You are on page 1of 2

Hofstede

- Chỉ số khoảng cách quyền lực (PDI):


- Individualism vs Collectivism: Chỉ số này thể hiện “mức độ hòa nhập của
cá nhân với tập thể và cộng đồng”. Một xã hội có tính cá nhân cao thường có
mức độ ràng buộc khá lỏng lẻo và một cá nhân có xu hướng chỉ gắn kết với
gia đình của mình. Họ chú trọng đến chủ thể “tôi” hơn là “chúng tôi”. Trong khi
đó, chủ nghĩa tập thể, thể hiện một xã hội với các mối quan hệ hòa nhập chặt
chẽ giữa gia đình và những thể chế, hội nhóm khác. Những thành viên trong
nhóm có sự trung thành tuyệt đối và luôn hỗ trợ những thành viên khác trong
mỗi tranh chấp với các nhóm, hội khác.
- Chỉ số phòng tránh rủi ro - Uncertainty Avoidance (high/low): được định
nghĩa như “mức độ chấp nhận của xã hội với sự mơ hồ”. Chỉ số UAI cao cho
thấy mức độ gắn kết của thành viên trong cộng động đó với các quy chuẩn
hành vi, luật lệ, văn bản hướng dẫn và thường tin tưởng sự thật tuyệt đối hay
một sự “đúng đắn” chung trong mọi khía cạnh mà tất cả mọi người đều nhận
thức được. Trong khi đó, chỉ số UAI thấp cho thất sự cởi mở và chấp nhân
những ý kiến trái chiều và gây tranh cãi. Xã hội có UAI thấp thường mang tính
ít quy định, quy chế mà họ có xu hướng để mọi thứ được tự do phát triển và
chấp nhận rủi ro.
- Nam tính (Masculinity) vs Nữ tính (Femininity): ở khía cạnh này,
Masculinity là “sự ưu tiên của xã hội cho thành quả, phần thưởng vật chất và
định nghĩa thành công dựa trên những thành quả vật chất mà cá nhân đạt
được”. Ngược lại, Femininity ám chỉ sự coi trọng tính cộng tác, khiêm tốn,
quan tâm đến những cá nhân khó khăn cũng như chất lượng cuộc sống. Phụ
nữ trong xã hội được tôn trọng và thể hiện những giá trị khác nhau. Trong xã
hội ấy, họ chia sẻ sự khiêm tốn và quan tâm đến sự bình đẳng giới. Trong khi
đó, xã hội trọng nam quyền, phụ nữ dù có được chú trọng và cạnh tranh
nhưng thường vẫn bị kém coi trọng hơn so với nam giới. Nói theo cách khác,
họ cũng nhận ra khoảng cách giữa những giá trị về nam giới và nữ giới. Khía
cạnh này chính là sự cấm kỵ trong những xã hội trọng nam quyền.
- Long-Term Orientation vs Short-Term Orientation: khía cạnh này miêu tả
sự kết nối giữa quá khứ với hiện tại và các hành động/ khó khắn trong tương
lai. Khi chỉ số LTO thấp, nó biểu thị định hướng ngắn hạn của một xã hội khi
mà những truyền thống được trân trọng gìn giữ và sự kiên định được đánh
giá cao. Trong khi đó, xã hội có chỉ số LTO cao thường chú trọng vào quá
trình dài hạn, quan tâm đến sự thích ứng và thực dụng khi giải quyết vấn đề.
Một nước nghèo, nếu giữ định hướng ngắn hạn sẽ khó trong việc phát triển
kinh tế. Trong khi đó nước có định hướng dài hạn thường thuận lợi hơn trong
việc phát triển.
- Tự Thỏa Mãn (Indulgence) vs Tự Kiềm Chế (Restraint ): khái niệm này
chính là thước độ mức độ hạnh phúc, liệu có hay không sự tự thỏa mãn
những niềm vui đơn giản. Tự thỏa mãn (Indulgence) - strong desire, weak
control: được định nghĩa như “sự cho phép của xã hội trong việc tự thỏa
mãn một cách tự do các nhu cầu cơ bản và tự nhiên của con người, ví dụ
như hưởng thụ cuộc sống”. Trong khi khái niệm “tự kiềm chế” lại thể hiện
“sự kiểm soát của xã hội, bởi những định kiến, chuẩn mực nghiêm ngặt, trong
việc hưởng thụ của cá nhân”. Một xã hội cho phép hưởng thụ thường tạo
niềm tin cho cá nhân rằng chính họ, quản lý cuộc sống và cảm xúc của mình,
trong khi đó xã hội đề cao tính kiềm chế tin rằng có những yếu tố khác, ngoài
bản thân họ, điều khiển cuộc sống và cảm xúc của chính họ.

You might also like