You are on page 1of 5

Why do firms exist?

Ronald Coase, the author of “The Nature of the Firm” (1937), turns 100 on December
29th
Schumpeter Dec 16th 2010 | from PRINT EDITION
Tại sao các hãng tồn tại?
Ronald Coase, tác giả của “Bản chất của hãng” (1937), tròn 100 tuổi vào ngày 29 tháng 12
Schumpeter ngày 16 tháng 12 năm 2010 | từ PRINT EDITION

FOR philosophers the great existential Đối với các nhà triết học, câu hỏi hiện sinh
question is: “Why is there something tuyệt vời là: “Tại sao lại có cái gì đó hơn là
rather than nothing?” For management không có gì?” Đối với các nhà lý thuyết
theorists the more mundane equivalent is: quản lý, điều tương đương trần tục hơn
“Why do firms exist? Why isn’t everything là: “Tại sao các hãng tồn tại? Tại sao mọi
done by the market?” thứ không được thực hiện bởi thị
trường?”
Ngày nay hầu hết mọi người đều sống
Today most people live in a market
trong nền kinh tế thị trường, và kế hoạch
economy, and central planning is
hóa tập trung được nhớ đến như một
remembered as the greatest economic
thảm họa kinh tế lớn nhất của thế kỷ 20.
disaster of the 20th century. Yet most
Tuy nhiên, hầu hết mọi người cũng dành
people also spend their working lives in
cả cuộc đời làm việc trong các thiết chế
centrally planned bureaucracies called
hành chính được kế hoạch hóa tập trung,
firms. They stick with the same employer
được gọi là các hãng (firms). Họ gắn bó
for years, rather than regularly returning
với cùng một nhà tuyển dụng trong nhiều
to the jobs market. They labour to fulfil
năm, thay vì thường xuyên quay lại thị
the “strategic plans” of their corporate
trường việc làm. Họ lao động để hoàn
commissars. John Jacob Astor’s American
thành các “kế hoạch chiến lược”
Fur Company made him the richest man in
(“strategic plans”) của các ủy viên công ty
America in the 1840s. But it never
của họ. John Jacob Astor, người sáng lập
consisted of more than a handful of
công ty American Fur Company [năm
people. Today Astor’s company would not
1808] đã đưa ông trở thành người giàu
register as a blip on the corporate
nhất nước Mỹ vào những năm 1840.
horizon. Firms routinely employ
Nhưng nó không bao giờ bao gồm nhiều
thousands of workers and move billions
hơn một số ít người. Ngày nay công ty của
of dollars-worth of goods and services
Astor sẽ không đăng ký như một đốm
within their borders.
sáng trên đường chân trời của công ty.
Các công ty thường xuyên sử dụng hàng
nghìn công nhân và di chuyển hàng hóa và
dịch vụ trị giá hàng tỷ đô la trong biên giới
của họ.
Why have these “islands of conscious Tại sao những “hòn đảo của sức mạnh có

TRAN NGUYEN 1
power” survived in the surrounding ý thức” này lại tồn tại trong “đại dương
“ocean of unconscious co-operation”, to hợp tác vô thức” xung quanh, mượn một
borrow a phrase from D.H. Robertson, an cụm từ của D.H. Robertson, một nhà kinh
economist? Classical economics had little tế học? Kinh tế học cổ điển đã nói rất ít về
to say about this question. Adam Smith câu hỏi này. Adam Smith mở đầu cuốn
opened “The Wealth of Nations” with a sách “Sự giàu có của các quốc gia” (“The
wonderful description of the division of Wealth of Nations”) của mình với một mô
labour in a pin factory, but he said nothing tả tuyệt vời về sự phân công lao động
about the bosses who hired the pin- trong một nhà máy sản xuất pin, nhưng
makers or the managers who organised ông không nói gì về những ông chủ
them. Smith’s successors said even less, (bosses) – những người đã thuê những
either ignoring the pin factory entirely or người sản xuất pin hoặc những người
treating it as a tedious black box. They quản lý tổ chức chúng. Những thế hệ sau
preferred to focus on the sea rather than của Smith thậm chí còn ít nói hơn, hoặc bỏ
the islands. qua hoàn toàn nhà máy sản xuất pin hoặc
coi nó như một chiếc hộp đen (black box)
tẻ nhạt. Họ thích tập trung vào biển hơn là
các hòn đảo.
Who knows the secret of the black box? Ai biết bí mật của hộp đen?
The man who restored the pin factory to Người đàn ông đã khôi phục nhà máy sản
its rightful place at the heart of economic xuất pin về đúng vị trí trung tâm của lý
theory celebrates his 100th birthday on thuyết kinh tế, vừa kỷ niệm sinh nhật thứ
December 29th. The economics 100 vào ngày 29 tháng 12. Ngành kinh tế
profession was slow to recognise Ronald học đã chậm nhận ra thiên tài của Ronald
Coase’s genius. He first expounded his Coase. Lần đầu tiên ông giải thích ý tưởng
thinking about the firm in a lecture in của mình về hãng trong một bài giảng ở
Dundee in 1932, when he was just 21 years Dundee vào năm 1932, khi mới 21 tuổi,
old. Nobody much listened. He published nhưng không có nhiều người lắng nghe.
“The Nature of the Firm” five years later. Năm năm sau, ông xuất bản bài báo “Bản
It went largely unread. chất của hãng” (“The Nature of the
Firm”), nhưng gần như chưa ai chịu đọc.

But Mr Coase laboured on regardless: a Nhưng ông Coase đã làm việc bất chấp:
second seminal article on “The Problem of một bài báo thứ hai về “Vấn đề chi phí xã
Social Cost” laid the intellectual hội” (“The Problem of Social Cost”) đã
foundations of the deregulation đặt nền tảng trí tuệ cho cuộc cách mạng
revolution of the 1980s. Eventually, Mr bãi bỏ điều tiết (deregulation revolution)
Coase acquired an army of followers, such trong những năm 1980. Cuối cùng, Coase
as Oliver Williamson, who fleshed out his có được một đội quân theo dõi, chẳng
ideas. In 1991, aged 80, he was awarded a hạn như Oliver Williamson, người đã bổ
Nobel prize. Far from resting on his sung ý tưởng của Coase. Năm 1991, ở tuổi
laurels, Mr Coase will publish a new book 80, ông được trao giải Nobel. Không còn
in 2011, with Ning Wang of Arizona State nằm yên trên những vòng nguyệt quế của
University, on “How China Became mình, ông Coase sẽ xuất bản một cuốn
Capitalist”. sách mới vào năm 2011, với Ning Wang của
Đại học Bang Arizona, về “Cách Trung

TRAN NGUYEN 2
Quốc trở thành nhà tư bản”.
His central insight was that firms exist Quan điểm chính của ông là các hãng tồn
because going to the market all the time tại bởi vì việc tham gia thị trường mọi lúc
can impose heavy transaction costs. You có thể dẫn đến chi phí giao dịch lớn. Bạn
need to hire workers, negotiate prices and cần thuê nhân công, thương lượng giá cả
enforce contracts, to name but three và thực thi hợp đồng —ba trong số các
time-consuming activities. A firm is hoạt động tiêu tốn nhiều thời gian. Một
essentially a device for creating long-term hãng về cơ bản là một công cụ để tạo ra
contracts when short-term contracts are các hợp đồng dài hạn khi các hợp đồng
too bothersome. But if markets are so ngắn hạn quá khó chịu. Nhưng nếu thị
inefficient, why don’t firms go on getting trường kém hiệu quả như vậy, tại sao các
bigger for ever? Mr Coase also pointed hãng không tiếp tục lớn hơn bao giờ hết?
out that these little planned societies Coase cũng chỉ ra rằng những xã hội có kế
impose transaction costs of their own, hoạch nhỏ này [tức là các hãng] áp đặt chi
which tend to rise as they grow bigger. phí giao dịch của riêng họ, vốn có xu
The proper balance between hierarchies hướng tăng lên khi chúng [các hãng] lớn
and markets is constantly recalibrated by hơn. Sự cân bằng thích hợp giữa thứ bậc
the forces of competition: entrepreneurs và thị trường liên tục được điều chỉnh lại
may choose to lower transaction costs by bởi các lực lượng cạnh tranh: các doanh
forming firms but giant firms eventually nhân có thể chọn giảm chi phí giao dịch
become sluggish and uncompetitive. bằng cách thành lập các hãng nhưng các
hãng khổng lồ cuối cùng trở nên ì ạch và
How much light does “The Nature of the
thiếu khả năng cạnh tranh.
Firm” throw on today’s corporate
landscape? The young Mr Coase first grew “Bản chất của Công ty” có bao nhiêu ánh
interested in the workings of firms when sáng đối với bối cảnh công ty ngày nay?
he travelled around America’s industrial Chàng trai trẻ Coase lần đầu tiên bắt đầu
heartland on a scholarship in 1931-32. He quan tâm đến hoạt động của các công ty
abandoned his textbooks and asked khi anh đi khắp trung tâm công nghiệp của
businessmen why they did what they did. Hoa Kỳ với học bổng vào năm 1931-32.
He has long chided his fellow economists Ông từ bỏ sách giáo khoa của mình và hỏi
for scrawling hieroglyphics on các doanh nhân tại sao họ làm những gì
blackboards rather than looking at what it họ đã làm. Từ lâu, ông đã chế nhạo các
actually takes to run a business. So it nhà kinh tế học đồng nghiệp của mình vì
seems reasonable to test his ideas by the đã viết nguệch ngoạc các chữ tượng hình
same empirical standards. trên bảng đen hơn là nhìn vào những gì
thực sự cần để điều hành một doanh
Mr Coase’s theory continues to explain
nghiệp. Vì vậy, có vẻ hợp lý khi kiểm tra
some of the most puzzling problems in
modern business. Take the rise of vast and các ý tưởng của anh ấy theo cùng các tiêu
chuẩn thực nghiệm.
highly diversified business groups in the
emerging world, such as India’s Tata Lý thuyết của Coase tiếp tục giải thích một
group and Turkey’s Koc Holding. Many số vấn đề khó hiểu nhất trong kinh doanh
Western observers dismiss these as relics hiện đại. Tiếp cận sự nổi lên của các nhóm
of a primitive form of capitalism. But they kinh doanh rộng lớn và đa dạng ở thế giới
make perfect sense when you consider mới nổi, chẳng hạn như nhóm Tata của Ấn
the transaction costs of going to the Độ và Koc Holding của Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiều

TRAN NGUYEN 3
market. Where trust in established nhà quan sát phương Tây coi đây là di tích
institutions is scarce, it makes sense for của một hình thức sơ khai của chủ nghĩa
companies to stretch their brands over tư bản. Nhưng chúng hoàn toàn có ý
many industries. And where capital and nghĩa khi bạn xem xét chi phí giao dịch khi
labour markets are inefficient, it makes đi chợ. Ở những nơi khan hiếm lòng tin
equal sense for companies to allocate vào các tổ chức lâu đời, thì việc các công
their own capital and train their own ty mở rộng thương hiệu của mình qua
loyalists. nhiều ngành là rất hợp lý. Và khi thị
trường vốn và lao động hoạt động kém
But Mr Coase’s narrow focus on
hiệu quả, thì việc các công ty phân bổ vốn
transaction costs nevertheless provides
và đào tạo những người trung thành của
only a partial explanation of the power of
chính họ cũng có ý nghĩa bình đẳng.
firms. The rise of the neo-Coasian school
of economists has led to a fierce backlash Tuy nhiên, trọng tâm hẹp của ông Coase
among management theorists who vào chi phí giao dịch chỉ cung cấp một
champion the “resource-based theory” of phần giải thích về sức mạnh của các công
the firm. They argue that activities are ty. Sự trỗi dậy của trường phái kinh tế tân
conducted within firms not only because Coasian đã dẫn đến phản ứng dữ dội giữa
markets fail, but also because firms các nhà lý thuyết quản lý, những người
succeed: they can marshal a wide range of ủng hộ “lý thuyết dựa trên nguồn lực”
resources—particularly nebulous ones của công ty. Họ cho rằng các hoạt động
such as “corporate culture” and
“collective knowledge”—that markets
cannot access. Companies can organise
production and create knowledge in
unique ways. They can also make long-
term bets on innovations that will
redefine markets rather than merely
satisfy demand. Mr Coase’s theory of
“market failure” needs to be
complemented by a theory of
“organisational advantages”.
All this undoubtedly complicates “The
Nature of the Firm”. But it also vindicates
the twin decisions that Mr Coase made all
those years ago as a young student at the
London School of Economics: to look
inside the black box rather than simply
ignoring it, and to examine businesses,
not just fiddle with theories. Is it too much
to hope that other practitioners of the
dismal science will follow his example and
study the real world?

TRAN NGUYEN 4
https://tomorrowtodayglobal.com/2010/12/24/why-do-firms-exist/
https://www.economist.com/business/2010/12/16/why-do-firms-exist

TRAN NGUYEN 5

You might also like