Professional Documents
Culture Documents
Mở đầu:
Việt Nam đang trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa và toàn cầu hóa. Vì thế, nhiều loại hình
doanh nghiệp ra đời làm gia tăng các hoạt động thương mại phát triển, đa
dạng. Trong đó, mua bán hàng hóa được xem là hoạt động thương mại
diễn ra phổ biến nhất khi nhu cầu của các doanh nghiệp ngày càng tăng,
không chỉ liên quan đến lợi nhuận, xuất nhập khẩu, mà còn nhiều lợi ích
khác cho việc kinh doanh. Bên cạnh đó, hoạt động mua bán xảy ra tranh
chấp rất nhiều mà nguyên nhân chủ yếu là do tập quán kinh doanh của mỗi
nước khác nhau cũng như phát sinh sự MÂU THUẪN trên cơ sở lợi ích
riêng của mỗi bên .Để tránh tình trạng xảy ra tranh chấp trong quá trình
các bên mua bán hàng hóa với nhau, khi thực hiện mua bán, cần lập Hợp
đồng mua bán hàng hóa với những điều khoản chặt chẽ, đúng quy định của
pháp luật.
1. Khái quát về mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán hàng
hóa trong nước:
a. Quan hệ mua bán hàng hoá:
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại,
theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu và nhận thanh
toán;
bên mua có nghĩa vụ thanh toán và nhận chuyển giao hàng hóa.
giao hàng, chuyển
quyền sở hữu, nhận
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho
bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa HĐ mua bán hàng hoá và HĐ mua
bán tài sản nằm ở mục đích:
VD1. Anh A mua 10 chiếc xe máy của Công ty B để bán lại cho C nhằm mục
đích sinh lời. Đây là HĐ mua bán hàng hoá.
VD2. A mua 1 chiếc xe máy cũ của anh B nhằm mục đích tặng cho chị C,
không nhằm mục đích sinh lời. (B bán cho A với mục đích là sở thích) nên Đây
là HĐ mua bán tài sản.
● Chú ý: Nếu một trong hai bên chủ thể nhằm mục đích sinh lời thì được
coi là HĐ mua bán hàng hoá.
Theo quy định tại mục 2 Chương II – mua bán hàng hóa Luật Thương
mại 2005 quy định về quyền và nghĩa vụ của hai bên như sau:
● Bên bán phải giao hàng phù hợp với hợp đồng cùng các chứng
từ liên quan đến hàng hóa đã thỏa thuận trong hợp đồng về số
lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định
khác trong hợp đồng.
● Bên bán cũng phải giao hàng tại địa điểm và thời hạn đã giao
ước trước đó.
● Bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa như không bị tranh
chấp bởi bên thứ ba, hàng hóa phải hợp pháp và được phép lưu
thông trên thị trường.
● Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa không bị tranh
chấp với bên thứ ba.
● Có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp với
hợp đồng, được xác định trên mục đích sử dụng, ý định cụ thể
của bên mua, chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa và sự
bảo quản, cách thức đóng gói thông thường.
● Bên mua có nghĩa vụ phải thanh toán và nhận hàng theo thỏa
thuận và tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện theo
trình tự, thủ tục luật định.
Thoả thuận sai mức phạt vi phạm (cao hơn luật quy định).
=> Nếu có tranh chấp, tòa tuyên là vô hiệu, tòa chỉ phạt tối đa 8%. để giải
quyết thì khi làm hợp đồng sẽ được đưa vào bồi thường thiệt hại chớ
không phải phạt.
- Lựa chọn căn cứ luật áp dụng.
Nếu theo LDS thì tùy 2 bên thỏa thuận, còn LTM thì ko đc vượt quá 8%.
—-----------
2.1 So sánh với Luật chuyên ngành (Luật dân sự,Luật chứng khoán,
mua bán hàng hoá trên thực tế...)
2.1.1 Luật chứng khoán
Trên thực tế, việc định nghĩa về đối tượng trong hợp đồng mua bán hàng
hoá còn tổng quát và mơ hồ. Việc quy định hàng hoá bao gồm: tài sản là
động sản, các động sản hình thành trong tương lai
- Ví dụ: Hiền Hồ mua cổ phiếu trên sàn chứng khoán của FLC có
phải là hợp đồng mua bán hàng hoá không?
Phân tích:
- Chủ thể: Hiền Hồ (cá nhân) - FLD: doanh nghiệp
- Mục đích của các bên: nhằm sinh lời
- Đây là một hình thức của mua bán tài sản mà quyển sở hữu
được định lượng bằng “tiền”,
-
=> Không, vì theo quy định của BLDS 2015 thì tài sản bao gồm bất động
sản, động sản và giấy tờ có giá. Mặc dù hợp đồng mua bán hàng hoá là cổ
phiếu thỏa mãn hầu hết các đặc trưng của của hợp đồng mua bán hàng hoá
trong luật thương mại nhưng đây là giấy tờ có giá và thuộc phạm vi giao
kết hợp đồng giao dịch chứng khoán được điều chỉnh bởi luật chứng khoán.
Do đối tượng trong mua bán hàng hoá ở đây là chứng khoán. Theo đó,
Luật Chứng khoán 2006 sửa đổi quy định cụ thể về các loại hợp đồng của
chứng khoán. ( bao gồm cả quyền mua cổ phần, chứng quyền...)
2.1.2 Luật dân sự.
Hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp
đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, mua bán hàng hoá trong thương mại có
phạm vi điều chỉnh hẹp hơn,chi tiết hơn so với hợp đồng mua bán tài sản.
Điều này thường dễ gây nhầm lẫn trong các tình huống thực tiễn nếu như
không nắm rõ các đặc điểm trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá.
a) Giống
- Đều là giao dịch dân sự.
- Hướng tới lợi ích chung, hợp pháp của các bên
- Có thể giao kết bằng miệng,bằng văn bản, bằng phương thức điện tử.
b) Khác
- Chủ thể giao kết hợp đồng:
+ Hợp đồng dân sự: ở phạm vi rộng hơn ( cá nhân, tổ chức có
hoặc không có tư cách pháp nhân)
+ Hợp đồng thương mại: cá nhân hoặc tổ chức có tư cách pháp
nhân, có đăng ký kinh doanh hoặc người đại diện hợp pháp=>
không đáp ứng thì sẽ vô hiệu. Do mục đích của mua bán là
sinh lời.
- Mục đích:
+ Dân sự: thiết lập với mục đích thỏa thuận các giao dịch dân sự.
+ Mua bán hàng hoá lại nhằm mục đích sinh lời.
- Giải quyết tranh chấp:
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá: các bên có thể thỏa thuận với
nhau để giải quyết hoặc giải quyết tại tòa án hoặc trung tâm
trọng tài thương mại ( nếu không thể tự thoả thuận)
+ Hợp đồng dân sự: chỉ có thể giải quyết tại tòa án.
- Nghĩa vụ:
+ Quyền - nghĩa vụ có thể chỉ phát sinh từ một bên: ví dụ: hợp
đồng cho nhận chiếc xe.
+ Quyền - nghĩa vụ ở cả hai bên: Mua hàng=> bên mua có nghĩa
vụ trả tiền; bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng như thỏa thuận.
Câu hỏi: Phan Công Khanh ký hợp đồng mua chiếc xe máy Vespa phiên
bản Vespa từ hãng với giá 700 triệu đồng. Chiếc xe là đối tượng hàng hóa
và được Công Khanh mua về vừa sử dụng vừa để trưng tại cửa hàng để thu
hút khách ghé chiêm ngưỡng và mua siêu xe. Hợp đồng mua bán chiếc xe
Vespa của Phan Công Khanh là hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp đồng
tài sản?
=> Hợp đồng mua bán hàng hoá vì mục đích là để sinh lợi bằng cách thu
hút mua khách mua siêu xe.
2.1.3 Hợp đồng mua bán hàng hoá trên văn bản và trong kinh doanh,
thương mại thông qua mạng xã hội.
Mạng xã hội được ứng dụng ngày càng nhiều trong đời sống, bao
gồm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh,
thương mại. Tuy nhiên, khung pháp luật điều chỉnh hình thức hợp
đồng trong giao kết hợp đồng thông qua mạng xã hội chưa hoàn
chỉnh. Đây là bất cập cần phải hoàn thiện như ban hành văn bản
pháp luật có giá trị cao hơn điều chỉnh thành lập, tổ chức và hoạt
động của mạng xã hội, tăng cường vai trò, trách nhiệm của doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội và các quy định của pháp luật
Đặc biệt, với sự phát triển vượt trội của sàn điện tử thương mại
hiện nay như Shopee, lazada, tiki,... thì mua bán hàng hoá đều thể
- Hợp đồng mua bán xác lập theo hình thức lời nói:
Giả sử chúng ta đồng ý với quan điểm thỏa thuận hợp đồng qua
mạng xã hội là hợp đồng bằng lời nói. Sau khi thỏa thuận các nội
dung cơ bản của hợp đồng, bên sau cùng trả lời là “ok” hoặc trả lời
bằng biểu tượng “Like” (thích: ) và sẽ không có bất cập gì nếu hợp
đồng thực hiện và không có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra. Nhưng
ngược lại, mặc dù bên sau cùng trả lời là “ok” hoặc trả lời bằng
biểu tượng “Like” nhưng có tranh chấp và họ lập luận tin nhắn
“OK”, nút “Like” chỉ có nghĩa đã nhận được những nội dung cơ
bản của hợp đồng mà chưa phản ánh là đồng ý hoàn toàn hay
chưa. Tin nhắn “OK”, nút “Like” hoàn toàn khác với tin nhắn “Tôi
đồng ý”.
- Trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh, thương
mại thông qua mạng xã hội được coi là hình thức văn bản.
Pháp luật hiện hành không quy định hợp đồng mua bán hàng
hóa trong kinh doanh, thương mại thông qua mạng xã hội là hình thức
văn bản. Tuy nhiên, chúng ta có thể xem xét những tình huống như sau:
Tình huống 1: mạng xã hội là phương tiện chuyển tải thông tin hình ảnh
văn bản hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh, thương mại.
Một bên (tạm gọi là bên A) ký hợp đồng (bằng chữ ký sống) và chụp hình
bản hợp đồng gửi cho bên còn lại (tạm gọi là bên B). Bên B nhận hình
ảnh hợp đồng thông qua mạng xã hội, in hợp đồng, ký hợp đồng (bằng
chữ ký sống) và chụp lại hợp đồng, gửi lại cho bên A bằng mạng xã hội.
Khi tin nhắn hình ảnh hợp đồng đến tài khoản mạng xã hội của bên A,
thông tin hiển thị “đã xem”, hoặc được bên A trả lời bằng biểu tượng
“Like” hoặc “OK”. Trong trường hợp này, hợp đồng mua bán hàng hóa
trong kinh doanh, thương mại có hiệu lực từ thời điểm bên B ký (bằng
chữ ký sống), khi tài khoản mạng xã hội của bên A hiển thị “đã xem”, khi
bên B nhận được biểu tượng “Like” hoặc “OK” hay có hiệu lực tại thời
điểm bên A phải trả lời cụ thể “đã nhận được hợp đồng”.
Tình huống 2: mạng xã hội là phương tiện chuyển tải tệp (file) (định
dạng word hoặc pdf hoặc một định dạng khác do các bên thỏa thuận)
hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh, thương mại có chèn
Bên A ký hợp đồng, chèn chữ ký hình ảnh và gửi cho bên B. Bên B nhận
hợp đồng, chèn chữ ký hình ảnh và gửi lại cho bên A. Trong tình huống
này, có hai vấn đề đặt ra: một là, chữ ký hình ảnh trong file và thông tin
tài khoản mạng xã hội có đáng tin cậy và được các bên chấp thuận làm
bằng trong trường hợp tranh chấp hợp đồng xảy ra; và hai là, hợp đồng
có hiệu lực kể từ thời điểm bên B nhận hợp đồng, chèn chữ ký hình ảnh
và gửi cho bên A hay thời điểm bên A nhận được thông tin hình ảnh file
hợp đồng.
Theo quy định hiện hành, hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định
khác[22]. Với quy định này, pháp luật thừa nhận đồng thời hai loại thời
điểm khác nhau: thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa dự liệu được thời điểm giao kết và
thời điểm có hiệu lực trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa
trong kinh doanh, thương mại được giao kết qua mạng xã hội.