Professional Documents
Culture Documents
-- NGUYỄN KHUYẾN --
__________________________________________
I. Tác giả : Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến:
- Tên thật là Nguyễn Thắng hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi.
- Sinh ngày 15/2/1835
- Quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên
Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
- Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
- Ông có một người bạn tri kỉ tên là Dương Khuê.
b) Một con người có nghĩa cử cao đẹp, tấm lòng nhân hậu, sống chan hoà, gần gũi với
những người lao động chân chất, nghèo khổ
“Treo ấn từ quan”, trở về quê sống trong bầu không khí nồng đượm ân tình cùng người dân
chất phác, hồn hậu đã xua đi phần nào nỗi đau thời thế, làm dịu bớt tâm trạng thất vọng khi
công danh dang dở, giúp Nguyễn Khuyến tìm được sự thanh thản, niềm vui sống từ những
điều bình dị:
“Vải chín, bà hàng bưng quả biếu
Cá tươi, lão giặm nhấc nơm chào”
- Nguyễn Khuyến vui với cái vui của người dân, buồn với cái buồn của họ và thổ lộ những
điều họ mong ước. Nhà thơ vui khi người nông dân có một vụ mùa thắng lợi, cuộc sống no
đủ, tưng bừng chuẩn bị đón tết với những phong tục, tập quán đẹp đẽ, ý nghĩa:
“Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt”
Nhưng khi họ thất bát, đói khổ thì lời thơ của ông như chùng xuống, như đẫm lệ xót xa, tê
tái:
“Dở trời mưa bụi còn hơn rét
Nếm rượu tượng đình được mấy ông?
Ông đồng cảm, chia sẻ cùng người nông dân trải qua nỗi nhọc nhằn, cơ cực khi phải gánh
trên vai chồng chất những khó khăn, hoạn nạn. Nào là thiên tai lụt lội hoành hành, nào là
sưu cao thuế nặng quan lại thúc đòi, nào là nợ nần “lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi”...:
Ông suy tư trước lo lắng của những người phải chạy ăn từng bữa, phải cân đong đo đếm
từng xu:
- Trong một số sáng tác, Nguyễn Khuyến còn bộc lộ tấc lòng day dứt, tủi thẹn vì chưa làm
được gì cho dân, cho nước. Nỗi niềm của ông được người đời sau cảm thông, kính trọng.
Chẳng hề tồn tại khoảng cách giữa một người đã từng đạt tới đỉnh cao danh vọng, từng làm
quan với người dân lao động mà chỉ thấy chất chứa sự gần gũi, thân thiết, sự cởi mở, đậm
đà tình làng nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”:
2. Sự nghiệp thơ văn
a) Tác phẩm
- Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn cuối cùng của thời trung đại, còn được
mệnh danh là nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam. Sáng tác của Nguyễn
Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ,
văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.
- Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm
Ngữ, đặc biệt là ba bài thơ về mùa thu là Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài
ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
- Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với
nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng
Việt, ví dụ Bạn đến chơi nhà, hoặc ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả
hai loại đều khó để xác định vì chúng rất điêu luyện.
b) Nội dung
Nguyễn Khuyến sáng tác thơ, câu đối, văn bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Những sáng
tác của ông tập trung thể hiện tình cảm của một nhà nho đối với quê hương đất nước,
người thân. Sáng tác của ông có thể chia thành các mảng sau:
Tấm lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng:
- Tâm sự yêu nước, u hoài trước sự đổi thay của thời cuộc đời
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi rất
mạnh mẽ. Đạo đức xã hội thay đổi và khác rất nhiều so với những chuẩn mực đạo đức
phong kiến. Nguyễn Khuyến cảm thấy vô cùng đau xót trước hiện thực ấy nên đã viết
vô số bài thơ thể hiện nỗi niềm u hoài của mình về vận mệnh dân tộc
Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sâu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
- Thể hiện qua sự mỉa mai lũ giặc xâm lược, nhất là lũ bán nước, hại dân:
Hỡi ôi!
Ông ở bê Tây,
Ông qua bảo hộ.
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Ðít ông cưỡi lừa,
Miệng ông húyt chó,
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giày có mỏ,
Ông dẹp cờ đen
Ðể yên con đỏ.
Hay:
Bây giờ đã trót trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất máy lông
- Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước hết gắn kiền với tư tưởng trung quân. Ðây
là một tư tưởng yêu nước hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa
là một ông quan từng hưởng bổng lộc của triều đình nên tư tưởng trung quân đậm nét.
Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình:
Khi đưa Thầy con rước đầu tiên
Cờ biển vua ban ngày trứơc
Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương:
- Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:
Không phải tự nhiên mà ông được gọi là nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam.
Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức
chân thật và sống động.
Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong
thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương,
sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng
thu, lá thu … được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu
vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc
sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.
Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày
xuân) rất độc đáo.
- Niềm thương cảm trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân: Nguyễn Khuyến
là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến
luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao
động nghèo. Ông đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái
buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ
tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân
dân.
- Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm: Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn
bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn
Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.
c) Nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất
mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả.
+ Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc
đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe…
+ Màu sắc thanh nhã đặc trưng cho mùa thu không phải chỉ được cảm nhận riêng lẻ
mà là cái nhìn bao quát, tổng thể, vô cùng hòa hợp.
+ Các sắc thái xanh khác nhau tăng dần về độ đậm: xanh màu “trong veo” của ao,
xanh biếc của sóng, “xanh ngắt” của trời
+ Nổi bật trên sắc xanh là “lá vàng”: Sắc thu nổi bật hòa hợp, nổi bật với màu xanh
của đất trời tạo vật ngỡ tương phản nhưng trái lại càng làm tăng thêm sự hài hòa
thanh dịu.
Nhận xét về sự hòa hợp này, Xuân Diệu viết: “Cái thú vị của bài thơ là ở các điệu
xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng
đâm ngang của chiếc lá thu rơi”.
→ Hai câu thơ tạo thành hai vế đối rất chỉnh: sóng biếc gợn thành hình, lá vàng đưa
thành tiếng, nhưng cả tiếng và hình đều cực nhỏ. Hai từ đối nhau tí – vèo: một từ diễn tả
sự cực nhỏ của hình khối; một từ gợi lên sự cực nhỏ của âm thanh.
→ Tăng dần vẻ tĩnh lặng của mùa thu, song cũng rất sinh động, có hồn: không gian
động mà tĩnh, có âm thanh mà vẫn vô thanh: chỉ như xao động lên, âm vang lên trong 1
thoãng tại nơi cõi lòng nhà thơ, một cõi lòng lạnh lẽo, trong treo, tĩnh lặng như làng
quê, như mùa thu.
KẾT LUẬN: Cảnh thanh vắng, người thanh nhàn trong khi bản thân là người mang
nặng hoài bão “trí quân trạch dân” mà không hiện thực được, tâm sự u uất, buồn bã len vào
lúc ngắm cảnh là điều dễ cảm nhận được từ nhân vật trữ tình.
Cô đơn, buồn thương, trầm mặc, chấp nhận, u uất. Đó chính là tâm trạng của một con người
yêu nước nhưng bất lực trước thời cuộc.