (Bình Phước).
 Điều 3 Luật Xử lý VPHC đã quy định cụ thể về nguyên tắc trong xử
phạt vi phạm hành chính, theo đó “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện,
11

ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành
chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật và việc xử
phạt vi phạm hành chính được tiến hành công khai, khách quan, bảo đảm công
bằng, đúng quy định của pháp luật”. Pháp luật không phân biệt tổ chức vi phạm
là cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập hay doanh nghiệp, người giàu
hay người nghèo, đối với một hành vi vi phạm, cùng tính chất, mức độ thì cá
nhân, tổ chức vi phạm bị áp dụng cùng một chế tài xử lý và theo quy định của
pháp luật, bảo đảm khách quan, công bằng trong xử phạt vi phạm hành chính.
Trường hợp tổ chức vi phạm đã phá sản thì theo quy định tại Điều 75 Luật Xử lý
VPHC, khoản 1 Điều 9 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP sẽ không thi hành quyết
định phạt tiền nhưng vẫn thi hành hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết
định. Trường hợp này, người đã ra quyết định xử phạt phải ra quyết định thi
hành một phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 60 ngày,
kể từ ngày tổ chức bị xử phạt phá sản được ghi trong quyết định phá sản (theo
mẫu số 14/QĐ-THMPQĐXP ban hành kèm theo Thông tư số 07/2019/TT-BCA
ngày 20/3/2019 của Bộ Công an). Thủ tục thi hành quyết định thi hành một phần
quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 9 Nghị định số
81/2013/NĐ-CP.
20. Việc tổ chức cưỡng chế đối với pháp nhân là cơ quan nhà nước chưa
có hướng dẫn thực hiện cụ thể: Năm 2016 Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH đã
ra quyết định XPVPHC đối với Ban quản lý chợ Trung tâm I thuộc UBND
phường Tân Thanh (số tiền 6.500.000 đồng). Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH
đã kiến nghị đến UBND TP Điện Biên Phủ, UBND phường Tân Thanh thực hiện
quyết định XPVPHC 02 lần nhưng đến nay UBND phường Tân Thanh chưa có
hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
khó khăn (Điện Biên).
 Việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được
áp dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện chấp hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Điều 86 Luật Xử lý VPHC). Trình tự,
thủ tục cưỡng chế thực hiện theo quy định tại Nghị định số 166/2013/NĐ-CP
ngày 12/11/2013 của Chính phủ, theo đó việc tổ chức cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính không phân biệt đối tượng bị cưỡng chế là cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, hay doanh nghiệp. Người có thẩm
quyền cưỡng chế căn cứ vào kết quả xác minh thông tin về tài sản của đối tượng
vi phạm để áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 8
Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát triển và
12

quản lý chợ thì Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi
phí, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước.
Do đó, Ban quản lý chợ Trung tâm I thuộc UBND phường Tân Thanh là tổ chức
được thành lập theo quy định của pháp luật có nghĩa vụ và trách nhiệm chấp
hành quy định của pháp luật nói chung, quy định về xử lý vi phạm hành chính
nói riêng. Trường hợp Ban quản lý chợ Trung tâm I bị xử phạt nhưng không tự
nguyện chấp hành thì người có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với Ban quản lý chợ Trung tâm I.
21. Theo quy định sau khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra sẽ phải gửi
kết luận điều tra đến cơ quan Cảnh sát PCCC nhưng thực tế hầu như cơ quan
Cảnh sát PCCC không nhận được kết quả này dẫn đến công tác tham mưu, tổng
kết, rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp phòng ngừa gặp khó khăn (Phú Thọ).
 Tại điểm b khoản 2 điều 17 Thông tư số 55/2020/TT-BCA ngày
03/6/2020 của Bộ Công an quy định “Cơ quan điều tra các cấp chủ trì điều tra,
giải quyết vụ cháy, nổ theo thẩm quyền sau khi kết thúc điều tra, trong thời hạn
10 ngày kể từ khi có kết quả giải quyết phải thông báo bằng văn bản về kết quả
giải quyết cho cơ quan, đơn vị Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu
hộ cùng cấp để phục vụ công tác báo cáo, thống kê về vụ cháy, nổ theo quy
định”. Cơ quan Cảnh sát PCCC và CNCH báo cáo Giám đốc công an tỉnh để chỉ
đạo thực hiện theo đúng quy định.
22. Theo Điều 7, Thông tư số 55/2020/TT-BCA ngày 03/6/2020 của Bộ
Công an quy định về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác
điều tra, giải quyết vụ cháy, nổ của lực lượng Công an nhân dân, Phòng PC07:
Chủ trì điều tra, giải quyết các vụ cháy không có thiệt hại về người, không có
yếu tố nước ngoài và thiệt hại về tài sản dưới 100.000.000 đồng tại cơ sở được
phân cấp quản lý về PCCC trên địa bàn cấp huyện chưa thành lập Đội Cảnh sát
PCCC&CNCH. Ngoài ra, theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì
công tác khám nghiệm hiện trường, nơi xảy ra, nơi phát hiện các dấu vết. thu
giữ vật chứng, tài liệu… phải do Điều tra viên tiến hành thực hiện. Tuy nhiên,
thực tế thiếu cán bộ chuyên sâu về nghiệp vụ điều tra, thiếu trang thiết bị để tổ
chức giải quyết, điều tra ngay từ ban đầu các vụ cháy, nổ nên trên thực tế số vụ
cháy, nổ xảy ra Phòng PC07 chỉ phối hợp tham gia khám nghiệm hiện trường
các vụ cháy, nổ để phục vụ công tác điều tra làm rõ nguyên nhân vụ cháy nổ,
không trực tiếp chủ trì điều tra. Đề nghị C07 đề xuất Bộ Công an tổ chức các
lớp nghiệp vụ điều tra về cháy, nổ cho lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH để
đủ điều kiện bổ nhiệm chức danh tư pháp cho điều tra viên và cán bộ điều tra
13

thuộc lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH (Phú Thọ, Hà Nam, Bến Tre, Thái
Bình, Tiền Giang).
 Tại mục 2, Công văn số 3676/BCA-C07 ngày 28/10/2020 của Bộ
Công an hướng dẫn thực hiện điều tra cháy nổ quy định “Đối với vụ cháy, nổ do
Phòng Cảnh sát PCCC và CNCH Công an cấp tỉnh chủ trì, Cơ quan Cảnh sát
điều tra cấp huyện nơi xảy ra vụ cháy, nổ có trách nhiệm cử Điều tra viên hoặc
cán bộ điều tra tham gia, phối hợp”, đồng thời C07 đã hoàn thành quy trình điều
tra, giải quyết vụ cháy, nổ của lực lượng Cảnh sát PCCC. Như vậy, các văn bản
trên đã đáp ứng yêu cầu có điều tra viên để thực hiện công tác khám nghiệm
hiện trường, nơi xảy ra, nơi phát hiện các dấu vết, thu giữ vật chứng, tài liệu…
các vụ cháy, nổ do PC07 chủ trì thực hiện.
Hiện nay, C07 đang báo cáo, đề xuất lãnh đạo Bộ về danh mục phương
tiện, thiết bị phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường (vali khám nghiệm hiện
trường cháy, nổ chuyên dụng) để trang bị cho cho PC07 Công an các địa phương.
Trong các năm qua, C07 đã chủ động tham mưu cho lãnh đạo Bộ để tổ chức
huấn chuyên sâu về điều tra nguyên nhân vụ cháy, khám nghiệm hiện trường các
vụ cháy nổ cho CBCS thuộc PC07 Công an địa phương, năm 2020, C07 tổ chức
02 lớp huấn chuyên sâu về điều tra, khám nghiệm hiện trường vụ cháy, nổ.
23. Việc quy định bãi đỗ cho xe chữa cháy là quy định thiết thực và cần
thiết, tuy nhiên, những công trình hiện hữu, khi cải tạo thay đổi công năng khó
đáp ứng điều kiện về bãi đỗ cho xe chữa cháy. Do đó, đề nghị C07 có hướng
dẫn chuyển tiếp cho các loại công trình này (Bình Phước).
 Điểm a khoản 2 Điều 15 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP trước đây quy
định công trình nêu tại Phụ lục IV khi xây dựng mới, cải tạo hoặc thay đổi tính
chất sử dụng phải thẩm duyệt thiết kế về PCCC. Do đó, việc thẩm duyệt khi cải
tạo, thay đổi công năng của các công trình hiện hữu là bắt buộc và thực hiện
theo quy định của quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành về PCCC. Đến nay, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 136/2020/NĐ-CP, tại điểm d khoản 5 Điều 13
của Nghị định này quy định “Đối với công trình đã được nghiệm thu đưa vào
sử dụng theo quy định, khi lắp đặt mới hoặc cải tạo thiết bị, hệ thống PCCC thì
chỉ thẩm duyệt thiết kế về PCCC đối với phần lắp đặt mới hoặc cải tạo hệ
thống thiết bị PCCC trong công trình.” Do đó, đối với công trình đã được
nghiệm thu về PCCC, trong đó có hạng mục đường giao thông cho xe chữa
cháy đã được nghiệm thu thì khi thẩm duyệt không xem xét đến nội dung
đường giao thông cho xe chữa cháy mà chỉ thẩm duyệt phần lắp đặt mới, cải
tạo hệ thống thiết bị PCCC.
14

Đối với công trình hiện hữu chưa được nghiệm thu về PCCC thì khi cải
tạo, thay đổi công năng, đường giao thông và bãi đỗ cho xe chữa cháy thực hiện
theo quy định của QCVN 06:2020/BXD và được C07 hướng dẫn cụ thể tại Phụ
lục III ban hành kèm theo Công văn số 2018/C07-P4 ngày 22/6/2020 về việc
hướng dẫn áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về PCCC. Trường hợp thiết
kế công trình không bảo đảm theo quy định thì không đủ điều kiện để cấp văn
bản thẩm duyệt thiết kế về PCCC.
24. Đề nghị C07 có văn bản thống nhất cách tính giới hạn chịu lửa cho
nhà công nghiệp khung thép mái tôn, đồng thời có bản danh sách phân loại
hạng nguy hiểm cháy, nổ đối với cơ sở nguy hiểm cháy, nổ; danh sách này, được
bổ sung hàng năm, mục đích nhằm thống nhất trên cả nước về cách tính giới
hạn chịu lửa, xác định hạng nguy hiểm về cháy, nổ; tránh trường hợp mỗi địa
phương hiểu và áp dụng một cách khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp khi xin phép thẩm duyệt và nghiệm thu, góp phần cải cách thủ tục hành
chính theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an và của địa phương
(Bình Phước).
 C07 đã có Công văn số 3289/C07-P4 ngày 08/9/2020 gửi Công an các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn công tác thẩm duyệt thiết kế,
nghiệm thu về PCCC, nội dung hướng dẫn cụ thể đối với nhà công nghiệp nêu
tại Phụ lục III của văn bản này, trong đó có hướng dẫn cách xác định bậc chịu
lửa và phân hạng công trình theo tính nguy hiểm cháy và cháy nổ. Ngoài ra, Phụ
lục C của QCVN 06:2020/BXD đã quy định về cách phân hạng công trình theo
tính nguy hiểm cháy và cháy nổ. Đồng thời, đã có danh sách phân hạng công
trình theo tính nguy hiểm cháy và cháy nổ của một số nhà và gian phòng thuộc
các phân xưởng, nhà kho, bộ phận sản xuất. Trường hợp nhà và gian phòng có
tên gọi khác thì phải xét tính chất hoạt động, chất cháy... bên trong để phân hạng
tương đương với các tiêu chí và danh sách được nêu tại Phụ lục C của QCVN
06:2020/BXD.
25. Đối với QCVN 06:2020/BXD, đề nghị Cục C07 có hướng dẫn cụ thể
những vấn đề còn bất cập, chưa rõ để địa phương thống nhất áp dụng trong
thực tiễn (Bình Phước, Tuyên Quang).
 C07 đã có Công văn số 2018/C07-P4 ngày 22/6/2020 gửi Công an các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn áp dụng một số quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia, trong đó nội dung hướng dẫn cụ thể đối với QCVN
06:2020/BXD nêu tại Phụ lục III của văn bản này. Trong quá trình triển khai
thực hiện áp dụng QCVN 06:2020/BXD nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị
15

các địa phương có báo cáo bằng văn bản gửi C07 để tổng hợp trao đổi với Bộ
Xây dựng bổ sung sửa đổi quy chuẩn trong thời gian tới.
26. Một số đơn vị còn lợi dụng chính sách kêu gọi đầu tư để bỏ qua các
thủ tục về PCCC; nhiều công trình chủ đầu tư tự ý xây dựng công trình trước
khi lập dự án thiết kế và thẩm duyệt về PCCC nên khi thực hiện thẩm duyệt
không bảo đảm theo yêu cầu hoặc tự ý thay đổi công năng, tính chất sử dụng,
lắp đặt thi công hệ thống PCCC chưa đúng với hồ sơ thẩm duyệt thiết kế theo
quy định; đưa công trình vào hoạt động khi chưa đảm bảo các điều kiện về
PCCC; một số khu dân cư, cụm công nghiệp đã xây dựng và hoạt động, nếu yêu
cầu thẩm duyệt thì sẽ không thể thực hiện được do các nguyên nhân: Không
đảm bảo thủ tục pháp lý, không đảm bảo các yêu cầu về PCCC. Trên thực tế các
cơ sở vẫn hoạt động và có nguyện vọng xin được hướng dẫn giải pháp tháo gỡ.
Chính quyền sở tại và các cơ quan chức năng chưa vào cuộc kịp thời, xử lý chưa
nghiêm đối với các cơ sở vi phạm về PCCC trong đầu tư xây dựng trên địa bàn
mình quản lý (Nghệ An, Thái Nguyên, Bình Định, Hà Nam, Thái Bình).
 Để xử lý các công trình đã đưa vào sử dụng nhưng chưa được thẩm
duyệt thiết kế, nghiệm thu về PCCC, C07 đã có Công văn số
4312/PCCC&CNCH-P4 ngày 19/11/2019 gửi Công an các địa phương về việc
nâng cao chất lượng công tác thẩm duyệt thiết kế, nghiệm thu về PCCC. Đề nghị
PC07 Công an các địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng xử lý
nghiêm đối với các hành vi phạm về PCCC trong đầu tư xây dựng theo đúng
quy định của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Cần thành lập đoàn để tổ chức kiểm tra, đánh giá thực trạng các điều kiện an
toàn PCCC của công trình theo quy định tại Điều 5 và Điều 11 Nghị định số
136/2020/NĐ-CP, trong đó tập trung vào các yêu cầu: Khoảng cách an toàn
PCCC; đường giao thông cho xe chữa cháy; bậc chịu lửa; ngăn cháy, chống
cháy lan; giải pháp thông gió, chống tụ khói; thoát nạn; các hệ thống báo cháy,
chữa cháy; trang bị phương tiện chữa cháy ban đầu và các hệ thống kỹ thuật
khác có liên quan.
- Trường hợp kết quả kiểm tra thực tế của công trình đảm bảo các yêu cầu
theo quy định của tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC thì hướng dẫn Chủ đầu tư lập
hồ sơ thiết kế cải tạo, bổ sung hệ thống PCCC;
- Trường hợp kết quả kiểm tra thực tế của công trình không đảm bảo các
yêu cầu theo quy định của tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC thì hướng dẫn chủ đầu
tư điều chỉnh đảm bảo các yêu cầu tại Điều 11 Nghị định số 136/2020/NĐ-CP và
lập hồ sơ thiết kế cải tạo, bổ sung hệ thống PCCC.
16

Sau khi Chủ đầu tư hoàn thiện hồ sơ thiết kế cải tạo công trình thì trình
hồ sơ đến cơ quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy để thẩm duyệt thiết kế và
nghiệm thu về PCCC theo quy định tại Điều 13 và Điều 15 Nghị định số
136/2020/NĐ-CP.
Đồng thời, Công an các địa phương cần tăng cường công tác phối hợp với
cơ quan quản lý về xây dựng ở địa phương thông qua việc ban hành quy chế
phối hợp để kiểm tra, đôn đốc, giám sát chủ đầu tư dự án, công trình khi thực
hiện trình tự xin cấp phép xây dựng, thẩm định dự án đầu tư xây dựng thì phải
được cơ quan Cảnh sát PCCC thẩm duyệt thiết kế về PCCC, tổ chức nghiệm thu
về PCCC trước khi nghiệm thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng theo quy
định của Luật Phòng cháy và chữa cháy, Luật Xây dựng và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
27. Chưa có sự thống nhất giữa các đơn vị liên quan trong việc cấp phép
đối với các công trình xây dựng như: Một số công trình trước khi xây dựng chủ
đầu tư chưa xin ý kiến về PCCC đã xin phê duyệt qua Sở xây dựng hoặc Ban
quản lý dự án các KCN tỉnh và được sự chấp thuận. Hồ sơ sau đó chuyển sang
phòng Cảnh sát PCCC và CNCH để thẩm duyệt thiết kế không đảm bảo các
điều kiện an toàn về PCCC nhưng đã được phê duyệt gây khó khăn trong công
tác thẩm duyệt thiết kế (Thái Bình).
 Quy định về thiết kế và thẩm duyệt thiết kế về PCCC được quy định
tại Điều 15 Luật PCCC năm 2001, phải được thực hiện trong đầu tư xây dựng
đối với dự án, công trình thuộc diện phải thẩm duyệt thiết kế về PCCC. Việc phê
duyệt của cơ quan cấp phép, thẩm định xây dựng không thay thế được việc phải
đảm bảo các quy định của pháp luật về PCCC. Ngoài ra, văn bản thẩm duyệt
hoặc cho ý kiến giải pháp về PCCC là một thành phần trong danh mục hồ sơ
trình thẩm định dự án đầu tư xây dựng tại Phụ lục II Nghị định 59/2015/NĐ-CP
ngày 18/6/2015 của Chính phủ quy định về quản lý đầu tư xây dựng.
Căn cứ quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Xây dựng, Bộ Công an -
Bộ Công Thương, Công an các địa phương xây dựng quy chế phối hợp giữa
Công an cấp tỉnh với Sở Xây dựng, Sở Công Thương theo hướng cơ quan chủ trì
thẩm định, cấp phép xây dựng chỉ cấp văn bản thẩm định, giấy phép xây dựng
khi hồ sơ thiết kế công trình được cấp giấy chứng nhận thẩm duyệt về PCCC;
chỉ cấp văn bản nghiệm thu hoàn thành công trình khi công trình được cấp văn
bản chấp thuận nghiệm thu về PCCC.
28. Nhiều công trình cũ, xây dựng trước khi Luật PCCC ban hành, khi
tiến hành cải tạo, sửa chữa không có khả năng đáp ứng được yêu cầu về PCCC
17

theo các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành nhưng chưa có quy định cụ thể để
hướng dẫn cơ sở tổ chức thực hiện (Nghệ An).
 C07 đã có Công văn số 2566/C07-P4 ngày 21/7/2020 gửi Công an các
địa phương về việc về việc lấy ý kiến góp ý đối với hướng dẫn thực hiện Điều
63a Luật PCCC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật PCCC. Sau khi
tập hợp ý kiến góp ý của Công an các địa phương, C07 đã có Công văn số
3845/PCCC&CNCH-P4, ngày 14/10/2020 gửi Bộ Xây dựng đề nghị tham gia ý
kiến đối với các giải pháp kỹ thuật cho các cơ sở không bảo đảm an toàn
PCCC được đưa vào sử dụng trước khi Luật PCCC 2001 có hiệu lực. Sau khi
Bộ Xây dựng có ý kiến góp ý, C07 sẽ đề xuất văn bản của Bộ Công an hướng
dẫn UBND các tỉnh, thành phố thực hiện xây dựng Nghị quyết quy định việc
xử lý các cơ sở không bảo đảm yêu cầu về PCCC được đưa vào sử dụng trước
Luật PCCC.
29. Thực hiện TCVN 3890:2009 - về phương tiện phòng cháy và chữa
cháy cho nhà và công trình - trang bị, bố trí, kiểm tra và bảo dưỡng: Tại Phụ
lục C quy định trang bị hệ thống chữa cháy tự động cho các nhà xưởng sản xuất
(hạng C) có quy mô từ 300m2 trở lên, đối với các công trình có quy mô vừa và
nhỏ thì việc thực hiện quy định này khó thực hiện do chi phí lắp đặt hệ thống
PCCC cao so với giá trị xây dựng nhà xưởng (Tuyên Quang).
 Các công trình thuộc diện phải trang bị hệ thống chữa cháy tự động
được quy định tại Phụ lục C TCVN 3890:2009, đề nghị Công an tỉnh Tuyên
Quang hướng dẫn chủ đầu tư thực hiện theo quy định. Các nội dung vướng mắc
đề nghị Công an tỉnh Tuyên Quang nêu cụ thể bằng văn bản gửi C07 tập hợp,
nghiên cứu điều chỉnh trong quá trình soát xét TCVN 3890:2009.
30. Hầu hết các cơ sở có quy mô nhỏ, được cải tạo, sửa chữa, thay đổi
tính chất hoạt động từ nhà ở gia đình, phần lớn các cơ sở này đều được xây
dựng và đi vào hoạt động trước khi Thông tư 47/2015/TT-BCA có hiệu lực. Do
đó, việc thực hiện đầy đủ các yêu cầu an toàn về PCCC theo quy định còn nhiều
hạn chế, bất cập; nhiều cơ sở không thực hiện được các yêu cầu đảm bảo an
toàn PCCC theo quy định tại Thông tư 47/2015/TT-BCA. Hiện đơn vị chỉ tăng
cường công tác tuyên truyền và đưa ra các kiến nghị giúp cơ sở khắc phục tồn
tại, đảm bảo an toàn PCCC (Tuyên Quang).
 Thông tư số 47/2015/TT-BCA được ban hành và có hiệu lực thi hành
từ ngày 04/12/2015. Trong đó, quy định đối với cơ sở đang hoạt động kinh
doanh vũ trường, karaoke đã có thời hạn chờ 24 tháng để thực hiện theo hướng
dẫn tại Thông tư này. Nếu sau thời gian này, cơ sở không khắc phục các giải
pháp về PCCC theo quy định của Thông tư 47/2015/TT-BCA mà vẫn hoạt động,
18

đề nghị Công an tỉnh Tuyên Quang yêu cầu, kiến nghị chủ đầu tư khắc phục các
tồn tại về PCCC, nếu cơ sở không thực hiện bổ sung các giải pháp về PCCC
theo quy định mà vẫn tồn tại hoạt động cần kiên quyết xử lý theo quy định. Hiện
nay, C07 đang tham mưu cho Bộ Công an ban hành Thông tư thay thế Thông tư
số 47/2015/TT-BCA theo hướng cập nhật các quy định của văn bản quy phạm
pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành về PCCC đối với loại hình kinh
doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường và quy định cụ thể đối tượng thuộc
diện thuộc diện thẩm duyệt, đối tượng không thuộc diện thẩm duyệt thiết kế về
PCCC và hướng dẫn cụ thể các giải pháp bảo đảm an toàn PCCC đối với loại
hình này.
31. Đối với kho chứa chai khí dầu mỏ hoá lỏng độc lập (không nằm trong
cửa hàng kinh doanh khí dầu mỏ hoá lỏng) chưa có quy định cụ thể về khoảng
cách an toàn từ kho chứa chai khí dầu mỏ hoá lỏng đến các công trình dân
dụng, khu dân cư, công trình công cộng bao gồm: Trường học, bệnh viện, triển
lãm quốc gia, chợ, trung tâm thương mại...(Yên Bái).
 Khoảng cách an toàn từ kho chứa chai khí dầu mỏ hóa lỏng đến công
trình lân cận được quy định tại Bảng 1 TCVN 6304:1997 chai chứa khí đốt hóa
lỏng - Yêu cầu an toàn trong bảo quản, xếp dỡ, vận chuyển. Đề nghị Công an
địa phương nghiên cứu, thực hiện.
32. Thực hiện quy định về lắp đặt hệ thống báo cháy, chữa cháy tự động:
Một số cơ sở, nhất là cơ sở trong khu công nghiệp bắt buộc phải lắp đặt hệ
thống báo cháy và chữa cháy tự động nhưng không lắp đặt được vì những khu
vực này là môi trường có nhiều bụi, trong kho lạnh…khi lắp đặt hệ thống báo
cháy tự động thì hiệu quả hoạt động không cao, thiết bị dễ bị hỏng và thường
xuyên xảy ra tình trạng báo cháy giả; hệ thống chữa cháy tự động khi bị lỗi kỹ
thuật dễ làm hư hỏng các nguyên liệu sản xuất của doanh nghiệp (Đồng Tháp).
 Đối với hệ thống báo cháy tự động: Khi thẩm duyệt thiết kế hệ thống
báo cháy tự động cho các công trình, PC07 Đồng Tháp cần nghiên cứu về tính
chất nguy hiểm cháy, nổ của các công trình để kiến nghị, hướng dẫn chủ đầu tư,
đơn vị thiết kế lựa chọn kiểu, loại đầu báo cháy đảm bảo theo quy định của Phụ
lục A TCVN 5738:2001. Hệ thống báo cháy tự động phải được bảo trì, bảo
dưỡng thường xuyên, một năm ít nhất 2 lần để tránh hư hỏng và được thay thế
khi hư hỏng theo quy định của TCVN 3890:2009.
Đối với hệ thống chữa cháy tự động: Theo quy định tại Điều 7.1.1 TCVN
3890:2009 “Trong nhà và công trình quy định tại Phụ lục C cần phải trang bị hệ
thống chữa cháy tự động cho toàn bộ các phòng, không phụ thuộc vào diện tích,
trừ các khu vực sau: Khu vực ẩm ướt (phòng tắm, vệ sinh, buồng lạnh, khu
19

rửa…); cầu thang bộ; khu vực không có nguy hiểm về cháy”. Như vậy, đối với
các khu vực kho lạnh không yêu cầu phải lắp hệ thống chữa cháy tự động. Theo
quy định tại Điều 7.1.2 “Lựa chọn hệ thống chữa cháy tự động trang bị cho nhà
và công trình theo quy định tại 7.1.1 phải có chất chữa cháy phù hợp với yêu cầu
tại 4.5 và phù hợp với yêu cầu cần bảo vệ”. Như vậy, đối với hệ thống chữa
cháy tự động bằng nước trong các trường hợp này có thể khuyến cáo sử dụng hệ
thống tác động trước, hệ thống tác động trước tuần hoàn theo quy định của
TCVN 7336:2003 để tăng độ tin cậy của hệ thống báo cháy tự động, tránh tác
động chữa cháy nhầm khi không có sự cố cháy xảy ra. Ngoài trang bị hệ thống
chữa cháy tự động bằng nước, có thể yêu cầu trang bị hệ thống chữa cháy tự
động bằng khí, bằng bột và bằng bọt để phù hợp với công năng sử dụng trong
công trình.
Khi kiểm tra nghiệm thu về PCCC, cơ quan Cảnh sát PCCC cần kiểm tra
kỹ việc lắp đặt và thử nghiệm hoạt động của các hệ thống PCCC đảm bảo theo
hồ sơ thiết kế được thẩm duyệt, các thiết bị PCCC phải được kiểm định và dán
tem kiểm định theo đúng quy định.
33. Quy định trang bị phương tiện chữa cháy cho xe ô tô 4 chỗ đến 9 chỗ
tại Thông tư số 57/2015/TT-BCA, ngày 26/10/2015 về hướng dẫn trang bị
phương tiện PCCC đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ chưa phù
hợp với thực tế nên không triển khai thi hành được (Nam Định, Yên Bái).
 Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số 136/2020/NĐ-CP quy
định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ từ 04 chỗ ngồi trở lên phải bảo
đảm điều kiện hoạt động đã được kiểm định; vật tư hàng hóa bố trí, sắp xếp trên
phương tiện phải đảm bảo an toàn PCCC. Phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ trên 09 chỗ ngồi phải có phương tiện chữa cháy phù hợp với tính chất, đặc
điểm hoạt động đảm bảo số lượng, chất lượng phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn
về PCCC hoặc theo quy định của Bộ Công an.
Hiện nay, C07 đang tham mưu lãnh đạo Bộ Công an ban hành Thông tư
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 57/2015/TT-BCA. Theo đó, xe ô
tô từ 4 chỗ ngồi đến 9 chỗ ngồi sẽ không thuộc diện trang bị phương tiện PCCC.
34. Việc triển khai thực hiện Thông tư số 56/2014/TT-BCA ngày
12/11/2014 và Thông tư số 48/2015/TT-BCA ngày 06/10/2015 của Bộ Công an về
trang bị phương tiện PCCC, trang phục cho lực lượng dân phòng gặp nhiều khó
khăn do địa phương chưa bố trí được nguồn kinh phí (Nam Định, Đồng Nai).
 Theo quy định tại điểm 3 Điều 4 Thông tư số 56/2014/TT-BCA, Giám
đốc công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị UBND cùng cấp để
trình Hội đồng nhân dân quyết định trang bị phương tiện PCCC cho lực lượng
20

dân phòng phù hợp với điều kiện ngân sách địa phương. Việc giao Giám đốc
công an cấp tỉnh tham mưu, đề nghị việc trang bị phương tiện cho lực lượng dân
phòng sẽ mất rất nhiều thời gian để tập hợp các yêu cầu về trang bị phương tiện
PCCC và CNCH của lực lượng dân phòng, đồng thời do việc trang bị cho toàn
tỉnh sẽ dẫn đến không trang bị được các phương tiện PCCC thiết thực đến lực
lượng dân phòng cấp xã. Do vậy, hiện C07 đang tham mưu Bộ trưởng Bộ Công
an ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 56/2014/TT-BCA, trong đó, quy
định cơ quan Công an cấp xã có thể căn cứ vào đặc điểm yêu cầu thực tiễn công
tác PCCC và CNCH trên từng địa bàn cấp xã để đề nghị UBND cấp trên xem
xét trang bị quyết định số lượng phương tiện PCCC và CNCH trang bị cho lực
lượng dân phòng phù hợp với đặc điểm của từng địa phương.
35. Trong quá trình xây dựng đường giao thông tại địa bàn cần sử dụng
vật liệu nổ công nghiệp. Do đó, đơn vị thi công thiết kế kho bảo quản, các kho
chứa vật liệu nổ công nghiệp có trữ lượng dưới 1.000kg, được thiết kế lắp ghép
với nhau bằng bu lông, ốc vít có kích thước trung bình 1,5x1,5x2m, dạng kho
lưu động có khung sắt chữ V, vỏ bằng thép tôn dày, thời gian hoạt động khoảng
6-12 tháng. Trong quá trình thực hiện thẩm duyệt, nghiệm thu về PCCC tuy
nhiên việc xác định chấp thuận địa điểm khó bảo đảm trình tự, vì kho đã được
làm sẵn đề chờ lắp ghép đưa vào sử dụng. Qua đối chiếu với Phụ lục 16 QCVN
01:2019/BCT, đối với kho có sức chứa đến 20 tấn thuộc nổ phải có bể chứa
10m3, như vậyt đối với loại kho này là chưa thực tế. Để thực hiện các quy trình,
quy định về thẩm duyệt, nghiệm thu về PCCC bảo đảm theo các quy định, đề
nghị C07 hướng dẫn cụ thể đối với loại công trình như trên (Cao Bằng).
 Trong quá trình triển khai thẩm duyệt đối với vật liệu nổ công nghiệp
thực hiện trình tự chấp thuận địa điểm và thẩm duyệt về PCCC đảm bảo theo
quy định. Đối với trữ lượng kho chứa đến 20 tấn thuốc nổ theo quy định tại Phụ
lục 16 QCVN01:2019/BCT quy định có bể nước chữa cháy 10m 3. Trong trường
hợp không bố trí được thì thực hiện như sau: Trường hợp yêu cầu lưu lượng
nước cấp theo đường ống chữa cháy, phải có máy bơm nước có lưu lượng tương
ứng để chữa cháy. Trường hợp bể nước chữa cháy không đảm bảo dung tích
theo quy định, cho phép sử dụng phương án bổ sung lượng nước từ các nguồn
ao, hồ để đảm bảo lượng nước chữa cháy theo yêu cầu.
Do đó để đảm bảo theo quy định đối với các kho trữ lượng dưới 1 tấn vẫn
thực hiện việc chấp thuận địa điểm về PCCC đối với công trình theo quy định.
36. Công trình có diện tích xây dựng dưới 300m2, có bố trí gara xe tại
tầng hầm, theo quy định phải thiết kế hệ thống chữa cháy trong nhà, ngoài nhà
và chữa cháy tự động Sprinkler, theo đó lưu lượng bể nước chữa cháy cần thiết
21

để bảo đảm cấp nước chữa cháy lớn, diện tích xây dựng công trình nhỏ nên việc
bố trí bể nước chữa cháy có lưu lượng rất khó thực hiện (Kon Tum).
 Hệ thống cấp nước chữa cháy ngoài nhà theo quy định tại mục 5.1
QCVN 06:2020/BXD là quy định đối với hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị, khu
công nghiệp. Vì vậy chủ đầu tư, đơn vị tư vấn cần nghiên cứu, sử dụng hệ thống
này để cấp nước chữa cháy ngoài nhà cho công trình, giảm dung tích dự trữ
nước chữa cháy cho công trình.
37. Loại hình siêu thị có quy mô lớn và công trình điện mặt trời được xây
dựng ngày càng nhiều, trong khi đó TCVN 3890:2009 chưa quy định việc trang
bị hệ thống cấp nước chữa cháy trong nhà đối với loại hình siêu thị và việc
trang bị phương tiện PCCC đối với công trình điện mặt trời. Việc thực hiện chủ
yếu dựa vào góp ý của cơ quan Cảnh sát PCCC và CNCH nên chưa có tính bắt
buộc thực hiện trong quá trình thiết kế (Kon Tum).
 Việc trang bị hệ thống chữa cháy tự động cho công trình siêu thị được
thực hiện theo quy định tại mục 1.7 Phụ lục C TCVN 3890:2009, đề nghị Công
an tỉnh Kon Tum hướng dẫn chủ đầu tư thực hiện theo quy định. Hiện nay,
TCVN 3890:2009 đang được C07 chủ trì soát xét, các nội dung vướng mắc, góp
ý sẽ được tiếp thu, nghiên cứu chỉnh sửa.
38. Tại mục 1.2.1 QCVN 13:2018/BXD quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
gara ô tô có giải thích Gara ô tô là nhà và công trình hoặc phần của nhà, công
trình hoặc bãi hở chuyên dùng để lưu trữ ô tô. Tuy nhiên các gara ô tô tại địa
phương ngoài mục đích lưu trữ ô tô còn là nơi sửa chữa, bảo dưỡng ô tô. Do đó,
việc áp dụng các quy định trong thẩm duyệt thiết kế về PCCC đối với loại hình
này gặp nhiều khó khăn (Kon Tum).
 Việc thẩm duyệt thiết kế đối với gara ô-tô kết hợp với xưởng sửa chữa
được xem xét, đối chiếu theo quy định của QCVN 13:2018/BXD và QCVN
06:2020/BXD. Trong đó lưu ý đến công năng sử dụng và chất cháy trong từng
khu vực của công trình để phân nhóm theo công năng, phân hạng nguy hiểm
cháy và cháy nổ.
39. Quy định về vị trí xây dựng cửa hàng xăng dầu phải cách lộ giới ít
nhất 7m (tính từ mép ngoài hình chiếu bằng của công trình trạm xăng) theo quy
định tại QCVN 01:2008 đã được bãi bỏ, do đó việc xác định khoảng cách này
bảo đảm không ảnh hưởng đến an toàn giao thông gặp khó khăn (cần có quy
định khoảng cách bảo đảm an toàn PCCC và an toàn giao thông) (Kon Tum).
 Quy định về khoảng cách an toàn đối với cửa hàng xăng dầu và các hạng
mục bên trong cửa hàng đã được quy định đầy đủ tại QCVN 01:2019/BXD,
22

QCVN 01:2020/BCT. Cụ thể, tại Mục 2.6.11 QCVN 01:2019/BXD quy định “Vị
trí các cửa hàng xăng dầu xây dựng cố định quy hoạch mới phải bảo đảm tiếp cận
thuận tiện và an toàn với hệ thống giao thông; Lối ra, vào cửa hàng xăng dầu xây
dựng cố định quy hoạch mới phải cách điểm có tầm nhìn bị cản trở ít nhất là 50 m
và nằm ngoài hành lang an toàn đối với cầu, cống, hầm đường bộ; Lối ra của cửa
hàng xăng dầu xây dựng cố định mở ra đường cấp khu vực trở lên phải cách chỉ
giới đường đỏ của tuyến đường cấp khu vực trở lên giao cắt với tuyến đường có
lối ra của cửa hàng xăng dầu tối thiểu là 50 m; Cửa hàng xăng dầu xây dựng cố
định phải bố trí khu vực dừng đỗ xe để tiếp xăng, dầu đảm bảo không gây ảnh
hưởng đến giao thông bên trong cửa hàng và bên ngoài cửa hàng”. Đề nghị Công
an tỉnh Kon Tum nghiên cứu, áp dụng theo quy định.
40. Một số dự toán của dự án, công trình có phần chi phí lãi vay. Trong
khi đó tổng mức đầu tư dự án, công trình xác định theo Nghị định 68/2019/NĐ-
CP ngày 14/8/2019 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng, chưa nêu
rõ về chi phí này xác định tổng mức đầu tư. Dẫn đến có nhiều ý kiến khác nhau
về nội dung này, có ý kiến cho rằng chi phí lãi vay là chi phí khác trong tổng
mức đầu tư công trình và ngược lại, gây khó khăn trong xác định tổng mức đầu
tư công trình để tính phí (Kon Tum).
 Chi phí lãi vay là chi phí khác cần thiết để thực hiện dự án công trình
theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 4 Nghị định số 68/2019/NĐ-CP ngày
14/8/2019 của Chính phủ, thuộc tổng mức đầu tư dự án công trình.
41. Một số công trình Chủ đầu tư thuộc các cơ quan Nhà nước nên việc
nộp phí thẩm duyệt không được thực hiện ngay sau khi có kết quả thẩm duyệt
thiết kế về PCCC vì chưa được phê duyệt vốn đầu tư, Chủ đầu tư cam kết nộp sau
khi có chủ trương phê duyệt vốn đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản
hướng dẫn về nội dung này gây khó khăn trong quá trình thực hiện (Kon Tum).
 Phí thẩm định phê duyệt thiết kế về PCCC có thể chi từ các mục của
tổng mức đầu tư dự toán công trình như chi phí dự phòng... chủ đầu tư có trách
nhiệm bố trí kinh phí để thực hiện theo quy định.
42. Một số công trình Nhà nước, kinh phí thẩm duyệt về PCCC nêu trong
dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thấp hoặc cao hơn phí thẩm duyệt
tính theo Thông tư số 258/2016/TT-BTC khi phát hiện cán bộ thẩm duyệt đã góp
ý đơn vị chủ đầu tư nghiên cứu chỉnh sửa, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau số
tiền phí thẩm duyệt nêu trong dự toán không được chỉnh sửa, dẫn đến số tiền phí
thẩm duyệt về PCCC nộp qua hình thức chuyển khoản không đúng theo thông
báo nộp phí của cơ quan Cảnh sát PCCC mà căn cứ theo dự toán; gây khó khăn
trong quá trình xử lý (Kon Tum).
23

 Tổng mức đầu tư dự án, công trình do chủ đầu tư chịu trách nhiệm về
tính chính xác khi gửi kèm hồ sơ đề nghị thẩm duyệt thiết kế về PCCC. Công an
tỉnh Kon Tum cần đề nghị chủ đầu tư nộp phí thẩm định phê duyệt thiết kế về
PCCC theo đúng quy định của Thông tư số 258/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016.
43. Trong quy định tại Điểm a và b, Khoản 4, Điều 21 của Nghị định
79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 của Chính phủ quy định về chế độ thực tập
Phương án chữa cháy quy định “Phương án chữa cháy được xây dựng theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều này được tổ chức thực tập ít nhất mỗi năm một lần
và thực tập đột xuất khi có yêu cầu” và “Phương án chữa cháy được xây dựng
theo quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này được tổ chức thực tập khi
có yêu cầu”. Tuy nhiên trong thực tế khi cơ sở tự tổ chức thực tập phương án
chữa cháy định kỳ 01 lần/năm, khi cơ quan Cảnh sát PCCC yêu cầu thực tập thì
cơ sở nói đã thực tập phương án chữa cháy theo đúng quy định, không thể tổ
chức thực tập phương án chữa cháy thêm. Theo Điều 39, Nghị định số
167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 “vi phạm quy định về phương án chữa cháy
của cơ sở” cũng chưa có chế tài xử lý (Ninh Bình).
 Việc cơ sở thực tập phương án chữa cháy ít nhất mỗi năm một lần là
bắt buộc, trường hợp khi cơ quan Cảnh sát PCCC yêu cầu cơ sở tham gia thực
tập phương án chữa cháy của Cảnh sát PCCC mà không tham gia là vi phạm quy
định tại Khoản 2 Điều 36 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP: “Khi nhận được quyết
định điều động tham gia hoạt động phòng cháy và chữa cháy thì người có thẩm
quyền quản lý lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở
và chuyên ngành phải chấp hành”. Để huy động được lực lượng dân phòng, lực
lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở và chuyên ngành tham gia thực tập
phương án chữa cháy, người có thẩm quyền điều động phải ban hành quyết định
điều động bằng văn bản theo Mẫu PC16 ban hành kèm theo Thông tư số
66/2014/TT-BCA của Bộ Công an gửi tới người có thẩm quyền quản lý lực
lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở và chuyên ngành
(quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư số 66/2014/TT-BCA). Trường hợp
người quản lý đội dân phòng, phòng cháy và chữa cháy cơ sở và chuyên ngành
không bố trí lực lượng tham gia thực tập phương án chữa cháy khi nhận được
quyết định điều động tham gia thực tập phương án chữa cháy của người có thẩm
quyền sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, hành vi này bị phạt tiền từ 2.000.000
đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi không tham gia hoạt động phòng cháy
và chữa cháy khi được người có thẩm quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 4
Điều 44 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
24

44. Việc phân cấp quản lý cơ sở PCCC hiện nay chưa phù hợp với đặc
điểm, tình hình thực tiễn việc triển khai công tác phòng ngừa cũng như công
tác chữa cháy trong các cơ sở không thuộc diện quản lý tại các địa phương
(Đà Nẵng).
 Về phân cấp quản lý cơ sở PCCC và CNCH, sau hơn một năm triển
khai thực hiện hướng dẫn của Bộ Công an tại Công văn số 3825/BCA-C07 ngày
09/11/2018 về việc phân cấp quản lý nhà nước về PCCC và CNCH, C07 tiếp tục
tham mưu lãnh đạo Bộ Công an có Công văn số 164/BCA-C07 ngày 07/01/2020
về việc tiếp tục triển khai việc phân cấp quản lý về PCCC và CNCH để phù hợp
với thực tế của các địa phương. Tuy nhiên, do còn khó khăn, bất cập trong việc
bố trí đơn vị cấp tổ, đội tại Công an cấp huyện, thiếu biên chế quân số, trang
thiết bị phương tiện PCCC... nên việc triển khai phân cấp còn gặp nhiều khó
khăn và chưa thống nhất. Để tháo gỡ khó khăn này, C07 đã tham mưu Bộ Công
an điều chỉnh nội dung phân cấp quản lý về PCCC và CNCH trong dự thảo
Thông tư thay thế Thông tư số 66/2014/TT-BCA theo hướng giao Giám đốc
Công an cấp tỉnh căn cứ bộ máy tổ chức, biên chế, địa bàn, số lượng cơ sở do cơ
quan Công an quản lý để quyết định việc phân cấp quản lý về PCCC cho Phòng
PC07 và Công an cấp huyện (trong đó định hướng giao PC07 quản lý: Trụ sở cơ
quan hành chính, cơ quan chuyên môn trực thuộc và cơ sở thuộc thẩm quyền
quản lý của cấp tỉnh trở lên; cơ sở, hạ tầng kỹ thuật có liên quan đến PCCC của
đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm
công nghiệp nằm trên 02 địa bàn hành chính cấp huyện trở lên ...).
45. Xuất hiện mới nhiều loại hình, cơ sở có nguy cơ cháy, nổ cao như: Các
công trình ngầm, các tòa nhà siêu cao tầng, cửa hàng tiện ích, khu kinh doanh
phố, chợ, các hệ thống cung cấp khí đốt hóa lỏng tại các chung cư cao cấp…
trong khi đó các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn nhà nước chưa
điều chỉnh kịp thời các đối tượng này (TP Hồ Chí Minh).
 Hiện nay, hành lang pháp lý về PCCC và CNCH ở nước ta tương đối
hoàn chỉnh, tuy nhiên việc rà soát, sửa đổi, xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC còn chưa theo kịp với tốc độ phát
triển kinh tế xã hội của đất nước dẫn đến bất cập trong việc thực hiện bảo đảm
an toàn về PCCC đối với các công trình, cơ sở. Trước tình hình đó, C07 đã ban
hành quy trình chấp thuận áp dụng các tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế
về PCCC tại Việt Nam công khai trên Trang thông tin điện tử
(www.canhsatpccc.gov.vn => Hướng dẫn công tác PCCC và CNCH => Công
tác PCCC trong đầu tư xây dựng, mật khẩu: canhsatpccc@#). Đồng thời, C07 đã
tiến hành rà soát, có kế hoạch xây dựng mới và soát xét, sửa đối với tiêu chuẩn
25

quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với thực tại. Bên cạnh đó, trong Nghị định
số 136/2020/NĐ-CP đã bổ sung một số loại hình cơ sở vào Danh mục cơ sở thuộc
diện quản lý về PCCC và bổ sung các yêu cầu bảo đảm điều kiện an toàn về PCCC.
46. Tham mưu Chính phủ có văn bản chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác
PCCC rừng trên phạm vi cả nước. Trong đó, đề cao trách nhiệm của ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (đặc biệt lực lượng Kiểm lâm), UBND cấp
huyện, xã trong việc phối hợp thực hiện các giải pháp bảo đảm an toàn PCCC
trước các đợt cao điểm về nắng nóng (Nghệ An).
 Theo quy định của Luật Lâm nghiệp, Nghị định 156/2018/NĐ-CP, Nghị
định số 01/2019/NĐ-CP ngày 01/01/2019 của Chính phủ về Kiểm lâm và lực
lượng chuyên trách bảo vệ rừng và Thông tư 25/2019/TT-BNNPTNT thì Bộ
NN&PTNT thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lâm nghiệp, trong đó có tổ
chức công tác PCCC rừng. Kiểm lâm là tổ chức có chức năng quản lý, bảo vệ
rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về lâm nghiệp, là lực lượng chuyên ngành về
phòng cháy và chữa cháy rừng. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh
sát PCCC và Kiểm lâm, vừa qua C07 và Cục Kiểm lâm đã xây dựng, hoàn thiện
dự thảo kế hoạch phối hợp trong công tác PCCC rừng (tổ chức ký ban hành sau
khi Bộ Công an và Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn ký quy chế phối
hợp), trong đó tập trung vào 05 nhóm vấn đề, cụ thể: Trao đổi thông tin liên
quan đến PCCC rừng; xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy
chuẩn liên quan đến công tác PCCC rừng; phòng cháy, chữa cháy rừng; đầu tư,
trang bị phương tiện, thiết bị PCCC rừng.
47. Tăng mức xử phạt vi phạm hành chính về PCCC đối với Chủ đầu tư,
Ban quản lý các khu chung cư, nhà cao tầng không tổ chức triển khai thực hiện
các điều kiện an toàn PCCC; nâng mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
đối với trường hợp Chủ đầu tư cho sử dụng công trình khi chưa được nghiệm thu
về PCCC. Hướng dẫn Công an các địa phương các biện pháp chế tài xử lý đối
với các trường hợp thường xuyên vi phạm và không thực hiện các kiến nghị của
lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH (TP Hồ Chí Minh).
 Về vấn đề này, theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, việc xử lý vi phạm hành chính căn cứ vào hành vi vi phạm, tính chất, mức
độ xâm hại trật tự quản lý hành chính của hành vi vi phạm và mức độ nguy hiểm
cho xã hội mà không phân biệt về chủ thể của hành vi vi phạm là các tổ chức vi
phạm. Đối với một hành vi vi phạm, cùng tính chất, mức độ thì cá nhân, tổ chức
vi phạm bị áp dụng cùng một chế tài xử lý và theo quy định của pháp luật, bảo
đảm khách quan, công bằng trong xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp chủ
đầu tư đưa công trình vào sử dụng khi chưa được nghiệm thu về PCCC sẽ bị xử
26

phạt vi phạm hành chính với hành vi vi phạm “Đưa nhà, công trình vào hoạt
động, sử dụng khi chưa tổ chức nghiệm thu về PCCC” quy định tại khoản 6 Điều
36 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP với mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, đồng thời bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc tổ
chức để cơ quan quản lý nhà nước nghiệm thu về PCCC”. Hành vi vi phạm trên
bị áp dụng mức phạt là mức tối đa trong lĩnh vực PCCC, đồng thời biện pháp
khắc phục đã phù hợp theo quy định của pháp luật về PCCC. Đối với trường hợp
cơ sở thường xuyên vi phạm, không thực hiện yêu cầu, kiến nghị của cơ quan
Cảnh sát PCCC, đã bị xử phạt nhưng tiếp tục vi phạm thì tiếp tục bị xử phạt đối
với các hành vi vi phạm và xem xét, xử phạt với tình tiết tăng nặng là “tái phạm”,
ngoài ra có thể xem xét quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động hạng mục,
khu vực hoặc toàn bộ cơ sở theo quy định của pháp luật về PCCC.
48. Việc thực hiện bố trí cán bộ làm công tác kiểm tra an toàn PCCC bảo
đảm theo tiêu chuẩn quy định tại Điều 3 Thông tư số 46/2017/TT-BCA còn gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt là sau khi thực hiện phân cấp công tác PCCC và CNCH
cho Công an cấp huyện. Nhiều đơn vị Công an cấp huyện chưa có cán bộ được
đào tạo chuyên ngành PCCC hoặc bố trí cán bộ kiểm tra đã tốt nghiệp đại học,
cao đẳng hoặc trung cấp Công an nhân dân nhưng lại không bảo đảm thời gian
công tác trong lĩnh vực PCCC theo quy định (Kon Tum).
 Thông tư số 46/2017/TT-BCA được ban hành dựa trên căn cứ theo
Nghị định số 106/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an. Tuy nhiên, ngày 06/8/2018, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 01/2018/NĐ-CP để thay thế Nghị định số
106/2014/NĐ-CP, trong đó mô hình, tổ chức của lực lượng Cảnh sát PCCC và
CNCH có nhiều thay đổi (Cảnh sát PCCC cấp tỉnh sáp nhập vào Công an cấp tỉnh,
tại Công an cấp huyện thành lập Đội Cảnh sát PCCC và CNCH thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về PCCC và CNCH tại địa bàn, cơ sở được phân cấp quản
lý). Triển khai thực hiện Nghị định này, C07 đã tham mưu Bộ ban hành Công văn
số 3825/BCA-C07 ngày 09/11/2018 của Bộ Công an về việc hướng dẫn phân
cấp quản lý nhà nước về PCCC và CNCH. Do vậy, việc bố trí cán bộ làm công
tác kiểm tra an toàn PCCC bảo đảm theo tiêu chuẩn quy định tại Điều 3 Thông
tư số 46/2017/TT-BCA còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với Công an cấp
huyện. Vấn đề này, hiện nay, C07 đang tham mưu Bộ Công an ban hành Thông
tư thay thế Thông tư số 46/2017/TT-BCA, Thông tư thay thế Thông tư số
66/2014/TT-BCA trong đó có điều chỉnh, bổ sung về tiêu chuẩn của cán bộ kiểm
tra theo từng cấp (tỉnh, huyện, xã) và phân cấp quản lý về PCCC giữa Phòng
PC07 và Công an cấp huyện theo hướng giao Giám đốc Công an cấp tỉnh căn cứ
27

bộ máy tổ chức, biên chế, địa bàn, số lượng cơ sở do cơ quan Công an quản lý
để quyết định việc phân cấp quản lý cho phù hợp.
49. C07 cần ban hành quy trình thực hiện công tác điều tra, giải quyết vụ
cháy, nổ; trong đó cần hướng dẫn về tiếp nhận, xử lý thông tin; xác định thiệt
hại ban đầu theo phạm vi của PC07 và Công an cấp huyện (cơ sở để xác định
thiệt hại ban đầu); phân công cán bộ thực hiện điều tra; chủ trì khám nghiệm
hiện trường; trưng cầu giám sát của VKS; trưng cầu giám định các dấu vết, vật
chứng; kết luận nguyên nhân... Đối với các vụ cháy nhỏ (cháy cỏ, rác, cháy trên
đường dây dẫn điện…) hoặc các vụ cháy nhà dân mà chủ nhà không yêu cầu
điều tra, kết luận nguyên nhân vụ cháy thì quy trình thực hiện như thế nào
(Quảng Nam, Tiền Giang).
 C07 đã báo cáo lãnh đạo Bộ về việc giao C07 ban hành quy trình
điều tra giải quyết vụ cháy nổ trong lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH; hiện
đang xin ý kiến lần cuối các đơn vị trước khi ký ban hành thực hiện trong toàn
lực lượng.
50. Đề nghị C07 tham mưu với Bộ Công an, Bộ Tài chính ban hành văn
bản hướng dẫn UBND các cấp, các sở, ban, ngành, các đơn vị có sử dụng
nguồn ngân sách nhà nước xây dựng, dự trù kinh phí mua bảo hiểm cháy, nổ
bắt buộc hàng năm cho các cơ sở có nguy hiểm cháy, nổ quy định tại phụ lục II
Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 của Chính phủ (Sơn La, Tiền
Giang, Kon Tum).
 Trách nhiệm mua BHCNBB của các cơ sở sử dụng ngân sách nhà nước
đã được quy định rất rõ tại Nghị định số 23/2018/NĐ-CP quy định về BHCNBB.
TRong thời gian tới Chính phủ sẽ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số
23/2018/NĐ-CP, trong thời gian này đề nghị Công an các địa phương báo cáo
lãnh đạo UBND chỉ đạo thực hiện và tổ chức tuyên truyền, kiểm tra hướng dẫn
việc mua BHCNBB đối với các cơ sở phải mua BHCNBB.
51. Khi thực hiện công tác thẩm duyệt và nghiệm thu về PCCC, cán bộ
kiểm tra chưa được trang bị đầy đủ các dụng cụ, thiết bị phục vụ cho công tác
kiểm tra dẫn đến chất lượng công tác kiểm tra nghiệm thu chưa cao (Thái
Nguyên).
 Việc trang bị phương tiện, dụng cụ phục vụ công tác thẩm duyệt,
nghiệm thu về PCCC được lấy từ nguồn thu phí thẩm duyệt thiết kế theo quy
định tại Điều 7 Thông tư 258/2016/TT-BTC. Ngày 16/10/2017 C07 đã có công
văn số 2502/BCA-C66 gửi Công an các địa phương hướng dẫn danh mục các
phương tiện, thiết bị được thuê, mua phục vụ công tác thẩm duyệt, nghiệm thu
về PCCC. Ngoài ra, việc quy định tiêu chuẩn, định mức trang bị phương tiện
28

cho lực lượng Cảnh sát PCCC được quy định tại Thông tư số 60/2015/TT-BCA
ngày 09/11/2015 của Bộ Công an. Trong quá trình triển khai thực hiện, căn cứ
vào nhu cầu thực tiễn, Cục Cảnh sát PCCC và CNCH sẽ tham mưu lãnh đạo Bộ
sửa đổi, bổ sung Thông tư số 60/2015/TT-BCA nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH đồng thời đảm bảo
phù hợp với điều kiện ngân sách Nhà nước, các nguồn thu từ bảo hiểm cháy nổ
bắt buộc và các nguồn thu hợp pháp khác theo quy định.
52. Một số nhà kho chứa, nhà máy chế biến nông sản chủ đầu tư lắp đặt
hệ thống báo cháy tự động với loại đầu báo cháy kiểu dây, tuy nhiên việc đối
chiếu thẩm duyệt đối với loại đầu báo cháy này còn gặp khó khăn do chưa có
quy định cụ thể trong các tiêu chuẩn quốc gia hiện hành (Cần Thơ).
 Việc thiết kế, lắp đặt đầu báo cháy kiểu dây đã được quy định tại
TCVN 7568-14:2015 “Hệ thống báo cháy - phần 14: Thiết kế, lắp đặt, vận hành
và bảo dưỡng các hệ thống báo cháy trong nhà và xung quanh tòa nhà”. Đồng
thời C07 đang tiến hành soát xét TCVN 5738:2001, dự thảo của TCVN 5738 có
nội dung quy định thiết kế đầu báo cháy kiểu dây. C07 đã gửi dự thảo tiêu chuẩn
đến Công an các địa phương ý kiến xin góp ý. Đề nghị Công an thành phố Cần
Thơ nghiên cứu, cho ý kiến đối với dự thảo tiêu chuẩn và gửi về C07 để tập hợp.
53. Hiện nay nhiều các nhân, tổ chức, cơ sở có nhu cầu sử dụng bồn chứa
xăng dầu để cấp phát nội bộ cho phương tiện giao thông cơ giới hoặc để cung
cấp cho máy phát điện, tuy nhiên hiện việc thiết kế và thẩm duyệt thiết kế đối với
dạng công trình này đang được áp dụng theo TCVN 4530:2011 - Cửa hàng
xăng dầu - yêu cầu thiết kế, mà trong tiêu chuẩn này có rất nhiều nội dung
không còn phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Kiến nghị đề xuất ban
hành một tiêu chuẩn mới đối với hệ thống bồn cấp xăng dầu nội bộ sử dụng cho
cơ sở công nghiệp, kinh doanh, cho máy phát điện (Cần Thơ).
 Theo quy định của Phụ lục V Nghị định số 136/2020/NĐ-CP trạm cấp
phát nhiên liệu nội bộ thuộc diện phải thẩm duyệt thiết kế về PCCC. Khi xem
xét thẩm duyệt, áp dụng theo TCVN 4530:2011 - Cửa hàng xăng dầu - yêu cầu
thiết kế. Ngoài ra, việc thiết kế các bể chứa xăng dầu trong công trình phải đảm
bảo yêu cầu đối với kho nhóm II (kho của cơ sở sản xuất, kinh doanh vận tải)
theo quy định của TCVN 5307:2009 Kho dầu mỏ, sản phẩm dầu mỏ - Yêu cầu
thiết kế.
54. Trên các tuyến đường giao thông liên xã, phường, liên khối, xóm,
người dân tự ý xây dựng các cọc, ụ bê tông, cổng chào kiên cố, bố trí trạm barie
trên các tuyến đường vào các khu dân cư, khu đô thị, khu công nghiệp, nhằm
ngăn các phương tiện giao thông có tải trọng lớn đi vào. Mặt khác, các công ty
29

điện lực, công ty viễn thông lắp đặt hệ thống dây cáp điện, truyền hình cáp,
internet, viễn thông trên nhiều tuyến kéo qua đường, không đảm bảo chiều cao
thông thủy cho các phương tiện chữa cháy hoạt động (Nghệ An).
 Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vấn đề giao thông phục vụ
chữa cháy tại các khu dân cư tập trung cần nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, tập trung xây dựng phong trào
toàn dân tham gia công tác PCCC và CNCH. Căn cứ theo các yêu cầu, nhiệm vụ
tại Quyết định 630/QĐ-TTg ngày 11/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ và Kế
hoạch số 247/KH-BCA-C07 ngày 12/6/2020 của Bộ Công an, Công an địa
phương cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân
nhận thức, tự cải tạo đoạn đường, ngõ và phá dỡ rào cản phục vụ xe chữa cháy
hoạt động. Thường xuyên tổ chức khảo sát nắm chắc tình hình đường giao thông
phục vụ chữa cháy để có phương án di chuyển chữa cháy khi xảy ra sự cố. Đồng
thời tham mưu đề xuất UBND cấp tỉnh chỉ đạo đơn vị thông tin, truyền thông,
điện lực trong việc cải tạo, nâng cấp hệ thông dây cáp điện, viễn thông, có
phương án xây dựng, lắp đặt phù hợp, không gây cản trở giao thông phục vụ
chữa cháy.
55. Hệ thống trụ nước, bến lấy nước chữa cháy trên địa bàn thành phố
Vinh, thị xã, thị trấn và khu công nghiệp còn thiếu, chưa đảm bảo nguồn nước
phục vụ chữa cháy. Mặt khác, các trụ nước đã trang bị, lắp đặt, sau một thời
gian xuống cấp, hư hỏng, chưa được duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng theo quy định
(Nghệ An).
 Để lắp đặt bổ sung các trụ nước, bến lấy nước và duy tu, bảo dưỡng
các trụ nước bị hư hỏng, Công an các địa phương cần nghiên cứu và tổ chức
triển khai thực hiện nghiêm túc các nội dung của Thông tư liên tịch số
04/2009/TTLT/BXD-BCA ngày 10/4/2009 của Bộ Xây dựng - Bộ Công an
hướng dẫn thực hiện việc cấp nước PCCC tại đô thị và khu công nghiệp; các văn
bản hướng dẫn của C07 về công tác giải quyết nguồn nước chữa cháy kết hợp
với đấu tranh ngăn chặn cháy lớn như: Kế hoạch số 91/KH-BCA- C61 ngày
24/4/2013 của Bộ Công an về việc triển khai các biện pháp phòng ngừa và ngăn
chặn cháy lớn; Hướng dẫn số 2071/HD-C61-C66, ngày 13/6/2013 của Tổng cục
VII về triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn cháy lớn; Công văn số
3105/C07-P5 ngày 25/8/2020 gửi Công an các địa phương về việc giải quyết
nguồn nước PCCC và hướng dẫn quy cách bến, bãi đỗ, cầu đỗ, hố thu nước cho
xe chữa cháy lấy nước. Đồng thời, thực hiện tốt một số nội dung sau đây: (1)
Chủ động tham mưu cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành các văn bản hướng
dẫn, chỉ đạo về giải quyết nguồn nước chữa cháy; tổ chức các hội nghị chuyên
30

đề, các cuộc họp liên ngành như: Công an, Kế hoạch tài chính, Xây dựng, Công
ty cấp nước… để đề ra các giải pháp, biện pháp tăng cường công tác giải quyết
nguồn nước chữa cháy phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. (2) Tăng
cường phối hợp với các sở ban ngành có liên quan, thống nhất phân công trách
nhiệm quản lý, sử dụng và bảo quản nguồn nước chữa cháy; xây dựng và triển
khai quy chế phối hợp giữa các Sở, ban, ngành, địa phương trong công tác lập
quy hoạch, lập dự án đầu tư xây dựng, cải tạo khu đô thị, khu công nghiệp; thực
hiện nghiêm túc việc thẩm duyệt thiết kế và nghiệm thu hệ thống cấp nước chữa
cháy theo quy định. (3) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về cấp nước chữa cháy
bằng nhiều hình thức (qua báo, đài phát thanh, phóng sự truyền hình…) đến
từng người dân, cơ quan, doanh nghiệp nhằm nâng cao ý thức, kiến thức, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết cấp nước chữa cháy.
56. Đối với các vụ cháy rừng, cháy thảm thực vật việc chữa cháy gặp
nhiều khó khăn do địa hình xảy ra cháy rất hiểm trở, xe chữa cháy không thể
tiếp cận được; nguồn nước xung quanh vị trí xảy ra cháy hạn chế... (Nghệ An).
 Để tổ chức chữa cháy hiệu quả các đám cháy rừng, lực lượng chữa
cháy phải được trang bị các phương tiện cơ giới chuyên dùng. Việc sử dụng các
xe chữa cháy của lực lượng Cảnh sát PCCC hiện nay là không phù hợp, nhất là
trong điều kiện các khu rừng thường nằm trên khu vực đồi núi cao, giao thông
hiểm trở, không có nguồn nước dự phòng. Theo quy định của Luật Lâm nghiệp
năm 2017 và Nghị định số 156/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật lâm nghiệp thì lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH
là lực lượng phối hợp trong công tác kiểm tra, hướng dẫn về PCCC và tham gia
chữa cháy khi có đám cháy xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay sự phối hợp giữa các lực
lượng trên trong công tác quản lý, bảo vệ rừng còn hạn chế, chưa hiệu quả khi
xử lý đám cháy rừng. Do vậy, để xử lý kịp thời các vụ cháy rừng xảy ra, thời
gian tới Công an địa phương cần chủ động đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chủ trì, phối hợp với lực lượng Công an, Quân đội khẩn trương bổ
sung, hoàn thiện quy chế phối hợp, các phương án PCCC rừng, kế hoạch huy
động các lực lượng gồm Kiểm lâm, Công an, Quân đội, dân quân tự vệ và các
lực lượng khác tại địa phương có rừng để huy động, điều động tối đa, kịp thời cả
về phương tiện và lực lượng tham gia tổ chức cứu chữa các vụ cháy rừng. Đồng
thời, làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời kiến nghị chủ rừng, các cơ quan
hữu quan bảo đảm và duy trì tốt các điều kiện an toàn về PCCC theo quy định
tại Điều 47 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 và Thông tư số
25/2019/TT-BNNPTNT ngày 27/12/2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn quy định về PCCC rừng, đặc biệt là các công trình PCCC rừng (như
31

đường băng cản lửa, kênh, mương ngăn lửa; suối, hồ, đập, bể chứa nước, trạm
bơm, hệ thống cấp nước chữa cháy …).
57. Thông tư số 66/2014/TT-BCA quy định việc lập, phê duyệt và thực tập
phương án chữa cháy của cơ sở; Thông tư số 08/2018/TT-BCA quy định việc
lập, phê duyệt và thực tập phương án cứu nạn, cứu hộ của cơ sở. Đề nghị C07
tham mưu Bộ Công an sửa đổi 02 Thông tư nêu trên theo hướng ghép phương
án chữa cháy và phương án cứu nạn, cứu hộ thành một phương án (Sơn La).
 Hiện tại, phương án chữa cháy của cơ sở được thực hiện theo quy định
của Luật PCCC, Nghị định số 79/2014/NĐ-CP và Thông tư số 66/2014/TT-BCA
(kể từ ngày 10/01/2021 thực hiện theo Nghị định số 136/2020/NĐ-CP). Còn
phương án CNCH của cơ sở được thực hiện theo quy định của Nghị định số
83/2017/NĐ-CP, Thông tư số 08/2018/NĐ-CP, phương án này do cơ sở xây dựng
và tự phê duyệt. Do vậy, hai loại phương án này là độc lập với nhau, hiện tại
không thể ghép lại. Trong thời gian tới, khi sửa đổi Luật PCCC, nếu có bổ sung
nội dung quy định về CNCH vào thì sẽ tính toán ghép 2 loại phương án này thành
một phương án với phần đặc điểm chung của cơ sở (vị trí địa lý, giao thông,
nguồn nước, tính chất, đặc điểm, tổ chức lực lượng, trang bị phương tiện…) và 2
phần tình huống chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ riêng biệt để đảm bảo giảm thủ tục
hành chính và tiện lợi trong công tác quản lý, sử dụng phương án.
58. Theo hướng dẫn tại Công văn số 25/C07-P5 ngày 06/01/2020 về hướng
dẫn công tác tổ chức rút kinh nghiệm vụ cháy, theo đó, 100% các vụ cháy phải
được tổ chức rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, qua thực tế số lượng vụ cháy xảy ra
nhiều, trong đó có những vụ cháy nhỏ (cháy cỏ, rác…) thiệt hại không đáng kể;
việc tổ chức rút kinh nghiệm tất các vụ cháy sẽ tốn rất nhiều thời gian, tính khả
thi không cao, dễ dẫn đến tình trạng làm theo hình thức, hiệu quả đem lại không
cao. Do đó, đề nghị C07 xem xét điều chỉnh quy định về đối tượng vụ cháy cần
rút kinh nghiệm theo hướng xét đến quy mô và thiệt hại của vụ cháy (Quảng
Nam).
 Qua một thời gian thực hiện, C07 nhận thấy công tác rút kinh nghiệm
vụ cháy tại Công an các địa phương đã có sự chuyển biến, cải thiện, chất lượng
họp rút kinh nghiệm được nâng cao. Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, trong thời
gian tới, sau khi các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác PCCC
được hoàn thiện, C07 sẽ kịp thời có văn bản sửa đổi, bổ sung theo hướng rút
kinh nghiệm vụ cháy đối với các vụ cháy từ mức trung bình trở lên, đối với các
vụ cháy nhỏ sẽ lồng ghép trong các cuộc họp giao ban hàng ngày của các đơn vị.
59. Đề xuất, kiến nghị trang bị cho lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH
Công an các đơn vị, địa phương các phương tiện, thiết bị chữa cháy và CNCH
32

để đáp ứng yêu cầu công tác chữa cháy và CNCH trong tình hình hiện nay,
đặc biệt cho lực lượng Công an cơ sở (Bắc Giang, Hà Giang, Hà Nam,
Thanh Hóa, Đồng Tháp, Đà Nẵng, Đắk Nông, Vĩnh Long, Gia Lai, Quảng
Nam, Kon Tum).
 Vừa qua, Công an các tỉnh, thành phố đã cơ bản hoàn thành việc triển
khai mô hình tổ chức mới; trong đó đã triển khai nhiều Đội, Tổ Cảnh sát PCCC
và CNCH trực thuộc công an cấp huyện. Tính đến thời điểm tháng 10/2020, toàn
quốc có 512 đội Chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (tăng 244 đội so với mô hình tổ
chức cũ); căn cứ Thông tư số 07/2020/TT-BCA ngày 10/01/2020 quy định tiêu
chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô trong Công an nhân dân và Thông tư
60/2015/TT-BCA ngày 09/11/2015 quy định về tiêu chuẩn, định mức trang bị
phương tiện phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho lực lượng Cảnh sát
phòng cháy và chữa cháy thì hiện tại lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy
cần trang bị bổ sung: 1.697 xe chữa cháy, 320 xe chỉ huy chữa cháy và CNCH,
355 xe CNCH, 384 xe thang chữa cháy (loại từ 32m đến 52m), 480 xe cứu
thương, 403 xe tải chở phương tiện chữa cháy, 440 xe chở nước, 272 xe trạm
bơm, 314 máy bơm chữa cháy, 1.966 máy bơm nổi, 155 cano chữa cháy, v.v...
Bằng nguồn ngân sách trung ương, C07 đã và đang tiếp tục đầu tư, trang
bị cho Công an các địa phương nhiều chủng loại phương tiện, thiết bị chữa cháy
và CNCH. Tuy nhiên, nguồn ngân sách trung ương được cấp hàng năm để đầu
tư trang bị phương tiện chữa cháy và CNCH còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được nhu cầu của Công an các địa phương. Trên cơ sở văn bản số 7077/BTC-VI
ngày 12/6/2020 của Bộ Tài chính tại hướng dẫn UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thực hiện việc hỗ trợ kinh phí cho lực lượng Cảnh sát PCCC
và CNCH đóng trên địa bàn từ nguồn ngân sách địa phương, C07 đề nghị Công
an các tỉnh, thành phố nghiên cứu, báo cáo đề xuất UBND bố trí ngân sách từ
nguồn kinh phí địa phương để trang bị bổ sung phương tiện chữa cháy và cứu
nạn, cứu hộ. Đồng thời tổ chức thực hiện tốt việc quản lý, bảo quản, bảo dưỡng,
sửa chữa phương tiện chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ hiện có đảm bảo phục vụ công
tác chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ khi có tình huống xảy ra.
60. Đề xuất, kiến nghị đầu tư cơ sở vật chất, doanh trại, mua sắm các
trang thiết bị, phương tiện chữa cháy và CNCH hiện đại trên thế giới, đảm bảo
nguồn lực phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
công tác PCCC và CNCH trong tình hình mới (Bình Phước, Quảng Trị).
 Đối với đề xuất, kiến nghị đầu tư cơ sở vật chất, doanh trại đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ công tác PCCC và CNCH trong tình hình mới: Để đảm bảo cơ
sở vật chất, doanh trại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác PCCC và CNCH,
33

C07 đề nghị Công an tỉnh Bình Phước và Công an tỉnh Quảng Trị chủ động báo
cáo xin ý kiến và đề xuất Lãnh đạo Bộ Công an, Ủy ban nhân dân tỉnh cấp kinh
phí, quỹ đất an ninh trên địa bàn tỉnh đảm bảo thuận lợi, hiệu quả trong tổ chức
triển khai thực hiện công tác PCCC và CNCH. Việc mua sắm, xây dựng cơ sở
vật chất, doanh trại cần đảm bảo đúng theo quy định của Bộ Công an và pháp
luật có liên quan.
Đối với đề xuất, kiến nghị mua sắm các trang thiết bị phương tiện chữa
cháy, CNCH hiện đại trên thế giới, đảm bảo nguồn lực phù hợp với xu thế phát
triển kinh tế, xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác PCCC và CNCH trong
tình hình mới: Trong những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của
Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Bộ Công an, C07 đã tiến hành nghiên cứu, tổ
chức mua sắm và trang bị cho lực lượng Cảnh sát PCCC toàn quốc rất nhiều
phương tiện, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ
hiện đại như xe thang chữa cháy, xe chữa cháy công nghệ CAFS, xe chữa cháy
các loại, xe cứu nạn cứu hộ, các thiết bị cứu nạn cứu hộ, trang thiết bị bảo hộ cá
nhân, chất tạo bọt chữa cháy… Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác PCCC và
CNCH trong tình hình phát triển kinh tế, xã hội thời gian tới, C07 đang tiếp tục
nghiên cứu, khảo sát và tham mưu đề xuất Lãnh đạo Bộ Công an cho phép lập dự
án đầu tư mua sắm thêm các phương tiện, trang thiết bị mới, hiện đại của các
nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực bảo đảm phù hợp với yêu cầu công
tác chữa cháy và CNCH của nước ta. Sau khi tổ chức mua sắm được, C07 sẽ báo
cáo lãnh đạo Bộ trang cấp cho Công an các đơn vị, địa phương phục vụ công tác,
chiến đấu.
61. Đề xuất, kiến nghị Bộ Công an trang cấp cho lực lượng Cảnh sát
PCCC Công an tỉnh Nghệ An 01 xe thang chữa cháy phục vụ công tác PCCC và
CNCH các nhà cao trên 10 tầng và 01 tàu chữa cháy trên sông, trên biển; trang
cấp máy thổi; máy cắt; máy cưa… phục vụ công tác chữa cháy rừng. Công an
tỉnh Sơn La về việc cấp 01 xe CNCH; Công an tỉnh Kon Tum về việc cấp 01 xe
thang chữa cháy (Nghệ An, Kon Tum, Sơn La).
 Hiện tại, Công an tỉnh Nghệ An có 11 đội chữa cháy (01 đội chữa cháy
trung tâm, 09 đội chữa cháy khu vực và 01 đội chữa cháy trên sông) trong đó có
03 xe thang chữa cháy; 03 ca nô chữa cháy và 02 xuồng cao su chữa cháy. Công
an tỉnh Sơn La có 04 đội chữa cháy (01 đội chữa cháy trung tâm, 03 đội chữa
cháy khu vực) trong đó có 01 xe CNCH. Công an tỉnh Kon Tum có 01 đội chữa
cháy trung tâm, 01 tổ chữa cháy khu vực, được trang bị 01 xe thang chữa cháy.
Căn cứ tính toán định mức theo Thông tư số 07/2020/TT-BCA ngày 10/01/2020
quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô trong Công an nhân dân thì Công
34

an tỉnh Nghệ An còn thiếu 10 xe thang chữa cháy và 02 tàu chữa cháy trên sông;
Công an tỉnh Sơn La còn thiếu 02 xe CNCH; Công an tỉnh Kon Tum còn thiếu
01 xe thang chữa cháy. Hiện tại, trong kho dự trữ của C07 không còn xe thang
chữa cháy; tàu chữa cháy trên sông, trên biển; máy thổi; máy cắt; máy cưa để
trang cấp.
C07 đang tiếp tục nghiên cứu, khảo sát và tham mưu đề xuất Lãnh đạo Bộ
Công an cho phép lập dự án đầu tư mua sắm thêm các phương tiện, trang thiết bị
mới, trong đó có xe thang và các phương tiện thiết yếu khác phục vụ công tác
PCCC và CNCH. Sau khi tổ chức mua sắm được, C07 sẽ báo cáo lãnh đạo Bộ
quyết định trang cấp cho Công an các địa phương, trong đó có Công an tỉnh
Nghệ An, Công an tỉnh Sơn La và Công an tỉnh Kon Tum.
62. Tổ chức đào tạo thợ máy hoặc đề xuất chủ trương cho tuyển thợ máy
phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng xe, phương tiện chữa cháy, CNCH của lực lượng
Cảnh sát PCCC và CNCH (Ninh Thuận).
 Hiện tại, lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH Công an các tỉnh, thành
phố chưa có đội ngũ thợ máy. Việc quản lý, sử dụng, bảo dưỡng đối với xe chữa
cháy, xe chuyên dùng đều giao cho đội ngũ lái xe thực hiện kiêm nhiệm. Để
nâng cao năng lực cho đội ngũ lái xe và cán bộ làm công tác quản lý phương
tiện, hàng năm, C07 đều tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về sử
dụng, quản lý, bảo quản, bảo dưỡng các trang thiết bị, phương tiện chữa cháy và
cứu nạn, cứu hộ cho lực lượng PCCC Công an các tỉnh, thành phố. Đồng thời
chỉ đạo PC07 chủ động tham mưu cho Công an tỉnh, thành phố có Kế hoạch tổ
chức tập huấn chuyên sâu sử dụng, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện,
thiết bị chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ cho toàn thể CBCS của Phòng PC07 và
Đội Cảnh sát PCCC và CNCH Công an cấp huyện.
Về đề xuất tuyển thợ máy phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng xe, phương tiện
chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ C07 sẽ phối hợp với X01 nghiên cứu, báo cáo
lãnh đạo Bộ.
63. Đề nghị C07 đẩy nhanh tiến độ tham mưu Chính phủ sớm ban hành
“Quy hoạch hạ tầng phòng cháy và chữa cháy thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến
năm 2050” đảm bảo đồng bộ, thống nhất giữa quy hoạch ngành quốc gia hạ
tầng PCCC và quy hoạch cấp tỉnh (Sơn La, Quảng Trị).
 Quy hoạch hạ tầng phòng cháy và chữa cháy thời kỳ 2021-2030, tầm
nhìn đến năm 2050 đã được Hội đồng thẩm định tổ chức thẩm định xong, hiện
đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch. Trên cơ sở
nhiệm vụ lập quy hoạch được phê duyệt, Bộ Công an tiếp tục giao C07 chủ trì
lập Quy hoạch hạ tầng phòng cháy và chữa cháy thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn
35

đến năm 2050. Thời gian hoàn thành dự kiến khoảng 12 tháng sau khi Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch. Bên cạnh đó, trong hợp
phần quy hoạch quốc gia có “hợp phần lập quy hoạch quốc gia về hạ tầng phòng
cháy và chữa cháy”, danh mục hợp phần quy hoạch quốc gia đang được Bộ Kế
hoạch và đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; sau đó sẽ giao Bộ Công
an chủ trì lập hợp phần quy hoạch để thống nhất các nội dung quy hoạch trong
lĩnh vực hạ tầng phòng cháy và chữa cháy.
64. Tham mưu Bộ Công an xây dựng dự án hoàn thiện hệ thống Trung
tâm thông tin chỉ huy về PCCC và CNCH thống nhất trong toàn quốc, nhằm
nâng cao hiệu quả việc tiếp nhận, xử lý, điều hành chỉ huy chữa cháy được kịp
thời, hiệu quả (Cần Thơ).
 Hiện nay, Cục Công nghệ thông tin (H05) đang xây dựng và trình lãnh
đạo Bộ phê duyệt Chủ trương đầu tư dự án “Xây dựng hệ thống tiếp nhận và xử
lý cuộc gọi khẩn cấp”; trong đó, đề xuất đầu tư xây dựng 01 Trung tâm hợp nhất
điều phối tại Bộ Công an và các Trung tâm tiếp nhận, điều phối thông tin và ứng
cứu khẩn cấp tích hợp 02 đầu số 113, 114 tại Công an các địa phương. Trung
tâm tiếp nhận, điều phối thông tin và ứng cứu khẩn cấp sẽ được tích hợp các hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu thuộc chức năng
và thẩm quyền của lực lượng Công an nhân dân; tận dụng tối đa hạ tầng kỹ thuật
sẵn có của các lực lượng, nhằm đồng bộ hóa công tác điều hành chỉ huy, đảm
bảo thống nhất tác chiến trong toàn lực lượng CAND./.
II. VỀ CÁC NỘI DUNG KIẾN NGHỊ RÀ SOÁT, SỬA ĐỔI CÁC VĂN
BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ TIÊU CHUẨN, QUY CHUẨN
VỀ PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
65. Điều kiện an toàn đối với cơ sở, hộ gia đình mặc dù đã được quy định
trong Luật PCCC, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC nhưng
chưa quy định chi tiết trong Nghị định 79/2014/NĐ-CP và chưa có hướng dẫn
cụ thể về điều kiện bảo đảm an toàn PCCC đối với hộ gia đình có nhà ở kết hợp
sản xuất, kinh doanh (Thái Nguyên).
 Trước tình hình cháy, nổ tại khu dân cư, hộ gia đình diễn biến phức tạp,
đồng thời để triển khai các biện pháp cấp bách nhằm bảo đảm an toàn PCCC,
kiềm chế số vụ cháy xảy ra tại khu dân cư, hộ gia đình, C07 đã chủ động tham
mưu cho lãnh đạo Bộ Công an ban hành Công văn số 1659/BCA-C66 ngày
24/7/2017 hướng dẫn bảo đảm an toàn PCCC đối với nhà ở hộ gia đình. Để cụ
thể hóa nội dung này trong các văn bản quy phạm pháp luật, C07 đã tham mưu
bổ sung trong Điều 7 Nghị định số 136/2020/NĐ-CP (thay thế Nghị định số
79/2014/NĐ-CP), theo đó hộ gia đình sinh sống kết hợp với sản xuất, kinh
36

doanh phải bảo đảm các điều kiện an toàn về PCCC theo quy định tại khoản 1
Điều 17 Luật PCCC và phải có nội quy về PCCC, về sử dụng điện, sử dụng lửa
và các chất dễ cháy, nổ; có giải pháp thoát nạn, ngăn cháy lan, ngăn khói giữa
khu vực sinh sống với khu vực sản xuất, kinh doanh. Đối với hộ gia đình kết
hợp sản xuất, kinh doanh đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
phải bảo đảm điều kiện an toàn về PCCC tương ứng với loại hình cơ sở theo quy
định. Điều kiện an toàn về PCCC đối với hộ gia đình phải được chủ hộ gia đình
tổ chức thực hiện và duy trì trong suốt quá trình hoạt động.
66. Trong Nghị định số 79/2014/NĐ-CP không quy định việc phải thực
hiện công tác thẩm duyệt về PCCC trước khi xây dựng, tuy nhiên trong Nghị
định 167/2013/NĐ-CP lại xử lý hành vi thi công, xây dựng công trình thuộc diện
phải thẩm duyệt về PCCC khi chưa có giấy chứng nhận thẩm duyệt về PCCC
(Hà Nam).
 Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật PCCC và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật PCCC. Tại Điều 15 Luật PCCC quy định “Khi lập dự án, thiết kế
xây dựng mới, cải tạo hoặc thay đổi tính chất sử dụng của công trình phải có
giải pháp, thiết kế về PCCC và phải được thẩm duyệt về PCCC theo quy
định” và tại Điều 16 quy định “Chủ đầu tư thực hiện thủ tục trình duyệt dự
án, thiết kế về PCCC; chỉ được thi công khi thiết kế về an toàn PCCC của
công trình đã được duyệt”. Do vậy, không cần phải quy định nội dung này
trong Nghị định số 79/2014/NĐ-CP.
67. Một số văn bản pháp luật, quy định của Nhà nước về công tác PCCC
và CNCH còn chưa đồng bộ, bất cập; một số tiêu chuẩn, quy chuẩn về PCCC
lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày
17/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với
doanh nghiệp quy định chỉ thực hiện kiểm tra 01 lần/năm, trong khi đó quy
định của Nghị định số 79/2014/NĐ-CP ngày 31/7/2014 của Chính phủ phải
tiến hành kiểm tra 4 lần/năm đối với cơ sở nguy hiểm cháy, nổ, điều này gây
khó khăn cho cơ quan Cảnh sát PCCC và CNCH trong quản lý nhà nước về
PCCC và CNCH, nhất là vấn đề trách nhiệm quản lý và nắm bắt tình hình cơ
sở (Bắc Giang, Nghệ An, Nam Định, Phú Thọ, Hà Nam, Thanh Hóa, Quảng
Ngãi, Thái Bình, Đồng Tháp, Thái Nguyên, Bình Phước).
 Trong năm vừa qua, C07 đang tham mưu Bộ Công an ban hành theo
thẩm quyền hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung, ban hành
nhiều văn bản pháp luật trong thời gian tới (cụ thể như: Luật Xử lý vi phạm hành
chính sửa đổi; Nghị định số 136/2020/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn thi
37

hành...); đồng thời, tiến hành rà soát, tham mưu Bộ Công an ban hành theo thẩm
quyền ban hành, phối hợp với các bộ có liên quan ban hành các quy chuẩn, tiêu
chuẩn kỹ thuật về PCCC (cụ thể như: QCVN 06:2020/BXD Quy chuẩn kỹ thuật
Quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công trình, thay thế QCVN 06/2010/BXD;
QCVN 01:2019/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong sản xuất, thử
nghiệm, nghiệm thu, bảo quản, vận chuyển, sử dụng, tiêu hủy VLNCN và bảo
quản tiền chất thuốc nổ; QCVN 01:2019/BCA Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ
thống PCCC cho kho chứa, cảng xuất, nhập và trạm phân phối khí đốt; QCVN
04:2019/BXD Quy chuẩn quốc gia về nhà chung cư; QCVN 01:2019/BXD Quy
chuẩn quốc gia về quy hoạch xây dựng) bảo đảm tiến độ đề ra.
Đối với công tác kiểm tra an toàn PCCC: Theo quy định của Nghị định số
79/2014/NĐ-CP, cơ quan Công an thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ về PCCC
đối với cơ sở theo đúng quy định của pháp luật về PCCC (01 quý/01 lần đối với
cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ; 6 tháng hoặc 01 năm/01 lần đối với các đối
tượng còn lại). Ngoài chế độ kiểm tra định kỳ, Cơ quan Công an sẽ tiến hành
kiểm tra kiểm tra đột xuất khi phát hiện các trường hợp vi phạm quy định an toàn
về PCCC, có nguy cơ phát sinh cháy, nổ hoặc phục vụ công tác bảo đảm an ninh,
trật tự theo văn bản chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền thuộc phạm vi quản lý.
Để đáp ứng yêu cầu tại Chỉ thị số 20-CT/TTg ngày 17/5/2017 của Thủ tướng
Chính phủ và bảo đảm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý về PCCC và
CNCH, Nghị định số 136/2020/NĐ-CP đã điều chỉnh giảm số lần kiểm tra định
về PCCC của cơ quan Công an đối với cơ sở (06 tháng/01 lần đối với cơ sở có
nguy hiểm về cháy, nổ; 01 năm/01 lần đối với các đối tượng còn lại), các trường
hợp kiểm tra đột xuất, đồng thời đã quy định về trách nhiệm tự kiểm tra và báo
cáo kết quả thực hiện công tác PCCC và CNCH định kỳ của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, cơ sở. Do vậy, Cơ quan Công an cần tổ chức thực hiện tốt công
tác nghiệp vụ cơ bản, nắm tình hình, tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác, phản ánh...
của cá nhân, tổ chức về công tác PCCC của cơ sở để làm tốt công tác phòng
ngừa cháy, nổ, kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm quy định của
pháp luật về PCCC.
68. Cơ sở thuộc diện quản lý về PCCC chưa cụ thể, rõ ràng, xuất hiện
nhiều loại hình cơ sở mới, tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ cao nhưng không nằm trong
danh mục cơ sở thuộc diện quản lý nhà nước về PCCC quy định tại Phụ lục I
ban hành kèm theo Nghị định số 79/2014/NĐ-CP, như: Nhà ở kết hợp sản xuất,
kinh doanh dịch vụ; các cơ sở kinh doanh ăn, uống có sử dụng lượng khí Gas
lớn... một số loại hình cơ sở thuộc diện quản lý về ANTT, trước khi cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện về ANTT thì phải được kiểm tra và cấp biên bản kiểm
38

tra an toàn PCCC, nhưng lại không thuộc diện quản lý nhà nước về PCCC.
Trên thực tế, đã xảy ra nhiều vụ cháy, nổ tại các loại hình cơ sở này (Nghệ An,
Quảng Ngãi, Thái Nguyên, Bình Định, TP Hồ Chí Minh).
 Để giải quyết vướng mắc này, C07 đã nghiên cứu, bổ sung trong Nghị
định số 136/2020/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 79/2014/NĐ-CP). Trong đó,
các loại hình cơ sở tiềm ẩn nguy cơ cháy nêu trên đã được bổ sung trong Danh
mục cơ sở thuộc diện quản lý về PCCC (Phụ lục I) do vậy phải bảo đảm các
điều kiện an toàn về PCCC tương ứng với loại hình cơ sở đó. Đối với hộ gia
đình kết hợp sản xuất, kinh doanh đã được cụ thể hóa điều kiện bảo đảm an toàn
về PCCC tại Điều 7 bao gồm: Các điều kiện an toàn về PCCC theo quy định tại
khoản 1 Điều 17 Luật PCCC và phải có nội quy về PCCC, về sử dụng điện, sử
dụng lửa và các chất dễ cháy, nổ; có giải pháp thoát nạn, ngăn cháy lan, ngăn
khói giữa khu vực sinh sống với khu vực sản xuất, kinh doanh. Đối với hộ gia
đình kết hợp sản xuất, kinh doanh đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp phải bảo đảm điều kiện an toàn về PCCC tương ứng với loại hình cơ sở
theo quy định. Điều kiện an toàn về PCCC đối với hộ gia đình phải được chủ hộ
gia đình tổ chức thực hiện và duy trì trong suốt quá trình hoạt động.
69. Đối với các cơ sở có sai phạm trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật về PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tiến hành nhắc nhở và xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định. Tuy nhiên, hiện nay các chế tài xử phạt
đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực PCCC còn hạn chế, chưa đủ sức răn
đe (ví dụ như: Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi
“Chấp hành không đầy đủ nội quy, quy định về phòng cháy và chữa cháy của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền”; phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng
đối với hành vi “Không bố trí, niêm yết tiêu lệnh, biển báo, biển cấm, biển chỉ
dẫn về phòng cháy và chữa cháy”…); do đó, một số cơ sở sau khi bị xử phạt, ở
lần kiểm tra tiếp theo vẫn tiếp tục vi phạm và không có dấu hiệu khắc phục,
sửa chữa theo các kiến nghị, yêu cầu của lực lượng chức năng . Bên cạnh đó,
một số hành vi vi phạm lại có mức tiền phạt quá cao (từ 30 - 50 triệu đồng đối
với trường hợp không thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc), không
đảm bảo tính khả thi đối với các cơ sở có quy mô nhỏ (Nghệ An, Tuyên
Quang, Hà Nam, Đồng Tháp, Quảng Trị).
 Khi xây dựng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ
nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, các đơn vị
chức năng trong quá trình xây dựng đã nghiên cứu xem xét, cân nhắc về tính khả
thi, kịp thời và tính răn đe của các hình thức, mức độ xử phạt đối với từng hành vi
39

vi phạm hành chính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trên cả nước, bảo đảm
tính răn đe, phòng ngừa vi phạm pháp luật, nâng cao nhận thức việc chấp hành
các quy định của pháp luật về PCCC của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng, một số hành vi vi phạm về PCCC mức phạt tiền còn thấp và vi phạm về bảo
hiểm cháy, nổ bắt buộc có mức phạt tiền cao, chưa phù hợp với thực tiễn, và qua
tổng hợp kiến nghị, đề xuất của Công an các địa phương, C07 đã góp ý, đề xuất
nâng mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm tại dự thảo Nghị định sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP. Đối với hành vi không
mua bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, C07 đã đề xuất giảm mức phạt tiền đối với hành
vi vi phạm này xuống còn từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng tại dự thảo
Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
70. Về thẩm quyền xử phạt của cán bộ, chỉ huy khi thi hành nhiệm vụ còn
thấp dẫn đến công tác xử phạt mất nhiều thời gian, nhiều bước... (Hà Giang).
 Về vấn đề này, C07 đã có văn bản đề xuất tăng thẩm quyền phạt tiền
của các chức danh có thẩm quyền xử phạt cấp cơ sở thuộc lực lượng Công an
nhân dân (chiến sĩ Công an nhân dân, Đội trưởng, Trưởng Công an cấp xã,
Trưởng Phòng PC07, Trưởng Công an cấp huyện) vào dự thảo Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm việc xử phạt
được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, tránh vụ việc bị dồn nhiều lên cấp trên.
Tuy nhiên, không được Ban soạn thảo tiếp thu đưa vào dự thảo Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật xử lý VPHC.
71. Chưa có chế tài quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm các
quy định về công tác CNCH (Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam).
 Về vấn đề này, hiện nay tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật xử lý vi phạm hành chính đã bổ sung quy định về xử phạt VPHC trong
lĩnh vực CNCH với mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực này là 50.000.000 đồng.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính
được ban hành, Bộ Công an sẽ tham mưu cho Chính phủ bổ sung các hành vi vi
phạm về cứu nạn, cứu hộ vào Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực PCCC.
72. Theo quy định của Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC được
quyền huy động lực lượng, phương tiện của tổ chức, cá nhân phục vụ cho công
tác chữa cháy, tuy nhiên việc thực hiện quy định này còn gặp nhiều khó khăn, vì
chưa quy định biện pháp, chế tài đối với các tổ chức, cá nhân không chấp hành
lệnh huy động. Ngoài ra, Luật chưa quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho tổ chức, cá nhân ở xung quanh khi lực lượng Cảnh sát PCCC thực hiện
nhiệm vụ chữa cháy mà gây thiệt hại tài sản (Đồng Tháp).
40

 Chế tài đối với hành vi không chấp hành lệnh huy động tham gia chữa
cháy của người có thẩm quyền: Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo
lực gia đình có quy định chế tài đối với hành vi không chấp hành lệnh huy động
tham gia chữa cháy của người có thẩm quyền” tại điểm c khoản 3 Điều 42 của
Nghị định này.
Việc bồi thường thiệt hại phương tiện, tài sản của cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân để chữa cháy và phục vụ chữa cháy: Để làm rõ việc hoàn trả bồi
thường thiệt hại phương tiện, tài sản được huy động để chữa cháy, Cục Cảnh sát
PCCC và CNCH đã tham mưu, đề xuất lãnh đạo Bộ có Công văn số 99/BCA-
C61 ngày 10/01/2014 gửi Bộ Tài chính về việc tham gia ý kiến vào Dự thảo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCCC. Ngày 22/1/2014, Bộ Tài
Chính đã có Công văn số 1122/BTC-VI phúc đáp, trong đó đã có ý kiến rằng:
Việc hoàn trả và bồi thường thiệt hại phương tiện, tài sản để chữa cháy được
thực hiện theo quy định của Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản. Luật này quy
định cụ thể nên Chính phủ và các Bộ không ban hành văn bản hướng dẫn. Tại
Điều 24 Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản quy định chỉ có Bộ trưởng của 7 Bộ
và Chủ tịch UBND cấp tỉnh mới có thẩm quyền quyết định trưng dụng tài sản và
không được phân cấp thẩm quyền quyết định trưng dụng tài sản. Do vậy, nếu
việc huy động/trưng dụng không phải do Bộ trưởng của 7 Bộ hoặc Chủ tịch
UBND cấp tỉnh thực hiện thì sẽ không thể áp dụng việc bồi thường thiệt hại
phương tiện, tài sản của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình được huy động để chữa
cháy theo quy định của Luật Trưng mua, trưng dụng được. Do vậy, để việc hoàn
trả tài sản và bồi thường thiệt hại về tài sản do huy động để chữa cháy có thể
thực hiện được thì khi cần huy động lực lượng, phương tiện và tài sản của các cơ
quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để chữa cháy thì chỉ huy chữa cháy phải
đề xuất người có thẩm quyền quyết định trưng dụng.

You might also like