You are on page 1of 38

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

HỌC PHẦN: KINH TẾ VI MÔ 2

BÀI THẢO LUẬN


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XOAY QUANH VẤN ĐỀ THÔNG
TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG GIAI ĐOẠN 2017 ĐẾN NAY

Giảng viên hướng dẫn: Ninh Thị Hoàng Lan


Lớp học phần: 2230MIEC0311
Nhóm thực hiện: 08

Hà Nội, 2022

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................4
CHƯƠNG 1:...........................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ HẬU QUẢ
CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG...................................................................5
1.1 Khái niệm khuyết tật thị trường và thông tin bất cân xứng.................................................................5
1.2 Hậu quả của thông tin bất cân xứng....................................................................................................6
1.3 Một số giải pháp khắc phục hậu quả của thông tin bất cân xứng......................................................11

CHƯƠNG 2:.........................................................................................................15
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
TRÊN THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG GIAI ĐOẠN TỪ 2017
ĐẾN NAY................................................................................................................15
2.1 Tổng quan về thị trường tín dụng ngân hàng:...................................................................................15
2.2 Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng và hậu quả của nó trong
giai đoạn từ 2017 đến nay.......................................................................................................................19
2.3. Các biện pháp Chính phủ Việt Nam đã thực hiện để khắc phục hậu quả của vấn đề thông tin bất
cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng..........................................................................................24

CHƯƠNG 3:.........................................................................................................32
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA THÔNG
TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀO THỜI GIAN TỚI..........................................................................................32
3.1 Giải pháp từ phía các cơ quan Chính phủ.........................................................................................32
3.2 Giải pháp từ phía các Hiệp hội ngân hàng........................................................................................32
3.3 Giải pháp từ phía các ngân hàng.......................................................................................................33

KẾT LUẬN...........................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................37

2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH Bảo hiểm xã hội

CSTT Chính sách tiền tệ

NHNN Ngân hàng Nhà nước

TCTD Tổ chức tín dụng

RRTD Rủi ro tín dụng

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Hình 1: Đồ thị hàm cung cầu khi thông tin thị trường hoàn hảo

Hình 2: Đồ thị hàm cung cầu khi người mua thiếu thông tin về người bán

Hình 3: Đồ thị hàm cung cầu khi người bán thiếu thông tin về người mua

Hình 4: Đồ thị hàm cung cầu khi ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng

Hình 5: Đồ thị hàm cung cầu khi nhười đi vay không biết thông tin tốt

Hình 6: Biểu đồ tỉ lệ nợ xấu của NHTM (thêm số liệu 2016 đối chiếu)

Bảng 1: Bảng tổng hợp các giai đoạn quy trình tín dụng

3
LỜI MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biết, kinh tế học vi mô là môn học đi nghiên cứu và phân tích các
hành vi của các tác nhân trong nền kinh tế. Trong khi kinh tế vĩ mô giúp duy trì ổn
định mức giá chung và giải quyết những vấn đề chính của nền kinh tế như lạm phát,
giảm phát, tỉ lệ thất nghiệp, … thì kinh tế vi mô lại có vai trò trong việc xác định giá
của các yếu tố sản xuất khác như đất đai, nguồn lao động, nguồn vốn, doanh nghiệp,
… trong nền kinh tế. Hiện nay, môn học này đi nghiên cứu những vấn đề như cung –
cầu, cơ chế hoạt động của thị trường, lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng, của
doang nghiệp, cấu trúc thị trường hay thị trường các yếu tố sản xuất. Và một trong
những vấn đề nổi bật mà môn học này đi nghiên cứu đó là những khuyết tật của thị
trường và vai trò của chính phủ.
Gần đây, các nhà kinh tế học thường nhắc đến khái niệm “khuyết tật của nền kinh
tế” bởi từ khi nền kinh tế tồn tại, biến đổi và phát triển thì đã có khuyết tật. Thực trạng
này dẫn đến sự phi hiệu quả trong nền kinh tế, làm cho thị trường không đạt được mức
tối ưu xã hội. Chính vì vậy, chính phủ có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc
điều tiết, giải quyết và đề ra những chủ trương để hạn chế những tiêu cực mà thực
trạng này mang lại. Một trong những vấn đề khuyết tật thị trường đang được quan tâm
hàng đầu hiện nay đó chính là sự bất cân xứng của thông tin.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, vấn đề thông tin bất cân xứng này đã và đang gây ra
những tổn thất nặng nề cho toàn xã hội và nền kinh tế. Cùng với đó, chính phủ Việt
Nam cũng đã có những giải pháp nhằm khắc phục và giảm thiểu tối đa nhất những hậu
quả mà vấn đề này gây ra
Nhận thức được sự cần thiết trong việc nghiên cứu vấn đề thông tin bất cân xứng,
cũng như là để hiểu rõ lý thuyết và cách áp dụng lý thuyết vào thực tế, nhóm 8 chúng
tôi đã quyết định lựa chọn đề tài:

Thực trạng và giải pháp xoay quanh vấn đề

thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng từ năm 2017 đến nay

4
CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VÀ HẬU QUẢ CỦA


THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG

Ngày nay, vấn đề thông tin bất cân xứng là một trong những khuyết tật thị trường
xuất hiện ở lưu khắp các quốc gia và đòi hỏi mỗi thị trường cần phải có một cơ chế đặc
thù riêng nhằm xử lý vấn đề thông tin bất cân xứmg, hạn chế tác động của nó đến các
bên tham gia cũng như đến toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những
khuyết tật thị trường nói chung và thông tin bất cân xứng nói riêng trở thành một vấn
đề vô cùng cấp thiết. Ở phần cơ sở lý luận này, bài nghiên cứu sẽ đưa ra những lý
thuyết cơ bản về khuyết tật thị trường và thông tin bất cân xứng, nêu ra những hậu quả
mà vấn đề này gây nên, từ đó đề ra những giải pháp để khắc phục những hậu quả này.

1.1 Khái niệm khuyết tật thị trường và thông tin bất cân xứng

1.1.1 Khuyết tật thị trường


 Khái niệm:
Khuyết tật thị trường là vấn đề xảy ra khi “bàn tay vô hình” làm cho các quyết định
của cá nhân không đưa đến sản lượng mà xã hội mong đợi. Ở đây, “bàn tay vô hình”
dùng để chỉ các hành động, quyết định riêng lẻ của các tác nhân kinh tế dẫn đến phúc
lợi tối đa cho nền kinh tế. Nó như thể một sức mạnh vô hình xâu chuỗi các quyết định,
vì lợi ích cá nhân của những người khác nhau, để mang lại cho chúng ta một kết quả
tốt nhất cho tất cả những người được xem xét cùng nhau. Như vậy, khuyết tật thị
trường chính là lý do để chính phủ can thiệp vào thị trường.
 Các loại khuyết tật của thị trường bao gồm:
Hàng hóa công cộng: là những hàng hóa mà xét theo tính chất tiêu dùng, người ta
có thể và cần phải tiêu dùng chung.
Thông tin không hoàn hảo: là vấn đề xảy ra khi những người tham gia trên thị
trường nhận được thông tin không đầy đủ hoặc không chính xác về giá cả thị trường,
chất lượng sản phẩm, … dẫn đến thị trường không đạt hiệu quả.
Các ảnh hưởng ngoại ứng: là những ảnh hưởng của một quyết định đến bên thứ ba
mà ảnh hưởng này không được tính đến trong quá trình đưa ra quyết định.
Sức mạnh thị trường: Các thị trường nói chung là thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo. Các doanh nghiệp trong trường hợp này ít nhiều là các tổ chức có quyền lực
thị trường. Do đó, chúng có khả năng định giá vượt quá mức chi phí biên của đơn vị

5
sản lượng cuối cùng. Khi đó, điều kiện đảm bảo hiệu quả Pareto bị vi phạm. Sản lượng
thị trường không phải là sản lượng hiệu quả.

1.1.2 Thông tin bất cân xứng


 Khái niệm:
Thông tin bất cân xứng (tiếng Anh: Asymmetric Information), trong kinh tế học,
là trạng thái bất cân bằng trong cơ cấu thông tin - giữa các chủ thể giao dịch có mức độ
nắm giữ thông tin không ngang nhau: một người sẽ có thông tin nhiều hơn so với
người khác về đối tượng được giao dịch, điều này dẫn tới nhiều vấn đề trong kinh tế
học, hợp đồng và tài chính.
Thông tin bất cân xứng là một trong các khuyết tật của thị trưởng vì khi người tiêu
dùng không có thông tin chính xác về giá cả và chất lượng sản phẩm thì hệ thống thị
trường sẽ hoạt động không hiệu quả, việc thiếu thông tin có thể làm cho nhà sản xuất
cung cấp quá nhiều một vài sản phẩm hoặc quá ít những sản phẩm khác, người tiêu
dùng có thể không mua sản phẩm mang lại lợi ích cho họ mà mua những sản phẩm
làm cho họ bị thiệt. Thông tin bất đối xứng làm cho giá cá không phải là giá cân bằng
của thị trường mà có thể quá thấp hoặc quá cao.
 Đặc điểm của thông tin bất cân xứng:
Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch.
Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên.
Thứ ba, trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.
 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng:
Nguyên nhân chủ quan: Do những chủ thể kinh tế khác nhau quan tâm tới những
đối tượng khác nhau và thông tin của họ khi về cùng một đối tượng sẽ khác nhau,
thường thì các chủ thể kinh tế hiểu mình rõ hơn là hiểu người khác. (Theo Joseph
Stiglitz)
Nguyên nhân khách quan: Chủ thể kinh tế tham gia giao dịch có thể cố tình che
giấu thông tin để đạt được lợi thế trong đàm phán giao dịch.

1.2 Hậu quả của thông tin bất cân xứng

1.2.1 Hậu quả chung


Thông tin bất cân xứng là một nhân tố gây ra sự không hoàn hảo của thị trường:
giữa các bên tham gia giao dịch có thể chênh lệch về mức độ nắm giữ thông tin. Tình
trạng chênh lệch về thông tin gây ra nhiều hậu quả như lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo

6
đức, ảnh hưởng tới nhiều vấn đề như cơ cấu vốn, chi phí vốn, định giá tài sản, …
Nhưng có lẽ hậu quả nghiêm trọng nhất mà vấn đề này gây ra đó chính là làm thị
trường không đạt được mức tối ưu xã hội.
Để thấy rõ được hậu quả này, ta cùng đi phân tích trường hợp sau:
* Giả sử một hàng hóa trên thị trường
Có hàm cung thị trường là S ≡ MSC: chi phí xã hội cận biên
hàm cầu thị trường là D ≡ MSB: lợi ích xã hội cận biên
* Khi thông tin trên thị trường là hoàn hảo:

Mức giá và sản lượng hàng hóa được bán ra trên thị trường sẽ thỏa mãn điều kiện:

MSC = MSB  S = D
Lúc này xã hội đạt trạng thái tối ưu tại Eo (PO, QO). Nhờ có thông tin trên thị trường
là hoàn hảo, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau và đầy đủ về thứ được
giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với cái giá mà
họ phải bỏ ra. Với mức giá Po và sản lượng Qo, hàng hóa và giá cả trên thị trường
được phân bố một cách hợp lý, tối ưu nhất có thể mà trong đó các bên chủ thể giao
dịch đều có lợi, không bên nào làm cho bên còn lại bị thiệt hại hay gặp rủi ro.
* Khi người mua thiếu thông tin về hàng hóa của người bán:

7
Vì người mua thiếu thông tin về hàng hóa của người bán nên đường cầu sẽ dịch
chuyển sang trái thành đường cầu D1. Mức giá và sản lượng thực tế bán ra trên thị
trường lúc này sẽ thỏa mãn điều kiện: S = D1

Lúc này, xã hội đạt trạng thái cân bằng tại điểm A (P1, Q1)
tại Eo thì MSC = MSB = EoQo
tại A thì MSC = MSB = AQ1
Như vậy, việc người mua thiếu thông tin về người bán sẽ gây nên tổn thất một
lượng phúc lợi xã hội bằng SABEo. Do người mua thiếu hoặc không có thông tin về hàng
hóa mình muốn mua trên thị trường, nên tâm lý mua hàng của họ trở nên nghi ngờ và
cứ như thế chỉ có những hàng hóa chất lượng kém đến tay người tiêu dùng. Khi đó,
phần tổn thất phúc lợi xã hội hay nói cách khác là diện tích Δ ABEo chính là việc người
mua phải chi trả cho những hàng hóa kém chất lượng trên thị trường.
* Khi người bán thiếu thông tin về người mua:

8
Vì người bán thiếu thông tin về người mua nên đường cung sẽ dịch chuyển sang phải
thành đường cung S1. Mức giá và sản lượng thực tế bán ra trên thị trường lúc này sẽ
thỏa mãn điều kiện: S1 = D
Lúc này, xã hội đạt trạng thái cân bằng tại điểm M (P2, Q2)
tại Eo thì MSC = MSB = EoQo
tại M thì MSC = MSB = MQ2
Như vậy, việc người bán thiếu thông tin về người mua sẽ gây nên một lượng tổn
thất xã hội bằng SEoMN. Do người mua chỉ hành động theo hướng mang đến lợi ích bản
thân, bất chấp dù mang đến thiệt hại cho bên kém ưu thế thông tin là người bán nên
cuối cùng người hưởng lợi ở đây là người mua và người hứng chịu rủi ro là người bán.
Khi đó, phần tổn thất phúc lợi xã hội hay nói cách khác là diện tích Δ EoMN chính là
việc người bán phải chi trả chi phí cho người mua.
* Kết luận: Đối với bất đối xứng thông tin, dù sản lượng thực tế có lớn hơn hay nhỏ
hơn sản lượng tối ưu thì đều gây ra tổn thất về mặt phúc lợi xã hội. Khi người mua
thiếu thông tin về hàng hóa, sản lượng thực tế Q1 sẽ nhỏ hơn sản lượng tối ưu Qo. Còn
khi người bán thiếu thông tin về người mua, sản lượng thực tế Q2 sẽ lớn hơn sản lượng
tối ưu Qo. Tùy vào mức độ bất cân xứng thông tin sẽ gây ra mức tổn thất về mặt phúc
lợi xã hội khác nhau nhưng so với thông tin cân xứng thì vấn đề này đều gây ra sự phi
hiệu quả trong giá cả và sản lượng, ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế.

1.2.2 Hậu quả cụ thể


 Lựa chọn đối nghịch 
Khái niệm: Lựa chọn đối nghịch (Adverse selection – AS): là tình trạng hoạt động
tham gia giữa hai bên chủ thể xảy ra trước khi giao dịch: một đối tượng chủ thể có đầy
đủ các thông tin và dữ liệu chi tiết về hoạt động này, còn đối tượng tham gia còn lại
hoàn toàn sẽ không được cung cấp bất kỳ thông tin có liên quan nào, khi những đối
tượng tham gia vào hình thức giao dịch này sẽ dễ có những quyết định mang tính chất
sai lầm.
Hậu quả: Lựa chọn đối nghịch làm cho bên có ưu thế về thông tin có thể cung cấp
những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế
thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và
nhận được thứ không như mình mong muốn. Tình trạng này gây ra những tổn thất xã
hội và nhiều vấn đề khác như sức khoẻ người tiêu dùng, sự mất lòng tin vào những sản
phẩm tương tự có chất lượng tốt trên thị trường, …

9
Ví dụ minh họa: Giả sử trên thị trường ô tô cũ có 2 loại ô tô: ô tô có chất lượng tốt
được bán với mức giá $2000 và ô tô chất lượng kém được bán với mức giá $1000. Lựa
chọn đối nghịch sẽ được thấy trong trường hợp:
Ở đây, người bán có được thông tin về hàng hóa của mình, nhận biết được đâu là ô
tô có chất lượng tốt, đâu là ô tô có chất lượng kém. Còn người mua thì không có bất kì
thông tin nào về chất lượng của mỗi loại ô tô. Vì người mua không biết chiếc xe mình
mua là tốt hay xấu nên chỉ chấp nhận mua ô tô với mức giá cao nhất là mức giá trung
bình $1500.
Đặt theo địa vị người bán, nếu ô tô đó có chất lượng tốt thì người bán sẽ không
chấp nhận bán với mức giá $1500. Còn nếu ô tô đó có chất lượng kém thì người bán sẽ
đồng ý bán với mức giá này ngay lập tức.
Đặt theo địa vị người mua, khi thấy người bán vui vẻ chấp nhận bán cho mình với
mức giá $1500 thì sẽ tỏ ra nghi ngờ về chất lượng sản phẩm. Người mua sẽ trả giá với
người bán và cuối cùng chiếc ô tô đó sẽ được bán với mức giá $1000. Cả hai bên hoàn
thành giao dịch và cứ như thế chỉ có những ô tô chất lượng kém được bán ra thị
trường.
=> Như vậy, ví dụ trên chính là điển hình cho hiện tượng lựa chọn đối nghịch khi mà
chỉ những sản phẩm chất lượng kém sẽ được giao dịch trên thị trường. Việc không có
đủ thông tin về sản phẩm khiến cho người mua trở nên nghi ngờ và chỉ chấp nhận mua
những sản phẩm chất lượng xấu nhất.

 Rủi ro đạo đức 


Khái niệm: Rủi ro đạo đức (Moral hazard – MH): là tình trạng cá nhân hay tổ chức
không còn động cơ để cố gắng hay hành động một cách hợp lý như trước khi giao
dịch. Vấn đề này nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi
đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng
làm lợi cho bản thân bất kể hành động có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin
(xảy ra khi thực hiên giao dịch).
Hậu quả: Rủi ro đạo đức sẽ gây nên tổn hại về mặt tài chính, khiến cho người đầu
tư e ngại không tham gia vào thị trường tài chính. Lúc này, thị trường sẽ không thực
hiện được hiệu quả chức năng luân chuyển dòng vốn nhàn rỗi tới nơi cần vốn. Bên
cạnh đó, rủi ro đạo đức cũng là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng
kinh tế.
Ví dụ minh họa:
+ Trên thị trường nợ, người đi vay sử dụng những khoản vay không đúng với mục
đích cam kết ban đầu, đầu tư vào những hạng mục rủi ro mà không thông báo với
người cho vay.
10
VD: Bà A đi vay một khoản tiền của ngân hàng Vietcombank để mở rộng phát triển
cửa hàng của mình (điều này cũng đã được cam kết trong hợp đồng vay mượn). Tuy
nhiên, bà A lại sử dụng khoản tiền này để đi đầu tư chứng khoán. Khi thị trường chứng
khoán rớt giá, bà A rơi vào tình trạng khó hoàn trả nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng lúc này
cũng gặp rủi ro trong việc thu hồi khoản vay.
+ Trên thị trường bảo hiểm, người hưởng lợi chính là người mua bảo hiểm và người
hứng chịu rủi ro là công ty bảo hiểm. Rủi ro của người mua bảo hiểm đã được chuyển
giao cho công ty bảo hiểm nên người mua sẽ coi thường rủi ro đó dẫn đến khả năng
xảy ra những biến cố xấu là cao hơn.
VD: Ông B có mua một hợp đồng bảo hiểm tại công ty bảo hiểm ABC (hợp đồng cam
kết sẽ bảo vệ ông B khỏi mọi chi phí phát sinh nếu ông B bị đau ốm thì sẽ được trả
toàn bộ chi phí). Khi đó, ông B sẽ có thái độ lơ là trong việc chăm sóc sức khỏe của
mình vì nghĩ mọi chi phí ốm đau đã có công ty bảo hiểm chi trả. Điều này dẫn đến khả
năng bị bệnh của ông B cao lên, làm cho khả năng công ty bảo hiểm bị thua lỗ cũng
cao lên khi người mua bảo hiểm bị bệnh nhiều hơn.

 Vấn đề người ủy quyền - người thừa hành


Khái niệm: Người ủy quyền - người thừa hành là vấn đề xảy ra khi người thừa
hành (giám đốc công ty) làm việc vì lợi ích của mình bất chấp lợi ích của người ủy
quyền. Đây là một trường hợp đặc biệt vì nó bao gồm cả lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức.
Ví dụ minh họa: Trong việc đóng phí BHXH, chủ sử dụng lao động chính là người
thừa hành, người lao động là người ủy quyền. Trong khi đó, bên có lợi thế về thông tin
hơn là người sử dụng lao động; điều này dẫn đến tình trạng người sử dụng lao động
hàng tháng vẫn trích tiền đóng BHXH của người lao động từ tiền lương, tiền công của
họ; nhưng không nộp cho cơ quan BHXH làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
động. Người lao động vốn yếu thế hơn trong mối quan hệ lao động, lại thiếu thông tin
và không có đầy đủ công cụ để giám sát quá trình đóng góp của người sử dụng lao
động dẫn đến người sử dụng lao động mưu cầu lợi ích cá nhân bất chấp lợi ích của
người lao động bị ảnh hưởng.

1.3 Một số giải pháp khắc phục hậu quả của thông tin bất cân xứng

1.3.1 Nguyên tắc chung


Nguyên tắc chung để khắc phục hậu quả của thông tin bất cân xứng đó là phải giải
quyết tận nguồn của vấn đề này, làm giảm đi sự bất cân xứng thông tin giữa các bên

11
giao dịch cho nên được áp dụng theo 3 cơ chế: cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc và
cơ chế giám sát.

1.3.2 Giải pháp cho các bên


1.3.2.1 Giải pháp của tư nhân
Đối với các công ty đầu tư tư nhân, để khắc phục và hạn chế hậu quả của vấn đề
thông tin bất cân xứng thì có 2 giải pháp thường được áp dụng đối với:
Người mua: tìm hiểu thông tin một cách kĩ càng, cẩn trọng
Người bán: phát tín hiệu một cách trung thực và đáng tin cậy

 Thị trường mua bán


Người mua: thu thập thông tin bằng cách thuê chuyên gia, tìm hiểu qua dịch vụ
đánh giá và xếp hạng, hỏi những người tiêu dùng trước hay dùng thử sản phẩm hay có
thể là mua thông tin
Người bán: phát tín hiệu bằng cách chứng minh uy tín cửa hàng thông qua danh
tiếng, thương hiệu, cấp giấy bảo hành, …
 Thị trường lao động
Nhà tuyển dụng: thu thập thông tin bằng cách xem xét hồ sơ dự tuyển kỹ càng của
người LĐ như sơ yếu lý lịch, bằng cấp, trình độ học vấn, kinh nghiệm từng trải, khả
năng ứng xử, giao tiếp để hiểu rõ quá trình công tác cũng như chuyên môn của họ có
phù hợp với công việc cần tuyển hay không. Ngoài ra, nhà tuyển dụng cần tìm hiểu nơi
cá nhân từng làm trước đó để biết rõ hơn lý do chuyển việc, từ đó biết được phẩm chất,
đạo đức làm việc của họ. Đồng thời đề ra thời gian thử việc để thông qua đó có thể
phần nào đánh giá được phẩm chất, tác phong làm việc cũng như năng lực của họ.
Người lao động: phát tín hiệu bằng cách đưa ra bằng cấp hay yêu cầu mức lương
cao. Chủ động tìm kiếm thông tin công việc, cơ hội việc làm. Cảnh giác với những
hình thức rao vặt, sự thiếu minh bạch trong các trung tâm giới thiệu việc làm. Trước
khi đầu quân vào công ty nào, phải tìm hiểu kỹ toàn bộ thông tin về công ty đó, xem
xét kỹ mọi chi tiết về vị trí công việc hoặc hỏi những người đi trước. 
 Thị trường bảo hiểm
Công ty bảo hiểm: yêu cầu giấy khám sức khỏe, ưu tiên những khách hàng có đăng
kí các chương trình phòng chống bệnh tật, không chi trả bảo hiểm toàn phần mà cung
cấp các loại hợp đồng bảo hiểm với các mức bảo hiểm khác nhau, tương ứng với các
mức bồi thường khác nhau. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đến các đối

12
tượng thông qua nhiều hình thức như tivi, báo, đài, pano, áp phích, tờ rơi. Lồng ghép
nội dung BHXH vào các buổi sinh hoạt tại thôn, xã, các hội, đoàn thể.
Người mua bảo hiểm: phát tín hiệu bằng cách đưa ra những thông tin xác thực về
tình trạng sức khỏe của mình. Đồng thời cũng cần tìm hiểu thông tin về chế độ chính
sách, hồ sơ thủ tục tham gia BHXH; điều kiện, thủ tục hưởng BHXH… từ kênh thông
tin chính thức của BHXH hoặc các kênh thông tin độc lập khác, chẳng hạn như chuyên
mục hỏi đáp của các báo, chuyên mục hộp thư bạn đọc trên truyền hình, … 
 Thị trường tín dụng
Các ngân hàng cho vay: thẩm định dự án, thẩm định khả năng tài chính, tài sản thế
chấp của những người sẽ cho vay. Áp dụng hạn mức tín dụng khác nhau đối với mỗi
đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Ngân hàng cũng phải phát tín hiệu để người
đi vay thực hiện trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản, lãi
suất cho vay.
Người được cho vay: phát tín hiệu chứng minh hiệu quả tài chính của dự án hoặc
chứng minh năng lực tài chính của mình.
 Thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán: phát tín hiệu cho nhà đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả
hoạt động và tiềm năng phát triển của công ty. Điều này vừa lợi cho công ty là nâng
cao được vị thế, sự tin tưởng của nhà đầu tư, vừa lợi cho nhà đầu tư khi biết được
nhiều thông tin cần biết.
Nhà đầu tư: sàng lọc thông tin có tính minh bạch, nhà đầu tư sẽ chọn ra những
công ty có nhiều thông tin và minh bạch trong các thông tin công bố để ưu tiên đầu tư.
Với tâm lý đó, minh bạch thông tin sẽ cuốn hút nhà đầu tư hơn.

1.3.2.2 Giải pháp của chính phủ


 Thứ nhất, Chính phủ cần thiết lập các thể chế, xây dựng khung pháp lý:
Đối với thị trường mua bán, chính phủ cần đưa ra những biện pháp xử phạt hợp lí
đối với những sản phẩm có chất lượng kém nhưng vẫn bán giá cao trên thị trường, gây
ra hiện tượng lựa chọn đối nghịch.
Đối với thị trường tín dụng, hệ thống sổ sách nhằm trốn thuế, lách luật chỉ có thể
khắc phục khi các quy định pháp luật về thuế, các chế tài xử lý vi phạm được quy định
chặt chẽ, nghiêm minh và một hệ thống cơ quan thuế được quản lý và kiểm soát để
tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra tràn lan.
Đối với thị trường lao động, chính phủ cần đề ra những chính sách, luật pháp để
bảo vệ người lao động đồng thời cần thiết lập các thể chế đối với hợp đồng lao động
để đảm bảo quyền lợi của các bên giao dịch.
13
Đối với thị trường chứng khoán, các cơ quan quản lý như Ủy ban chứng khoán, Sở
giao dịch chứng khoán cần đưa ra các quy định về các luật chứng khoán và chuẩn hóa
các sản phẩm, giao dịch trên thị trường này. Dựa vào đấy, sẽ phạt những công ty hay
cá nhân vi phạm đến quyền lợi những nhà đầu tư.

 Thứ hai, Chính phủ cần nghiêm chỉnh trong việc cấp giấy phép chứng nhận
Đối với bất kì thị trường nào thì các cơ quan chính phủ bộ ngành từ trung ương
đến địa phương đều phải công bằng, minh bạch trong việc cấp phép giấy chứng nhận
như giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm, giấy chứng nhận về uy tín công ty, giấy
chứng nhận đòa tạo việc làm, … Đồng thời tránh trường hợp đút lót, hối lộ để làm giả
giấy chứng nhận, gây ra tổn hại cho các bên giao dịch.

 Thứ ba, Chính phủ cần cho các cơ quan kiểm tra giám sát định kì
Đối với thị trường mua bán, các cơ quan chức năng cần đi kiểm tra định kì để phát
hiện ra những sản phẩm kém chất lượng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng,
khuyến cáo cho người tiêu dùng biết những sản phẩm chứa chất gây hại.
Đối với thị trường chứng khoán, công tác quản lý, thanh tra, giám sát và xử lý các
vi phạm đối với hoạt động trên thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp, bảo vệ
lợi ích hợp pháp cho các đối tượng tham gia thị trường. Các vi phạm, sai phạm về chế
độ công bố thông tin luôn nảy sinh và ngày càng đa dạng về hình thức và mức độ nên
việc giám sát là một trong những yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo thị trường hoạt
động cộng bằng, minh bạch.
Cùng với những thị trường khác, việc kiểm định, giám sát của chính phủ đều vô
cùng quan trọng. Hành động này cần được thực hiện thường xuyên, đều đặn để nhanh
chóng phát hiện ra những sai phạm, đảm bảo quyền lợi cho các bên giao dịch.

14
CHƯƠNG 2:

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN
THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG GIAI ĐOẠN TỪ 2017 ĐẾN NAY

2.1 Tổng quan về thị trường tín dụng ngân hàng:

 Khái niệm:
Tín dụng (credit) là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong quá trình cho vay, nhất
là các khoản vay ngắn hạn. Tín dụng là mối quan hệ giữa người vay và người cho vay.
Trong đó, người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hóa
cho vay cho người đi vay trong thời gian nhất định nào đó. Người đi vay có nghĩa vụ
phải trả đủ số tiền hoặc hàng hóa đã đi vay khi đến hạn, có thể kèm hoặc không kèm
theo lãi.
Ví dụ: Có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Khi ngân hàng cung cấp cho khách
hàng các khoản vay mua xe, thế chấp, khoản vay chữ ký và hạn mức tín dụng, tất cả
đều là hình thức tín dụng. Về cơ bản, ngân hàng đã giao một khoản tiền cho người vay
và người vay phải trả lại tiền vào một ngày trong tương lai.
Ví dụ: Khi ai đó mua hàng tại trung tâm mua sắm tại địa phương bằng thẻ VISA
của anh ấy, khoản thanh toán của anh ấy được coi là một hình thức tín dụng vì anh ấy
đang mua hàng với sự thật rằng anh ấy cần phải trả tiền cho họ sau.
Tín dụng ngân hàng: là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (tổ chức tín dụng) với
bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế), trong đó
Ngân hàng (tổ chức tín dụng) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng (tổ chức tín dụng) khi đến hạn thanh toán.

15
Ví dụ: Ngân hàng cho Doanh nghiệp vay một khoản vốn để doanh nghiệp sử dụng
vào mục đích sản xuất kinh doanh đó gọi là tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng: là một loại hoạt động kinh tế gắn liền với sự thăng trầm của
nền kinh tế. Vì vậy khi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp rủi ro tất yếu sẽ dẫn
đến rủi ro đối với các tổ chức tín dụng cấp vốn cho các doanh nghiệp.
=> Đối với một thị trường tài chính còn non nớt và chưa hình thành đầy đủ, Việt Nam
một mặt cho phép phát triển một thị trường đầy tự do, một mặt vẫn cần sự định hướng,
hỗ trợ từ nhà nước. Trong những năm gần đây, Việt Nam đang cố gắng hoàn thiện thị
trường tài chính bằng việc tăng cường phát triển thị trường nợ và thị trường vốn cổ
phần. Bên cạnh đó chúng ta còn đang hoàn thiện và tăng cường phát triển trong thị
trường chứng khoán. Đến nay, một trong những hoạt động chủ yếu trong thị trường tài
chính vẫn là lĩnh vực cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng đối với doanh
nghiệp.
2.2.1 Các đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là định chế tài chính trung gian nên
trong mối quan hệ tín dụng với doanh nghiệp hay cá nhân, ngân hàng vừa là người
đi vay và vừa là người cho vay.
Thứ nhất, cơ sở quyết định một khoản tín dụng là lòng tin của ngân hàng về việc
sử dụng vốn vay đúng mục đích của khách hàng và có khả năng hoàn trả nợ vay đúng
hạn. Còn người đi vay thì tin tưởng vào khả năng kiếm được tiền trong tương lai để trả
nợ gốc và lãi vay. Sự tin tưởng đóng một vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển
của quan hệ tín dụng ngân hàng.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với
các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò trung gian vừa là
người đi vay vừa là người cho vay.
Thứ ba, tín dụng bao giờ cũng có thời hạn và phải hoàn trả vô điều kiện. Ngân
hàng thực hiện chức năng “đi vay để cho vay”, do đó mọi khoản tín dụng đều phải có
thời hạn để đảm bảo cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động khi khách hàng gửi tiền cần
rút hoặc ngân hàng lại sử dụng nguồn vốn đó cho khách hàng khác vay. Chính vì
khách hàng không phải là chủ sở hữu thực sự của số tiền vay nên đương nhiên phải
cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay này cho ngân hàng.
Thứ tư, lợi tức tín dụng. Giá trị tín dụng không những được bảo toàn mà còn được
nâng cao nhờ lợi tức tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, bởi
khách hàng phải trả giá cho quyền sử dụng vốn vay. Khoản lợi tức này luôn dương để
bù đắp chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
Thứ năm, đặc trưng bản chất nhất của tín dụng là tiềm ẩn rủi ro cao. Cho dù khách
hàng có thiện chí trả nợ nhưng nếu gặp môi trường kinh doanh bất lợi, biến động các
16
chỉ số kinh tế, sự cố bất khả kháng, … thì cũng dễ gây ra khó khăn trong việc trả nợ và
tất yếu ngân hàng gặp RRTD.
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ nên tài sản giao dịch trong tín dụng ngân hang (huy động vốn, cho vay vốn)
chủ yếu là dưới hình thức tiền tệ. Tuy nhiên trong một số hình thức tín dụng, như
cho thuê tài chính thì tài sản trong giao dịch tín dụng cũng có thể là các tài sản
khác như tài sản cố định.
Ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay.
Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp
với quy mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa khác.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa vốn giữa các chủ thể
trong nền kinh tế.
So với các hình thức khác, tín dụng ngân hàng mang đến nhiều ưu điểm nổi
bật. Cụ thể:
Tín dụng ngân hàng đáp ứng được mọi đối tượng khách hàng trong nền kinh tế
quốc dân chủ yếu bằng hình thức cho vay tiền tệ, rất phổ biến và linh hoạt. 
Bên cho vay chủ yếu huy động vốn bằng các thành phần trong xã hội, chứ không
phải hoàn toàn từ vốn cá nhân như các hình thức khác.  
Thời hạn cho vay linh hoạt, đa dạng: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân hàng
có thể điều chỉnh nguồn vốn với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu về thời hạn cho khách
hàng.  
Thỏa mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế vì
có thể huy động nguồn vốn dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn, nguồn vốn cho
vay của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Đặc điểm nổi bật của bên mua (bên cầu, bên đi vay): ngân hàng nhận tiền gửi của
doanh nghiệp, cá nhân hoặc có thể phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, ... để huy
động vốn trong xã hội. Sử dụng nhiều hình thức thu hút tiền gửi với các kì hạn khác
nhau, phát hành các loại giấy nhận nợ (kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ, …) ngắn hạn
cũng như trung, dài hạn, vay trên thị trường liên ngân hàng, ký các hiệp định vay nợ,

Đặc điểm nổi bật của bên bán (bên cung, bên cho vay): ngân hàng sẽ cấp tín dụng
cho người đi vay. Chủ yếu sử dụng các hình thức cấp tín dụng theo tài khoản cho vay,
cho vay theo hợp đồng tín dụng, ... để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
=> Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng, tuy nhiên nó vẫn
giữ nguyên được bản chất ban đầu của qua hệ tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên
nguyên tắc hoàn trả. Hình thức phổ biến của tín dụng ngân hàng là cho vay tiền tệ, rất
17
linh hoạt và đáp ứng đúng nhu cầu của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Vì thế nên
phạm vi hoạt động cũng rất lớn. Hoạt động tín dụng ngân hàng dựa trên các nguyên tắc
và được cụ thể hóa thành các quy định là khách hàng vay vốn cam kết sử dụng vốn
đúng mục đích đã thỏa thuận và cam kết hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn.
Quy trình tín dụng:
Là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của
khách hàng cho đến khi ngân hàng quyết định cho vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng
tín dụng. Quy trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro
tín dụng. Làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận
liên quan trong hoạt động tín dụng. Chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan
trong hoạt động tín dụng.

Các giai Nguồn, nơi cung câp Nhiệm vụ của ngân


Kết quả
đoạn thông tin hàng

Lập hồ sơ đề Tiếp xúc, phổ biến, Hoàn thành hồ sơ


nghị cấp tín Khách hàng hướng dẫn khách chuyển sang giai
dụng hàng lập hồ sơ đoạn sau
Báo cáo kết quả
Hồ sơ vay vốn Thông Bộ phận thẩm định:
Phân tích tín thẩm định cho bộ
tin bổ sung: thẩm vấn, thẩm định tài chính,
dụng phận quyết định
hồ sơ lưu trữ phi tài chính…
cho vay
Hồ sơ vay vốn Kết quả
Quyết định Quyết định cho vay - Thủ tục pháp lý: ký
thẩm định Thông tin
tín dụng từ chối cho vay hợp đồng…
bổ sung
Chuyển tiền vào tài
Quyết định cho vay và Thẩm định các chứng khoản tiền gửi
các hợp đồng liên quan từ theo các điều kiện khách hàng hoặc
Giải ngân
Chứng từ làm cơ sở của hợp đồng tín dụng chuyển trả cho nhà
giải ngân trước khi giải ngân cung cấp theo yêu
cầu của khách hàng
Phân tích hoạt động
Báo cáo kết quả
tài khoản, báo cáo tài
Giám sát và Thông tin nội bộ ngân giám sát, đưa ra
chính, kiểm tra mục
thanh lý tín hàng Báo cáo tài chính các giải pháp xử lý
đích sử dụng vốn Tái
dụng định kỳ Thông tin khác Lập các thủ tục để
xét, xếp hạng tín dụng
thanh lý tín dụng
Thanh lý hợp đồng

18
Bảng 1: Bảng tổng hợp các giai đoạn quy trình tín dụng
Tín dụng ngân hàng là hoạt động mang tính tiềm ẩn rủi ro cao vì tín dụng không
phải chỉ chịu tác động ảnh hưởng bởi người cho vay và người đi vay mà còn phụ thuộc
vào môi trường hoạt động cho bản thân ngân hàng và khách hàng. Khi môi trường hoạt
động thay đổi như: lạm phát, tăng trưởng kinh tế… sẽ tác động trực tiếp đến khách
hàng của ngân hàng do đó tác động đến chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin về dự án, về
mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn khách hàng. Do đó, để đảm bảo an
toàn trong hoạt động của mình, bản thân các tổ chức tín dụng phải xử lý thông tin bất
cân xứng để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người, đúng
đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm
việc thu hồi cả gốc và lãi khoản tín dụng đã cấp ra.
2.2 Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng và hậu
quả của nó trong giai đoạn từ 2017 đến nay

2.2.1 Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng giai
đoạn từ 2017 đến nay
Ngân hàng đơn thuần chỉ là một tổ chức kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Cấp tín
dụng là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chính của các ngân hàng. Có thể hiểu
cấp tín dụng một cách đơn giản là việc ngân hàng cho khách hàng "vay" một khoản
tiền hoặc uy tín của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó khách hàng có
nghĩa vụ hoàn trả "khoản vay" nên trên cho ngân hàng cộng với khoản "lãi" kèm theo.
Việc "vay mượn" giữa ngân hàng và khách hàng được lập thành hợp đồng tín
dụng. Cũng giống như các hợp đồng tài chính khác, hợp đồng tín dụng là một dạng
hợp đồng không hoàn chỉnh (incomplete contract). Để một hợp đồng được thực hiện
đầy đủ thì các bên liên quan trong hợp đồng phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Tuy nhiên, không giống như các hợp đồng hoàn chỉnh (complete contract), việc thực
hiện các hợp đồng không hoàn chỉnh gặp nhiều khó khăn hơn vì có rất nhiều tình
huống có thể xảy ra trong quá trình thực thi hợp đồng mà các bên không lường trước
được. Cũng do chính vấn đề này mà trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một bên
có nhiều thông tin hơn có thể có những hành vi gây tổn hại đến bên có ít thông tin hơn.
Đây chính là vấn đề bất cân xứng về thông tin trong các hoạt động của nền kinh tế.
Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi
(adverse selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard). Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra
trước khi ký kết hợp đồng của bên có nhiều thông tin có thể gây tổ hại cho bên ít thông
tin hơn. Tâm lý ỷ lại là hành động của bên có nhiều thông tin hơn thực hiện sau khi ký
kết hợp đồng có thể gây tổn hại cho bên có ít thông tin hơn.

19
Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng luôn là người có ít thông tin về dự án, về
mục đích sử dụng khoản tín dụng được cấp hơn khách hàng. Do đó, để đảm bảo an
toàn trong hoạt động của mình, bản thân các tổ chức tín dụng phải xử lý thông tin bất
cân xứng để hạn chế lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại nhằm cho vay đúng người đúng
đối tượng và giám sát chặt chẽ để khách hàng vay vốn có hành vi đúng đắn nhằm đảm
việc thu hồi cả gốc và lãi khoản tín dụng đã cấp ra.
 Từ phía các tổ chức, cá nhân đi vay:
Báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ
mang tính chất hình thức, không chính xác cùng độ tin cậy không cao. Khi cán bộ
ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các
doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên
nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ đưa cuối
cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Các tổ chức, cả nhận không nằm trong đối tượng được vay ưu đãi, nhưng do cổ các
mối quan hệ xã hội đã xin được giấy xác nhận nhằm trong đối tượng được vay.
Ví dụ: Ngân hàng Chính sách xã hội có trách nhiệm thực hiện cho vay, giám sát, thu
hồi nợ vay theo quy định của pháp luật hiện hành, trong phạm vi tăng trưởng kế hoạch tín
dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội đã được Thủ tướng Chính phủ giao hàng năm; tự
cân đối nguồn vốn thực hiện từ nay đến năm 2020 trong kế hoạch đầu tư công trung hạn
2016 - 2020 đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Quyết định có hiệu lực thi hành
từ ngày 1-12-2019, áp dụng đối với các khoản giải ngân mới kể từ khi quyết định này có
hiệu lực thi hành.
Theo Ngân hàng Chính sách xã hội, tính đến ngày 31-8-2019, chương trình tín dụng
học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn với dư nợ đạt 11.038 tỉ đồng, chiếm 5,5%
tổng dư nợ với trên 414.000 khách hàng còn dư nợ; doanh số cho vay giai đoạn 2016-
2019 đạt 6.908 tỉ đồng, với gần 199.000 học sinh, sinh viên được vay vốn đi học.
Tuy nhiên, nhiều địa phương đã thực hiện cho vay sai đối tượng gây nên thất thoát
ngân sách, nhiều địa phương khai man là nghèo để vay vốn ưu đãi rồi nghỉ học làm sai
lệch thông tin và thất thoát vốn ngân sách Nhà nước.
 Từ các tổ chức, cá nhân cho vay:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM
đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ
vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân
hàng.
Ví dụ: Từ năm 2016, cán bộ ngân hàng sử dụng Công ty Jeongho để lập khống các
bộ hồ sơ năng lực, mua bán hàng hóa để thế chấp vay ngân hàng. Tại ngân hàng
VietABank gửi lượng tiền lớn vào ngân hàng và sau đó sẽ cầm cố chính sổ tiết kiệm
20
đó để vay vốn. Tạo giấy tờ giả đề nghị ngân hàng sẽ phát hành thêm Hợp đồng tiền gửi
có kỳ hạn và Giấy đề nghị phong toả. Và sau một vài kĩ thuật nữa đã lừa được một số
tiền lớn 122 tỷ đồng có liên quan đến các ngân hàng NCB, Pv ComBank và
VietABank, …
=> Từ đó ta có thể phân tích thị trường bất đối xứng thông tin được hiểu một cách đơn
giản:

Ta có đường cầu về vốn là D, cung vốn nếu ngân hàng biết thông tin đầy đủ là S 0,
và cung vốn nếu ngân hàng thiếu thông tin là S1
Nếu thị trường đối xứng thông tin thì cung cầu về vốn cân bằng tại điểm E0 (io; Ko)
Nếu thị trường bất cân xứng thông tin, khi khách hàng che dấu thông tin xấu để
được vay nợ nhiều với lãi suất thấp, vì không biết nên ngân hàng sẽ có đường cung
vốn là S1 và điểm cân bằng là E1 (i1; K1)
Thực tế ngân hàng không biết đầy đủ thông tin về khách hàng, vì vậy các ngân
hàng thường cho vay nhiều hơn mức hiệu quả và lãi suất cũng thấp hơn mức hiệu quả
Tổn thất xã hội do cho vay quá mức là diện tích hình E0AB.

Khi không biết thông tin tốt, đường cầu vay vốn là D 1, và người đi vay sẽ vay ở
mức lãi suất là i1 và số vốn vay là K1

21
Khi biết đầy đủ thông tin, thì đường cầu về vốn sẽ là D 0, và người đi vay sẽ vay ở
mức lãi suất i0 và số vốn vay là K0
Thực tế người đi vay không biết đầy đủ thông tin, vì vậy họ dưới mức hiệu quả của
thị trường và tổn thất xã hội do thiếu thông tin là MNE0

2.2.2 Nguyên nhân của tình trạng thông tin bất cân xứng trong thị trường tín
dụng ngân hàng
Nguyên nhân thông tin bất cân xứng theo Joseph Stiglitz, có hai nguyên nhân gây
ra thông tin bất cân xứng: Sự quan tâm của các chủ thể đến các đối tượng kinh tế khác
nhau và các lượng thông tin về cùng một đối tượng cũng khác nhau. Sự cố tình che
giấu thông tin của chủ thể tham gia giao dịch để đạt được lợi thế trong đàm phán giao
dịch.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra vấn đề thông tin bất cân xứng trong lĩnh vực hoạt
động tín dụng của ngân hàng tuy nhiên bao gồm trong 2 nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan:
 Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất là hệ thống thông tin kế toán chưa thực sự chuẩn xác và minh bạch.
Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một cơ sở cực kỳ quan trọng
giúp cho ngân hàng năm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ
thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính không được tổ chức tốt và không minh
bạch và có độ tin cậy không cao sẽ rất khó có thể căn cứ để xem xét tình hình của
doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, hệ thống tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) vẫn còn những khác
biệt so với với hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS). Theo Nghị định về kiểm
toán độc lập, trừ một số loại hình doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán như bảo
hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước,
số còn lại (chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp), nhà nước
chỉ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán các báo báo tài chính Mặt
khác, tại hầu hết các tổ chức tín dụng chưa yêu cầu khách hàng đến xin cấp tín dụng
phải có báo cáo tài chính được kiểm toán
Việc sử dụng các báo cáo tài chính để làm căn cứ thẩm định dự án của các tổ chức
tín dụng chưa có đủ độ tin cậy như phát biểu của Phó tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam - ông Lê Đào Nguyên “Các DN vừa và nhỏ thường xây dựng
báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế, bảo cho chính thức (báo
cáo được pháp luật công nhận) thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ
điều kiện vay vốn ngân hàng”.

22
Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ
sách báo cáo kế toán (thường là 3). Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp
hơn thực tế). Một dùng để vay vốn ngân hàng kết quả báo cáo thường hơn thực tế).
Một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp khó
khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào.
Thứ hai là hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về khách hàng không đầy đủ.
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như: lịch sử hình thành và quá trình
phát triển năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành là cơ sở hết sức
quan trọng giúp cho việc thẩm định, xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng đánh giá, thẩm định khách hàng của các ngân hàng.
Hiện nay, Trung tâm tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (CIC) là tổ
chức duy nhất thực hiện công tác thu thập thông tin của các khách hàng có quan hệ tín
dụng với tất cả các tổ chức tín dụng cơ chế thu thập thông tin của CIC theo quy chế
hoạt động thông tin tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành Trên thực tế, các thông
tin hiện có của CIC có độ cập nhật không cao và các chỉ tiêu còn chung chung. Những
thông tin cần thiết để xác định lịch sử, độ tin cậy của ban điều hành doanh nghiệp hầu
như không có.
Vấn đề về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các tổ
chức tín dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn.
Thứ ba là các tiêu chuẩn đánh giá và xếp loại dự án cho vay mang nặng tình
cảm tính.
Có rất nhiều tiêu chuẩn để đánh giá dự ản, nhưng hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là
dự vào giá trị hiện tại ròng NPV) và suất thu hồi vốn nội bộ (IRR), Một dự án có NPV
dương hay suất thu hồi vốn nội bộ lớn hơn một ngưởng yêu cầu là có thể quyết định
đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn đề khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức
tín dụng khi tỉnh NPV hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được
sử dụng ở đây. Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi suất cho vay trung dài hạn
của chính tổ chức tín dụng đố cộng (+) thêm một tỷ lệ nữa để có được suất chiết khấu.
Những cơ sở này là rất cảm tính.
Thứ tư là thiếu sự liên kết giữa các bộ phận cấp tín dụng trong ngân hàng.
Tất cả các ngân hàng đều xây dựng cho mình quy trình tín dụng tách bạch giữa
khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên với những vấn đề thực tế nêu trên,
việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án, có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mức độ rủi ro
thấp, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức
tín dụng Độ tin cậy và tính chính xác trong kết quả đánh giá, thẩm định khách hàng,
thẩm định dự án tại các tổ chức tín dụng còn rất nhiều điều phải bàn. Hầu như không

23
có tổ chức tín dụng nào đủ tự tin quyết định cấp tín dụng chỉ dựa vào bảng kết quả này
mà không dựa vào tài sản đảm bảo hoặc những căn cử khác.
Thứ năm là thiếu sự thông suốt trong thông tin nội bộ các tổ chức tín dụng
Các doanh nghiệp được mở tài khoản ở rất nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau
và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hết sức đa dạng, rất khó phân biệt nên
việc "qua mặt" các ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay sai mục đích là điều rất dễ
xảy ra. Hoặc trường hợp một dự án, hợp đồng có thể vay ở nhiều tổ chức tín dụng là
điều rất hay xảy ra, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó
khăn rất lớn trong việc giám sát chi tiêu người vay vốn vì để có thể kiểm tra giám sát,
đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải biết
được dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay của bên vay.
 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là còn nhiều bất cập trong việc đăng ký tài sản
Ngân hàng áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay như cầm cố, thế chấp tài sản
và bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba chính là một giải pháp để ngân hàng hạn chế
rủi ro xảy ra do việc lựa chọn ngược. Khi có rủi ro xảy ra ngân hàng có thể phát mãi
tài sản thu hồi nợ. Việc đánh đồng các loại khách hàng khi cho vay dựa vào tài sản đã
làm cho khách hàng tốt mất cơ hội nhận được vốn vay vì không đủ tài sản bảo đảm.
Ngân hàng không có thông tin đầy đủ và chính xác về tài sản nhận thế chấp, cầm cố:
hiện trạng tài sản, các vấn đề pháp ly liên quan đến tài sản… và kể cả trình độ cán bộ
ngân hàng không đủ chuyên môn về lĩnh vực nên việc đánh giá có thể không chính xác
về giá trị thị trường của tài sản và rủi ro khi không thu hồi được nợ. Cũng chính việc
cho vay dựa trên tài sản bảo đảm nên tạo ra tâm lý ỷ lại trong quyết định cho vay.
Ngoài ra, tâm lý dựa chủ yếu vào tài sản bảo đảm làm cho dễ dẫn đến việc cho vay
những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín, làm giảm chất lượng tín dụng. Đây là
thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín dụng hiện nay của các ngân hàng, nhất
là các khách hàng là hộ tư nhân dùng đất nhà để thế chấp.
Hiện nay, việc đăng ký tài sản đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện
chưa được triệt để và rộng khắp. Nguyên nhân của vấn đề này là do thực tế khách quan
có rất nhiều loại tài sản không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục và không có đầy đủ
các giấy tờ cần thiết nên việc đăng ký chứng nhận quyền sở hữu là rất khó. Đặc biệt là
các bất động sản tại khu vực nông thôn, rất nhiều hộ làm nhà tự phát mà không có bất
kỳ một giấy tờ nào. Đối với những loại này, chỉ là những công cụ, phương tiện phục
vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân mà rất khó biến thành tài sản đưa vào chu
chuyển trong nền kinh tế. Do hệ thống đăng ký tài sản hoạt động không hiệu quả nên
hoạt động tín dụng ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn kiệu ngân hàng có thể tin được
khách hàng sẽ “đảm bảo có đủ nguồn vốn tự có” tham gia vào dự án như cam kết.
Thứ hai là thiếu các cán bộ tín dụng có đủ năng lực, và phẩm chất đạo đức.
24
Tiến sĩ Đặng Ngọc Đức (ĐH Kinh tế quốc dân) cho biết nội dung đào tạo hầu hết
các cơ sở này chủ yếu vẫn là lý thuyết. PGS-TS Nguyễn Thị Mùi (Học viện Tài chính)
cho rằng có quá nhiều môn học cơ bản trong khi các môn chuyên ngành lại nặng về
truyền đạt lý thuyết, thiếu các bài tập tình huống cũng như thực hành, giáo trình chậm
được bổ sung cho phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn nước ta.

2.3. Các biện pháp Chính phủ Việt Nam đã thực hiện để khắc phục hậu quả của
vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng.

2.3.1 Các biện pháp đã thực hiện.


a) Nâng cao hiệu quả hệ thống thông tin quản lý:
Với vai trò là một trụ cột quan trọng trong cơ sở hạ tầng tài chính Việt Nam, hoạt
động thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhiều đổi mới và phát triển mạnh
mẽ.
Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu và cung cấp thông tin tín dụng quốc gia: Các
thông tin về hồ sơ pháp lý, hợp đồng tín dụng, thẻ tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài
sản bảo đảm... đã từng bước được rà soát và nâng cao chất lượng theo các chỉ tiêu
thông tin, đặc biệt những chỉ tiêu phụ chưa được quan tâm thu thập trong những năm
trước đây. Việc thu thập, xử lý, cập nhật chỉnh sửa thông tin được thực hiện đúng quy
trình, giám sát chặt chẽ, bảo mật, đảm bảo chất lượng thông tin chính xác và kịp thời.
Duy trì ổn định nguồn dữ liệu truyền thống từ các TCTD trong ngành.
Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) tiếp tục triển khai các giải
pháp để nâng cao chất lượng cơ sở dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia cả về chiều rộng
và chiều sâu; phát triển hệ thống sản phẩm, dịch vụ đa dạng; cải tiến quy trình, nghiệp
vụ, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin. Ngoài ra, CIC còn mở rộng và bổ sung
được các nguồn thông tin phi truyền thống từ các bộ, ngành và tổ chức tự nguyện.
Thứ hai, hỗ trợ và phổ cập kiến thức tín dụng: Để minh bạch hóa thông tin tín
dụng và hỗ trợ khách hàng vay giám sát thông tin tín dụng về bản thân, cải thiện điểm
tín dụng, CIC xây dựng cổng thông tin kết nối với khách hàng vay và Trung tâm hỗ trợ
khách hàng (Contact Center). Đây là một trong những nội dung quan trọng của Chính
phủ về các giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao khả năng tiếp
cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp.
b) Công tác pháp chế:
 Công tác xây dựng pháp luật:
Nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế cho hoạt động ngân hàng, để triển khai thi hành
các Nghị quyết, và sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sao cho phù hợp.

25
Các văn bản được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý để NHNN thực hiện các nhiệm vụ
trọng tâm trong đó có: Tái cơ cấu hệ thống các TCTD; Mua bán, xử lý nợ xấu của
TCTD, VAMC; Hoàn thiện các quy định về thành lập, tổ chức, hoạt động của TCTD;
Quản lý hoạt động ngoại hối vàng; Triển khai các chính sách hỗ trợ tín dụng.
 Tăng cường thực thi pháp luật ngân hàng:
Để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ngân hàng, NHNN đã tập trung triển
khai các nhiệm vụ sau cho các cán bộ, nhân viên: Tuyên truyền, phổ biến các quy định
pháp luật mới được ban hành trong toàn hệ thống ngân hàng và với mọi người; Thực
hiện rà soát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật các văn bản quy phạm pháp
luật; công bố văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ và văn bản hết hiệu lực
toàn phần; Tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các cơ chế thí điểm có kiểm soát đối với
một số lĩnh vực hoạt động ngân hàng trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ; Rà soát
pháp luật ngân hàng so với các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã hoặc đang
trong quá trình tham gia như: Hiệp định thương mại điện tử ASEAN, Hiệp định
thương mại dịch vụ ASEAN, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)…;
Thường xuyên cập nhật, theo dõi thi hành đối với các văn bản quy phạm pháp luật mới
được ban hành, các chuyên đề, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành hoặc đề xuất sửa
đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới theo thẩm quyền để đáp ứng yêu cầu quản lý,
qua đó nâng cao tính thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật ngân hàng.
c) Hoạt động kiểm toán, kế toán nội bộ, tổ chức cán bộ và đào tạo bồi dưỡng:
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục triển khai có hiệu quả công tác kiểm soát, kiểm toán
nội bộ theo Thông tư số 16/2011/TT-NHNN ngày 17/8/2011 của Thống đốc NHNN,
chú trọng những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các năm 2017-2019. Đến năm 2020,
NHNN ban hành Thông tư số 06/2020/TT-NHNN ngày 30/6/2020 quy định về kiểm
soát nội bộ, kiểm toán nội bộ NHNN (thay thế Thông tư số 16/2011/TT-NHNN ngày
17/8/2011).
Với các chuyên đề tập trung đánh giá tính tuân thủ pháp luật, cơ chế, chính sách
của ngành; tính đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị
được kiểm toán, chú trọng vào những nội dung tiềm ẩn rủi ro (an toàn, an ninh hệ
thống thông tin, công tác quản lý, thanh tra, giám sát các TCTD, công tác quản lý an
toàn tài sản kho quỹ; công tác quản lý tài chính, đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản...).
Biên chế, cơ cấu nhân sự và công tác cán bộ thực hiện theo nghị quyết về một số
vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, NHNN tiếp tục rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của các đơn vị để tiến hành sắp xếp, điều chỉnh phù hợp

d) Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng:

26
Công tác thanh tra chuyên ngành đặt trọng tâm vào một số nội dung như:
Thanh tra đánh giá thực trạng tài chính, kết quả kinh doanh, vốn và thực trạng sở
hữu vốn điều lệ; việc chấp hành các quy định về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn; xử lý
nợ xấu. Bên cạnh đó, công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và xử lý sau thanh tra tiếp
tục được giám sát chặt chẽ, sát sao nhằm bảo đảm TCTD thực hiện nghiêm túc các
kiến nghị tại các kết luận về thanh tra, kiểm tra; gắn kết quả thực hiện, xử lý sau thanh
tra với việc xem xét cấp phép mở rộng mạng lưới và cung ứng dịch vụ ngân hàng mới,
qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra, giám sát.
Công tác giám sát ngân hàng tiếp tục được đổi mới và tăng cường trên cơ sở hoàn
thiện, triển khai các công cụ, phương pháp giám sát mới gắn liền với đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin, phát triển cơ sở dữ liệu và hệ thống tiêu chí giám sát, từng
bước chuyển dần từ giám sát tuân thủ sang kết hợp giữa giám sát tuân thủ và giám sát
trên cơ sở rủi ro.
Thắt chặt kiểm tra trong quá trình cho vay và nội bộ ngành Ngân hàng: Kiểm tra
chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp thời có biện pháp xử lý nếu
khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Khi khách hàng có dấu hiệu phát sinh nợ
xấu, phải tìm nguyên nhân để có giải pháp thích hợp và tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra nội bộ ngành Ngân hàng.

e) Hoạt động truyền thông, minh bạch hóa thông tin:


Hoạt động truyền thông của NHNN tiếp tục tập trung vào tuyên truyền chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, của Chính phủ, điều hành CSTT và hoạt động ngân
hàng, giải đáp kịp thời các vấn đề báo chí, dư luận quan tâm, góp phần nâng cao niềm
tin công chúng; đảm bảo minh bạch hóa thông tin theo đúng quy định của pháp luật và
các cam kết quốc tế; tổ chức thực hiện tốt quy định về phát ngôn và cung cấp thông tin
của NHNN; tăng cường quản lý nhà nước về truyền thông trong hệ thống ngân hàng.
Nhằm thực thi chính sách thông suốt, hiệu quả, đi vào cuộc sống, NHNN chú trọng
truyền thông trước, trong và sau đối với các cơ chế, chính sách mới, phương thức
truyền thông thường xuyên được đổi mới, đa dạng.
Cổng thông tin điện tử NHNN liên tục được cải tiến, đổi mới và thực sự trở thành
cầu nối thông tin giữa NHNN với công chúng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
công tác truyền thông về hoạt động tiền tệ - ngân hàng trong tình hình mới. NHNN
chủ động, tích cực triển khai các chương trình truyền thông giáo dục như “Tiền khéo,
tiền khôn”, “Những đứa trẻ thông thái”, “Đồng tiền thông thái”, “Hiểu đúng về
tiền”, ... được công chúng đón nhận tích cực, tạo sự lan tỏa trong xã hội.

27
“Công tác thông tin, truyền thông tiếp tục đạt được kết quả quan trọng, tạo niềm
tin của doanh nghiệp và người dân đối với điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng,
góp phần tích cực vào kết quả chung của toàn ngành.”

2.3.2 Đánh giá thành công và hạn chế của các giải pháp.
Các biện pháp Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trên về cơ bản đã khắc phục hậu
quả của vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng ngân hàng và có những
thành công nhưng bên cạnh đó thì các biện pháp vẫn có một số mặt hạn chế cần phải
cải thiện.
Đặc biệt, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, triển khai
đồng bộ các giải pháp nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng và các
giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, thiên
tai, dịch bệnh.
2.3.2.1 Thành công
*Về nâng cao hiệu quả hệ thống thông tin quản lý: Hoạt động của Trung tâm
thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) ngày càng hiệu quả, góp phần minh bạch
hóa thông tin và đảm bảo an toàn của hệ thống. Biện pháp này hỗ trợ việc kiểm soát
thông tin bất cân xứng, đã giảm được tỷ lệ nợ xấu, rủi ro tín dụng.
CIC đã cung cấp một khối lượng lớn thông tin về khách hàng có nhóm nợ cao
nhất, biến động về nhóm nợ để làm cơ sở cho việc phân loại, đánh giá nợ, điều chỉnh
nhóm nợ của TCTD; đồng thời cũng cung cấp gói dữ liệu để TCTD xây dựng, phát
triển, kiểm định các mô hình quản trị rủi ro, chấm điểm tín dụng xếp hạng tín dụng nội
bộ, quản lý danh mục và thu hồi nợ; cung cấp thông tin hỗ trợ TCTD.
Số liệu được CIC công bố tại hội nghị cho biết, độ bao phủ thông tin tín dụng quốc
gia đã đạt trên 48,6 triệu chủ thể thông tin (cả pháp nhân và thể nhân), vượt trên 60%
người trưởng thành của Việt Nam. Chiều sâu thông tin tín dụng đã đạt điểm tối đa 8/8
theo các tiêu chí đánh giá của Nhóm Ngân hàng Thế giới từ năm 2020. Ngoài ra, chất
lượng sản phẩm, dịch vụ thông tin tín dụng của CIC liên tục được cải thiện để đảm về
an toàn, bảo mật thông tin khách hàng; hình thành mạng lưới đa kênh tới tất cả các tổ
chức tín dụng (kể cả các tổ chức tài chính tiêu dùng, Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức
tài chính vi mô), tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng kịp thời báo cáo thông tin và
tiếp cận sản phẩm dịch vụ của CIC phục vụ hoạt động kinh doanh.
*Về công tác thanh tra, giám sát ngân hàng: Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm
góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng
và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách
hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ
thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và
28
ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ và ngân hàng. Nhận diện, đánh giá rủi ro tiềm ẩn để kịp thời đưa ra văn bản
cảnh báo về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản lý rủi ro đối với các hoạt
động có nguy cơ rủi ro cao.
*Về hoạt động kiểm toán, kiểm toán: Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ tiếp
tục tập trung vào những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động, an toàn của NHNN. Hoạt động kiểm toán nội bộ đã giúp các đơn vị phát hiện,
chấn chỉnh các tồn tại, thiếu sót trong việc thông tin bất cân xứng; rà soát hoàn thiện
quy trình, quy chế nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong quản lý, điều hành,
đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
2.3.2.2 Hạn chế và nguyên nhân
*Về tỷ lệ nợ xấu:
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 đặc biệt là hậu Covid-19 đã và đang tác động
tiêu cực tới nền kinh tế trong nước, làm suy giảm năng lực tài chính và khả năng trả nợ
của doanh nghiệp, NHNN đã chỉ đạo TCTD triển khai đồng bộ các biện pháp kiểm
soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và duy
trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống TCTD ở mức an toàn.
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 12/2020, nợ xấu nội bảng của
hệ thống TCTD tiếp tục được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3% (tỷ lệ nợ xấu nội
bảng đến 31/12/2020 là 1,69%). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý
và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống TCTD đến cuối tháng 12/2020 ở mức
3,81%, giảm so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017, mức
5,85% cuối năm 2018 và mức 4,43% cuối năm 2019.
Nhưng cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối
năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho Công ty TNHH Quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam (VAMC) thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp, bao gồm nợ xấu
nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ
cấu lại tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 và gần tương đương với con số cuối
năm 2017 là 7,36% và cũng là con số cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ
thành quả tái cơ cấu các tổ chức tín dụng giai đoạn 2016 - 2020.

29
TỶ LỆ NỢ XẤU GIAI ĐOẠN 2016-2021 (% TỔNG DƯ NỢ)
12.00%
10.08%
10.00%

8.00% 7.36% 7.31%

5.85%
6.00%
4.43%
3.81%
4.00%
2.46%
1.99% 1.91% 1.69% 1.90%
2.00% 1.63%

0
0.00%
2016 2017 2018 2019 2020 2021

Nợ xấu gộp Nợ xấu nội bảng

Hình 6: Biểu đồ tỉ lệ nợ xấu của NHTM (thêm số liệu 2016 đối chiếu)
Do công tác quản lý rủi ro tín dụng chưa được thực hiện tập trung. Hệ thống kiểm tra,
kiểm soát chưa phát huy được hiệu quả. Thiếu công cụ đo lường rủi ro và khả năng
phân tích rủi ro tín dụng, phân tích ngành còn yếu. Cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin
còn nghèo nàn. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về
doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN
đã hoạt động quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích
lệ nhưng CIC chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một
cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra
việc kết nối thông tin với trang web - CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân
hàng còn nhiều trục trặc.
Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín
dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu
các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi
trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân
hàng.
*Về công tác pháp chế: Với số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành, hệ thống pháp luật ngành ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện, góp phần tăng
cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tạo lập khuôn khổ
pháp lý quan trọng cho NHNN điều hành CSTT, bảo đảm an toàn hoạt động, thúc đẩy
quá trình cơ cấu lại và lành mạnh hóa hệ thống TCTD trong các năm vừa qua. Tuy
nhiên về công tác kiểm soát thông tin bất cân xứng thì còn chưa hiệu quả, chưa khả thi.
Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động tiền tệ - ngân hàng đã được chú trọng và hoàn
thiện nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhiều quy định tại các văn bản quy phạm,
kể cả luật có nhiều bất cập, chồng chéo, nhất là chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng,
đủ thẩm quyền trong việc cơ cấu lại các TCTD…
30
*Về công tác thanh tra, giám sát: Với khách hàng cá nhân cán bộ ngân hàng có
thể kiểm tra các khoản vay, việc làm hay thu nhập, Tuy nhiên, như đã nói, việc này
thường tốn thời gian và công sức và trong một nền kinh tế năng động như hiện nay
điều này có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh của cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Chưa kể đến doanh nghiệp có thể đưa những báo cáo tài chính sai lệch.
Khi thẩm định cho vay, từng cán bộ tín dụng phải tự tìm hiểu thông tin để thẩm
định. Ngân hàng vẫn không thể đánh giá đầy đủ thông tin tài chính của tất cả khách
hàng một cách đầy đủ. Vì các thông tin khách hàng đưa, cung cấp Ngân hàng nhiều
khi không đúng, đầy đủ, độ tin cậy còn chưa cao; và sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi mang tính chất hình thức hơn là thực chất.
Các biện pháp đưa ra còn có những khía cạnh mà chính sách chưa bao quát hết:
 Nghị quyết số 42 sắp hết hiệu lực, thời hạn thực hiện chỉ đến 15/8/2022. Nhiều
chuyên gia tài chính cho rằng: Nếu không được tiếp tục xử lý nợ xấu theo Nghị
quyết này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho ngành Ngân hàng, nhất là trong bối
cảnh nợ xấu bùng phát sau hậu quả của đại dịch COVID-19.
Do vậy, cần hoàn thiện chính sách xử lý nợ xấu theo hướng quy định rõ ràng hơn,
cụ thể hơn, hợp lý hơn, khả thi hơn và hợp lý nhất là nâng lên thành luật, để bảo đảm
việc xử lý kịp thời, có hiệu quả nợ xấu nợ xấu của ngành Ngân hàng nói riêng của và
của cả nền kinh tế nói chung. Trường hợp không kịp ban hành hoặc không ban hành
Luật, cần tiếp tục duy trì hiệu lực của Nghị quyết này.
Do đó, Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) đã kiến nghị NHNN cần ghi nhận các ý kiến
khó khăn, vướng mắc, đề xuất của các TCTD trong quá trình xử lý nợ xấu nói chung
và triển khai Nghị quyết 42 nói riêng, kịp thời báo cáo Chính phủ, Quốc hội, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để tháo gỡ, giải quyết. Đồng thời tiếp tục triển khai,
ban hành các chính sách, các giải pháp hỗ trợ để các TCTD hoạt động có hiệu quả,
kiểm soát chất lượng tín dụng, hỗ trợ khách hàng và đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu.
Hoàn thiện Quy định về hoạt động mua bán nợ để tạo hành lang pháp lý cho các
TCTD mua bán nợ và tham gia sàn giao dịch mua bán nợ.
 Công tác pháp chế còn chưa đưa ra các chính sách, quyết định cụ thể cho tình
trạng thông tin bất cân xứng mà chỉ đưa ra các biện pháp chung cho toàn nền kinh
tế như: điều hành CSTT, chính sách vĩ mô, ...
 Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, ngân hàng cũng còn lệ thuộc khá nhiều
vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin hay
nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa ngân hàng và khách hàng
vay.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là cho vay với lòng tin khách hàng sẽ hoàn trả
theo thỏa thuận. Muốn cho vay đảm bảo được an toàn, ngân hàng phải nắm đầy đủ các
thông tin khách hàng để xem xét, quyết định cho vay và giám sát sau khi vay như
31
thông tin hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, tình trạng nợ nần, tài sản bảo đảm, khả
năng hoàn trả và các thông tin cần thiết khác của khách hàng vay.
 Do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, thiên tai, dịch bệnh, tiếp tục điều hành chủ
động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với
chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, thích ứng kịp
thời với diễn biến thị trường trong và ngoài nước. Đặc biệt, kiểm soát chặt chẽ tín
dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm hỗ trợ
người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, thiên tai, dịch bệnh.

CHƯƠNG 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA THÔNG TIN
BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀO THỜI
GIAN TỚI

3.1 Giải pháp từ phía các cơ quan Chính phủ

Vì thông tin bất cân xứng là một khuyết tật của thị trường, do vậy, việc nhà nước
can thiệp vào thị trường bằng nhiều chính sách và giải pháp là một trong những nhiệm
32
vụ hàng đầu và bắt buộc đối với các cơ quan chức năng của chính phủ nhằm giảm bớt
tình trạng này và giảm bớt thiệt hại đối với các bên tham gia vào thị trường. Một số
giải pháp của chính phủ có thể là:

 Cấp giấy phép chứng nhận tư cách pháp nhân và chất lượng sản phẩm (trước khi
hoạt động).

 Chính phủ và các cơ quan chức năng nhà nước cần cung cấp thông tin một cách
minh bạch và chính xác về: quy hoạch đô thị, về dịch bệnh, về nhà đầu tư, các
doanh nghiệp, đưa ra các dự báo về cung cầu đối với các thị trường trong và ngoài
nước…

 Thiết lập và củng cố các thể chế, nhất là thể chế kinh tế (xây dựng khung pháp lý)
để có các biện pháp xử phạt, chế tài mang tính răn đe nhằm hạn chế việc sử dụng
thông tin bất cân xứng gây bất lợi cho người tiêu dùng.

3.2 Giải pháp từ phía các Hiệp hội ngân hàng

 Thắt chặt kiểm tra trong quá trình cho vay và nội bộ ngành Ngân hàng
Kiểm tra chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp thời có biện
pháp xử lý nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Khi khách hàng có dấu hiệu
phát sinh nợ xấu, phải tìm nguyên nhân để có giải pháp thích hợp và tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành Ngân hàng.
 Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo
Để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn ở
nhiều ngân hàng, các cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo đã được thành lập như: Cơ
quan đăng ký giao dịch đảm bảo quốc gia và chi nhánh; Cơ quan đăng ký tàu biển và
thuyền viên khu vực; Sở Tài nguyên môi trường... Ngoài ra, việc đưa ra các điều kiện
về giá trị tài sản ròng cũng rất cần thiết. Giá trị tài sản ròng ở đây được tính bằng cách
lấy tổng tài sản trừ đi tổng nợ. Như vậy, chỉ những cá nhân hay doanh nghiệp nào có
đủ tài sản mới được xem xét cho vay. Nguy cơ rủi ro đạo đức sẽ giảm xuống bởi người
đi vay có thể bị kiện và cưỡng chế nếu không trả nợ đúng hạn.
 Nâng cao chất lượng cán bộ và đào tạo cán bộ
Yêu cầu đối với cán bộ chuyên trách là về công tác thông tin tín dụng, kể cả tại
ngân hàng Nhà nước và tại các chi nhánh trung tâm các ngân hàng là: cần phải có trình
độ đại học về ngân hàng, tài chính hoặc kinh tế, phải sử dụng thành thạo máy vi tính
và ít nhất một ngoại ngữ. Các cán bộ đó phải được tập huấn để sử dụng thành thạo
chương ình phần mềm CIC, biết cách thu thập, khai thác thông tin, biết phân tích, đánh
33
giá về doanh nghiệp. Ngoài ra, các cán bộ CIC cần phải có thu nhập trung bình so với
mặt bằng chung của ngành, có chế độ thích hợp khi đi thu thập thông tin. Cần phải có
chế độ quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ CIC, được phép kiểm tra, đối
chiếu số liệu để thu thập thông tin tại các ngân hàng. Nếu để chế độ quá thấp sẽ có tác
dụng xấu đến chất lượng hoạt động thông tin tín dụng do cán bộ chán nản, không tận
tình với công việc thậm chí còn có thể sinh ra tiêu cực, lợi dụng cho cá nhân, không
đảm bảo an toàn, an ninh cho thông in.
 Về xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thông tin tín dụng
Cần xây dựng đồng bộ, đầy đủ các văn bản pháp quy, về hoạt động thông tin tín
dụng trong hệ thống ngân hàng, như quy chế về tổ chức và hoạt động của trung tâm
thông tin tín dụng ngân hàng Nhà nước, quy chế về tổ chức và hoạt động nghiệp vụ
thông tin tín dụng của ngân hàng, hướng dẫn về tổ chức và hoạt động thông tin tín
dụng của các ngân hàng…

3.3 Giải pháp từ phía các ngân hàng

Bản thân các Ngân hàng cần phải chủ động để khắc phục tình trạng bất cân xứng
thông tin, bởi điều này tác động trực tiếp đến chính sự hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh của các Ngân hàng.
 Sử dụng hệ thống thông tin tín dụng.
CIC đã cung cấp một số sản phẩm hiện hành riêng dành cho các tổ chức tín dụng
muốn thẩm định về khách hàng của mình. Với những lợi thế của mình, Trung tâm
thông tin tín dụng CIC là một tổ chức có khả năng đáp ứng các điều kiện này. Khả
năng trong thời gian tới, CIC sẽ là một cơ quan cung cấp thông tin và xếp hạng tín
dụng khách hàng đáng tin cậy làm nền tảng cho một hạ tầng thông tin tốt phục vụ cho
hoạt động tín dụng của các ngân hàng ở Việt Nam.
Ngoài việc mua thông tin từ CIC, các ngân hàng cũng nên tự xây dựng cho mình
cơ chế riêng trong việc đánh giá và thẩm định khách hàng của mình, đồng thời thường
xuyên cập nhật thông tin liên quan từ bên ngoài. Trên cơ sở nắm đầy đủ thông tin về
các khách hàng từ nhiều phía, các ngân hàng có thể hạn chế rủi ro do lựa chọn sai lệch
nảy sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng.
 Hợp tác chặt chẽ trong cập nhật với các cơ quan có thẩm quyền và các cá nhân
tổ chức liên quan.
Trong đó, phối hợp với các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và một số tổ chức
liên quan trong việc thông tin về các tài sản bảo đảm của người đi vay. Điều này vô
cùng quan trọng để bảo đảm các Ngân hàng sẽ có được đầy đủ thông tin về các tài sản

34
bảo đảm, tránh được sự xung đột trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng
không trả được nợ.
Trong khi đó, việc tăng cường hợp tác với CIC sẽ giúp các Ngân hàng có được đầy
đủ thông tin về tình trạng tín dụng của khách hàng, từ đó đưa ra các quyết định tín
dụng chính xác. Với những khách hàng tốt, Ngân hàng có thể đưa ra các mức lãi suất
hấp dẫn, giúp tăng tính cạnh tranh của bản thân Ngân hàng. Với các Ngân hàng có tình
trạng vay nợ không tốt, Ngân hàng có thể quyết định từ chối hoặc cho vay với mức lãi
suất cao, nhằm tăng tính trách nhiệm và giảm thiểu rủi ro.
Ngoài ra, việc hợp tác với các cơ quan thuế, hải quan, các tổ chức kiểm toán và các
cơ quan khác trong số liệu đối chiếu, nhằm kiểm tra tính thống nhất giữa các báo cáo
tài chính mà các bên nắm giữ, một số thông tin người vay cung cấp, phát hiện nhanh
chóng nếu có sai lệch, đặc biệt là đối phó với hiện tượng số liệu giả. Quy trình giám
sát sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi các Ngân hàng phối hợp với các cơ quan quản lý tại địa
phương nhằm nắm bắt nhanh chóng các thông tin về việc sử dụng các khoản vay của
khách hàng.
 Phát triển ngành Kiểm toán.
Khi ngành Kiểm toán phát triển chuyên sâu, cán bộ kiểm toán có năng lực và phẩm
chất. Một đội ngũ nhân viên kiểm toán tốt sẽ không chỉ giúp ngân hàng xác minh các
báo cáo tài chính, mà còn có thể đưa ra những tư vấn, nhìn nhận và định hướng phát
triển, giúp các doanh nghiệp có những quyết định tối ưu, đem lại lợi nhuận trong
tương lai.
 Nâng cao kỹ thuật phân tích và thẩm định dự án.
Như cơ chế truyền thống, nhân viên kinh doanh vừa là người trực tiếp gặp khách
hàng, tổng hợp hồ sơ, vừa là người thẩm định. Điều này làm gia tăng các khoản nợ xấu
trong ngân hàng bởi bản thân nhân viên phải chịu gánh nặng chỉ tiêu, lại đồng thời là
người duyệt khoản vay.
Các ngân hàng nên thực hiện phân chia lại chức năng. Nhân viên kinh doanh chỉ
thực hiện chức năng lập hồ sơ kinh doanh của khách hàng và sẽ có một bộ phận
chuyên thẩm định dự án đưa ra phán quyết giải ngân. Điều này giúp thắt chặt hệ thống,
giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng vì nhân viên thẩm định là người không bị áp đặt chỉ
tiêu cũng như không phải người tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên khó có thể bị tác
động như nhân viên kinh doanh.
Sau khi hoàn thành thẩm định, sẽ có một bộ phận chuyên chức năng hoàn thiện hồ
sơ sau phán quyết và đây cũng là bộ phận không tiếp xúc khách hàng. Sẽ có một ban
kiểm soát nội bộ chuyên chức năng thẩm tra tính tuân thủ quy định về hồ sơ trong
ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng cần thành lập hội đồng tín dụng cùng giải quyết

35
hồ sơ xin vay, cũng như hạn chế hạn mức cấp tín dụng của người có thẩm quyền cấp
tín dụng.
Để mô hình trên có thể đi vào hoạt động một cách hiệu quả, cần nâng cao chuyên
môn của từng nhóm cán bộ. Có nhiều cách để thực hiện điều này như tổ chức lớp học
cho cán bộ nâng cao chuyên môn, hay tạo điều kiện cho cán bộ giỏi đi học tập cách
thức hoạt động ở các ngân hàng nước ngoài,…
 Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá khách hàng.
Thứ nhất, Các tiêu chuẩn đánh giá năng lực khách hàng
Việc đặt ra các tiêu chuẩn đánh giá năng lực và trình độ của khách hàng vẫn là cần
thiết, nhằm đánh giá chuẩn xác hơn, đầy đủ và tổng quan hơn về khách hàng nhằm
giảm thiểu rủi ro cho bản thân ngân hàng trong quá trình thẩm định hồ sơ tín dụng.
Thứ hai, Các tiêu chuẩn phân tích báo cáo tài chính
Bên cạnh việc sử dụng báo cáo tài chính nội bộ của doanh nghiệp hay thông tin của
trung tâm CIC làm cơ sở thẩm định để cấp phát tín dụng, ngân hàng cũng nên tham
khảo những loại báo cáo tài chính khác như báo cáo thuế hoặc báo cáo tài chính nội bộ
nhưng phải có xác nhận của cơ quan thuế.
Thứ ba, Các tiêu chuẩn khác ứng với từng hoàn cảnh thực tế
Các ngân hàng nên đưa ra những quy định cụ thể trong việc cấp vốn vay. Ví dụ
như:
1, Giấy tờ có giá có công chứng để nộp hồ sơ xin vay chỉ có giá trị nếu được công
chứng trong khoảng thời gian nhất định (4-6 tháng) tính từ thời điểm xin vay.
2, Giới hạn cho vay với một số lĩnh vực đặc biệt như đầu tư chứng khoán, bất
động sản hay vay mua hàng hóa xa xỉ.
3, Hạn chế những khoản vay khó kiểm soát, thanh tra mà cụ thể là những khoản
vay nằm ngoài địa bàn của ngân hàng.
 Thắt chặt kiểm tra trong quá trình cho vay và nội bộ ngành Ngân hàng.
Kiểm tra chặt chẽ quá trình trước, trong và sau khi cho vay để kịp thời có biện
pháp xử lý nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Khi khách hàng có dấu hiệu
phát sinh nợ xấu, phải tìm nguyên nhân để có giải pháp thích hợp và tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành Ngân hàng.

KẾT LUẬN

Như đã trình bày trong phần I, hiện tượng bất cân xứng thông tin chính là một
trong những nguyên nhân gây ra sự không hoàn hảo cho thị trường và dẫn đến “lựa
chọn sai lệch” và “rủi ro đạo đức” xảy ra khi Ngân hàng thẩm định không chính xác và
36
cho vay sai đối tượng. Chính vì thế, hạn chế bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín
dụng chính là đảm bảo sự an toàn cho các Ngân hàng, hay bản chất chính là hạn chế
các khoản “nợ xấu” cho Ngân hàng. Thực tế cho thấy, chỉ khi nào giải quyết được hai
hệ quả trên thì nguồn vốn mới tìm được đúng đối tượng và mới được sử dụng một
cách có hiệu quả.
Hoạt động tín dụng là một hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho các Ngân
hàng. Trong vài năm trở lại đây, đã có những thời kì hoạt động tín dụng của các Ngân
hàng tại Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ. Trong bối cảnh hoạt động tín dụng còn mới
bắt đầu nở rộ và phát triển, việc mở rộng cho vay trên nhiều lĩnh vực và thị trường tài
sản buộc các Ngân hàng rơi vào tình trạng bất cân xứng thông tin do các nguyên nhân
đã nêu như: sự lựa chọn bất lợi, tâm lý ỷ lại. Nguồn thông tin của các Ngân hàng còn
hạn chế, chủ yếu là thông qua CIC hoặc các thông tin cho người vay cung cấp.
Để hướng đến một nền tín dụng lành mạnh và phát triển sối động theo kịp các
nước trong khu vực và trên thế giới, ta cần giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng
trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Việt Nam. Điều này đòi hỏi phải có sự
hợp tác, đồng bộ từ cả Chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước, bản than các Ngân hàng và
người đi vay trong môi trường thông tin mà Nhà nước quản lý. Trong đó, các giải pháp
cần hướng tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin chuẩn xác, kịp thời, nâng cao sự
hợp tác giữa các bên và phát triển nghiệp vụ trong bản than các Ngân hàng. Khi đó,
thông tin bất cân xứng mới được giải quyết triệt để, hiệu quả đầu tư mới được cải
thiện.
Giải quyết vấn đề thông tin không cân xứng không chỉ phục vụ cho sự phát triển
của một quốc gia mà còn góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển của cả thế giới trong
kỷ nguyên thông tin và nền kinh tế tri thức ngày nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

37
1. PGS.TS. Phí Mạnh Hồng (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)
2. Giáo trình Thị trường tài chính và các định chế tài chính, NXB Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh
3. Báo dân kinh tế - Hậu quả thông tin bất đối xứng
4. Báo dân kinh tế - Biện pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng
5. Thanh Hằng, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance
6. Nguyễn Văn Dương. Tín dụng Ngân hàng, luật Dương Gia (2021)
7. Giáo trình tín dụng, đại học Giao thông vận tải
8. Nguyễn Văn Dương. Tín dụng Ngân hàng, luật Dương Gia (2022)
9. Ths. Đặng Hương Giang. Giáo trình tín dụng Ngân hàng
10. Huỳnh Thế Du, Nguyễn Minh Kiều, Nguyễn Trọng Hoài. Chương trình
giảng dạy kinh tế Fulbright (2005)
11. Giáo trình thông tin bất cân xứng của trang Acamedia
12. Trần Thu Vân. Tiểu luận hàng hóa công thông tin bất cân xứng trong tín
dụng, kho tri thức số
13. Nguyễn Quang. Báo Ngân hàng chính sách xã hội (2022)
14. “Mức vay tối đa học sinh sinh viên”, Báo tuổi trẻ (21/11/2019)
15. Phạm Dự. Báo pháp luật, VNEXPRESS (24/01/2021)
16. Báo cáo thường niên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016)
17. Báo cáo thường niên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2017)
18. Báo cáo thường niên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018)
19. Báo cáo thường niên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2019)
20. Báo cáo thường niên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020)
21. Báo cáo thường niên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2021)
22. Phan Ngọc Hà, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân
(14/07/2021)
23. Minh Phương. Báo tin tức (20/02/2022)
24. Nhung Nguyễn. Kinh tế, Báo Sài Gòn (06/01/2022)
25. Phương Nga. Tài chính, báo VietNamBiz (13/02/2022)
26. Vũ Phong. Tài chính, báo VnEconomy (07/04/2022)
27. Ths. Thái Ninh. Kinh tế, tạp chí Công Thương (19/08/2017)
28. Tiểu luận bất cân xứng thông tin của hoạt động cho vay. Học viện Ngân
hàng (2014)

38

You might also like