You are on page 1of 9

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH UEH


KHOA
----------

BÀI TIỂU LUẬN


BỘ MÔN: THUẾ QUỐC TẾ

Giảng viên hướng dẫn: Đặng Thị Bạch Vân


Khoá: 46
Mã lớp học phần: 22C1TAX50402204
Nhóm sinh viên thực hiện – MSSV:
1. Trần Vũ Bảo – 31201022085
2. Nguyễn Phan Huỳnh Phúc Hậu –
31201022215
3. Nguyễn Trần Thu Hiền – 31201022216
4. Nguyễn Võ Trọng Hoàng – 31201022240
5. Phạm Quỳnh Hương – 31201025161

TP. Hồ Chí Minh, ngày 20, tháng 09, năm 2022


CẠNH TRANH THUẾ QUỐC TẾ VÀ LỢI ÍCH TỪ HÀI HÒA THUẾ
Trong một thế giới hiện đại, sự tiết kiệm và đầu tư đã trở nên không cần thiết đối với
mỗi quốc gia. Điều quan trọng hơn là tiết kiệm và đầu tư tổng hợp trên thế giới. Sự
phân tách này đưa ra những vấn đề mới về thuế trong lý thuyết và thực tiễn. Trong bối
cảnh quốc tế, có hai nguyên tắc phân cực của thuế: nơi cư trú (của người nộp thuế) và
nguồn (thu nhập). Mặc dù có hai nguyên tắc cực đoan về điều chỉnh quốc tế, trên thực
tế, các quốc gia áp dụng sự kết hợp của hai nguyên tắc cực đoan. Theo đó, trên thực tế,
các quốc gia đánh thuế một phần thu nhập từ nguồn gốc của người cư trú và thu nhập
từ nguồn trong nước của người không cư trú, trong trường hợp đó, cả phân bổ quốc tế
về tiền gửi tiết kiệm và đầu tư của thế giới đều bị bóp méo.

Trong nội dung của đề tài, nhóm tác giả chúng tôi tập trung vào vấn đề cạnh tranh
thuế  và những lợi ích tiềm năng từ việc hài hòa thuế giữa các quốc gia. Cạnh tranh về
thuế giữa các quốc gia làm tăng khả năng xảy ra các điều khoản thao túng thương
mại. 

I. CẠNH TRANH THUẾ QUỐC TẾ


1. Tổng quan về cạnh tranh thuế
1.1 Khái niệm cạnh tranh thuế (Hoàng)

Cạnh tranh thuế không có một khái niệm cụ thể, có thể hiểu, cạnh tranh thuế là việc
một nước ban hành chính sách thuế có lợi thế so sánh nhằm thu hút nguồn lực, lao
động và các yếu tố kinh tế khác từ bên ngoài vào nước mình hoặc hạn chế di chuyển
các nguồn lực trong nước ra nước ngoài. Thường khi nhắc đến cạnh tranh thuế, người
ta hay nhắc đến một chiến lược của Chính phủ trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài và nguồn nhân lực có giá trị cao bằng cách làm
giảm thiểu mức thuế tổng thể hoặc đưa ra các ưu đãi về thuế, ưu đãi đặc biệt, tạo ra
một lợi thế so sánh.

1.2. Các quan điểm xoay quanh cạnh tranh thuế ( Hương)
 Quan điểm về lợi ích cho người lao động hay cho chủ đầu tư
 Một số nhà quan sát cho rằng sự cạnh tranh thuế là một phần trung tâm của
một chính sách của chính phủ để cải thiện rất nhiều về vấn đề lao động
bằng cách tạo ra nhiều công ăn việc làm với thu nhập cao (thường ở các
nước hay khu vực có triển vọng nghề nghiệp bị hạn chế). 
 Người khác lại cho rằng nó có lợi chủ yếu cho các nhà đầu tư.Nhiều nhà
kinh tế cho rằng việc cạnh tranh thuế sẽ đem lại nguồn thu thuế tăng thêm
do khi giảm thuế sẽ kích thích đầu tư, tăng trưởng kinh tế.
 Quan điểm ủng hộ hay bác bỏ cạnh tranh thuế quốc tế
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một cách thu hút doanh nghiệp đến đầu tư là
giảm thuế, đặc biệt là thuế thu nhập. Xu hướng cạnh tranh thuế quốc tế đang
tăng lên do tính lưu động ngày càng cao của vốn và lao động. Có nhiều ý kiến
ủng hộ cũng như chỉ trích xu hướng này.
 Phe ủng hộ giảm thuế thường lấy Ireland làm ví dụ. Quốc gia 3,8 triệu dân
này có thuế thu nhập công ty chỉ 10% và trong vài năm qua nhận được đầu
tư trực tiếp nước ngoài nhiều hơn cả Nhật hay Ý. Thu nhập bình quân đầu
người của Ireland đã nhanh chóng bắt kịp với các nước còn lại ở châu Âu.
Có ba lập luận thường được đưa ra. Thứ nhất, một nước có thuế thấp sẽ thu
hút nhiều doanh nghiệp. Thứ hai, thuế thấp sẽ làm giảm mất mát vô ích do
đánh thuế. Cuối cùng, cạnh tranh thuế làm cho các chính phủ mất thế độc
quyền và buộc phải trở nên hiệu quả hơn.
Ngoài ra nó cũng đã được lập luận rằng cũng giống như cạnh tranh là tốt cho
các doanh nghiệp, cạnh tranh là tốt cho các chính phủ vì nó thúc đẩy hiệu quả
và quản lý tốt ngân sách công cộng
 Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng cạnh tranh thuế là có hại. Thứ nhất,
quyết định đầu tư có thể bị biến dạng. Lao động và vốn có thể chuyển đến
các nước có thuế thấp, nhưng có thể nơi đó không phải là nơi có năng suất
cao nhất. Thứ hai, thuế lũy tiến cao không còn khả thi vì các doanh nghiệp
và cá nhân có thu nhập cao có thể chuyển sang những nước có thuế thấp.
Như vậy cạnh tranh thuế làm giảm tác dụng tái phân phối của thuế, ngoài ra
còn gây ra gia tăng bất bình đẳng xã hội do phân phối thu nhập kém công
bằng. Hơn nữa, thu ngân sách giảm do cạnh tranh thuế chưa hẳn làm cho
chi tiêu của chính phủ trở nên hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt nguy hiểm
đối với các nước nghèo đang cần phải đầu tư để giải quyết vấn đề hạ tầng
cơ sở bị quá tải. Càng giảm số thu thuế thì càng phải đi vay nhiều. Quốc gia
mắc nợ cao sẽ khiến các nhà đầu tư e ngại, trong khi tạo gánh nặng nợ cho
thế hệ sau.
Với sự cạnh tranh thuế trong thời đại toàn cầu hóa của các chính trị phải giữ
mức thuế suất "hợp lý" để ngăn cản các công nhân và các nhà đầu tư chuyển
sang một môi trường thuế thấp hơn. Hầu hết các nước bắt đầu cải cách chính
sách thuế của họ để nâng cao năng lực cạnh tranh của họ. Tuy nhiên, gánh nặng
thuế chỉ là một phần của một công thức phức tạp mô tả cạnh tranh quốc gia.
Các tiêu chí khác như tổng chi phí nhân lực, thị trường lao động linh hoạt, trình
độ học vấn, sự ổn định chính trị, ổn định hệ thống pháp luật và hiệu quả cũng
quan trọng. Tóm lại, các quốc gia cần cạnh tranh bằng việc đưa ra môi trường
kinh doanh tốt, trong đó thuế chỉ là một yếu tố, nhằm thu hút lao động tay nghề
cao và các ngành kinh doanh có giá trị gia tăng cao. Các chính phủ cũng phải
tránh bị hút vào “cuộc đua tụt xuống đáy” do giảm thu thuế và tăng nợ vay. 
Vậy Việt Nam cũng đã và đang thực hiện vấn đề cạnh tranh thuế quốc tế như
thế nào? 
2. Thực trạng Việt Nam đối với vấn đề cạnh tranh thuế quốc tế (Hiền)
Ngân hàng Thế giới đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của các nước trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng qua các báo cáo hàng năm (PwC) của tổ chức
này. Theo đó, Việt Nam được đánh giá là có sự thay đổi mạnh mẽ trong những năm
gần đây về năng lực cạnh tranh thuế. Đặc biệt, khi Việt Nam ngày càng tham gia hội
nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết về thuế khi ký kết các hiệp
định thương mại tự do và đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh. Điều này đã được
nhiều tổ chức quốc tế và cộng đồng DN trong và ngoài nước ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, so với một số nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương thì các
tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của Việt Nam đều ở mức cao hơn, đặc biệt
là tiêu chí số giờ tuân thủ về thuế trung bình của một DN còn cao so với yêu cầu của
DN. Thủ tục hành chính liên quan đến thuế, hải quan đã được Bộ Tài chính quyết liệt
thực hiện cắt giảm nhưng đòi hỏi của DN cần tiếp tục đơn giản hóa hơn nữa. Đáp ứng
yêu cầu này, thời gian qua, Chính phủ, Bộ Tài chính đã có nhiều động thái tiếp tục cắt
giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực thuế trong thời gian tới,
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh.
Đặc biệt, với quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh, liên tục từ năm 2014
đến nay, Chính phủ đã có ban hành các Nghị quyết 19 nhằm cải thiện môi trường kinh
doanh Việt Nam. Báo cáo thường niên về chỉ số thuận lợi kinh doanh 2017 do Ngân
hàng Thế giới công bố cho thấy, Việt Nam xếp hạng 82 trên tổng số 190 nền kinh tế
được đánh giá, tăng 9 bậc so với năm 2016. So với bảng xếp hạng năm trước, Việt
Nam đã thăng hạng 9 bậc (năm 2016, Việt Nam xếp thứ 91 với điểm số 61,11/100).
Đóng góp quan trọng vào sự thăng hạng này là sự cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành
chính trong lĩnh vực thuế cũng như những đổi mới về chính sách thuế theo xu thế hội
nhập.
Liên tục từ năm 2014 đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các
Nghị quyết số 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia, trong đó chỉ rõ những định hướng cấp bách nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh về thuế. Thực hiện Nghị quyết 19 của Chính phủ, Bộ Tài chính đã vào cuộc với
tinh thần quyết quyết tâm cao và đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần quan
trọng vào cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội
nhập đặt ra việc hoàn thiện các công cụ chính sách và quản lý thuế phù hợp cần tiếp
tục thực hiện. Theo đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh thuế của Việt Nam, cải thiện
môi trường kinh doanh và thu hút dòng vốn đầu tư từ nước ngoài, cần tiếp tục quan
tâm đến một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Rà soát và
rút gọn các thủ tục hành chính thuế; các biểu mẫu, thành phần hồ sơ đơn giản; quy
định rõ trách nhiệm của từng phòng ban, công chức quản lý thuế trong việc tiếp nhận
và giải quyết; bổ sung và sửa đổi các quy định về thuế cho phù hợp với những nội
dung thay đổi thủ tục hành chính và giảm tần suất kê khai thuế để giảm gánh nặng tuân
thủ cho người nộp thuế.
Thứ hai, tăng cường hỗ trợ người nộp thuế, cần tăng cường hơn nữa việc tổ
chức tập huấn chính sách thuế mới cho người nộp thuế; tăng cường tiếp xúc, đối thoại,
tư vấn qua đường dây nóng hay hộp thư thoại; khuyến khích phát triển các đại lý thuế.
Thứ ba, thay đổi chính sách thuế theo hướng phù hợp với thông lệ chung của
quốc tế như thống nhất một mức thuế suất thuế giá trị gia tăng; bên cạnh thực hiện lộ
trình giảm thuế suất thuế TNDN, cần xây dựng chính sách thuế khuyến khích đặc biệt
cho các dự án khởi nghiệp như áp dụng thuế suất thấp, miễn thuế TNDN trong những
năm đầu kể từ năm kinh doanh có lãi; thống nhất một phương pháp tính thuế thu nhập
cá nhân đối với các khoản thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, chuyển nhượng
chứng khoán…
Thứ tư, hoàn thiện hiện đại hóa quản lý thuế, tập trung xây dựng hạ tầng truyền
thông hiện đại, có tính bảo mật cao trong công tác thu thuế; sớm hoàn thiện hệ thống
dịch vụ thuế điện tử để triển khai trong các DN; hợp tác và trao đổi thông tin với các tổ
chức quốc tế.
II. LỢI ÍCH TỪ HÀI HÒA THUẾ (Bảo) 
1. Định nghĩa hài hòa thuế
 Hài hòa thuế thường được hiểu là quá trình điều chỉnh hệ thống các thẩm quyền
thuế khác nhau nhằm theo đuổi một chính sách chung. Các định nghĩa khác về
hài hòa thuế như là : hài hòa thuế liên quan đến việc loại bỏ các sai lệch về thuế
ảnh hưởng đến chuyển động của hàng hóa và các yếu tố nhằm mang lại sự phân
bổ nguồn lực hiệu quả hơn trong một thị trường hội nhập.
 Các cơ sở của hài hòa thuế sẽ góp phần tạo sự minh bạch cho quá trình ra các
chính sách về kinh tế và dẫn đến cải thiện hiệu quả trong phân bổ nguồn lực.
Đặc biệt, một cơ sở tính thuế thu nhập chung cho các công ty đa quốc gia hoạt
động ở các khu vực vực lý khác nhau sẽ là công cụ trong việc nâng cao hiệu
quả mà còn ngăn sự chồng chéo hoặc lỗ hổng trong quyền về thuế của các quốc
gia. 
 Hài hòa thuế là một phần quan trọng của quá trình hội nhập tài chính.Sự hài hòa
về thuế tồn tại khi người nộp thuế phải đối mặt với các mức thuế suất giống hệt
nhau cho dù họ làm việc, tiết kiệm , chi tiêu hoặc đầu tư ở bất cứ đâu. Các
chính sách hài hòa về thuế được ban hành để ngăn cản dòng vốn cũng như việc
làm từ các quốc gia có thuế suất cao sang các quốc gia có thuế suất thấp.
2. Lợi ích từ hài hoà thuế
- Hài hòa thuế có thể đạt được bằng hai cách
 Sự hài hòa về thuế xảy ra khi các quốc gia đồng ý ấn định một mức thuế tối
thiểu hoặc quyết định đánh thuế theo cùng một mức. Ví dụ, Liên minh châu Âu
yêu cầu các quốc gia thành viên đánh thuế giá trị gia tăng (VAT) ít nhất là 15%.
từ kỷ luật thị trường.
 Sự hài hòa ngầm xảy ra khi các chính phủ đánh thuế thu nhập mà công dân của
họ kiếm được ở các khu vực pháp lý khác. Chính sách đánh thuế nguồn  yêu
cầu các chính phủ thu thập thông tin tài chính về các nhà đầu tư không cư trú và
chia sẻ thông tin đó với những người thu thuế từ các chính phủ nước ngoài. Với
hình thức hài hòa thuế gián tiếp này, người nộp thuế không thể hưởng lợi từ
chính sách thuế tốt hơn ở các quốc gia khác, 
- Không dẫn đến cuộc đua xuống đáy. 
 Do các cơ quan có thẩm quyền thuế đã đưa ra một chính sách chung nhằm hài
hòa lợi ích  giữa các bên với nhau,  giữa các quốc gia với các tập đoàn đa quốc
gia. Nên một cuộc đua xuống đáy nhằm thu hút nhân lực, vật lực, vốn đầu tư
đặc biệt là vốn đầu tư FDI sẽ khó xảy ra, từ đó nhằm tăng nguồn thu từ thuế cho
các quốc gia.
Vì khi các khu vực có thuế suất hài hòa với nhau, dẫn đến họ không cạnh tranh về vốn
bằng cách giảm thuế suất. Điều này ngăn cản việc các khu vực giảm thuế suất để đảm
bảo rằng quốc gia của họ là một quốc gia đủ hấp dẫn dành cho các công ty đa quốc gia
do có thuế suất thấp. Tuy nhiên, cuộc chiến này có cái giá riêng của nó, việc giảm thuế
suất kéo theo giảm nguồn thu từ thuế.
 Ít chi phí hơn liên quan đến các khoản thu công. Thuế suất được quy định
chung  không gây bất lợi hoặc chỉ có lợi cho một khu vực
 Khi có chung một chính sách về thuế suất, các cơ quan thuế ở mỗi quốc gia sẽ
đỡ tốn nhân lực cũng như thời gian đối với các công ty đa quốc gia, đồng thời
giúp các cơ quan thuế không bị chồng chéo lên lợi ích của nhau.
 Sự hài hòa về pháp luật giúp giảm chi phí  cho các công ty đa quốc gia
 Đối với các công ty đa quốc gia, khi đến kỳ tính thuế họ luôn tốn một khoản chi
phí lớn để thuê các công ty cung cấp dịch vụ tư vấn thuế. Nếu trước đây khi
chưa có chính sách chung về hài hòa thuế, mỗi quốc gia sẽ có quy định, chính
sách về thuế suất khác nhau dẫn đến việc các công ty đa quốc gia phải thuê mỗi
công ty cho từng quốc gia khác nhau từ đó làm tăng các khoản phí.
 Cho phép sử dụng chuyển giao tài khóa giữa các khu vực, giảm chi phí
đi vay trên thị trường vốn hoặc từ các nhà cho vay tư nhân hoặc quốc tế.
3. So sánh hài hòa thuế ASEAN với EU
3.1 Thuế suất trực thu
Hiện tại, các nước ASEAN quy định mức thuế suất rất khác nhau.Thuế suất thu nhập
cá nhân ở Singapore là 20% và 37% ở Thái Lan trong khi mức cố định 20% đã được
Việt Nam áp dụng và ở Brunei thì không áp dụng thuế thu nhập cá nhân.
Rõ ràng là với việc gia nhập thị trường chung ASEAN, sự khác biệt trong hệ thống
thuế và thuế suất có thể dẫn đến sự cạnh tranh giữa các Quốc gia Thành viên ASEAN
để thu hút
đầu tư và thu hút nhân công lành nghề.
 Hài hòa thuế trực thu trong EU 
Theo EU và luật thuế của EU, cho đến thời điểm gần đây, chưa có sự hài hòa tuyệt đối
giữa thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế suất thuế thu nhập cá nhân. Ngược
lại, EU đã áp dụng khái niệm chênh lệch. Sự khác biệt trong phạm vi luật thuế của EU
phát sinh từ sự khác biệt của hệ thống pháp luật giữa hai hoặc nhiều Quốc gia Thành
viên. Như một minh họa, trong trường hợp một công ty được thành lập tại một Quốc
gia Thành viên áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% và có ý định thành lập một
chi nhánh tại một Quốc gia Thành viên khác nơi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
được đánh là 25%, thì công ty đó không được hiểu rằng thuế suất tại Nước chi nhánh
cao hơn thuế suất tại Nước sở tại vì Bang chi nhánh cũng áp dụng tỷ lệ 25% đối với
các tập đoàn trong nước của mình.
 Hài hòa thuế trực thu trong ASEAN 
Đối với hoàn cảnh ASEAN, dường như hiện tại vẫn chưa có điều khoản nào theo Hiến
chương ASEAN và luật thứ cấp quy định việc hài hòa thuế suất trực thu. Do đó, việc
hài hòa thuế suất trực tiếp giữa các nước ASEAN nên để duy trì chủ quyền về thuế của
mỗi quốc gia thành viên, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế suất thuế thu
nhập cá nhân sẽ không thay đổi và ASEAN cũng nên áp dụng khái niệm chênh lệch.
3.2. Thuế gián thu
Trong ASEAN, hiện đã có quá trình hài hòa thuế quan vì tất cả các Quốc gia Thành
viên đã tham gia Hiệp định về Hiệu lực Chung Chương trình thuế quan ưu đãi (CEPT)
cho Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Không giống như EU, CEPT không áp
dụng một mức thuế quan thông thường từ bên ngoài đối với hàng hóa nhập khẩu. Về
mặt này, mỗi của các nước ASEAN được quyền áp dụng luật quốc gia của mình để áp
đặt thuế quan đối với hàng hóa đến từ bên ngoài ASEAN. Mặt khác, đối với hàng hóa
có xuất xứ trong ASEAN, các nước ASEAN sẽ áp dụng thuế suất 0-5%. Giảm thuế
quan tỷ giá đã được xử lý từng bước phù hợp với lịch trình được cung cấp trong
CEPT.
Tuy nhiên, đối với các loại thuế tiêu dùng như thuế Giá trị gia tăng (VAT) và Thuế
Hàng hóa và Dịch vụ (GST), sự hài hòa vẫn cần thiết. Hơn nữa, thuế suất thuế tiêu
dùng được áp dụng bởi hầu hết các nước ASEAN là khác nhau vì mức thuế suất dao
động từ 7% - 12% trong khi Brunei và Myanmar chưa quy định thuế GST hoặc VAT
và Malaysia gần đây đã có hiệu lực thuế GST với thuế suất 6% kể từ ngày 1 tháng 4
2015. 
 Tại EU
EU đã hài hòa hóa hệ thống VAT của mình bằng cách quy định Chỉ thị VAT
(2006/112 / EC), do đó, tất cả các Quốc gia Thành viên EU đều áp dụng cùng một hệ
thống thuế GTGT. Hệ thống này liên quan đến cơ chế bù trừ, trong đó có liên quan
đến thuế GTGT đầu vào và đầu ra. Nói cách khác, Chỉ thị VAT đã được thông qua như
các quy tắc hướng dẫn cho tất cả các Quốc gia Thành viên để thực hiện các hệ thống
VAT theo chủ quyền của riêng họ.
 Tại ASEAN 
Brunei và Myanmar chưa quy định thuế tiêu thụ tại quốc gia của họ.
Do đó, để tạo ra thị trường nội bộ với sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nước ASEAN
các quốc gia, luật thứ cấp về thuế GTGT của ASEAN nên được thông qua. Chắc chắn,
nó phù hợp để áp dụng Chỉ thị về VAT của EU như một mô hình trong việc tạo ra cấu
trúc của luật VAT ASEAN kể từ khi thuế VAT của EU đã có hiệu lực trong một thời
gian dài và hiện đang hoạt động hiệu quả.
Hệ thống thuế GTGT của ASEAN, giống như thuế GTGT của EU, nên là cơ chế bù
trừ. Cũng thế, cấu trúc của chúng sẽ tạo thành các đặc điểm giống nhau, cụ thể là đối
tượng chịu thuế, đối tượng chịu thuế giao dịch, thời điểm tính thuế GTGT, số tiền chịu
thuế và thuế suất cũng như các khoản miễn giảm. Về thuế suất VAT, phải cân nhắc kỹ
lưỡng để áp dụng chung tỷ lệ, bởi vì thuế suất thuế giá trị gia tăng sẽ ảnh hưởng đến
giá hàng hóa và dịch vụ trong khi giá cả sinh hoạt ở mỗi nước ASEAN vẫn khác nhau.

4. Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA)


4.1 Lịch sử hình thành
 Hiệp định ”ATIGA được ký vào tháng 2/2009 và có hiệu lực từ ngày
17/5/2010, có tiền thân là Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT/AFTA) ký năm 1992.
 ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương
mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết
cắt giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các
hiệp định, nghị định thư có liên quan.
 Việt Nam tham gia ASEAN từ năm 1995 và bắt đầu thực hiện CEPT/AFTA từ
năm 1996 và sau”
4.2 Các đặc điểm chính
 Trong ATIGA,“các nước ASEAN dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc
thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận
thương mại tự do (FTA) mà ASEAN ký (các FTA ASEAN+)
 Ngoài các cam kết về thuế quan, ATIGA cũng bao gồm nhiều cam kết khác
như: xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan, quy tắc xuất xứ, thuận lợi hóa thương
mại, hải quan, các tiêu chuẩn và sự phù hợp, các biện pháp vệ sinh dịch tễ.
 Biểu cam kết cắt giảm thuế quan trong ATIGA của mỗi nước bao gồm toàn bộ
các sản phẩm trong Danh mục hài hóa thuế quan của ASEAN (AHTN) và lộ
trình cắt giảm cụ thể cho từng sản phẩm trong từng năm.” Do đó, so với CEPT,
cam kết thuế quan trong ATIGA rất rõ ràng và dễ tra cứu.
4.3 Các cam kết chính
i) Cam kết cắt giảm thuế quan
 “Nguyên tắc cam kết: tất cả các sản phẩm trong Danh mục hài hòa thuế quan
của ASEAN (AHTN) đều được đưa vào trong biểu cam kết thuế quan của từng
nước trong ATIGA, bao gồm cả những sản phẩm được cắt giảm thuế và cả
những sản phẩm không phải cắt giảm thuế
 Lộ trình cắt giảm thuế quan của các nước ASEAN-6 (Brunei, Indonesia,
Malaysia, Thái Lan, Philippines, Singapore) thường ngắn hơn các nước còn lại
– nhóm CLMV bao gồm các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam.”
Ví dụ: Đối với các tất cả các sản phẩm thuộc lộ trình cắt giảm A (Sch-A) trong Biểu
cam kết thuế quan thì:
+ Các nước ASEAN-6: đến năm 2010 phải xóa bỏ thuế quan toàn bộ
+ Các nước CLMV: đến năm 2015 mới phải xóa bỏ thuế quan và còn được linh hoạt
7% số dòng thuế (các nước được quyền tự lựa chọn các sản phẩm đưa vào danh mục
7% này) đến năm 2018 mới phải xóa bỏ thuế quan.
 Đa số các sản phẩm trong biểu thuế quan sẽ được các nước xóa bỏ hoặc giảm
thuế xuống còn dưới 5%, trừ một số sản phẩm nhạy cảm như: các sản phẩm
nông nghiệp chưa chế biến, các sản phẩm nhạy cảm như súng đạn, thuốc nổ, rác
thải….
4.4 Thực thi của Việt Nam
“Theo thông tin từ Bộ Tài chính, thực hiện cam kết ATIGA, tính đến ngày 1/1/2014,
Việt Nam đã cắt giảm về 0% đối với 6.897 dòng thuế (chiếm 72% tổng Biểu thuế nhập
khẩu).
Đến ngày 1/1/2015, Việt Nam cắt giảm về 0% thêm 1.706 dòng thuế nữa. Số còn lại
gồm 669 dòng thuế (chiếm 7% Biểu thuế), chủ yếu là những sản phẩm nhạy cảm trong
thương mại giữa Việt Nam và ASEAN, sẽ xuống 0% vào năm 2018, bao gồm: ô tô, xe
máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện dân dụng
như tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản phẩm sữa…
Các sản phẩm không phải xóa bỏ thuế nhập khẩu (duy trì thuế suất MFN) gồm Thuốc
lá điếu, lá thuốc lá, các mặt hàng an ninh quốc phòng như thuốc nổ, súng đạn, pháo
hoa, rác thải y tế, lốp cũ...
Thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan theo ATIGA giai đoạn 2015-2018, Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư số 165/2014/TT-BTC ngày 14/11/2014 về việc ban hành
Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực hiện Hiệp định thương mại
hàng hóa ASEAN giai đoạn 2015-2018.”
III. Kết luận & Giải pháp (Hoàng)

Cạnh tranh thuế đã trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các quốc gia. Mỗi
động thái thay đổi chính thuế của một quốc gia có thể tác động đến sự điều chỉnh
chính sách thuế của các quốc gia khác. Bài viết trên đã tập trung nghiên cứu về xu
hướng cạnh tranh thuế và lợi ích tiềm năng từ hài hòa thế trong những năm gần đây.
Nhóm tác giả đề xuất 4 giải pháp cho chính sách Việt Nam:

- Trong số các yếu tố quyết định tính cạnh tranh của hệ thống thuế thì thuế suất
thuế TNDN và ưu đãi thuế có ưu thế cạnh tranh so với các nước khác, vì thuế suất thuế
TNDN của Việt Nam chỉ cao hơn Hongkong và Singapore. Mặc dù vậy, lượng vốn
FDI từ các nước có thuế suất thấp hơn Việt Nam vẫn đổ vào Việt Nam khá nhiều. Như
vậy, đối với các nhà đầu tư ở các nước này, thuế suất thuế TNDN của Việt Nam không
phải là một yếu tố bất lợi quá nhiều, họ được hưởng nhiều lợi ích khác lớn hơn khi đầu
tư vào Việt Nam. Điều này cho thấy, xét ở phương diện thu hút vốn FDI, trong khi xu
hướng giảm thuế suất thuế TNDN để cạnh tranh thuế vẫn còn diễn ra với xu hướng
chậm lại thì trong thời gian tới Việt Nam không nên tiếp tục tăng khả năng cạnh tranh
bằng cách giảm thuế suất thuế TNDN. Thêm vào đó, việc tiếp tục giảm thuế suất thuế
TNDN sẽ tạo áp lực về thu NSNN, gây áp lực phải tăng thuế suất của các sắc thuế
khác hoặc không đủ nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ chi của Nhà nước. Tăng thuế
suất thuế TNCN là không thể do mức thuế này đang ở mức khá cao. Tăng thuế gián
thu thì ảnh hưởng đến tính công bằng của hệ thống thuế. Thêm vào đó, mọi khả năng
tăng thuế đều chịu ảnh hưởng bất lợi về chính trị. Do đó, trong thời gian tới không nên
giảm thuế suất thuế TNDN.
- Cần thu hẹp ưu đãi thuế, rà soát lại tổng thể các ưu đãi thuế để bãi bỏ các ưu đãi
thừa vì xét trên phương diện cạnh tranh thuế, ưu đãi thuế của Việt Nam đang quá
nhiều so với các nước khác. Thêm vào đó, ưu đãi thuế quá rộng sẽ dẫn đến các bất lợi
sau: (i) Ưu đãi thừa dẫn đến thất thu ngân sách không cần thiết vì không ưu đãi thì nhà
đầu tư vẫn đầu tư vào lĩnh vực hoặc địa bàn đó; (ii) Làm thu hẹp cơ sở thuế dẫn đến
thất thu NSNN trong khi nguồn thu từ thuế nhập khẩu ngày càng giảm do việc thực
hiện các hiệp định thương mại tự do nên rất cần mở rộng cơ sở thuế để bù lại các
khoản thiếu hụt; (3) Ưu đãi quá rộng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trốn thuế, tránh
thuế và dễ dàng thực hiện các hoạt động chuyển giá. Đồng thời cần đổi mới các hình
thức ưu đãi thuế theo hướng thay thế hình thức miễn, giảm thuế có thời hạn bằng các
hình thức ưu đãi thuế khác hiệu quả hơn, như hoàn thuế cho tái đầu tư, khấu trừ hai lần
chi phí…
- Điều chỉnh thuế suất thuế TNCN của Việt Nam theo hướng giảm số lượng thuế
suất trong biểu thuế lũy tiến từng phần và giảm mức thuế suất cao nhất từ 45% xuống
35% để tăng tính cạnh tranh của thuế TNCN, góp phần thu hút nguồn lao động chất
lượng cao làm việc tại Việt Nam.
- Mặc dù trong thời gian qua, Việt Nam đã có rất nhiều thành tựu trong cải cách
thủ tục hành chính thuế, song so với các nước trong khu vực, thủ tục hành chính thuế
vẫn còn rườm rà. Theo WB, số giờ nộp thuế của Việt Nam vẫn cao, chi phí tuân thủ
còn cao nên vẫn chưa vào được nhóm 4 nước tốt nhất ASEAN. Điều này có nghĩa là,
trong thời gian tới, để nâng cao tính cạnh tranh thuế, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh
hơn nữa cải cách thủ tục hành chính thuế. Theo đó, các vấn đề trọng tâm cần làm là
tiếp tục cắt giảm các hồ sơ, thủ tục thuế không thực sự cần thiết; liên thông dữ liệu
giữa cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước khác để giải quyết nhanh các thủ tục thuế;
cải tiến mức độ thuận tiện của việc nộp hồ sơ thuế điện tử và nộp thuế điện tử, áp dụng
thủ tục thuế điện tử với mọi sắc thuế và giao dịch thuế; thu hẹp khác biệt giữa quy
định pháp luật kế toán với pháp luật thuế để tận dụng tối đa dữ liệu kế toán cho kê
khai, tính thuế.
 
Tài liệu tham khảo
[1]https://aasc.com.vn/web/index.php/lien-he/item/718-nang-cao-nang-l-c-c-nh-tranh-
thu-d-thu-hut-v-n-d-u-tu-vao-vi-t-nam 
[2]https://luatduonggia.vn/hiep-dinh-cept-la-gi-hiep-dinh-chuong-trinh-uu-dai-thue-
quan-co-hieu-luc-chung/
[3]HARMONIZATION OF TAX LEGISLATION OF THE ASEAN COMMUNITY
TANAPONG DAMKERNGKHAJORNWONG Advanced Master of Laws (LL.M),
European Tax Law, Leiden University 
 
 

You might also like