You are on page 1of 51

1

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghiên cứu khoa học là một lĩnh vực quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII của Đảng đã chỉ rõ: cùng với giáo dục, đào tạo, khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế x ã hội; là điều kiện cần
thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng x ã
hội chủ nghĩa, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
và sự nghiệp "xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại"
đòi hỏi càng phải coi trọng hoạt động nghiên cứu khoa học.
Để hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả cao, trong quá trình giáo dục, đào tạo, đặc
biệt là đào tạo bậc đại học và sau đại học ở các học viện, Nhà trường trong và ngoài quân đội phải
hết sức chú trọng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Trường sĩ quan Lục quân II là một trung tâm lớn, đào tạo sĩ quan cấp phân đội của quân đội.
Những năm qua Nhà trường đã có nhiều đổi mới trong giáo dục, đào tạo, đã chú trọng hơn đến
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Chính vì vậy đã đào tạo được một đội ngũ
sỹ quan sau khi tốt nghiệp ra trường có tri thức vừa toàn diện vừa chuyên sâu chuyên ngành quân
sự, biết vận dụng tri thức vào phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trong
quá trình quản lý, chỉ huy, giáo dục, huấn luyện đơn vị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu
của quân đội, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tuy nhiên, việc phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên còn bộc lộ không ít
những hạn chế, thiếu sót cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện. Một số cán bộ, giảng viên, c ơ
quan quản lý giáo dục, đào tạo chưa thật sự coi trọng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho
học viên, coi đó là nhiệm vụ của các bậc học cao hơn. Công tác bảo đảm cơ sở vật chất, tài liệu
cho học tập và nghiên cứu còn hạn chế; chưa tạo được môi trường thuận lợi cho phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học của người học. Đối với học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay, nhận thức về phát triển năng lực nghiên cứu khoa học trong quá trình học tập
ở trường chưa đầy đủ, còn có biểu hiện cho rằng nghiên cứu khoa học chỉ là công việc của các
nhà khoa học: các tiến sỹ, thạc sỹ, các giảng viên. Vì vậy dẫn đến tư tưởng tự ti, thiếu tích cực,
chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu, chưa chú trọng rèn luyện phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học. Do đó một số học viên sau khi tốt nghiệp ra trường chưa phát triển kịp với yêu cầu
nhiệm vụ mới của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội.
Từ đó, việc nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn và đề ra những giải
pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay dưới góc độ triết học là vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách vừa có ý nghĩa cơ
bản lâu dài. Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề "Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay" làm đề tài luận văn.
2

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề xây dựng và phát huy nguồn lực con người, phát triển toàn diện năng lực con người,
trong đó có phát triển năng lực nghiên cứu khoa học luôn là một đề tài thu hút sự quan tâm, nghiên
cứu của nhiều nhà khoa học.
Liên quan đến vai trò của nguồn lực con người và vai trò của nghiên cứu khoa học đối với
sự phát triển xã hội có các công trình như: "Con người và nguồn lực con người trong phát triển",
Viện Thông tin Khoa học Xã hội [29]; "Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên
cứu khoa học xã hội nhân văn" tập thể tác giả, Học viện Chính trị quân sự [11]; Lê Hữu Nghĩa, "Tư
duy khoa học trong giai đoạn cách mạng khoa học công nghệ" [20].
Liên quan đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học có các công trình như: Phạm Thị
Ngọc Trầm "Trí tuệ, nguồn lực vô tận của sự phát triển"[25]; Nguyễn Văn Tài "Tích cực hoá nhân
tố con người của đội ngũ sỹ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay"[24]; Lê
Quang "Vấn đề nắm vững phương pháp khoa học trong cách tiếp cận các vấn đề xã hội "[23]; Lê
Quý Trịnh "Phát triển năng lực trí tuệ của sỹ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay"[27 ].
Các công trình trên cũng đã tập trung làm rõ thực chất, vai trò và các giải pháp phát huy,
phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và xây dựng quân đội trong
thời kỳ mới. Song do mục đích, phạm vi nghiên cứu, các tác giả của các công trình trên chưa đặt
ra nghiên cứu vấn đề phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay. Vì vậy, "Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay" là vấn đề mới và bức thiết.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

- Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ bản chất và một số vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II.
+ Đánh giá thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
+ Đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nghị quyết của Đảng, Đảng
uỷ Quân sự Trung ương về giáo dục, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
3

- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện
nay.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn là sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp hệ thống - cấu trúc, điều tra
xã hội học, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá và phương pháp chuyên gia.

5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, từ đó góp phần
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục
quân II hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, trong nghiên cứu và vận dụng vào công tác
giáo dục, đào tạo của Nhà trường.

6. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm: Mở đầu, hai chương (bốn tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục.
Chương 1

BẢN CHẤT PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO BẬC
ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN II

1.1. Khái niệm và vai trò phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II

1.1.1. Khái niệm phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc
đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
* Nghiên cứu khoa học và năng lực nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người nhằm thoả m ãn nhu cầu nhận
thức và cải tạo thế giới. Nghiên cứu khoa học có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của
xã hội loài người; giúp con người nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn bản chất các sự vật,
hiện tượng trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Đồng thời thông qua hoạt động đó, làm cho tư
duy của con người ngày càng phát triển.
Là một bộ phận của hoạt động trí tuệ, nghiên cứu khoa học đã thu hút được sự quan tâm
của đông đảo các nhà nghiên cứu. Trong tác phẩm "Bàn về tâm hồn", Arixtốt đã đưa ra kiến giải
của mình về trí tuệ. Theo ông, tâm hồn cảm giác (ước muốn) và tâm hồn suy nghĩ (trí tuệ) là hai
chức năng của tâm hồn đưa tới hành động và chúng có chức năng khác nhau. Trong đó tâm hồn suy
nghĩ có chức năng lý giải, lập luận, biểu tượng, tưởng tượng (đó cũng là những thao tác của
nghiên cứu khoa học). Ông nhấn mạnh vai trò của tâm hồn suy nghĩ đối với thực hiện mong muốn
4

của con người. Tuy có ước muốn, mong mỏi, nhưng con người làm chủ bản thân là người không
làm theo ước muốn mà lại tuân theo trí tuệ, sự hiểu biết của mình [10, tr. 12].
Tuy nhiên, chỉ đến khi học thuyết Mác - Lênin ra đời, với việc đưa khái niệm thực tiễn vào
lý luận nhận thức và thừa nhận khả năng vô tận của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới,
mới đưa lại cái nhìn đúng đắn và toàn diện về nghiên cứu khoa học và vai trò của nó trong đời
sống xã hội.
Trong tác phẩm "Bút ký triết học", V. I. Lênin viết: "Thế giới không thoả mãn con người và
con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình"[12, tr. 229]. Trong tác phẩm
"Luận cương về Phoiơbắc", C. Mác đã khẳng định: "Đời sống xã hội về thực chất là có tính thực
tiễn"[15, tr. 11]. Chính thông qua thực tiễn mà con người đã "nhân đôi" thế giới trong hiện thực và
cũng nhân đôi chính mình trong thế giới tinh thần. Nhờ có thực tiễn mà tri thức của con người
không ngừng phát triển, không có cái gì trong thế giới mà con người không biết, chỉ có những cái
con người chưa biết mà thôi. Như vậy, hoạt động thực tiễn, trong đó có nghiên cứu khoa học, là
con đường phát triển vô tận của nhận thức con người.
Khoa học, trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Khoa học với tư cách là một danh từ, dùng để
chỉ một hệ thống tri thức phản ánh đúng đắn quy luật tự nhiên, x ã hội và tư duy của con người,
giúp con người có khả năng vận dụng để cải tạo hiện thực. Với tư cách là một tính từ, khoa học
chỉ tính chất nhận thức và hành động của con người phù hợp với những đ òi hỏi của khoa học
(khách quan, chính xác, có hệ thống...) để nhận thức và hành động của họ phù hợp với chân lý
khách quan, với thực tiễn cuộc sống, có khả năng cải tạo hiện thực hiệu quả nhất.
Nghiên cứu, được hiểu là "xem xét, tìm hiểu kỹ lưỡng để nắm vững vấn đề, giải quyết vấn
đề hay rút ra những hiểu biết mới" [29, tr. 658]. Với quan niệm như vậy, ta thấy, nghiên cứu khoa
học là lĩnh vực lao động nhằm sáng tạo ra tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó là quá
trình các nhà khoa học, cơ quan khoa học, với những tri thức, năng lực, trình độ và kinh nghiệm
của họ, với sự phân công và hợp tác lao động khoa học, những trang bị thực nghiệm, thí nghiệm,
phương pháp... nhằm tạo ra hệ thống tri thức mới phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người. Bản chất nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người.
Nghiên cứu khoa học là một quá trình diễn ra phức tạp, không ngừng giải quyết những mâu
thuẫn của sự tìm tòi, phát hiện những tri thức mới, khám phá những nguyên lý, quy luật, con
đường mới mẻ của sự phát triển. Quá trình đó luôn xuất hiện những giả thuyết, những ý tưởng,
những xu hướng, dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thành công của nghiên cứu khoa
học là ở chỗ tìm ra tri thức mới phù hợp với sự phát triển của hiện thực, đem lại lợi ích cho con
người.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của con người. Kết quả đạt được của hoạt động
nghiên cứu khoa học phụ thuộc chủ yếu vào năng lực nghiên cứu của con người. Năng lực nghiên
cứu khoa học tồn tại dưới hai dạng: dạng tiềm năng và dạng năng lực hiện hữu. Dạng tiềm năng là
nguồn vô tận của con người chưa được đánh thức, còn dạng năng lực hiện hữu là khả năng hiện
có của con người để tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả.
5

Bàn về năng lực lao động của con người, C. Mác viết: "Chúng tôi hiểu sức lao động hay
năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một
con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng
nào đó"[17, tr. 251]. Tư tưởng trên của C. Mác là cơ sở phương pháp luận cho việc nhận thức
đúng đắn về bản chất của năng lực và năng lực nghiên cứu khoa học của mỗi con người.
Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt, là: "Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có
để thực hiện một hoạt động nào đó"; "là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng
hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao"[2, tr. 639]. Năng lực con người là sản phẩm
của sự phát triển xã hội... vì vậy nó không những do hoạt động của bộ não người, mà còn do trình
độ phát triển lịch sử xã hội quy định. Theo ý nghĩa đó, năng lực nói chung và năng lực nghiên cứu
khoa học nói riêng của con người luôn gắn liền và không tách rời với tổ chức lao động xã hội cùng
với hệ thống giáo dục tương ứng với tổ chức đó. Năng lực nghiên cứu khoa học là khả năng và
điều kiện bên trong của con người để họ tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả.
Năng lực nghiên cứu khoa học là kết quả của sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, như trình độ
tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người.
Từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Năng lực nghiên cứu khoa học là khả
năng về trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con người được sử
dụng trong việc phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, nhằm
nâng cao nhận thức và hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người .
Các yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học là một thể thống nhất, tác động biện chứng lẫn
nhau, song mỗi yếu tố có cấu trúc, vị trí vai trò riêng của nó.
Khả năng về trình độ tri thức là yếu tố cơ bản của năng lực nghiên cứu khoa học, nó phản
ánh sự hiểu biết của mỗi người về thế giới khách quan và về chính bản thân m ình, là lượng thông
tin mà mỗi người lĩnh hội được trong quá trình học tập và tham gia các hoạt động. Thông thường
tri thức được phân loại theo cấp độ hoặc lĩnh vực nó khái quát. Xét ở phạm vi bao quát thì có tri
thức về tự nhiên, về xã hội và về con người. Xét về trình độ khái quát, có tri thức cảm tính và tri
thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học. C ăn
cứ vào hoạt động sống của con người, có các dạng tri thức cơ bản sau: tri thức thực tiễn, tri thức
lý luận khoa học và tri thức nghề nghiệp.
Tri thức thực tiễn là những hiểu biết được hình thành trực tiếp trong thực tiễn cuộc sống, lao
động, đấu tranh và trải nghiệm xã hội của con người. Chính qua những hoạt động thực tiễn ấy làm
cho con người hiểu sâu sắc hơn về thế giới, là cơ sở làm nảy sinh những sáng kiến và khởi nguồn của
sự sáng tạo
Tri thức lý luận khoa học là "sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri
thức về tự nhiên, xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử"[19, tr. 497]. Đó là hệ thống những tri
thức sâu sắc của con người về bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, x ã hội
và tư duy, là cơ sở để con người nghiên cứu, khám phá những tri thức mới.
6

Tri thức nghề nghiệp là những hiểu biết, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn của mình, là cơ sở quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động và lao động sáng tạo của con người.
Sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cơ bản trên đây tạo thành khả năng về trình độ tri thức
của con người. Tuy nhiên, trong năng lực nghiên cứu khoa học, tri thức lý luận khoa học giữ vai trò
quan trọng nhất, bởi lẽ, sẽ không có khoa học nếu không nhận thức được quy luật khách quan của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Chủ nghĩa Mác cho rằng, khoa học là kẻ thù của ngẫu nhiên. Chỉ có căn
cứ vào những quy luật và những quan hệ tất nhiên của hiện thực mới có thể nghiên cứu và nhận
thức được hiện thực một cách khách quan, khoa học. Tri thức về một số ngẫu nhiên chưa thể coi
là khoa học, vì không phải những hiện tượng ngẫu nhiên quyết định mà chính những quy luật
khách quan quyết định sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phủ nhận quy luật khách quan
là đi đến phủ nhận những tri thức khoa học. Nhiệm vụ của khoa học là thông qua những hiện
tượng ngẫu nhiên mà phát hiện những cái tất nhiên và những quy luật khách quan nhằm trang bị
cho con người tri thức để họ sử dụng trong hoạt động thực tiễn. Sự phát triển của khoa học luôn
gắn liền với sự phát triển chung của xã hội, từ đó thúc đẩy con người ngày càng nhận thức sâu
sắc và chính xác hơn về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Sẽ không có khoa học và nghiên
cứu khoa học nếu không có tri thức khoa học. Nói như vậy không phải phủ nhận vai trò của tri thức
thực tiễn và tri thức nghề nghiệp trong nghiên cứu khoa học mà ngược lại, chính các yếu tố đó góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tri thức là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức, đồng thời là cơ sở, điều kiện để con
người nghiên cứu, sáng tạo ra tri thức mới. Bêcơn - người sáng lập Triết học duy vật Anh đã từng
nói: "Con người cần phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó thực hiện được hay không
tất cả phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người"[25, tr. 30].
Khả năng phương pháp tư duy là khả năng về cách thức nhận thức thế giới của con người,
là con đường, biện pháp để tiếp cận, lĩnh hội tri thức và sáng tạo tri thức mới. Các thao tác tư duy
dựa trên cơ sở quy luật của hoạt động nhận thức, bao gồm các phương pháp cụ thể như so sánh,
phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá.v.v.
Khả năng phương pháp tư duy đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và
nghiên cứu khoa học. Nhờ nó mà con người có thể "bóc tách" các mặt, các bộ phận của sự vật,
hiện tượng để đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu bản chất, đồng thời, tái tạo nó, khái quát hoá, trừu
tượng hoá nó với tư cách là cái cụ thể trong tư duy.
Khả năng phương pháp tư duy là sản phẩm nhận thức của con người về quy luật của tư
duy, nhưng khi được con người tiếp thu và sử dụng một cách tự giác nó lại trở thành cơ sở bên
trong quyết định đến hiệu quả của hoạt động nhận thức và là cơ sở để xây dựng, phát triển tri thức
mới. Tuy nhiên, mỗi một lĩnh vực nghiên cứu khoa học cụ thể, đòi hỏi phải có một phương pháp tư
duy phù hợp. Xây dựng được phương pháp tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo là cơ sở bảo đảm
cho hoạt động nghiên cứu khoa học đạt kết quả cao. Vì vậy, trong quá trình giáo dục, chủ thể giáo
7

dục không những quan tâm trang bị tri thức cho người học mà còn hết sức coi trọng giáo dục
phương pháp, đặc biệt là phương pháp tư duy.
Lịch sử xã hội loài người đã từng xuất hiện và tồn tại nhiều phương pháp tư duy. Mỗi
phương pháp tư duy đều có vị trí vai trò khác nhau. Khả năng phương pháp tư duy của mỗi người,
mỗi thời đại có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả phát triển nhận thức của họ. Thực tiễn đ ã chứng
minh rằng sự phát triển phương pháp tư duy của mỗi thời đại đã mang lại những thành tựu nghiên
cứu khoa học trong những lĩnh vực nhất định.
Đỉnh cao của phương pháp tư duy khoa học là phương pháp tư duy biện chứng duy vật.
Theo Ph. Ăngghen, đó là phương pháp "xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự
phát triển và sự tiêu vong của chúng"[1, tr. 38]. Nhờ đó, con người có khả năng đi sâu nắm bắt bản
chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; đồng thời, dự báo xu hướng biến đổi
và xác định những biện pháp nhằm cải tạo hiện thực.
Trong lĩnh vực quân sự, khả năng phương pháp tư duy của người cán bộ chỉ huy có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở để người chỉ huy phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình, bao
quát cục diện chiến trường và đề xuất những giải pháp phù hợp giành thắng lợi cho trận đánh.
M. V. Phrunde - nhà hoạt động cách mạng, nhà lý luận quân sự nổi tiếng của giai cấp vô sản
Nga đã nói: "Người chỉ huy Hồng quân phải học tập để hoàn toàn nắm vững được phương pháp
tư duy và nghệ thuật phân tích các hiện tượng mà học thuyết Mác đã dạy cho chúng ta. Thực chất
của phương pháp tư duy đó là chúng ta không thể coi cái gì là tuyệt đối và cứng nhắc được. Mọi
cái đều chuyển biến và thay đổi, và bất cứ một phương tiện, một phương pháp nào cũng chỉ được
sử dụng trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Nghệ thuật của người chỉ huy là ở chỗ trong nhiều
phương tiện mà mình có, phải biết cách lựa chọn được phương tiện nào đó có thể đem lại những
kết quả tốt đẹp nhất trong hoàn cảnh và thời gian đó"[22, tr. 89].
Khả năng phương pháp tư duy đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu khoa học,
nó vừa là kết quả của sự phát triển tri thức, đồng thời là cơ sở cho khả năng sáng tạo của con
người. Thiếu nó, hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ không mang lại hiệu quả tích cực và không thúc
đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Khả năng sáng tạo thực chất là khả năng phát hiện và giải quyết đúng đắn, linh hoạt những
vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nó là đặc trưng bản chất nhất của năng lực nghiên cứu khoa học.
Nói một cách khác, đó là khả năng phát hiện những tri thức mới, là quá trình phủ định biện chứng
của tri thức, làm cho nhận thức của con người ngày càng phong phú, sâu sắc, đầy đủ hơn về sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Khả năng sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự vận động biện chứng giữa tri thức sâu rộng và
phương pháp tư duy khoa học. Nó là một tập hợp các phẩm chất tâm l ý, tư duy phức tạp trong đó
bao gồm: tư chất năng khiếu, tính độc lập, năng động, trí tưởng tượng, trực giác, phán đoán của
tư duy, v.v..
8

Tư chất năng khiếu là những tiềm năng được phát triển, di truyền và bẩm sinh, phản ánh
mức độ huy động các tế bào thần kinh tham gia vào các hoạt động; quy định thiên hướng, lĩnh vực
sáng tạo của mỗi cá nhân. Tư chất năng khiếu có vai trò quan trọng trong hoạt động sáng tạo của
con người, chi phối đến quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mỗi người. Tuy
nhiên, tư chất năng khiếu chỉ có thể phát huy, phát triển trên cơ sở sự hiểu biết, lòng say mê, hứng
thú, mục đích sống và hành động của mỗi con người. Nó là cơ sở bảo đảm cho sự sáng tạo đúng
đắn, hợp quy luật.
Tính độc lập và năng động của tư duy là những phẩm chất quan trọng của khả năng sáng
tạo, nó đưa lại cho con người khả năng xem xét, giải quyết vấn đề một cách tự lực, tích cực, chủ
động, có cân nhắc chọn lọc. Trong lĩnh vực quân sự, tính độc lập, sáng tạo của tư duy giúp cho
người chỉ huy quyết đoán, linh hoạt, sáng tạo trong xử trí các tình huống chiến đấu, vừa giữ được
yếu tố bí mật về lực lượng và ý định chiến đấu của ta, vừa nghi binh, lừa địch và đưa ra những
quyết định táo bạo bất ngờ giành thắng lợi cho trận đánh.
Ngoài những yếu tố trên, khả năng sáng tạo còn phụ thuộc vào trí tưởng tượng, trực giác,
phán đoán của các nhà khoa học. Đây là những yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động sáng
tạo. L. Đ. Bơrơi đã nhận xét: "cơ sở của tất cả các thành tựu khoa học đích thực là tưởng tượng
sáng tạo và trực giác của nhà khoa học"[25, tr. 30].
Khả năng sáng tạo phản ánh bản chất của năng lực nghiên cứu khoa học, là hệ quả tất yếu
của quá trình phát triển trình độ tri thức và phương pháp tư duy. Đồng thời, khả năng sáng tạo góp
phần tác động thúc đẩy sự phát triển của trình độ tri thức và phương pháp tư duy của con người.
Sự tác động biện chứng của các yếu tố đó làm cho nhận thức con người ngày càng phát
triển. Con người ngày càng khám phá, hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn về tự nhiên, x ã hội và chính
bản thân mình, làm cho hoạt động thực tiễn của con người ngày càng có hiệu quả cao hơn.
Như vậy, bản chất năng lực nghiên cứu khoa học là khả năng sáng tạo của con người. Sự
phát triển của năng lực nghiên cứu khoa học kết quả của sự phát triển khả năng trình độ tri thức,
phương pháp tư duy và khả năng tìm tòi sáng tạo của mỗi con người.
* Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học.
Phát triển, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là quá trình vận động từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Theo đó, có thể hiểu phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là quá trình không ngừng
vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của
con người nhằm phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh.
Dấu hiệu đặc trưng cơ bản xác định sự phát triển của năng lực nghiên cứu khoa học là ở
tính quy định mới cao hơn về chất của cả khả năng trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả
năng sáng tạo, đặc biệt là khả năng sáng tạo ra hệ thống tri thức mới.
Để xem xét, đánh giá sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của một đối tượng cụ thể
cần phải nắm được thực trạng ban đầu của nó, lấy đó làm cơ sở để tiến hành so sánh và đánh giá
sự phát triển về chất của cái mới. Trên cơ sở thực trạng ban đầu ấy, cùng với đặc điểm, yêu cầu
9

của lĩnh vực hoạt động, yêu cầu cần đạt được của sự phát triển để làm rõ đặc trưng, làm rõ khái
niệm, xác định tiêu chí và đề ra giải pháp cụ thể phát triển các yếu tố cấu thành năng lực nghiên
cứu khoa học một cách hợp lý.
Đối với học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II, phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của họ nổi lên một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là phát triển năng lực nghiên cứu khoa học ở học viên đào tạo bậc đại học với
đối tượng "đầu vào" là những quân nhân và học sinh phổ thông đã trúng tuyển qua kỳ thi tuyển
sinh đại học quân sự. Họ là lực lượng trẻ, có tri thức cơ bản của bậc học phổ thông trung học, có
sức khoẻ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội. Tuyệt đại
đa số là con em của người lao động trực tiếp, có đức tính cần cù, chịu khó, có nguyện vọng tha
thiết được trở thành sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, có khả
năng tiếp thu nhanh tri thức khoa học, ham học hỏi, cầu tiến bộ. Đây là những đặc điểm thuận lợi
trong quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, ở họ còn không ít những hạn chế ảnh h ưởng không
nhỏ đến quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học, đó là: tính kiên trì trong học tập, rèn
luyện phát triển những phẩm chất của nghiên cứu khoa học chưa cao; khi gặp khó khăn thường
dễ bi quan, dao động. Trong khi đó mục tiêu yêu cầu đào tạo học viên sau khi tốt nghiệp ra trường
đảm nhiệm cương vị trung đội trưởng, phát triển lên cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn ở các đơn vị
phân đội binh chủng hợp thành. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên phải
phát triển đồng đều, toàn diện cả về khả năng trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng
sáng tạo. Tuy nhiên, khả năng sáng tạo ở đối tượng này chủ yếu là vận dụng tri thức vào giải
quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, chưa đòi hỏi nhiều ở sự sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ hai, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khoa học quân sự.
Hoạt động quân sự là một hoạt động đặc thù diễn ra trong mọi điều kiện không gian, thời gian,
địa hình, thời tiết. Đặc biệt là hoạt động chiến đấu, luôn diễn ra hết sức gay go, quyết liệt, phức
tạp và hết sức nhanh chóng, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của dân tộc, của chế độ chính trị
và sinh mệnh của mỗi con người; nó đòi hỏi sự nỗ lực lớn, quyết tâm cao của mỗi quân nhân và tổ
chức quân sự. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quân sự đòi hỏi học
viên phải có khả năng về trình độ tri thức khoa học quân sự sâu sắc, có phương pháp tư duy khoa
học, nhạy bén, kịp thời, chính xác, không cho phép chậm trễ; có khả năng vận dụng linh hoạt sáng
tạo tri thức vào giải quyết đúng đắn những tình huống diễn ra trong hoạt động quân sự.
Thứ ba, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hướng chủ yếu vào khoa học về quản lý, chỉ huy, lãnh đạo các đơn
vị phân đội binh chủng hợp thành.
Hoạt động quản lý, chỉ huy và lãnh đạo là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn
thành nhiệm vụ của đơn vị. Đối với đơn vị cấp phân đội binh chủng hợp thành, người chỉ huy là
người trực tiếp tổ chức chỉ huy, quản lý, giáo dục, huấn luyện bộ đội, quản lý cơ sở vật chất vũ khí
10

trang bị và tham gia vào quá trình lãnh đạo đơn vị thực hiện các nhiệm vụ. Đây là một hoạt động
mang tính tổng hợp cao. Đặc biệt trong hoạt động chiến đấu, người chỉ huy cấp phân đội binh
chủng hợp thành không những là người chỉ huy cao nhất đơn vị thuộc quyền mà còn là người chỉ
huy các lực lượng, đơn vị phối thuộc. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học quản lý, chỉ
huy, lãnh đạo đòi hỏi học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II phải phát triển tri
thức toàn diện; có hiểu biết sâu sắc về khoa học nghệ thuật quân sự, nắm chắc kỹ thuật, chiến
thuật; có trình độ tổ chức chỉ huy, quản lý giỏi cấp mình, thành thạo cấp dưới, biết cấp trên; có tri
thức khoa học xã hội nhân văn, tham gia có hiệu quả vào các quyết định của tập thể...; có phương
pháp tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo; có khả năng bao quát, phân tích, xem xét đánh giá vấn
đề nhanh chóng và chính xác; có khả năng vận dụng sáng tạo tri thức vào hoạt động chỉ huy, quản
lý, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Từ sự phân tích trên đây có thể hiểu, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II là quá tr ình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri
thức khoa học, nâng cao phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức khoa
học vào phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong quá trình học tập,
rèn luyện ở trường cũng như trên cương vị công tác sau này.
Đó là quá trình học viên không ngừng làm giàu trí tuệ và luyện cho bộ óc thông minh hơn,
hiểu biết hơn, nhạy bén, sáng tạo hơn để kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề
mới đặt ra trong quá trình học tập, rèn luyện ở trường và hoạt động quản lý, chỉ huy, lãnh đạo đơn
vị cấp phân đội binh chủng hợp thành sau này cũng như những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc
sống và quan hệ xã hội.
Một số tiêu chí cơ bản đánh giá phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II là một phạm trù bao gồm nhiều yếu tố tác động biện chứng lẫn nhau, vì vậy việc xác
định chính xác các tiêu chí là rất khó. Tuy nhiên về mặt nguyên tắc của nhận thức thì dù phức tạp đến
mấy cũng có thể lượng hoá được. Càng lượng hoá chính xác được bao nhiêu thì càng có ý nghĩa to
lớn trong việc xác định những biện pháp tác động có hiệu quả bấy nhiêu.
Thực tế cho thấy, có thể căn cứ vào các tiêu chí sau đây để đánh giá phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II.
Một là, có khả năng chuyển hoá nhận thức thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn, niềm
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam
xã hội chủ nghĩa
Hai là, có tri thức toàn diện, cả tri thức cơ sở, cơ bản, chuyên ngành, có khả năng phát hiện
những vấn đề thực tiễn mới nẩy sinh trong quá trình học tập, rèn luyện và công tác.
Ba là, có phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo trong tiếp thu, lĩnh hội tri thức khoa học và
khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức vào giải quyết những vấn đề l ý luận, thực tiễn quân
sự đặt ra.
11

Bốn là, kết quả học tập và tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học trong quá trình học
tập là thước đo sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II. Biểu hiện của sự phát triển đó là kết quả học tập của các môn học sau
cao hơn môn học trước, kỳ sau cao hơn kỳ trước. Tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học
của Nhà trường ngày càng nhiều hơn và có chất lượng cao hơn.
1.1.2. Vai trò phát triển năng lực nghiên cứu khoa học đối với nâng cao chất lượng
học tập rèn luyện của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
Chất lượng học tập, rèn luyện của học viên là kết quả của quá trình giáo dục, đào tạo; là sự
phản ánh mức độ phấn đấu và kết quả đạt được của học viên trong học tập, rèn luyện so với mục
tiêu, yêu cầu đào tạo đã được xác định. Đối với học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết 93 của Đảng uỷ quân sự Trung ương; Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII đã chỉ rõ: "Đào tạo đội ngũ sĩ quan có bản
lĩnh chính trị kiên định, vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; có
tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có phẩm chất đạo đức trong sáng,
lối sống mẫu mực, có trình độ kiến thức lý luận chính trị, quân sự, nắm vững và vận dụng sáng
tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chấp hành nghiêm mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, có hiểu biết về khoa học quân sự hiện đại và
truyền thống chiến đấu của dân tộc, của quân đội, có trình độ quản lý, chỉ huy, huấn luyện bộ đội,
quản lý vũ khí trang bị, kinh tế, tài chính, tài sản của đơn vị, có năng lực tiến hành công tác đảng,
công tác chính trị..."[6, tr. 17].
Thực chất nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện của học viên đào tao bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II là quá trình phát triển ở người học cả về trình độ tri thức, phẩm
chất, đạo đức cách mạng, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; cả năng
lực chỉ huy, quản lý và tổ chức thực hiện…; đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu, yêu cầu đào
tạo. Sự phát triển đó là kết quả tác động của nhiều yếu tố cả điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan. Đặc biệt trước yêu cầu của quá trình học tập có tính chất nghiên cứu, vai trò của
nhân tố chủ quan trong đó có năng lực nghiên cứu khoa học của học viên hết sức quan trọng.
Vai trò của phát triển năng lực nghiên cứu khoa học đối với nâng cao chất lượng học tập, rèn
luyện của học viên được thể hiện trên các mặt cơ bản dưới đây.
Thứ nhất, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học góp phần quan trọng, nâng cao phương
pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức và phát triên tri thức mới của học viên.
Phương pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức là cách thức, con đường tiếp cận, lĩnh hội tri thức. Có
phương pháp tốt sẽ bảo đảm cho quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức của học viên nhanh chóng và
vững chắc, biến tri thức của thầy, của sách vở thành tri thức của bản thân mình.
Với chất lượng "đầu vào" của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
hiện nay, việc phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là một cơ sở quan trọng bảo
đảm cho học viên xây dựng được phương pháp tiếp thu, lĩnh hội tri thức một cách khoa học, phù
12

hợp, tích cực, chủ động, sáng tạo, khắc phục lối học thuộc lòng, rập khuôn, máy móc. Trước
những vấn đề của nhận thức học viên không bị thụ động mà luôn tìm cách lập luận lý giải một cách
lôgíc chặt chẽ để nắm vững bản chất của vấn đề
Thực tiễn giảng dạy ở Trường sĩ quan Lục quân II cho thấy, những học viên có năng lực
nghiên cứu khoa học tốt, tham gia tích cực các hoạt động nghiên cứu khoa học, tích cực tranh
luận, trao đổi trong quá trình học tập, họ thường xây dựng được cho mình phương pháp tiếp thu,
lĩnh hội tri thức phù hợp với nội dung của các môn học, bảo đảm cho họ có khả năng nắm bắt tri
thức nhanh chóng và vững chắc. Sau mỗi bài giảng của giảng viên, học viên có khả năng khái
quát được nội dung, xác định những vấn đề cần tập trung nghiên cứu, bổ sung trong quá trình tự
học. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu, họ có khả năng khái quát nắm vững thực chất vấn đề, có
khả năng tái hiện và vận dụng phù hợp vào giải quyết các vấn đề trong học tập cũng như các hoạt
động khác. Đặc biệt những học viên có năng lực nghiên cứu khoa học tốt thường trong các bài thi,
kiểm tra hay trình bày một vấn đề nào đó, họ luôn định hình được cách sắp xếp, trình bày thứ tự
nội dung một cách lôgíc, chặt chẽ, mạch lạc, cân đối, xác định được vấn đề trọng tâm, trọng điểm,
những vấn đề cần thiết phải đầu tư thích đáng để làm rõ, ít bị trùng lắp hoặc bỏ sót nội dung trong
quá trình diễn đạt tri thức của mình. Đồng thời với năng lực nghiên cứu khoa học, học viên không
chỉ dừng lại ở việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức được trang bị mà tiếp tục nghiên cứu phát triển tri thức
mới, hiểu biết mới, làm cho nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Bảo đảm cho họ có
được một hệ thống tri thức "cơ bản, hệ thống, thống nhất chuyên sâu"
Thứ hai, phát triển năng lực nghiên cứu khoa hoc góp phần xây dựng thế giới quan khoa
học, nhân sinh quan quan cộng sản chủ nghĩa cho học viên
Thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa là những phẩm chất đặc biệt
quan trọng của người học viên, người sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Những phẩm
chất ấy được hình thành và phát triển thông qua nhận thức và rèn luyện của mỗi người. Tuy nhiên,
không một sách vở, tài liệu, bài giảng nào có thể trang bị hết tri thức cho học viên. Trong khi đó
cuộc sống luôn luôn vận động và phát triển, mỗi học viên luôn chịu sự tác động đan xen của nhiều
mối quan hệ, nhiều tình huống phức tạp. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến
phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống
phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, vì vậy bằng phương pháp tư duy khoa
học, bằng sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo tri thức đã được trang bị vào xem xét từng trường hợp
cụ thể, mới làm cho họ tự hiểu đúng bản chất vấn đề, mới củng cố niềm tin vững chắc của họ vào
Đảng, vào mục tiêu lý tưởng cách mạng, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Thứ ba, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao năng lực tổ chức thực
tiễn, thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình học tập, rèn luyện của học viên.
Tổ chức thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ là một tiêu chí quan trọng đánh giá kết quả học
tập, rèn luyện của học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường. Kết quả đạt được của
tổ chức hoạt động thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ của học viên không chỉ phụ thuộc vào trình độ tri
13

thức mà còn chịu sự chi phối rất lớn bởi khả năng, cách thức, biện pháp tổ chức thực hiện của họ.
Hay nói một cách khác, nó còn phụ thuộc vào khả năng bao quát công việc, khả năng xem xét,
đánh giá đúng đắn những thuận lợi, khó khăn, xu hướng vận động phát triển của nhiệm vụ; trên cơ
sở đó xác định yêu cầu, nội dung, biện pháp cụ thể trong quá trình tổ chức thực hiện. Đặc biệt
trong tổ chức thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thường nảy sinh những vấn đề mới, ngoài dự kiến,
trong những tình huống đó, kết quả thực hiện nhiệm vụ của học viên phụ thuộc chủ yếu vào khả
năng phán đoán, khả năng sáng tạo của họ trong nghiên cứu, xem xét nắm vững bản chất vấn đề,
xác định nhiệm vụ trọng tâm,, khâu đột phá và những giải pháp cụ thể trong tổ chức thực hiện.
Như vậy, có thể nói: thực chất tổ chức thực tiễn thực hiện nhiệm vụ trong quá trình học tập
là quá trình học viên vận dụng tri thức đã được lĩnh hội vào tổ chức thực hiện các nhiệm vụ. Năng lực tổ
chức thực tiễn, kết quả thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình học tập của học viên phụ thuộc vào trình
độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng vận dụng tri thức vào giải quyết từng nhiệm vụ cụ thể. Vì
vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên luôn là yếu tố quan trọng, nâng cao năng lực tổ
chức thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ của học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường.
Thứ tư, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là một yếu tố quan trọng, tạo thành động
lực bên trong kích thích tính tích cực, chủ động sáng tạo của học viên trong quá trình học tập rèn
luyện. Năng lực nghiên cứu khoa học càng phát triển, khả năng sáng tạo của học viên được nâng
lên, càng thôi thúc họ say mê tìm tòi, khám phá tri thức mới, tranh thủ thời gian học tập, rèn luyện
phát triển, hoàn thiện phẩm chất, năng lực của mình.
Bên cạnh những vai trò trên đây, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II còn có vai trò đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của
người chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành.
Học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II sẽ là những người chỉ huy cấp
phân đội binh chủng hợp thành sau khi tốt nghiệp ra trường. Đặc trưng cơ bản hoạt động của họ
vừa là người chỉ huy, quản lý bộ đội, quản lý cơ sở vật chất, vũ khí, trang bị (cả trong biên chế và
phối thuộc) vừa là người tổ chức giáo dục, huấn luyện, tổ chức chỉ huy chiến đấu và thực hiện các
nhiệm vụ khác của đơn vị. Những hoạt động đó đòi hỏi phải có trình độ khoa học. Người chỉ huy
phải có năng lực nghiên cứu khoa học mới có thể nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của
mình. Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; do yêu
cầu mới của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội; trước sự chống phá quyết liệt của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ; sự tác động của mặt trái cơ chế thị
trường, vì vậy, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên càng có ý nghĩa quan trọng.
Nó là một trong những cơ sở để người chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành nâng cao chất
lượng quản lý, giáo dục bộ đội, quản lý và sử dụng vũ khí trang bị; nâng cao chất lượng tổ chức huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; kịp thời phát hiện và làm vô hiệu hoá âm mưu, thủ đoạn chống
phá của kẻ thù, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó góp phần to lớn nâng cao
14

chất lượng học tập, rèn luyện của học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường
cũng như của người chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành sau khi tốt nghiệp.

1.2. Một số vấn đề có tính quy luật phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II

Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II là một quá trình vận động, phát triển các yếu tố bên trong của chính người học trên cơ
sở sự tác động của điều kiện khách quan trong quá trình dạy học như: mục tiêu, yêu cầu, nội
dung, chương trình, phương pháp giảng dạy của giảng viên, tổ chức quản lý giáo dục, đào tạo và
điều kiện vật chất bảo đảm cho quá trình dạy học. Người học - chủ thể của quá trình phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học phát huy nhân tố chủ quan, tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
nâng cao hiệu quả tác động của những điều kiện khách quan vào quá trình phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của mình. Đó chính là quá trình tác động biện chứng giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan của quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Quá trình tác động đó tạo ra những mối quan hệ tất yếu, ổn định, thường xuyên trong suốt quá
trình giáo dục - đào tạo, ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên.Trong đó một số vấn đề có tính quy luật sau đây.
1.2.1. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên
Bản chất của quá trình dạy học "là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu của người
học được tổ chức trong điều kiện sư phạm nhất định dưới sự chỉ đạo của người dạy"[9, tr. 66]. Đó
là quá trình tác động biện chứng giữa người dạy và người học nhằm để truyền thụ và lĩnh hội tri thức,
trong đó người học đóng vai trò lĩnh hội tri thức dưới sự truyền thụ, định hướng của người dạy. ở bất cứ
thời đại nào, ở bất cứ quốc gia nào và ở mọi cấp học người thầy luôn đóng vai trò quan trọng trong việc
truyền thụ tri thức cho người học.
Trong truyền thống dân tộc ta, vai trò của người thầy luôn được đề cao "Nhất tự vi sư, bán
tự vi sư", "nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý". Nghị quyết Trung ương
2 khoá VIII của Đảng đã khẳng định: "Nhà giáo là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, đào
tạo"[4, tr. 41]. Tuy nhiên, ở mỗi cấp học, bậc học khác nhau thì vai trò truyền thụ tri thức của người
thầy thông qua trực tiếp giảng dạy cũng khác nhau. ở bậc học càng thấp thì vai trò truyền thụ tri
thức trực tiếp càng lớn. Song ở bậc học càng cao (cao học, nghiên cứu sinh) thì vai trò ng ười thầy
lại chủ yếu truyền thụ tri thức về phương pháp và định hướng nghiên cứu.
ở Trường sĩ quan Lục quân II với đối tượng học viên đào tạo bậc đại học chủ yếu là thi
tuyển từ học sinh phổ thông và quân nhân có thời gian tại ngũ còn ít, trong khi đó nội dung huấn
luyện chủ yếu là quân sự, chiếm 60% toàn bộ nội dung chương trình học tập. Đây là những nội
dung mới so với đối tượng đào tạo. Vì vậy việc lĩnh hội tri thức của người học chủ yếu thông qua
giảng dạy của người thầy (đội ngũ giảng viên). Do đó chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên có ý
15

nghĩa quyết định nhất đến nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường nói chung và phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II nói riêng.
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là tổng hợp của nhiều yếu tố tác động biện
chứng lẫn nhau. Trong đó, bao gồm những yếu tố cơ bản là: nội dung giảng dạy của giảng viên,
phương pháp giảng dạy của giảng viên, phương tiện dạy học và uy tín, phẩm chất, tính mô phạm
của người thầy.
Nội dung giảng dạy của giảng viên ở Trường sĩ quan Lục quân II là hệ thống tri thức về khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn, khoa học quân sự, khoa học tư duy, kỹ thuật, nghiệp vụ
quân sự và những chuẩn mực giá trị, thái độ ứng xử đối với tự nhiên, đối với x ã hội, đối với người
khác và chính bản thân mình, v.v..
Phương pháp giảng dạy của giảng viên là cách thức, biện pháp thủ thuật do giảng viên sử
dụng để truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức
của học viên.
Phương tiện dạy học là tập hợp những thiết bị kỹ thuật và phương tiện mà giảng viên sử
dụng trong quá trình giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả truyền thụ tri thức cho học viên.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên đây, chất lượng giảng dạy của giảng viên còn được tạo bởi
phẩm chất, uy tín, tính mô phạm của người thầy. Đó là những giá trị x ã hội, phản ánh phẩm chất
đạo đức, năng lực hoạt động, lối sống, cách ứng xử và thái độ trách nhiệm của người thầy đối với
công việc, đối với sự trưởng thành, tiến bộ của học viên.
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên luôn là yếu tố quan trọng, trực tiếp tác động
đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II. Sự tác động đó đến tất cả các yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên. Biểu hiện cụ thể của những tác động đó là:
Thứ nhất, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên trực tiếp tác động đến phát triển tr ình
độ tri thức của học viên.
Trình độ tri thức là một yếu tố cấu thành, đồng thời là cơ sở nền tảng của phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học. Việc phát triển trình độ tri thức của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II bằng nhiều con đường khác nhau: thông qua giảng dạy của giảng
viên, qua phương tiện thông tin đại chúng, cùng với tự học, tự nghiên cứu tài liệu và hoạt động
giao tiếp của học viên v.v.. Ngày nay, trước sự bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ
học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II, có điều kiện để nhanh chóng làm
giàu tri thức của mình bằng rất nhiều những kênh thông tin khác nhau.
Tuy nhiên, ở mỗi lĩnh vực hoạt động luôn đòi hỏi mỗi người có độ tri thức chuyên sâu về
lĩnh vực hoạt động của mình. Với đối tượng và mục tiêu, yêu cầu đào tạo của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II đòi hỏi phải có tri thức toàn diện, chuyên sâu về khoa
học quân sự. Đây là một lĩnh vực mới mẻ so với đối tượng "đầu vào" của học viên. Trong khi đó do
yêu cầu của hoạt động quân sự, nhiều nội dung học viên cần thiết phải lĩnh hội không được tuyên
truyền rộng rãi trên báo chí và phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời trong thời gian năm năm
16

học ở trường, đòi hỏi học viên phải lĩnh hội một lượng tri thức rất lớn cả tri thức cơ sở, tri thức cơ
bản, tri thức chuyên ngành quân sự để đáp ứng với yêu cầu hoạt động quản lý, chỉ huy, lãnh đạo
đơn vị cấp phân đội binh chủng hợp thành. Do đó thời gian học của học viên chủ yếu ở giảng
đường, thao trường, bãi tập; thời gian tự học, tự nghiên cứu không nhiều. Chính vì vậy lượng tri
thức học viên lĩnh hội trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường chủ yếu thông qua hoạt động
giảng dạy của giảng viên, vì vậy chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên có ý nghĩa quyết
định đến phát triển trình độ tri thức của học viên.
Thứ hai, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên có vai trò to lớn đối với phát triển
phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của học viên.
Nội dung giảng dạy của giảng viên không chỉ là những tri thức về khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quân sự... mà còn có cả tri thức về khoa học tư duy, tri
thức về phương pháp, cách tiếp cận lĩnh hội tri thức. Đồng thời thông qua việc phân tíc h, lý
giải, trình bày những vấn đề của nội dung giảng dạy của giảng viên, tác động trực tiếp vào các
giác quan của người học, hình thành cho họ phương pháp tư duy, cách thức giải quyết một
vấn đề khoa học cụ thể.
Đặc biệt, thông qua các nội dung huấn luyện chiến thuật và thực hành công tác đảng, công
tác chính trị, đặt học viên trước những tình huống cụ thể, đòi hỏi họ phải vận dụng tri thức, độc lập
suy nghĩ và tìm cách giải quyết, qua đó rèn luyện và phát triển ở học viên khả năng tư duy tổng
hợp trong xem xét, đánh giá, phân tích sự vật, hiện tượng một cách toàn diện để nắm vững bản
chất vấn đề và đề xuất những giải pháp giải quyết phù hợp.
Không chỉ tác động trực tiếp đến phát triển những yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên còn là một yếu tố thường
xuyên tác động đến lòng say mê khoa học, ham muốn hoạt động tìm tòi, sáng tạo của học viên,
một phẩm chất quan trọng góp phần phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II. Chính nội dung bài giảng, phương pháp giảng dạy của
đội ngũ giảng viên và uy tín phẩm chất của người thầy là những chuẩn mực, tạo động lực bên
trong cho học viên, thôi thúc họ khao khát vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, thúc đẩy học viên
tích cực học tập, rèn luyện để phát triển, hoàn thiện phẩm chất, năng lực của mình.
Có thể nói, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên có vai trò to lớn, tác động đến phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II. Nó
là cơ sở quan trọng phát triển khả năng trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo
của học viên.
Sự tác động của chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên đến phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II phụ thuộc
vào nhiều yếu tố.
Trước hết là sự phụ thuộc vào chất lượng nội dung bài giảng của giảng viên. Chất lượng nội
dung bài giảng của giảng viên là sự phản ánh hàm lượng khoa học, độ sâu tri thức của người
thầy cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chỉ có độ sâu tri thức chưa thể bảo đảm cho nội dung
17

bài giảng có chất lượng cao mà còn đòi hỏi sự phù hợp giữa hàm lượng tri thức giảng viên truyền
thụ với khả năng nhận thức của học viên và mục tiêu yêu cầu đào tạo. Có thể một bài giảng có
chất lượng cao, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tri thức của đối tượng này, nhưng với đối
tượng khác chất lượng lại không cao và không có ý nghĩa lớn. Vì vậy sự phù hợp giữa độ sâu sắc
tri thức của người thầy với hàm lượng tri thức cần thiết truyền thụ cho học viên trên cơ sở khả
năng nhận thức của họ và mục tiêu yêu cầu đào tạo là khâu quan trọng nâng cao hiệu quả tác
động của chất lượng giảng dạy của giảng viên đến phát triển tri thức, phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên.
Hai là, sự tác động của chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên đến phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên phụ thuộc vào khả năng sử dụng phương pháp của giảng viên
trong quá trình giảng dạy.
Trong hoạt động giảng dạy, giảng viên có rất nhiều phương pháp để truyền tải tri thức đến
học viên. Tuy nhiên không có một phương pháp nào là duy nhất và chung nhất cho mọi môn học,
mọi bài giảng, mà trong giảng dạy thường có sự kết hợp các phương pháp. Cùng một nội dung bài
giảng, mỗi giảng viên có thể sử dụng nhiềi phương pháp giảng dạy khác nhau. Sử dụng phương
pháp giảng dạy là nghệ thuật truyền tải tri thức của giảng viên. Giảng viên có khả năng sử dụng
phương pháp giảng dạy tốt được biểu hiện cụ thể ở cách thức trình bày nội dung bài giảng một
cách lôgíc chặt chẽ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn, nội dung với phương pháp,
phương tiện, thu hút được sự tập trung chú ý của học viên vào quá trình giảng dạy của mình, bảo
đảm cho học viên tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhanh chóng và vững chắc.
Thực tiễn giảng dạy ở Trường sĩ quan Lục quân II cho thấy những giảng viên có phẩm chất,
uy tín cao, có sự am hiểu sâu sắc về tri thức lý luận và thực tiễn của nội dung giảng dạy, có phương
pháp giảng dạy tốt, không những truyền thụ tối ưu tri thức cho học viên mà c òn phát triển nhanh ở
học viên khả năng về phương pháp, tạo niềm tin, kích thích lòng say mê nhiệt tình, sáng tạo của học
viên trong học tập và hoạt động thực tiễn nghiên cứu khoa học.
Nội dung, phương pháp giảng dạy của giảng viên, phương tiện dạy học và phẩm chất, uy tín
của người thầy là những yếu tố cơ bản cấu thành chất lượng giảng dạy của giảng viên. Các yếu tố
đó có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau và thường xuyên tác động đến phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Sự tác động đó diễn ra đối với tất cả các môn học,
các giai đoạn và lặp đi lặp lại trong suốt quá trình giáo dục, đào tạo của Nhà trường. Vì vậy để
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục
quân II đòi hỏi tất yếu phải coi trọng nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên.
1.2.2. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II phụ thuộc vào điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của
Nhà trường
Sự tồn tại và phát triển của con người luôn diễn ra trong những điều kiện, môi trường cụ
thể, đó là sự tổng hoà các điều kiện tự nhiên, xã hội bao quanh và thường xuyên tác động, chi
phối đến quá trình hình thành và phát triển của con người. Với tư cách đó con người vừa là chủ
18

thể, vừa là sản phẩm của điều kiện, môi trường do họ tạo ra. Chính hoạt động của con người tạo
ra điều kiện, môi trường cho sự tồn tại và phát triển của họ, đồng thời đến lượt nó, điều kiện, môi
trường tác động trở lại quy định sự phát triển của con người. Điều kiện môi trường là sự phản ánh
khả năng, năng lực của con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới khách
quan. Con người càng tạo ra điều kiện, môi trường thuận lợi bao nhiêu thì càng thúc đẩy sự phát
triển năng lực của họ bấy nhiêu. Sự phát triển năng lực con người luôn chịu sự tác động tổng hợp
của các yếu tố tạo nên điều kiện, môi trường. Tuy nhiên ở mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể, ở mỗi
dạng năng lực cụ thể của con người chịu sự tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất bởi điều kiện, môi
trường ở lĩnh vực đó. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II phụ thuộc rất lớn vào điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa
học của Nhà trường.
Điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Trường sĩ quan Lục quân II là tổng thể
những cơ sở vật chất và tổ chức hoạt động của Nhà trường liên quan trực tiếp đến hoạt động
nghiên cứu khoa học. Nó là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố, trong đó nổi lên những yếu tố cơ
bản là: hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chỉ huy các cấp đới với nghiên cứu khoa học; hoạt
động của cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo, cơ quan khoa học; hoạt động giảng dạy của đội ngũ
giảng viên; cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn hoạt
động nghiên cứu khoa học của Nhà trường. Sự tác động biện chứng của các yếu tố cơ bản trên
đây tạo ra điều kiện môi, trường phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc
đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II. Những yếu tố đó thường xuyên, trực tiếp tác động đến phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Nó vừa tạo ra điều kiện, vừa tạo ra động lực
kích thích học viên tích cực tham gia hoạt động phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình.
Điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường tốt hay chưa tốt, thuận lợi hay không
thuận lợi ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng, mức độ phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên. Điều kiện, môi trường thuận lợi là cơ sở để năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
nhanh chóng được hình thành và phát triển, và ngược lại điều kiện, môi trường không thuận lợi,
thiếu đồng bộ giữa các yếu tố cấu thành sẽ ảnh hưởng xấu, hạn chế quá trình phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên.
Điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Trường sĩ quan Lục quân II là một thể thống
nhất; các yếu tố tạo nên điều kiện, môi trường luôn tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau
trong quá trình tác động đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Tuy nhiên mỗi
yếu tố có vị trí vai trò và cách thức tác động cụ thể của nó.
Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chỉ huy các cấp ở Trường sĩ quan Lục quân II đối
với hoạt động nghiên cứu khoa học là một yếu tố cấu thành đồng thời là yếu tố quan trọng nhất,
bao trùm, chi phối sự tác động của điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường
đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Hoạt động đó nhằm xác định mục tiêu,
phương hướng, yêu cầu, nội dung, biện pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên. Nó bảo đảm sự thống nhất nhận thức, phát huy trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng
19

tham gia vào các hoạt động phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của người học; định hướng
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình phát triển đó. Trên cơ sở lãnh đạo của các cấp uỷ
đảng, người chỉ huy các cấp cụ thể hoá mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đó bằng các kế hoạch, chỉ thị,
mệnh lệnh và tổ chức thực hiện. Đây là một hoạt động hết sức quan trọng trực tiếp phát huy, phát
triển điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học ở đơn vị và tổ chức giáo dục, rèn luyện phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Chính hoạt động của người chỉ huy góp phần quan
trọng phát triển trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của học viên thông
qua giáo dục và tổ chức các hoạt động thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong quá trình giáo
dục, đào tạo.
Hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên của Nhà trường là một yếu tố cơ bản của điều
kiện, môi trường nghiên cứu khoa học, trực tiếp tác động đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên.
Hoạt động của cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo, cơ quan khoa học của Nhà trường là một
yếu tố quan trọng thường xuyên tác động đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên. Sự tác động của nó được thể hiện thông qua việc bố trí sắp xếp nội dung, chương trình, thời
gian giáo dục, huấn luyện của các môn học, bài học. Sự phù hợp của thời gian, tính lôgíc của
chương trình là cơ sở để học viên tiếp thu, lĩnh hội tri thức một cách cơ bản, hệ thống, thống nhất,
chuyên sâu (trong đó có cả tri thức về phương pháp). Đồng thời thông qua việc xây dựng kế
hoạch và tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường tác
động toàn diện đến phát triển các yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Là
cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường, đồng
thời là cơ quan tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu về giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa
học, họ có điều kiện để nắm vững chất lượng và đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục,
đào tạo và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo.
Một yếu tố quan trọng của điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường là cơ
sở vật chất, hệ thống tài liệu, mô hình học cụ, phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu
khoa học. Đây là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục, đào tạo và phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên. Nó là điều kiện để học viên lĩnh hội, phát triển, mở rộng tri thức
và tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh những yếu tố cơ bản trên đây, điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của
Trường sĩ quan Lục quân II còn được tạo bởi chính hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà
trường, một hoạt động có ý nghĩa thiết thực đối với việc rèn luyện, phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên.
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng của các trường đại học nói
chung, Trường sĩ quan Lục quân II nói riêng. Đây là một hoạt động thực tiễn tác động đến ý thức
trách nhiệm của học viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học, đồng thời nó góp phần quan trọng trực tiếp phát triển khả năng trình độ tri thức, phương
pháp tư duy và khả năng vận dụng sáng tạo của học viên. Khả năng huy động sự tham gia đông đảo
20

của đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên vào hoạt động nghiên cứu khoa học, với những đề tài thiết
thực, cụ thể sẽ tạo ra động lực kích thích tính tích cực, tự giác của học viên trong phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học, khắc phục tư tưởng tự ti khá phổ biến trong học viên hiện nay, cho rằng: m ình
quá nhỏ bé, việc nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ của các giảng viên, các nhà khoa học, các bậc
học cao hơn.
Kết quả đạt được của học viên trong tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học vừa là một tiêu
chí đánh giá sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ, đồng thời qua đó các lực lượng
tham gia vào quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên thấy được những mặt
mạnh, những điểm còn hạn chế trong quá trình giáo dục, đào tạo, từ đó xây dựng những giải pháp
đúng đắn phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Trường sĩ quan Lục quân II là tổng thể
những điều kiện cơ sở vật chất và công tác tổ chức hoạt động của các thành viên trong Nhà
trường liên quan đến nghiên cứu khoa học, đó là kết quả đầu tư của Nhà nước, của Quân đội và
quá trình xây dựng của đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên... của Nhà trường. Các yếu tố cấu
thành điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Trường sĩ quan Lục quân II là một thể thống
nhất, có mối quan hệ biện chứng và thường xuyên tác dộng đến quá tr ình phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên. Mức độ thuận lợi của điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa
học của Nhà trường ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của học viên. Vì vậy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đòi hỏi phải xây dựng
và phát triển đồng bộ các yếu tố tạo nên điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà
trường.
1.2.3. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của chính người học
Nhân tố chủ quan của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là toàn bộ ý thức, ý
chí và năng lực tổ chức các hoạt động của học viên... trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học. Nó
được biểu hiện cụ thể ở trình độ tri thức đã được lĩnh hội, động cơ, thái độ, ý thức trách nhiệm của học
viên trong quá trình tiếp thu lĩnh hội tri thức mới, nâng cao phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo.
Đồng thời nó còn được biểu hiện ở khả năng tổ chức các hoạt động của học viên trong tự phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học
Nhân tố chủ quan của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học có vai trò to
lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tác động của điều kiện khách quan vào phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên. Có thể nói dưới tác động của điều kiện, môi trường nghiên cứu
khoa học của Nhà trường đối với tất cả học viên thì mức độ phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của mỗi học viên phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của chính bản thân họ. C. Mác viết: "Phát
triển phong phú bản chất con người coi như là một mục đích tự thân"[16, tr. 52]. Khi nói về nhân tố
chủ quan của con người, V. I. Lênin viết: "Khái niệm (= con người) với tư cách là cái chủ quan... là
khuynh hướng tự mình thực hiện mình, tự cho mình, qua bản thân mình, một tính khách quan
trong thế giới khách quan và tự hoàn thành (tự thực hiện) mình"[12, tr. 228].
21

Người nào có sự nỗ lực chủ quan lớn thì năng lực nghiên cứu khoa học của họ phát triển
nhanh và ngược lại nếu thiếu sự nỗ lực cố gắng thì mức độ phát triển ấy sẽ hạn chế. Với ý nghĩa
đó có thể coi sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là một quá trình học viên tự
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình.
Sự tác động của nhân tố chủ quan đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II được biểu hiện trên các mặt cơ bản sau.
Nhân tố chủ quan của học viên trực tiếp tác động đến quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức của
họ trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường.
Khả năng tiếp thu lĩnh hội tri thức của học viên không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách
quan như chất lượng giảng dạy của giảng viên, chất lượng tài liệu, điều kiện, môi trường nghiên
cứu khoa học của Nhà trường... mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhân tố chủ quan của chính người
học.
Trong quá trình học tập, lượng thông tin truyền tải đến học viên rất lớn, thông qua rất nhiều kênh
khác nhau, tuy nhiên mức độ lĩnh hội của họ đến đâu, khả năng chắt lọc lựa chọn và biến những
thông tin đó thành tri thức của học viên đến đâu, phụ thuộc rất lớn vào chính bản thân họ. Tr ình
độ tri thức vốn có của mỗi học viên, động cơ, thái độ, ý thức trách nhiệm và phương pháp của
học viên trong quá trình học tập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội và phát triển
tri thức của họ.
Dưới sự tác động của điều kiện khách quan trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường
với sự nỗ lực chủ quan, học viên mới có thể có được một hệ thống tri thức cơ bản, hệ thống, thống
nhất, chuyên sâu; ngược lại, nếu thiếu sự cố gắng hoặc cố gắng không thường xuyên th ì tri thức
của họ sẽ không vững chắc và thiếu tính hệ thống.
Đặc biệt trong phát triển phương pháp tư duy và vận dụng tri thức vào giải quyết vấn đề
thực tiên của học viên, vai trò của nhân tố chủ quan được biểu hiện một cách rõ nét.
Trên cơ sở nền tảng tri thức đã được lĩnh hội, khả năng phương pháp tư duy và vận dụng
sáng tạo của học viên phụ thuộc vào chính quá trình hoạt động rèn luyện của họ. ý thức trách
nhiệm của học viên đối với công việc, mức độ đào sâu suy nghĩ trong nghiên cứu cũng như trong hoạt
động, ý chí quyết tâm, lòng say mê, nhiệt tình trong thực hiện nhiệm vụ là cơ sở để phát triển khả năng
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng sáng tạo của học viên.
Một học viên có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc, đối với nhiệm vụ luôn đặt ra nhu cầu đi
sâu phân tích, tìm hiểu nắm vững bản chất vấn đề, khắc phục khó khăn tìm ra những giải pháp tốt để
thực hiện. Chính quá trình đó rèn luyện và phát triển ở họ khả năng phương pháp tư duy khoa học, khả
năng vận dụng sáng tạo tri thức vào giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra. Không có ý thức trách nhiệm cao
đối với công việc, không có lòng say mê khoa học sẽ không có sự sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. V.
I. Lênin đã chỉ rõ: "Không có ((sự cảm xúc của con người)) thì xưa nay không có và không thể có sự tìm
tòi chân lý"[ 14, tr. 131].
Bản thân tư chất thông minh bẩm sinh của mỗi học viên là tố chất đặc biệt vốn có của bộ óc; là sản
phẩm của tạo hoá "ban cho" mỗi người khác nhau, thì việc khơi dậy và phát huy những tố chất tiềm năng
22

ấy lại phụ thuộc vào sự nỗ lực của mỗi học viên. Khoa học đã chỉ ra rằng trong đời sống của mỗi con
người chỉ huy động được rất ít, khoảng 2% đến 10% trong tổng số khoảng 14 tỷ nơron thần kinh
tham gia vào hoạt động, số còn lại nằm dưới dạng tiềm năng. Vì vậy người nào có ý thức tự giác
cao, tích cực hoạt động, học tập nhiều, rèn luyện nhiều thì khả năng huy động lượng nơron thần
kinh tham gia vào hoạt động càng lớn, tố chất, tiềm năng của họ sớm được khơi dậy và phát triển
thành năng lực hiện hữu.
Nhân tố chủ quan có vai trò to lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tác động của điều
kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường vào quá trình phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II. Tuy nhiên mức độ
tác động ấy phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả những yếu tố cấu thành nhân tố chủ quan
và cả mức độ thuận lợi của điều kiện khách quan, trước hết là điều kiện, môi trường nghiên cứu
khoa học của Nhà trường.
Trình độ tri thức, năng lực tổ chức các hoạt động rèn luyện, phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên vừa là yếu tố cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học vừa là nội dung
quan trọng của nhân tố chủ quan trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cuả học viên.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là quá trình vận động, phát triển từ thấp đến cao,
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện; sự phát triển của giai đoạn sau luôn kế thừa và phát triển kết
quả đạt được của giai đoạn trước. Chính vì vậy những tri thức hiểu biết học viên đã được lĩnh hội,
những kinh nghiệm trong quá trình hoạt động thực tiễn, cũng như phương pháp tổ chức các hoạt
động học tập và nghiên cứu khoa học có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri
thức mới và phát triển khả năng phương pháp tư duy, khả năng vận dụng sáng tạo của họ. Thực
tiễn giáo dục, đào tạo ở Trường sĩ quan Lục quân II cho thấy: những học viên có tri thức vững
chắc ở các cấp học trước đó, có thực tiễn hoạt động phong phú, có phương pháp tổ chức sắp xếp
các hoạt động hợp lý, họ luôn tích cực chủ động trong tiếp thu lĩnh hội tri thức và có khả năng phát
triển nhanh năng lực nghiên cứu khoa học của mình. Ngược lại, những học viên "bị hổng" kiến
thức, tổ chức sắp xếp các hoạt động thiếu khoa học, không những gặp khó khăn trong tiếp thu lĩnh
hội tri thức mà còn dễ dẫn đến tư tưởng ngại học, ngại nghiên cứu, thiếu say mê, nhiệt tình trong
học tập, rèn luyện; hiệu quả phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ không cao.
Động cơ, thái độ của học viên đối với phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình là
một yếu tố cơ bản trong nhân tố chủ quan. Đó là hệ thống nhu cầu, mục đích của học viên, là kết
quả tác động biện chứng giữa phẩm chất chính trị, đạo đức của học viên với nhận thức của họ về
mục tiêu, yêu cầu đào tạo, về nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội, về nghĩa vụ, trách nhiệm
bản thân, về vị trí vai trò của phát triển năng lực nghiên cứu khoa học với việc hoàn thành nhiệm
vụ của chính bản thân mình.
Động cơ, thái độ của học viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa họcvà phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học là nền tảng, là nguyên nhân trực tiếp hình thành tính tích cực tự giác của học
viên, là nguồn động lực bên trong của quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực tư duy
và khả năng sáng tạo của họ. Có động cơ, thái độ đúng đắn sẽ hình thành ở học viên ý thức trách
23

nhiệm cao trong học tập, rèn luyện phát triển năng lực nghiên cứu khoa học; tạo cho họ lòng khao
khát vươn lên chiếm lĩnh tri thức, tích cực rèn luyện để không ngừng phát triển và hoàn thiện
phẩm chất, năng lực của mình. Đồng thời nó cũng tạo cho học viên có khả năng huy động cao
nhất những phẩm chất tâm lý: ý chí, quyết tâm, lòng say mê khoa học và những khả năng vốn có
vào phát triển năng lực nghiên cứu khoa học.
Ngược lại, nếu động cơ học tập và nghiên cứu khoa học không đúng đắn, thái độ thiếu tích
cực, người học sẽ tỏ ra thờ ơ, thiếu tự giác và cảm thấy phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
đối với họ như một gánh nặng, một sự bắt buộc. Từ đó các nhân tố "nội lực" không được phát huy,
hiệu quả tác động của điều kiện khách quan vào phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ
sẽ bị hạn chế.
Bên cạnh những yếu tố trên đây, khả năng tác động của nhân tố chủ quan đến phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II còn
phụ thuộc vào mức độ thuận lợi của điều kiện khách quan mà trước hết là điều kiện, môi trường
nghiên cứu khoa học của Nhà trường (trong đó có hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên).
Độ sâu của một bài giảng, phương pháp giảng dạy của giảng viên, cơ sở vật chất và những chính
sách cụ thể đối với phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là những yếu tố thường
xuyên tác động đến tình cảm, ý chí, ý thức phấn đấu của học viên trong phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học. Nội dung bài giảng có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, phương pháp giảng dạy của
giảng viên lôgíc, chặt chẽ có sức lôi cuốn cao, chế độ chính sách khuyến khích phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên thiết thực, cụ thể, luôn là những yếu tố tạo ra động lực cho học
viên, kích thích tính tích cực, say mê nhiệt tình sáng tạo của họ trong học tập, rèn luyện phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học.
Nhân tố chủ quan có vai trò to lớn trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên; nhân tố chủ quan càng được phát huy thì hiệu quả tác động của điều kiện khách quan vào
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên càng lớn. Sự tác động đó diễn ra tất yếu,
thường xuyên trong suốt quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Vì vậy
nắm vững và thường xuyên có giải pháp đúng đắn phát huy cao độ nhân tố chủ quan của học viên
là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà
trường nói chung, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II nói riêng.

Kết luận chương 1


Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II là quá trình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao phương
pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt sáng tạo tri thức đó vào giải quyết những vấn đề thực
24

tiễn đặt ra trong quá trình học tập ở trường cũng như trên cương vị quản lí, chỉ huy, lãnh đạo đơn
vị cấp phân đội binh chủng hợp thành sau khi tốt nghiệp.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II có vai trò to lớn đối với quá trình hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học
viên, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập rèn luyện của học viên trong quá trình giáo dục đào
tạo cũng như trên cương vị công tác sau này
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là một quá trình phức tạp, là kết
quả tác động biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong quá tr ình giáo
dục, đào tạo ở Nhà trường, trong đó những yếu tố tác động cơ bản là: chất lượng giảng dạy của
đội ngũ giảng viên, điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường và chính nhân tố
chủ quan của bản thân học viên.
Vì vậy, để phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II cần phải nghiên cứu nắm chắc đối tượng, đánh giá đúng thực trạng,
kết hợp điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để tìm ra giải pháp đúng đắn thúc đẩy quá trình
phát triển đó

Chương 2

TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN II HIỆN NAY

2.1. Tình hình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay

2.1.1. Thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc
đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay
Thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay bao gồm cả những thành tích đạt được và những hạn chế
của họ trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học. Căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu đào tạo và
kết quả của quá trình phát triển có thể đánh giá thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay trên các mặt cơ bản sau
đây:
* Về phát triển khả năng tri thức của học viên.
25

Sự phát triển trình độ tri thức là một tiêu chí cơ bản đánh giá sự phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên. Tuy nhiên để đánh giá đúng sự phát triển đó phải trên cơ sở tri thức
ban đầu của học viên và lượng tri thức mà họ đã lĩnh hội được trong quá trình giáo dục, đào tạo ở
Nhà trường.
Với đối tượng "đầu vào" của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện
nay, họ có tri thức cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn của bậc học phổ thông
trung học. Tuy nhiên ở họ tri thức lý luận, tri thức thực tiễn còn nhiều hạn chế. Những hiểu biết về
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng chỉ mới ở mức độ
bước đầu, tri thức khoa học quân sự, hầu như là một lĩnh vực mới mẻ, học viên chỉ mới có tri thức
sơ lược nhất ở một vài hoạt động cụ thể thông qua một số bài giảng, giao tiếp và học quân sự
trong quá trình học tập ở trường phổ thông.
Trên cơ sở đối tượng đó và mục tiêu yêu cầu đào tạo, để học viên hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, trong quá trình giáo dục, đào tạo ở Trường sĩ quan Lục quân II, học viên được trang bị
một khối lượng tri thức rất lớn: cả tri thức cơ sở, tri thức cơ bản và tri thức chuyên ngành.
Giai đoạn đào tạo đại học đại cương chiếm 37% về thời gian và nội dung chương tr ình học
tập của học viên tại trường. Đây là giai đoạn học viên mới bắt đầu làm quen với phương pháp ở
bậc đại học.
Giai đoạn đào tạo chuyên ngành với thời gian và chương trình chiếm khoảng 63%. Đây là
giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội và phát triển tri thức của học viên. Học
viên tập trung vào nghiên cứu các nội dung của khoa học quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự,
khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học chỉ huy tham mưu, khoa học xã hội nhân văn, khoa học
công tác đảng, công tác chính trị, v.v.
Trong quá trình học tập ở trường, trình độ tri thức của học viên không ngừng được phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển đó không chỉ thể hiện ở khối lượng lớn tri thức
mà còn ở chất lượng cấu trúc tri thức học viên tiếp thu, lĩnh hội được. Sự tiếp thu đó không chỉ
dừng lại ở mức độ tri giác, ghi nhớ tái hiện mà được biến đổi, tái tạo lại thành tài sản của cá nhân
mỗi học viên. Chính vì vậy sau quá trình giáo dục, đào tạo ở trường học viên đã có được một hệ
thống tri thức "cơ bản, hệ thống, thống nhất chuyên sâu" theo yêu cầu giáo dục, đào tạo. Trong đó
tri thức quân sự chiếm 60% toàn bộ nội dung, học tập của học viên. Tỷ lệ đó không ngừng tăng
lên ở vào những năm học cuối.
Theo đánh giá của cơ quan huấn luyện và cán bộ quản lý học viên, sự phát triển tri thức của
học viên qua các năm học đáp ứng được với tiến trình và mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Cụ thể là sau năm học thứ hai, học viên có đủ trình độ tri thức để đảm đương cương vị tiểu đội trưởng
trong đó khoảng 50% hoàn thành tốt, 45% hoàn thành ở mức khá. Sau năm học thứ ba, học viên có
thề đảm đương được cương vị trung đội trưởng, trong đó khoảng 35% hoàn thành tốt, 40% hoàn thành
khá. Và sau năm học thứ tư, có khoảng 35% học viên đã đảm đương tốt được cương vị cán bộ đại đội
và 40% khá. Sau năm học thứ năm học viên đã có được những tri thức cơ bản của cán bộ chỉ huy cấp
tiểu đoàn.
26

Qua thống kê kết quả thi, kiểm tra của các môn học, cũng như kết quả phân loại học tập của
học viên sau mỗi năm học, khoá học và qua trao đổi tìm hiểu ở đội ngũ giảng viên cán bộ ở Nhà
trường cho thấy học viên nắm được nội dung cơ bản của các môn học.
Trong Báo cáo tổng kết 10 thực hiện Nghị quyết 93 của Đảng uỷ quân sự Trung ương, Đảng
uỷ Trường sĩ quan Lục quân II đã khẳng định: "Về trình độ tri thức học viên có trình độ đại học
tương đương của Nhà nước, có kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, khoa học quân sự, khoa
học tự nhiên khá vững chắc: Nắm chắc nguyên tắc các hình thức chiến thuật, động tác chiến đấu
từng người, tổ và từ tiểu đội đến đại đội [7, tr. 11].
Tuy nhiên bên cạnh đó việc phát triển trình độ tri thức của học viên còn bộc lộ không ít
những hạn chế. Mặc dù học viên được trang bị một lượng tri thức tương đối cơ bản, toàn diện,
nhưng việc lĩnh hội tri thức của nhiều học viên còn khá vụn vặt, rời rạc, thiếu tính hệ thống, thống
nhất, chưa có sự gắn kết cao giữa các môn học, phần học, bài học trong một chỉnh thể, tính khoa
học, tính vững chắc của tri thức chưa cao, việc lý giải các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống
còn thiếu căn cứ khoa học xác đáng. Tri thức của một số học viên còn nhiều chỗ hổng, chưa
chuyển hoá tốt tri thức của xã hội, của giảng viên thành tri thức của cá nhân mình. Khả năng ghi
nhớ, tái hiện tri thức của một số học viên còn hạn chế, cá biệt có học viên sau khi học xong môn
học một thời gian đã quên cả tên của chủ đề, nội dung cơ bản của bài học, mặc dù đó là những
nội dung rất thiết thực. Thực tế tri thức của học viên còn mất cân đối giữa tri thức lý luận và tri thức
thực tiễn do ít được trải nghiệm trong cuộc sống và tôi luyện trong công tác ở đơn vị.
Khi đánh giá về hạn chế tri thức của học viên, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiên Nghị quyết
93 của Đảng uỷ quân sự Trung ương của Đảng uỷ Trường sĩ quan Lục quân II đã chỉ rõ: "Về trình
độ nhận thức lý luận của học viên tuy đã được nâng lên nhưng so với yêu cầu còn hạn chế. Một số
học viên nắm được kiến thức nhưng hiểu chưa sâu,... chưa thành kiến thức vững chắc của bản
thân."[7, tr. 11].
Như vậy yếu tố tri thức trong năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay đang được phát triển lên một tr ình độ mới khá
toàn diện, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đào tạo cán bộ chỉ huy cấp phân đội binh chủng
hợp thành trong giai đoạn mới. Tuy nhiên sự phát triển đó chưa thật vững chắc, c òn bộc lộ
sự mất cân đối, một số nội dung chưa đủ độ sâu so với sự phát triển của cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại và đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chiến đấu của quân đội ta trong
giai đoạn hiện nay.
* Về phương pháp tư duy.
Thực tiễn giảng dạy của Nhà trường cho thấy, hiện nay phương pháp tư duy của học viên
đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II đang từng bước định h ình và phát triển, khắc
phục dần phương pháp tư duy siêu hình, rập khuôn máy móc. Đại đa số học viên đã biết phát hiện
vấn đề và giải quyết vấn đề. Một số học viên nắm nội dung tài liệu khá tốt, biết sử dụng sáng tạo tri
thức của nhiều lĩnh vực khoa học để giải quyết một vấn đề cụ thể; biết vận dụng các phương pháp
như phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá để luận giải bản chất của vấn đề.
27

Phương pháp tư duy của học viên phát triển đáp ứng yêu cầu chỉ huy cấp phân đội binh
chủng hợp thành, đa số học viên có khả năng phân tích đánh giá tình hình một tình huống chiến
thuật cụ thể, biết nắm và xử trí được các tình huống trong công tác quản lý, duy trì đơn vị sinh
hoạt, công tác, học tập và chấp hành kỷ luật.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc phát triển khả năng phương pháp tư duy của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay còn bộc lộ không ít những hạn chế. Trong quá
trình học tập, một số học viên mới ghi nhớ, tái hiện những điều giảng viên giảng ở trên lớp, thích
dựa dẫm vào sách vở, thường học cách giải thích của giảng viên, không chủ động tìm ra cách giải
thích mới theo lôgíc riêng, bằng kiến thức tổng hợp của các môn học. Tính mềm dẻo, độc lập,
sáng tạo trong tư duy của một số học viên còn hạn chế, chưa thể hiện vai trò một chủ thể nhận
thức. Phương pháp tiếp cận, phân tích, luận giải những vấn đề mới không ít học viên còn gặp khó
khăn. Đặc biệt trong quá trình thực hành thực tập trên các cương vị được giao nhiều học viên còn
tỏ ra lúng túng, việc phân tích, tổng hợp, phát hiện tình hình, đề xuất giải pháp để giải quyết còn
chậm, hiệu quả đạt được chưa cao. Trong giải quyết xử lý các vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong
quá trình học tập, huấn luyện, một số học viên còn biểu hiện chủ quan, nóng vội, thiếu giải pháp
đồng bộ, tổng thể, còn biểu hiện của phương pháp tư duy siêu hình, phiến diện.“Việc vận dụng yếu
lĩnh động tác, sử dụng các loại vũ khí trang bị đã được học chưa thật sát với địa hình, tình hình địch,
động tác chiến đấu chưa thật mưu trí linh hoạt sáng tạo, vận dụng nguyên tắc vào tổ chức chuẩn bị
và thực hành chỉ huy, xử trí các tình huống chiến đấu chưa thật phù hợp, tác phong chỉ huy còn
máy móc, rập khuôn, thiếu linh hoạt sáng tạo... khả năng phân tích chưa sâu" [7, tr. 11].
Những hạn chế đó của học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo được phản ánh cả khi họ
trở thành sĩ quan. Điều đó được đánh giá trong Nghị quyết 94 của Đảng uỷ quân sự Trung ương:
"Một bộ phận cán bộ tư duy lý luận chưa phát triển kịp với chức năng của quân đội trong thời kỳ
mới, chưa năng động nhay bén xử lý các tình huống, khả năng nghiên cứu thiết kế, chế tạo hạn
chế" [5, tr. 2].
* Về khả năng sáng tạo.
Để đánh giá chính xác khả năng sáng tạo của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân II hiện nay là một vấn đề không đơn giản. Nếu bản chất của sáng tạo là tư duy có
định hướng, là sự vận dụng thích nghi vào đúng hoàn cảnh của mình thì có thể xem xét đánh giá khả
năng sáng tạo của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II trên những tiêu chí
cơ bản là: Khả năng học viên thích ứng với điều kiện, môi trường, giáo dục, đào tạo ở Nhà trường;
mức độ chủ động, linh hoạt, sáng tạo, khắc phục khó khăn và vận dụng tri thức vào giải quyết các
nhiệm vụ, các tình huống đặt ra trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống và quan hệ xã hội
của học viên.
Từ những tiêu chí cơ bản trên đây và kết quả đạt được trong quá trình học tập rèn luyện, có
thể đánh giá khả năng sáng tạo của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
hiện nay với những ưu điểm cơ bản là:
28

Đa số học viên thích ứng nhanh với điều kiện, môi trường giáo dục, đào tạo, nhanh chóng
xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, khắc phục khó khăn tập trung cho nhiệm vụ học tập
rèn luyện.
Về thang bậc giá trị, phần lớn học viên có sự định hướng giá trị đúng đắn, phù hợp với xu
hướng vận động khách quan của thời đại, của đất nước của sự nghiệp xây dựng quân đội trong
giai đoạn mới, sự lựa chọn, sắp xếp hệ thống thang bậc giá trị phù hợp với mô h ình nhân cách
người sĩ quan quân đội mà ta xây dựng. Trong quá trình học tập nhiều học viên đã thể hiện khả
năng sáng tạo của mình trong việc xây dựng phương pháp tự học mang sắc thái độc đáo của cá
nhân. Trong các cuộc hội thao, hội thi, diễn đàn, trao đổi thảo luận... nhiều học viên đã đưa ra
những ý tưởng độc đáo và trình bày một cách khá thuyết phục. Nhiều bài viết của học viên, nhiều
khoá luận tốt nghiệp đã lý giải khá sâu sắc một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải
pháp có ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục huấn luyện của Nhà trường. Khi
đánh giá về khả năng sáng tạo của học viên, Đảng uỷ Trường sĩ quan Lục quân II nhận định: "Học
viên biết vận dụng xây dựng động cơ học tập và đấu tranh phê phán quan điểm sai trái, bảo vệ quan
điểm đường lối của Đảng và vận dụng vào học tập các môn chuyên ngành", "Vận dụng nguyên tắc
chiến thuật và nội dung các môn quân sự vào tổ chức chuẩn bị và thực hành chỉ huy chiến đấu
cũng như xử trí các tình huống phù hợp" [7, tr. 11].
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được trên đây việc phát triển khả năng sáng tạo của
học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay còn bộc lộ không ít những
thiếu sót hạn chế. Biểu hiện của những hạn chế đó là: một số học viên ít có khả năng biến đổi
thông tin thu nhận từ giảng viên, từ hệ thống tài liệu, thừa nhận dễ dàng trật tự của hệ thống tri
thức, ít đưa ra chính kiến nhận thức của mình trước một vấn đề phức tạp mặc dù những ý kiến
khác của thầy, của tài liệu họ cảm thấy chưa thuyết phục. Trong suy nghĩ nhiều học viên còn rập
khuôn, máy móc, tuân theo ý thầy, theo đường mòn lối cũ, chấp nhận những giải pháp quen thuộc.
Tính mềm dẻo của tư duy trong học tập ở một số học viên c òn bộc lộ nhiều hạn chế. Năng
lực tổng hợp, tạo ý tưởng mới để kết hợp các yếu tố riêng lẻ của tình huống, hoàn cảnh chưa
được nhanh chóng, ứng xử chậm khi giảng viên đặt câu hỏi hay những tình huống khác thường.
Khả năng phát hiện sai lầm, mâu thuẫn trong nhận thức của mình còn hạn chế; ít trao đổi với
giảng viên, bạn bè trong quá trình học tập. Năng lực xây dựng cấu trúc mới, kế hoạch mới, hành
động mới chưa kịp thời, nhạy bén. Khả năng vận dụng lý luận vào giải quyết vấn đề thực tiễn còn
thiếu nhạy bén linh hoạt sáng tạo.
Những kết quả đạt được và những hạn chế trên đây của các yếu tố cấu thành năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay là
cơ sở để đánh giá thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ. Tuy nhiên, phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học là sự tác động biện chứng của các yếu tố đó và v ì vậy, căn
cứ cơ bản nhất để đánh giá thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên là
hiệu quả của quá trình hoạt động thực tiễn, là kết quả thực hiện các nhiệm vụ, là số lượng và
chất lượng các hoạt động nghiên cứu khoa học của họ. V. I. Lênin đã từng viết: "Chúng ta căn cứ
29

vào những gì để xét đoán những tư tưởng và tình cảm thực sự của các cá nhân có thực? Tất
nhiên căn cứ đó chỉ có thể là hoạt động của các cá nhân ấy"[13, tr. 531].
Theo số liệu thống kê kết quả học tập của học viên qua các năm học và kết quả khoá
luận tốt nghiệp cùng với đánh giá, nhận xét của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản l ý học viên
của Nhà trường cho thấy, năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay từng bước được phát triển đáp ứng được với yêu cầu nhiệm
vụ học tập, huấn luyện và nghiên cứu khoa học của Nhà trường. Nhiều học viên phát triển nhanh
và vững chắc, có cơ sở để phát triển tốt hơn trên cương vị công tác mới. Theo số liệu điều tra ở
các đơn vị fBB 5/QK7, fBB 2/QK5, fBB 330/QK9, fBB 10/QĐ3 của Trường sĩ quan Lục quân II, số
học viên đào tạo ở trường ra đơn vị công tác có 23,6% hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát triển nhanh,
54,5% khá; 73% có phương pháp quản lý tốt; 76% có phương pháp chỉ huy tốt"[7, tr. 11].
Qua đó, có thể thấy rằng: sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay, ngày càng gắn chặt và góp phần quan trọng
nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của học viên trong quá tr ình giáo dục, đào tạo
và hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường. Đồng thời sự phát triển đó c òn hướng vào
nghiên cứu nâng cao hiệu quả hoạt động của người chỉ huy đơn vị cấp phân đội binh chủng hợp
thành. Sự phát triển của xu hướng đó được thể hiện ngày càng rõ nét ở các yếu tố cấu thành năng
lực nghiên cứu khoa học của học viên cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học của họ; đặc biệt
là trong các khoá luận tốt nghiệp
Tuy nhiên bên cạnh đó, kết quả học tập và thực hiện các nhiệm vụ, kết quả tham gia các
hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên cũng phản ánh những hạn chế của họ trong phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học. Một số học viên kết quả học tập chưa cao, thậm chí có học
viên có môn học không đạt yêu cầu, kết quả thực hiện nhiệm vụ thực hành, thực tập ở một số học
viên còn yếu, nhiều học viên trong cả khoá học không tham gia vào các hoạt động nghiên cứu
khoa học của Nhà trường, kết quả phân loại tốt nghiệp còn nhiều học viên đạt kết quả thấp.
2.1.2. Một số nguyên nhân cơ bản của thực trạng phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay
* Nguyên nhân của mặt tích cực
Một là, những chuyển biến thuận lợi của tình hình kinh tế - xã hội và sự nghiệp xây dựng
quân đội trong những năm qua tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên.
Con người là sản phẩm của xã hội. Sự hình thành và phát triển năng lực con người bao giờ
cũng chịu sự quy định chặt chẽ của những biến đổi kinh tế xã hội cụ thể. C. Mác viết: "...Con người
tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy"[16, tr. 55]. Con
người là hiện thân của những quan hệ kinh tế mà họ đại biểu. Những nhân tố kinh tế, chính trị, xã
hội... của mỗi thời đại luôn ảnh hưởng và tác động đến nhận thức, tư tưởng, tâm lý, cách nghĩ,
cách làm của mỗi người trong thời đại đó. Hơn nữa con người luôn sống trong những tổ chức nhất
định, sự phát triển của các tổ chức ấy luôn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của mỗi con
30

người trong tổ chức. Bởi vậy những kết quả đạt được của phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của học viên ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay không thể tách rời những thành tựu đ ã đạt
được của tình hình kinh tế, xã hội và sự nghiệp xây dựng quân đội. Nó là nguyên nhân sâu xa, tác
động mạnh mẽ, tích cực tới sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là những năm gần đây cách mạng nước ta đạt được nhiều
thành tựu hết sức quan trọng, nền kinh tế liên tục phát triển với tốc độ cao, t ình hình chính trị, xã
hội ổn định, những chuẩn mực giá trị xã hội được củng cố và phát triển vừa phù hợp với xu thế
thời đại vừa giữ được bản sắc dân tộc. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng được củng cố và phát huy hiệu quả của nó. Sự nghiệp xây dựng "quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại"[3, tr. 118] đã đạt được những bước tiến quan
trọng.
Những thành tựu trên đây đã làm tăng thêm niềm tin của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II vào Đảng, chế độ và con đường cách mạng XHCN mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã lựa chọn; thúc đẩy họ tích cực học tập, rèn luyện nâng cao trình độ tri thức,
năng lực phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của mình. Điều dễ nhận thấy ở học viên hiện
nay là họ năng động, nhạy bén hơn, chú ý nhiều hơn đến tính hiệu quả, tính thực tế. Họ thích ứng
nhanh với những biến đổi của hoàn cảnh xã hội, tích cực tìm tòi, sáng tạo để không ngừng nâng
cao hiệu quả học tập, công tác của mình.
Chính những thành tựu kinh tế, xã hội của đất nước trong những năm qua vừa tạo ra nhu
cầu, vừa tạo ra điều kiện để học viên phát triển nhanh về trình độ tri thức và khả năng sáng tạo
của mình. Bản thân học viên cũng nhận thức được rằng: trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN, trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ, nếu không chịu khó học tập, nghiên cứu sẽ không đáp ứng đươc yêu cầu, sẽ bị tụt hậu
và tất yếu sẽ bị đào thải.
Đặc biệt, trong những năm qua trước yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội trong thời
kỳ mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII và Nghị quyết 94/ĐUQSTW, bên cạnh
những tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đòi hỏi cán bộ phải có khả năng sáng
tạo trong tổ chức thực hiện. Điều đó càng đòi hỏi cao đối với quá trình giáo dục, đào tạo học viên ở
các Nhà trường quân đội, trong đó có Trường sĩ quan Lục quân II
Xu thế đại học hoá đội ngũ sĩ quan quân đội trong những năm qua là một thực tế khách
quan trước đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng quân đội trong giai đoạn mới; nó vừa nâng cao mặt
bằng tri thức của sĩ quan quân đội vừa nâng cao hiệu quả công tác của họ.
Những thực tế trên đây cùng với những thành tựu đạt được trong xây dựng, huấn luyện,
chiến đấu, lao động sản xuất và công tác của Quân đội trong những năm qua, càng khẳng định vai
trò, vị thế của Quân đội, của đội ngũ sĩ quan Quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Thực tế đó vừa tạo ra động lực, vừa tạo ra điều kiện và đặt ra những yêu cầu mới đối với
học viên phải tích cực học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ tri thức, phương pháp tư duy và
sáng tạo của mình.
31

Hai là, những yếu tố cấu thành điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Trường sĩ
quan Lục quân II có bước phát triển mới, là nguyên nhân cơ bản trực tiếp nhất tác động tích cực
đến kết quả phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Trước yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan trong thời kỳ mới, những năm qua Trường sĩ quan
Lục quân II đã tiến hành quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện chặt chẽ, không ngừng nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của Nhà trường.
Các cấp uỷ đảng, chỉ huy các cấp đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với những
chủ trương, biện pháp chính sách cụ thể đã tạo được sự đoàn kết thống nhất cao của các lực
lượng tham gia vào quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo từng bước được đổi mới và ngày càng phù hợp
hơn với trình độ học viên, với lôgíc quá trình nhận thức và mục tiêu yêu cầu đào tạo.
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên từng bước được nâng lên, tính "cơ bản, hệ
thống, thống nhất, chuyên sâu" trong giáo dục, đào tạo được coi trọng, đồng thời chú ý đến
phương châm "cơ bản, thiết thực, vững chắc" trong giáo dục huấn luyện.
Cơ sở vật chất, phương tiện, tài liệu ngày càng được củng cố, đầu tư xây dựng, từng bước
đáp ứng với nhu cầu học tạp nghiên cứu của học viên.
Công tác nghiên cứu khoa học được phát triển tích cực, có hiệu quả thiết thực hơn, đã coi
trọng gắn hoạt động nghiên cứu khoa học với hoạt động giảng dạy của giảng viên và học tập của
học viên.
Những kết quả đạt được trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng là nguồn động lực kích thích
tính tích cực, tự giác của học viên; đồng thời trực tiếp quyết định đến quá trình phát triển các yếu tố
cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục
quân II hiện nay.
Ba là, chất lượng "đầu vào” của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
từng bước được nâng lên. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên những kết quả đạt
được trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Những năm qua trước sự phát triển của tình hình kinh tế xã hội của đất nước, của quân đội,
vị thế, vai trò của đội ngũ sĩ quan quân đội ngày càng được coi trọng, đã tác động rất lớn đến xu
hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học. Số lượng học
sinh phổ thông có nguyện vọng thi vào học ở Trường sĩ quan Lục quân II ngày càng nhiều. Công
tác tuyển sinh ngày càng được tổ chức chặt chẽ, từ khâu tuyển chọn ngu ồn, đến khâu đánh giá
kết quả thi, tuyển.
Những thuận lợi trên đây đã tạo ra điều kiện để nâng cao chất lượng đầu vào của học viên
đào tạo bậc đại học ở Nhà trường. Những học viên được vào học luôn bảo đảm phẩm chất chính
trị, đạo đức theo tiêu chuẩn quy định, đáp ứng với mục tiêu yêu cầu đào tạo, có tr ình độ tri thức
tương đối toàn diện.
Hiện nay100% học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II đều thông qua thi
tuyển, không có đối tượng cử tuyển, vì vậy trình độ đầu vào của học viên được nâng lên. Định
32

hướng nghề nghiệp của học viên rõ ràng hơn. Đây là những điều kiện thuận lợi để học viên sớm
xác định được động cơ thái độ học đúng đắn, tích cực tự giác trong học tập rèn luyện, nâng cao trình
độ tri thức, khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo của mình.
* Nguyên nhân của những hạn chế
Sự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân II hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ không ít những hạn chế
khuyết điểm, mà nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó là:
Một là, một số cấp uỷ, chỉ huy chưa thật sự coi trọng lãnh đạo công tác nghiên cứu khoa
học; chưa đề ra được những giải pháp cụ thể phát huy vai trò của các cá nhân, đơn vị thuộc quyền
tích cực nghiên cứu khoa học và góp phần phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo, cơ quan quản lý khoa học chưa phát huy hết vai trò trách
nhiệm của mình trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Công tác xây dựng
nội dung, chương trình còn có những bất cập, còn biểu hiện tham nhiều nội dung dẫn đến dồn ép
chương trình. Tính lôgíc trong sắp xếp thứ tự các môn học chưa thật phù hợp với lôgíc của quá
trình nhận thức. Những hạn chế đó làm cho tính "cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu" của nội
dung giáo dục, đào tạo chưa cao; chưa thật phù hợp; phần cơ bản, cơ sở còn nặng, phần chuyên
ngành thời gian ít. Chất lượng chương trình có khoá, có giai đoạn còn bất cập; chưa kịp thời bổ
sung, điều chỉnh nội dung mới vào nội dung chương trình đào tạo. Việc triển khai kế hoạch huấn
luyện còn hạn chế, đôi khi bố trí dồn ép, thiếu tính lôgíc hoặc còn hiện tượng trùng lắp nội dung, địa
điểm... công tác kế hoạch có thời điểm còn trùng quá nhiều nội dung.
Việc xây dựng kế hoạch, sắp xếp thời gian, nội dung chương trình cho học viên tham gia
hoạt động nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chưa tổ chức nhiều hoạt động rèn luyện phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học cho học viên, chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ hoạt động giữa
giảng viên và học viên trong nghiên cứu khoa học.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường tuy có nhiều cố gắng nhưng chất lượng
chưa cao, ứng dụng các đề tài khoa học vào nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên còn nhiều hạn chế. Công tác tuyên truyền, giáo dục
định hướng nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên, học viên tiến hành chưa thường xuyên.
Thực tế hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường cho thấy chỉ một số cán bộ, giảng viên
tích cực nghiên cứu thường xuyên có bài đăng trên tạp chí của Nhà trường, số còn lại rất ít hoặc không
có bài nào. Đặc biệt đối với học viên kể cả số bài viết gửi lên cũng như số bài được đăng tải trong tạp chí
cũng rất hãn hữu. Điều đó có một phần trách nhiệm của các tiểu ban khoa học ở các đơn vị quản lý học
viên, ở ban biên tập và đội ngũ giảng viên chưa thật sự chú trọng định hướng góp ý, giúp đỡ, sửa chữa
những hạn chế khuyết điểm cho họ.
Công tác tổ chức rút kinh nghiệm, hướng dẫn cách lựa chọn đề tài, cách lập luận, l ý giải,
trình bày một đề tài nghiên cứu khoa học cho học viên còn hạn chế, bởi vậy học viên rất lúng túng
khi bước vào viết một công trình nghiên cứu khoa học.
33

Hai là, chất lượng giảng dạy của một số giảng viên chưa cao, việc kết hợp hoạt động giảng
dạy với nghiên cứu khoa học của một số giảng viên còn hạn chế, đã ảnh hưởng rất lớn đến phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Những kết quả đạt được và những hạn chế trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của học viên có nguyên nhân trực tiếp từ chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng
viên.
Những năm qua trước yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan trong thời kỳ mới và quán triệt mục
tiêu yêu, cầu đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo theo tinh thần Nghị quyết
93/ĐUQSTW, chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên Trường sĩ
quan Lục quân II từng bước được nâng lên. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được c òn bộc
lộ không ít những thiếu sót, khuyết điểm. Chất lượng giảng dạy của một số giảng viên, một số bài
giảng chưa cao. Trình độ chuyên môn, độ sâu tri thức của một số giảng viên còn hạn chế, chưa
cập nhật thông tin mới, chưa tích cực nghiên cứu đổi mới nội dung; phương pháp giảng dạy c òn
dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm, kết hợp lý luận với thực tiễn chưa nhuần nhuyễn, kết hợp nội
dung phương pháp, phương tiện giảng dạy có lúc chưa phù hợp. Vì vậy đã hạn chế rất lớn đến
việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức, phát triển khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo của học viên
Một số giảng viên chưa kết hợp chặt giữa hoạt động giảng dạy với nghiên cứu khoa học,
định hướng vấn đề nghiên cứu nội dung bài học và những vấn đề liên quan cần thiết cho học viên
còn hạn chế, phát huy tính tích cực sáng tạo của học viên trong học tập, nghiên cứu chưa cao,
"phương pháp giảng dạy tuy có bước tiến nhưng chưa đồng bộ. Một số giảng viên chưa tích cực
đổi mới phương pháp. Trong quá trình dạy còn xuôi chiều, thiếu cập nhật thông tin, ít ví dụ chứng
minh hoặc ví dụ chứng minh không sát; thiếu kết hợp các phương pháp để truyền đạt nên hạn chế
phát huy tính cực, tự giác, sáng tạo của học viên trong học tập, nghiên cứu"[7, tr. 12].
Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên chưa thật sự gắn chặt và phục vụ đắc lực,
có hiệu quả cho nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên và học tập của học viên.
Một số vấn đề lý luận, thực tiễn dạy học bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay; cả nội
dung và phương pháp chưa được làm rõ. Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phổ biến kinh
nghiệm nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học tiến hành chưa thường xuyên.
Chính vì vậy một số giảng viên hạn chế cả về nội dung, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu
khoa học, đáp ứng với nhu cầu dạy học bậc đại học chưa cao; chưa thật sư tạo được môi trường
thuận lợi cho phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
Những hạn chế trên đây đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục, đào tạo và phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân
II. Nó không chỉ tác động đến tính tích cực, tự giác, nhiệt tình say mê của học viên trong tham gia
các hoạt động nghiên cứu khoa học mà còn trực tiếp tác động đến quá trình phát triển trình độ tri
thức, khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo của học viên.
34

Ba là, chất lượng học viên không đều, tính tích cực của một số học viên chưa cao. Đây là
nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của
học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
Những năm qua mặc dù chất lượng "đầu vào" học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân II có được nâng lên, song không đều và vẫn còn thấp hơn so với mặt bằng chung
của các trường đào tạo bậc đại học khác trong quân đội. Những hạn chế đó bắt nguồn từ nhiệm
vụ đào tạo của Nhà trường và cơ cấu vùng, miền của đội ngũ sĩ quan quân đội trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do yêu cầu nhiệm vụ đào tạo đội ngũ sĩ quan làm nhiệm vụ ở các đơn vị phía Nam;
đối tượng tuyển sinh của Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay được giới hạn địa bàn từ
phía nam đèo Hải Vân trở vào. Nhiều nơi trình độ dân trí thấp, nhận thức về sĩ quan quân
đội chưa đầy đủ. Vì vậy chưa thu hút được đông đảo học sinh khá, giỏi của bậc học phổ
thông đăng ký dư thi vào trường. Nhiều nơi điểm chuẩn hàng năm của học viên vào học ở
trường phải hạ xuống so với các vùng khác từ 3 đến 5 điểm
Trình độ, mặt bằng tri thức hạn chế, chất lượng học viên không đều, đặc biệt là giữa miền
xuôi với miền ngược, giữa con em người Kinh với con em đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là
tri thức về xã hội và khả năng phương pháp tư duy. Những hạn chế bất cập trên đây không những
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiếp thu lĩnh hội tri thức phát triển khả năng phương pháp tư
duy, sáng tạo của học viên, mà nó còn hạn chế tính tích cực, nỗ lực phấn đấu của họ.
Tuy nhiên, ở một số học viên chưa thật sự cố gắng trong phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của mình.
Trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường, trước yêu cầu đòi hỏi cao của quá trình học
tập, rèn luyện; để đáp ứng với yêu cầu phẩm chất năng lực người sĩ quan trong thời kỳ mới, một
số học viên nhận thức chưa đầy đủ, thiếu cố gắng phấn đấu vươn lên. Một số học viên có biểu
hiện ngại học tập, lười suy nghĩ, chưa thật sự chú trọng nâng cao chất lượng học tập và nghiên
cứu khoa học. Không ít học viên có sự mâu thuẫn giữa phát triển, nâng cao trình độ tri thức với ý
thức, trách nhiệm, động cơ thái độ học tập. Bản thân họ muốn nâng cao sự hiểu biết, nhưng lại
thiếu tích cực tự giác trong nghiên cứu học tập và rèn luyện
Những hạn chế trên đây của người học ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ
của họ, là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế trong phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
Những kết quả đạt được, những hạn chế trong quá trình phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên luôn gắn liền với những thuận lợi, những hạn chế của điều kiện khách quan
và nhân tố chủ quan trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
Nắm chắc thực trạng, hiểu rõ nguyên nhân là cơ sở để đề ra giải pháp đúng đắn phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện
nay.
35

2.2. Một số giải pháp cơ bản phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay

2.2.1. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo; nâng cao chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giảng viên
* Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo theo định hướng "cơ bản, hệ
thống, thống nhất, chuyên sâu"
Nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trang
bị cho học viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo và trình tự sắp xếp các nội dung, các môn học trong
từng giai đoạn và cả khoá học, trên cơ sở lôgíc của quá trình nhận thức.
Nội dung chương trình là yếu tố cơ bản, cốt lõi của quá trình giáo dục, đào tạo. Xây dựng
được nội dung chương trình giáo dục, đào tạo đúng đắn, phù hợp là một trong những cơ sở quan
trọng bảo đảm cho học viên tiếp thu, lĩnh hội tốt nhất tri thức, kỹ xảo, kỹ năng trong quá trình học tập
ở trường và có lượng tri thức, phương pháp cần thiết để vận dụng vào nhận thức và giải quyết đúng
đắn những vấn đề thực tiễn, trên cương vị công tác mới sau khi tốt nghiệp ra trường.
Những năm qua, việc đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo ở Trường sĩ quan Lục
quân II đã được triển khai thực hiện và đã đạt được những kết quả nhất định. Song so với yêu cầu
chung của xã hội và yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan quân đội trong thời kỳ mới, nội dung
chương trình giáo dục, đào tạo của Nhà trường cần phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới và hoàn
thiện.
Để tiếp tục đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo học viên bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân II hiện nay cần dựa chắc vào những căn cứ sau.
Một là, căn cứ vào mục tiêu yêu cầu đào tạo và chất lượng "đầu vào" của học viên đào tạo
bậc đại học của Nhà trường hiện nay.
Mục tiêu yêu cầu đào tạo là những tiêu chí cần đạt được của học viên trong quá trình giáo
dục, đào tạo nhăm đáp ứng với cương vị đảm nhiệm của họ sau khi tốt nghiệp ra trường. Đó là
một tổng thể bao gồm những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần thiết để học viên có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ trên cương vị chức trách mới, được đảm nhiệm.
Mục tiêu yêu cầu đào tạo học viên bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay là đào
tạo đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành, có phẩm chất, năng lực toàn diện,
đáp ứng với yêu cầu hoạt động chỉ huy, quản lý, giáo dục, huấn luyện bộ đội; có phương pháp, tác
phong công tác khoa học, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra,
chỉ huy đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong khi đó đối tượng đầu vào của học
viên chủ yếu từ học sinh phổ thông; bên cạnh những mặt tích cực của họ, còn bộc lộ không ít
những hạn chế cả về tri thức, kinh nghiệm, phương pháp và khả năng vận dụng. Đây là những cơ
sở hết sức quan trọng để xác định những nội dung, chương trình phương pháp cần thiết trang bị
cho học viên trong quá trình giáo dục, đào tạo.
Hai là, căn cứ vào chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung của Đảng, Nhà nước và
xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan quân đội nói riêng trong thời kỳ mới.
36

Chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới là hệ thống các quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ CNH, HĐH.
Những quan điểm, chủ trương, chính sách lớn được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của
Đảng và Đảng uỷ Quân sự Trung ương, tập trung trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII và Nghị
quyết 93, Nghị quyết 94 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Những yêu cầu mới về tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ được xác định trong chiến lược, là sự
phản ánh những đòi hỏi về xây dựng đội ngũ cán bộ trước sự phát triển mới của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội, trong bối cảnh t ình
hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp và sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Yêu cầu đó vừa đặt ra đòi hỏi vừa là cơ sở quan trọng của đổi
mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; trong đó, đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung,
chương trình giáo dục, đào tạo là khâu trọng tâm, là một trong những yếu tố cơ bản nhằm xây
dựng và phát triển phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu mới.
Ba là, đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo phải trên cơ sở lôgíc của quá trình
nhận thức của người học
Thực chất lôgíc của nhận thức là những quy luật của quá trình nhận thức; là thứ tự nội
dung, các bước của quá trình nhận thức, bảo đảm nhận thức được tốt nhất các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Lôgíc của quá trình nhận thức là một cơ sở quan trọng trong đổi mới nội dung, chương trình
giáo dục, đào tạo. Nhận thức đúng và tổ chức xây dựng nội dung, chương trình phù hợp với lôgíc
của quá trình nhận thức là một yếu tố cơ bản bảo đảm cho học viên có khả năng lĩnh hội tốt nhất
lượng tri thức, phương pháp, kỹ xảo, kỹ năng được truyền thụ. Ngược lại nếu nội dung, chương
trình không phản ánh không đúng lôgíc của quá trình nhận thức sẽ ảnh hưởng, hạn chế rất lớn
đến quá trình nhận thức của học viên.
Những căn cứ trên đây là cơ sở quan trọng trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình
giáo dục, đào tạo học viên bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay nhằm bảo đảm cho
học viên có khả năng tiếp thu nhanh nhất tri thức, phương pháp, kỹ xảo, kỹ năng cần thiết theo mục
tiêu, yêu cầu đào tạo.
Một số yêu cầu cần đạt được trong đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay:
Một là, phải bảo đảm tính "cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu". Đây là một yêu cầu
cơ bản của đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo của Nhà trường. Nó bảo đảm cho học
viên có một hệ thống tri thức toàn diện, cả tri thức cơ sở, tri thức cơ bản, tri thức chuyên ngành.
Các nội dung giáo dục, đào tạo phải được lựa chọn cấu thành một thể thống nhất, tác động biện
chứng, hỗ trợ cho nhau, tạo tiền đề cho nhau trong quá trình phát triển tri thức của học viên. Nội
dung giáo dục, đào tạo phải bảo đảm tính thiết thực, trang bị cho học viên những tri thức, phương
37

pháp, kỹ xảo, kỹ năng cần thiết của hoạt động quản lý, chỉ huy, lãnh đạo đơn vị cấp phân đội binh chủng
hợp thành.
Hai là, đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phải bảo đảm gắn lý luận với thực
tiễn, lý thuyết với thực hành, coi trọng nâng cao năng lực thực hành cho học viên, trước hết là
năng lực thực hành chỉ huy, quản lý, huấn luyện bộ đội, bảo đảm cho học viên có khả năng vận
dụng lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Đây là một yêu cầu quan trọng phản ánh
mục đích của quá trình giáo dục huấn luyện, là cơ sở để nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động
của người chỉ huy đơn vị cấp phân đội binh chủng hợp thành. Đồng thời đây cũng là một điểm hạn
chế của học viên cũng như cán bộ cấp phân đội hiện nay cần phải khắc phục.
Ba là, đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phải bảo đảm hợp lý giữa thời gian
lên lớp và thời gian tự học, tự nghiên cứu; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên.
Đây là yêu cầu phản ánh tính chất học tập của bậc đại học; là quá trình học tập có tính chất nghiên
cứu của học viên dưới sự định hướng, chỉ đạo của giảng viên, vừa bảo đảm cho học viên nắm chắc nội
dung, học đến đâu hiểu đến đấy, vừa phát huy tính tích cực sáng tạo của họ.
Bốn là, đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phải bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển nâng cao trình độ tri thức với phát triển khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo
của học viên; giữa tính hiện đại với việc kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc, kinh
nghiệm chiến đấu của quân đội qua các thời kỳ. Đặc biệt phải hết sức coi trong bảo đảm tính
chuẩn hoá và tính hiện đại của nội dung, chương trình giáo duc, đào tạo.
Một số biện pháp cơ bản đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo học viên bậc đại
học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
Thứ nhất, đổi mới nội dung chương trình giáo dục đào tạo cần phải cân nhắc cụ thể, tỉ mỉ,
lựa chọn khối kiến thức, kỹ năng hợp lý, phù hợp với yêu cầu đào tạo cán bộ chỉ huy cấp phân đội
binh chủng hợp thành. Không để người học quá dễ dàng trong lĩnh hội tri thức mà chưa cần phát
huy hết nội lực của mình, hoặc nội dung, chương trình quá tải, nhồi nhét đối với học viên làm cho
học viên vừa không có điều kiện, thời gian để nghiên cứu nắm chắc nội dung, vừa gây ức chế
trong quá trình lĩnh hội tri thức. Trước mắt cần tập trung nghiên cứu, rà soát, lọc bỏ hoặc giảm bớt
thời gian của những nội dung, môn học chưa thực sự cần thiết; đồng thời đưa những môn học mới
có ý nghĩa thiết thực vào giảng dạy.
Với đối tượng đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay, việc xây dựng nội
dung, chương trình phải hết sức coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chú trọng
phát triển năng lực thực hành, phương pháp, tác phong chỉ huy và khả năng vận dụng lý luận vào
giải quyết vấn đề thực tiễn nảy sinh trong hoạt động của họ. Vì vậy phải rà soát lại toàn bộ giáo
trình, tài liệu, bài giảng, đề thi, đáp án để có kế hoạch nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh và phân
chia hợp lý giữa lý thuyết với thực hành, giữa các khối kiến thức cơ sở, cơ bản, chuyên ngành. Tăng
cường thời gian thực hành thực tập cho học viên. Nghiên cứu, sắp xếp bố trí trình tự các môn học
phù hợp với lôgíc của quá trình nhận thức của học viên. Tạo điều kiện thuận lợi để học viên lĩnh hội
tốt nhất lượng tri thức, phương pháp, kỹ xảo, kỹ năng cần thiết được trang bị.
38

Hai là, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ và phát huy vai trò các tổ chức, các lực lượng liên
quan tham gia vào nghiên cứu xây dựng, đổi mới nội dung chương trình mà trước hết là cơ quan
huấn luyện, đội ngũ giảng viên, học viên đang trực tiếp giảng dạy và học tập.
Phòng Đào tạo mà trực tiếp là Ban Kế hoạch, là cơ quan trực tiếp quản lý, cùng với các
khoa giáo viên hoạch định nội dung, chương trình đào tạo, cần phải căn cứ và nội dung, chương
trình quy định của trên và tình hình thực tế của Nhà trường cũng như ý kiến đề xuất của các bộ
phận, các lực lượng để xây dựng nội dung chương trình cho từng khoá học. Đồng thời thường
xuyên tổ chức rút kinh nghiệm, bổ sung kế hoạch đào tạo sát với thực tế của quá tr ình dạy học và
mục tiêu yêu cầu đào tạo.
Đội ngũ cán bộ quản lý trực tiếp học viên, bám sát hoạt động học tập của học viên, kịp thời phát
hiện và có ý kiến phản ánh về chất lượng, hiệu quả học tập của học viên trên cơ sở nội dung chương
trình đã xác định trong quá trình đào tạo.
Đội ngũ giảng viên, lực lượng trực tiếp thực hiện nội dung, chương tr ình đào tạo, thông qua
hoạt động giảng dạy của mình và chất lượng học tập của học viên; kịp thời phát hiện những bất
cập trong việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, đề xuất ý kiến để ngày càng hoàn thiện.
Học viên là khách thể của quá trình đào tạo, đồng thời là chủ thể của quá trình nhận thức. Vì
vậy, phát huy vai trò của đội ngũ học viên trong xây dựng nội dung chương trình giáo dục đào tạo
có một ý nghĩa hết sức quan trọng, phần nào tránh được sai sót trong kết cấu nội dung chương
trình như quá tải hoặc không vừa sức, chưa đáp ứng được nhu cầu nhận thức hoặc thiếu lôgíc...
Vì vậy phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đề đạt của học viên để từng bước xây dựng hoàn thiện
nội dung, chương trình là một vấn đề cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên.
Phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng; thông qua thực tiễn hoạt động quản lý,
giảng dạy, học tập là giải pháp có ý nghĩa quyết định đến việc đổi mới, hoàn thiện, nâng cao chất
lượng nội dung chương trình giáo dục, đào tạo học viên bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
hiện nay.
* Tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên ở Trường sĩ quan Lục quân
II hiện nay
Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là kết quả tác động biện chứng của
nhiều yếu tố, trong đó nổi lên hai yếu tố cơ bản là: nâng cao chất lượng nội dung bài giảng và đổi
mới nâng cao phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên.
Nâng cao chất lượng nội dung bài giảng trước hết phải tập trung nâng cao trình độ tri thức
cho đội ngũ giảng viên, bảo đảm cho giảng viên có tri thức sâu sắc về môn học, về nội dung bài
giảng mà mình đảm nhiệm. Có như vậy giảng viên mới làm chủ được nội dung, mới lựa chọn
được những tri thức cần thiết truyền đạt cho học viên trong mỗi bài giảng. Chất lượng bài giảng sẽ
không cao, nếu giảng viên chưa nắm chắc nội dung bài giảng của m ình. Một vấn đề quan trọng
trong chất lượng nội dung bài giảng là phải bảo đảm sự thống nhất giữa l ý luận và thực tiễn. Phải
làm rõ lý luận đó nhằm để soi sáng, để giải quyết thực tiễn nào và thực tiễn đó đã vận dụng lý luận
đến đâu. Xét cho cùng, mọi vấn đề lý luận trong một bài giảng cũng đều hướng vào giải quyết vấn
39

đề thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Tách rời thực tiễn bài giảng sẽ trở nên trống
rỗng, chết cứng và không đạt được mục đích. Tuy nhiên mỗi đối tượng khác nhau, mỗi bài giảng
khác nhau việc kết hợp lý luận với thực tiễn không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy trong quá trình
chuẩn bị nội dung bài giảng cũng như quá trình giảng giải phân tích, chứng minh, giảng viên cần
phải lựa chọn sự kết hợp một cách hợp lý có tính thuyết phục cao. Đồng thời, trong nội dung định
hướng nghiên cứu cho học viên, cần khêu gợi để học viên vận dụng lý luận vào giải quyết những
vấn đề thực tiễn có liên quan, kích thích sự tìm tòi sáng tạo của họ.
Thực tiễn cuộc sống và hoạt động xây dựng, chiến đấu của quân đội ta không ngừng phát
triển. Vì vậy đòi hỏi giảng viên phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi bổ sung bài giảng của mình
cả về lý luận và thực tiễn. Giảng viên không nên thoả mãn với bài giảng của mình m à cần phải
luôn bổ sung điều chỉnh sau mỗi lần giảng, mỗi năm học, kịp thời cập nhật thông tin để ngày càng
hoàn thiện hơn.
Cùng với nâng cao chất lượng nội dung bài giảng, giảng viên cần coi trọng đổi mới phương
pháp giảng dạy. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chất lượng giảng dạy của giảng
viên.
Giảng viên có phương pháp giảng dạy tốt không những bảo đảm cho học viên tiếp thu lĩnh
hội nhanh chóng tri thức mà còn kích thích tính tích cực, tự giác say mê, sáng tạo của họ. Trong
phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp phát triển giáo dục, đào tạo đến năm 2010, Nghị
quyết đại hội Đảng bộ Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII chỉ rõ: "Đổi mới phương pháp dạy học
phù hợp với cấp đào tạo và đối tượng học viên. Tổ chức lớp học l ý thuyết và thực hành cả khi dạy
học, luyện tập theo hướng chia nhỏ, luyện nhiều, đúng đối tượng. Khuyến khích và tạo điều kiện
phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của người học, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào
tạo, gắn lý luận với thực tiễn, lý thuyết với thực hành, lấy thực hành làm chính cả trong dạy và học,
coi trọng kinh nghiệm truyền thống, coi trọng rèn luyện thực hành, kết hợp giảng dạy, học tập với
nghiên cứu khoa học..." [6, tr. 17].
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của
học viên đòi hỏi giảng viên phải nắm vững và vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy trong
thực hiện bài giảng của mình. Căn cứ vào đối tượng học viên, vào phương tiện dạy học, nội dung
bài giảng và từng phần cụ thể để lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp. Phải biết kết hợp
nhiều phương pháp giảng dạy trong một bài giảng. Coi trọng dạy cho học viên nắm vững phương
pháp tiếp cận vấn đề, xử lý thông tin trong từng nội dung cụ thể, đặc biệt là những vấn đề trọng
tâm, cốt lõi của bài giảng.
Một bài giảng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau song phải bảo đảm tính lôgíc
của vấn đề, phải kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn trong từng nội dung cũng nh ư toàn bộ bài
giảng. Cần coi trọng sử dụng phương pháp dạy học tích cực lôi cuốn người học tham gia vào quá trình
giảng dạy.
Sự tác động biện chứng của nội dung, phương pháp, phương tiện tạo nên chất lượng giảng
dạy của đội ngũ giảng viên. Thiếu một trong những yếu tố trên đây hoặc thiếu sự kết hợp chặt chẽ sẽ
40

làm cho chất lượng bài giảng không cao. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ
giảng viên cần phải coi trọng đến tất cả các yếu tố, trước hết là nâng cao trình độ tri thức chuyên
môn và khả năng phương pháp sư phạm của giảng viên.
Mâu thuẫn lớn nhất hiện nay trong đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ
giảng viên là giữa số lượng giảng viên chưa đủ biên chế, với việc giảng dạy cho nhiều lớp, nhiều
đối tượng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao.
Giải quyết mâu thuẫn trên đây trước hết phải coi trọng lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí,
sắp xếp số lượng giảng viên đáp ứng với yêu cầu biên chế giảng dạy. Có như vậy mới có thể bố trí
sắp xếp giảng viên giảng dạy theo đúng chuyên ngành đào tạo, mới tạo cho giảng viên có điều
kiện vừa giảng dạy vừa học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn. Khắc phục tình trạng
hiện nay, lượng giờ giảng của giảng viên quá lớn, trong khi đó quỹ thời gian tự học, tự nghiên cứu
tài liệu phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học lại rất hạn chế.
Trong điều kiện Nhà trường hiện nay, để nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng
viên cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc đưa giảng viên đi bồi dưỡng, đào tạo ở các học
viện, Nhà trường trong và ngoài quân đội với công tác tự đào tạo, tự bồi dưỡng giảng viên tại chỗ.
Đây là giải pháp quan trọng vừa có ý nghĩa thiết thực trước mắt vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài.
Đặc biệt phải hết sức coi trọng công tác bồi dưỡng giảng viên tại chỗ, thông qua các hình thức cụ
thể như: tập huấn, hội thao, hội thi, học tại chức, nhất là thông qua bài giảng của giảng viên. Bằng
những hình thức đó vừa thống nhất được nội dung vừa nâng cao trình độ tri thức, phương pháp
sư phạm cho giảng viên, nhất là những giảng viên mới.
Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên là cả một quá trình. Vì vậy, phải
thường xuyên coi trọng công tác tổ chức rút kinh nghiệm cho giảng viên; tổ chức đối thoại giữa
giảng viên với học viên và cán bộ quản lý, qua đó để giảng viên nắm được thực chất yêu cầu của
học viên và khả năng giảng dạy của mình, từ đó giảng viên tìm ra những giải pháp cụ thể, những
điều chỉnh, đổi mới để không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy.
Cùng với những biện pháp trên đây, phải chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa công tác tuyên
truyền giáo dục với những chính sách cụ thể tạo động lực cho giảng viên; tạo cho họ say mê gắn
bó với nghề nghiệp; trân trọng, giữ gìn danh dự cao đẹp của nghề "nhà giáo"; tích cực học tập rèn
luyện nâng cao năng lực giảng dạy của mình.
Tóm lại, tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giảng viên là một giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học nói riêng ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay. Đây là giải pháp đ òi hỏi phải có
sự kết hợp chặt chẽ và đề cao trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi lực lượng mà trước hết là cấp uỷ
đảng các cấp, đội ngũ giảng viên và cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo. Phải có sự kết hợp chặt
chẽ giữa công tác tư tưởng - công tác tổ chức và công tác chính sách của Nhà trường.
41

2.2.2. Tạo điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học thuận lợi cho phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
hiện nay
Điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường vừa là điều kiện bảo đảm, vừa
là động lực thúc đẩy học viên tích cực học tập, rèn luyện, phát triển năng lực nghiên cứu khoa học
của mình.
Tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên là kết quả tổng hợp của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng và nhiều hoạt động của Nhà trường,
đồng thời là kết quả của sự quan tâm chỉ đạo, định hướng của cấp trên. Chính v ì vậy vấn đề có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu là phải tạo được sự thống nhất về nhận thức, đề cao trách nhiệm của
mọi tổ chức, mọi lực lượng. Làm cho mọi đối tượng nhận thức đúng đắn vai trò của hoạt động
nghiên cứu khoa học và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Trên cơ sở đó,
phát huy vai trò của họ tham gia tích cực vào quá trình phát triển đó. Đây là yêu cầu quan trọng
xuất phát từ thực tiễn nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trường, đồng thời là cơ sở để phát huy
sức mạnh tổng hợp, tạo sự đồng bộ trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Yêu cầu đó đòi hỏi không chỉ thể hiện trong các văn bản, nghị quyết mà còn phải được thể hiện
bằng các hoạt động và việc làm cụ thể.
Đối với các cấp uỷ Đảng, nhất là tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị quản lý, giáo dục, đào tạo,
phải thật sự coi hoạt động lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên là một nhiệm vụ trung tâm gắn liền với hoạt động chuyên môn nghiệp
vụ của mình. Thường xuyên quan tâm lãnh đạo định hướng nội dung, lĩnh vực hoạt động nghiên
cứu khoa học cho đơn vị và phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên. Lấy kết quả thực hiện đó làm một nội dung đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm
vụ của tổ chức đảng và đảng viên. Trên cơ sở sự lãnh đạo của tổ chức đảng, người chỉ huy các
cấp phải cụ thể hoá bằng các chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch và phân công giao nhiệm vụ cho các cơ
quan, đơn vị, cá nhân thuộc quyền tổ chức thực hiện có hiệu quả. Phải thường xuyên coi trọng và
thực hiện tốt công tác tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá đúng thực chất kết quả thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học của đơn vị và hiệu quả tham gia vào quá trình phát triển năng lực nghiên
cứu khoa học của học viên, kịp thời đề ra những biện pháp cụ thể để khắc phục thiếu sót khuyết
điểm.
Tổ chức tốt các hoạt động nghiên cứu khoa học, là một yếu tố cơ bản tạo nên điều kiện, môi
trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường, một yếu tố thường xuyên và có tác động to lớn đến
phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh công
tác nghiên cứu khoa học... gắn nghiên cứu khoa học với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và các hoạt
động của Nhà trường. Tham gia nghiên cứu tổng kết phát triển khoa học nghệ thuật quân sự cấp
phân đội. Xây dựng quy chế hoạt động khoa học, công nghệ trong Nhà trường, hướng hoạt động
nghiên cứu khoa học công nghệ tập trung giải quyết những mâu thuẫn đặt ra trong huấn luyện,
42

nhất là những thủ đoạn tác chiến mới của địch để đưa vào huấn luyện sát gần thực tế chiến tranh
trong tương lai và việc đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện đại học quân sự. Giáo dục cho
cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu
khoa học" [6, tr. 18].
Thực hiện phương hướng lãnh đạo trên đây đòi hỏi các cơ quan đơn vị trong Nhà trường
phải đề cao trách nhiệm của mình. Trước hết Phòng Đào tạo và Phòng Khoa học là những cơ
quan chủ trì tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học phải có sự quan hệ chặt chẽ trong xây
dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện. Thường xuyên coi trọng định hướng nội dung, lĩnh vực
nghiên cứu cho các cơ quan, đơn vị. Tham mưu cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường giao đề
tài nghiên cứu cho các đơn vị, đồng thời tạo điều kiện về lực lượng, thời gian và cơ sở vật chất, tài
liệu cho các đơn vị hoàn thành nội dung nghiên cứu của mình. Trong những đề tài nhất định, có
thể kết hợp nhiều cơ quan đơn vị cùng tham gia nghiên cứu, nếu có điều kiện lựa chọn một số học
viên cùng tham gia vừa bảo đảm cho thành công của đề tài nghiên cứu vừa kích thích sự nỗ lực
cố gắng của các đơn vị và thu hút sự quan tâm của học viên đến nghiên cứu khoa học. Việc định
hướng lựa chọn đề tài nghiên cứu phải hết sức coi trọng tính thực tiễn, tính hiệu quả, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo theo mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Cần chú trọng
khuyến khích nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp đến đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy
của đội ngũ giảng viên và chất lượng học tập và nghiên cứu khoa học của học viên. Thường xuyên thông
tin kịp thời những thành tựu đạt được của nghiên cứu khoa học nhất là khoa học quân sự của thế giới và
trong nước, những kết quả đạt được trong hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường, làm cơ sở
cho các cơ quan đơn vị, nhất là các khoa giáo viên kế thừa, vận dụng và nghiên cứu phát triển phục vụ
cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học
Coi trọng và tổ chức tốt các hoạt động nghiên cứu khoa học cho học viên như diễn đàn, thực
hành, thực tập và làm khoá luận tốt nghiệp... Đây là những hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng
vừa tạo ra phong trào hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên vừa phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của họ
Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của
Nhà trường là hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên. Đây là một hoạt động cơ
bản của giảng viên ở các trường đại học nói chung, giảng viên Trường sĩ quan Lục quân II nói
riêng. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên không chỉ góp phần quan
trọng phát triển tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết cho giảng viên, nâng cao chất lượng giảng dạy,
mà còn trực tiếp tác động đến tính tích cực hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên. Trong phương
hướng xây dựng đội ngũ giảng viên, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII đã
xác định những yêu cầu về phẩm chất năng lực của đội ngũ giảng viên trong đó cùng với những yêu cầu
xây dựng về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị... đòi hỏi giảng viên phải: "có tư duy độc lập sáng tạo
say mê học tập, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và giảng dạy, công tác, có tâm huyết với nghề nghiệp"
[7, tr. 19].
43

Thực hiện phương hướng xây dựng trên đây đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải có nhận thức
đúng đắn về vị trí vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học, tham gia tích cực vào các hoạt động
nghiên cứu khoa học của Nhà trường; gắn nghiên cứu khoa học với quá trình giảng dạy, lấy kết
quả đạt được của hoạt động đó làm một tiêu chí cơ bản đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
của bản thân mình.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên trước hết phải gắn chặt và phục vụ
cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, đổi mới nội dung phương pháp, nâng cao chất lượng bài
giảng của mình. Bài giảng của giảng viên là một công trình khoa học, là kết quả của quá trình học
tập, nghiên cứu và sáng tạo của giảng viên. Chất lượng tốt của một bài giảng không chỉ là điều
kiện để học viên tiếp thu, lĩnh hội tri thức nhanh chóng mà còn tác động to lớn kích thích tính tích
cực sáng tạo của học viên trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Đội ngũ giảng viên là lực lượng chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường;
tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên là những mẫu mực để học viên học tập. Chính vì vậy
trong quá trình giảng dạy cùng với việc nghiên cứu đổi mới nội dung phương pháp, nâng cao chất
lượng giảng dạy, giảng viên phải hết sức coi trọng và thực hiện tốt nội dung, kế hoạch nghiên cứu khoa
học của Nhà trường, của khoa và của chính bản thân mình, đồng thời tích cực nghiên cứu phát hiện
những vấn đề mới nảy sinh, những bất cập trong hoạt động thực tiễn giáo dục, đào tạo của Nhà
trường, trên cơ sở đó nghiên cứu đề xuất giải pháp khắc phục và góp phần phát triển tri thức mới.
Coi trọng và phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên trong việc định hướng giúp đỡ các lực
lượng tham gia nghiên cứu khoa học nhất là đội ngũ học viên. Hướng dẫn cho họ cách thức phát
hiện vấn đề lựa chọn đề tài nghiên cứu, phương pháp lập luận, lý giải, trình bày một đề tài nghiên
cứu khoa học làm cơ sở cho họ vận dụng vào hoạt động nghiên cứu trong quá tr ình học tập công
tác của mình.
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý học viên, đây là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình
giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của Nhà trường.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của họ là một yếu tố quan trọng tạo nên điều kiện, môi
trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường, trực tiếp tác động đến quá trình phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên. Chính vì vậy đòi hỏi phải phát huy vai trò của họ trong hoạt
động nghiên cứu khoa học. Thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ quản lý
học viên ở Trường sĩ quan Lục quân II những năm qua đã có bước phát triển, công tác quản lý,
giáo dục rèn luyện học viên có nhiều đổi mới, tuy nhiên việc nghiên cứu, tổng kết, khái quát thành
những đề tài khoa học còn nhiều hạn chế. Chưa có một đề tài nghiên cứu nào của đội ngũ cán bộ
quản lý học viên có tính chất hệ thống được phổ biến trong toàn trường. Nhận thức về hoạt động
nghiên cứu khoa học của một số cán bộ quản lý học viên còn chưa đầy đủ, chưa thực sự là một
nguồn động lực thúc đẩy học viên trong nghiên cứu khoa học và phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học.
Khắc phục những hạn chế trên đây cần phải đánh giá đúng vị trí vai trò của đội ngũ cán bộ
quản lý học viên, nâng cao hơn nữa nhận thức của họ về hoạt động nghiên cứu khoa học. Xây
44

dựng kế hoạch, định hướng nội dung, giao đề tài nghiên cứu khoa học cho họ. Gắn nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học với hoạt động quản lý, giáo dục, huấn luyện, rèn luyện học viên. Khuyến
khích đội ngũ cán bộ đi sâu nghiên cứu đề xuất giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng quản lý,
giáo dục, huấn luyện và xây dựng đơn vị. Đề cao và phát huy vai trò của họ trong tổ chức hoạt
động thực tiễn của học viên; kết hợp chặt chẽ với giảng viên góp phần nâng cao trình độ tri thức,
năng lực, phương pháp tư duy và khả năng vận dụng sáng tạo của học viên trong hoạt động thực
tiễn.
Là người trực tiếp quản lý học viên, đội ngũ cán bộ quản lý cần thường xuyên quan tâm,
theo dõi, định hướng, giúp đỡ học viên trong quá trình tham gia thực hiện các đề tài nghiên cứu
khoa học, nhất là những học viên làm khoá luận tốt nghiệp.
Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học cho học viên; tạo ra phong trào thi đua nghiên
cứu khoa học của học viên là một nhiệm vụ quan trọng của Nhà trường, là một yếu tố cơ bản tạo
nên điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy các tổ chức, các lực lượng trong
Nhà trường, trước hết là cơ quan Phòng Đào tạo, Phòng Khoa học, các khoa giáo viên và đội ngũ
cán bộ quản lý học viên phải có sự kết hợp chặt chẽ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho học viên tham
gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, kích thích tính tích cực, tự giác nghiên cứu khoa học của
họ.
Điều kiện môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường là một tổng thể bao gồm nhiều
yếu tố tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó điều kiện cơ sở vật chất, tài liệu và chính sách đãi
ngộ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt
động nghiên cứu khoa học của Nhà trường và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên những năm qua có phần ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố đó. Chính vì vậy trong Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII đã nhấn mạnh: "Bảo đảm cơ sở vật chất, tài
liệu, bám sát yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và sự phát triển của Nhà trường...", "có chính
sách phù hợp để động viên cán bộ, giáo viên, học viên, nhân viên chuyên môn kỹ thuật tích cực
tham gia nghiên cứu khoa học" [6, tr. 18].
Thực hiện phương hướng chỉ đạo trên đây cần phải nắm chắc khả năng thực tế và sự chỉ
đạo định hướng của trên để xây dựng kế hoạch bảo đảm phục vụ cho nhiệm vụ trước mắt và lâu
dài theo hướng hiện đại, thiết thực, hiệu quả và đồng bộ. Trước mắt cần tập trung bảo đảm đủ tài
liệu, vật chất huấn luyện và nghiên cứu khoa học của Nhà trường với cách thức tiến hành là kết
hợp đề nghị cấp trên bổ sung với phát huy nội lực của Nhà trường. Rà soát lại hệ thống giáo trình,
tài liệu, thao trường, giảng đường, học cụ, kịp thời bổ sung về số lượng, nâng cao về chất lượng đáp
ứng với nhu cầu nghiên cứu giảng dạy của giảng viên và học tập nghiên cứu của học viên. Trên cơ sở
nắm vững nguồn giáo trình, tài liệu trên cấp, phải hết sức coi trọng công tác tự nghiên cứu in ấn tài liệu
nhất là những nội dung mới, những nội dung chưa có giáo trình chuẩn. Phát huy vai trò của đội ngũ cán
bộ, giảng viên, học viên, chuyên môn kỹ thuật từng bước hoàn thiện mô hình, học cụ, thao trường, bãi
tập, đáp ứng với yêu cầu huấn luyện sát với thực tế chiến đấu và yêu cầu của chiến tranh trong tương lai.
45

Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, nâng cao chất lượng của phòng học chuyên dùng, phòng phương pháp ở
các khoa và phòng đọc ở các tiểu đoàn học viên
Cùng với những biện pháp trên đây phải tiếp tục hoàn thiện quy chế hoạt động và có chính
sách đãi ngộ phù hợp cả về vật chất và tinh thần tương xứng với giá trị của hoạt động nghiên cứu
khoa học. Kích thích các lực lượng trong toàn trường tích cực nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, không
ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả học tập và công tác
2.2.3. Phát huy tính tích cực tự giác của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học
Tính tích cực tự giác của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là yếu tố
cơ bản trong quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mỗi học viên. Điều kiện khách
quan dù thuận lợi đến đâu, nếu bản thân người học thiếu tích cực tự giác thì hiệu quả phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của họ cũng sẽ không cao; bởi lẽ đó chính là quá tr ình bản thân
người học tự phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình. Học viên vừa là người tích cực,
chủ động đề ra kế hoạch, nội dung, chương trình, mục tiêu, biện pháp phát triển nghiên cứu khoa
học, vừa là người thực hiện nội dung chương trình đó. Phát huy tính tích cực, tự giác của học viên
trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là quá trình hướng nội nhằm biến đổi nhận thức,
tình cảm, ý chí của bản thân họ. Quá trình đó, người học phải tự giải quyết những mâu thuẫn bên
trong trước yêu cầu phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của mình.
Tính tích cực tự giác của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là kết quả
của quá trình phát triển nhận thức của chính bản thân họ về vị trí vai trò của phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học và sự tác động của các yếu tố bên ngoài tạo thành động lực cho họ. Chính vì
vậy, phát huy tính tích cực, tự giác của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II
hiện nay trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cần chú trọng một số biện pháp cơ bản
sau đây:
Một là, giáo dục nâng cao nhận thức, thái độ, động cơ phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học đúng đắn cho học viên.
Nhận thức, thái độ, động cơ phát triển nghiên cứu khoa học đúng đắn, rõ ràng sẽ tạo cho
học viên có ý thức, trách nhiệm cao, có khả năng huy động tốt nhất những phẩm chất tâm lý, ý chí,
quyết tâm vươn lên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học; là cơ sở để người học say mê,
nhiệt tình, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn vươn lên trên con đường chiếm lĩnh tri thức, phát
triển năng lực tư duy và khả năng sáng tạo. Đó cũng chính là những biểu hiện cao nhất tính tích
cực, tự giác trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên. Chính vì vậy cần phải
thường xuyên coi trọng và bằng nhiều biện pháp giáo dục cho học viên nhận thức đúng đắn đặc
điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta
trong giai đoạn hiện nay và vị trí vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học đối với việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đó. Làm cho học viên thấy được tầm
quan trọng của phát triển năng lực nghiên cứu khoa học đối với việc phát triển các phẩm chất năng lực
của người học viên và kết quả thực hiện nhiệm vụ trong quá trình giáo dục, đào tạo cũng như trên cương
46

vị công tác sau này. Trên cơ sở đó xây dựng cho học viên có thái độ đúng đắn đối với phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học; coi sự phát triển đó là trách nhiệm của mỗi học viên. Khắc phục tư tưởng tự ty của
học viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Làm cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học trở thành nhu cầu bên trong của họ.
Hai là, tăng cường tổ chức các hoạt động thực tiễn cho học viên
Hoạt động thực tiễn là môi trường thuận lợi cho mỗi học viên tự khẳng định mình, làm nảy
sinh ở họ nhu cầu tích cực, tự giác phấn đấu vươn lên chiếm lĩnh tri thức, phát triển khả năng
phương pháp tư duy, sáng tạo để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Thực tiễn không chỉ là nơi
kiểm nghiệm đánh giá nhận thức, năng lực của mỗi học viên, mà còn là "mảnh đất" hiện thực sinh
động, kích thích lòng say mê, nhiệt tình sáng tạo của họ. Càng tham gia nhiều hoạt động thực tiễn
bao nhiêu, những vấn đề mới càng nảy sinh bấy nhiêu và càng thôi thúc họ tích cực nghiên cứu,
tìm tòi, khám phá. Chính vì vậy trong quá trình giáo dục, đào tạo phải hết sức chú trọng tổ chức
hoạt động thực tiễn cho học viên.
Trong từng năm học, từng nhiệm vụ cụ thể, trên cơ sở nội dung chương trình đào tạo, các cơ
quan chức năng, khoa giáo viên, đội ngũ cán bộ giảng dạy, quản lý học viên cần phải có sự kết hợp chặt
chẽ; xác định nội dung, xây dựng kế hoạch và tổ chức tốt hoạt động thực tiễn cho học viên và thường
xuyên theo dõi động viên, giúp đỡ học viên thực hiện đúng nội dung kế hoạch đã xác định. Sau mỗi hoạt
động của học viên phải có sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, biểu dương kịp thời những sáng
kiến hay, những kết quả tốt của học viên.
Hoạt động thực tiễn của học viên là một nội dung rộng lớn bao gồm nhiều hoạt động cụ thể
khác nhau, trong đó cần coi trọng và tổ chức thực hiện tốt một số hoạt động cơ bản sau đây:
Trong quá trình giảng dạy, nhất là các bộ môn quân sự cần phải tăng cường đưa học viên
vào các tình huống cụ thể. "Đặt" học viên vào các cương vị phù hợp với nội dung huấn luyện để tự
họ vận dụng nguyên tắc, lý luận vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đề xuất phương án giải
quyết. Đây là một hình thức huấn luyện có ý nghĩa hết sức cơ bản, vừa đưa học viên vào sát với
tình huống chiến đấu, vừa kích thích tính tích cực, tự giác nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo của họ.
Đồng thời, cùng một tình huống thực tiễn ấy thu hút được nhiều học viên tham gia nghiên cứu.
Một nội dung quan trọng trong tổ chức hoạt động thực tiễn cho học viên là thường xuyên coi
trọng tổ chức thực hành thực tập cho họ. Mạnh dạn giao cho học viên đảm nhiệm các cương vị chỉ
huy đơn vị theo mục tiêu yêu cầu của từng năm học. Giao cho họ quyền chủ động chỉ huy, quản l ý
và tổ chức các hoạt động của đơn vị. Đội ngũ cán bộ, giảng viên chỉ đóng vai trò tham mưu định
hướng cho họ. Thông qua hoạt động đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa đòi hỏi học viên phải tích cực, tự
giác tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của mình.
Cùng với những hoạt động trên đây, cần phải thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động ở
đơn vị như hội thảo, diễn đàn, mạn đàm, trao đổi, khuyến khích học viên tích cực tham gia. Đây
cũng chính là những biểu hiện của hoạt động nghiên cứu khoa học. Thông qua các hoạt động đó
với những chủ đề, nội dung thiết thực cụ thể, làm cho học viên nhận thức đúng đắn về nghiên cứu
khoa học và vị trí vai trò của họ đối với hoạt động nghiên cứu khoa học. Tạo cho học viên có niềm
47

tin, từ đó tích cực học tập, nghiên cứu để không ngừng nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học
của mình.
Ba là, phát huy tốt dân chủ, tôn trọng ý kiến của học viên về những vấn đề khoa học.
Phát triển năng lực con người nói chung, năng lực nghiên cứu khoa học nói riêng là một quá
trình vận động từ thấp đến cao từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện. Đối với phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân I I hiện
nay chỉ mới ở giai đoạn đầu trong quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học. Do đó, trong
hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên thường đạt kết quả chưa cao. Chính vì vậy việc phát
huy dân chủ, tôn trọng ý kiến của học viên, tranh luận thẳng thắn, cởi mở những vấn đề khoa học
có ý nghĩa hết sức quan trọng, kích thích tính tích cực của học viên trong hoạt động nghiên cứu khoa
học và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học. "Khoa học cần có bầu không khí dân chủ, tự do tư
tưởng, vì chỉ trong môi trường ấy, nhà khoa học mới có thể suy nghĩ độc lập và đi đến cùng sự tìm tòi,
sáng tạo; lý luận khoa học không thể phát triển nếu tư tưởng không được giải phóng, nếu thiếu thảo luận,
tranh luận." [2, tr. 29]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: "Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều
đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng đề ra sáng kiến. Những
sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo" [18,
tr. 244].
Một thực tế của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay là rất
ngại thảo luận, tranh luận những vấn đề khoa học với cán bộ giảng viên: bởi họ cho rằng mình là
người học; mọi tri thức của thầy của cán bộ cấp trên bao giờ cũng đúng đắn khoa học hơn. Từ đó
không chịu khó đi sâu nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu vấn đề một cách sâu sắc. Ngược lại một số
ít cán bộ giảng viên có biểu hiện tư tưởng áp đặt coi tri thức của m ình luôn là đúng đắn không chịu
khó nghiên cứu cách lập luận, lý giải, trình bày ý kiến của người học; thậm chí còn có biểu hiện
không thoải mái khi ý kiến của người học trái ngược với ý kiến của chính mình. Thực tế trên đây
đã ảnh hưởng rất lớn đến việc phát huy tính tích cực tự giác của học viên trong hoạt động nghiên
cứu khoa học và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của họ.
Vì vậy phát huy dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học phải được xây dựng từ hai
phía: cả người dạy, người quản lý và người học. Trước những vấn đề khoa học mọi người đều
bình đẳng, tự do tư tưởng, tranh luận thẳng thắn. Những ý kiến tranh luận của học viên có thể
đúng hoặc chưa đúng, có thể đầy đủ hoặc chưa đầy đủ đều phải được tôn trọng. Phủ nhận một
ý kiến nào đó của học viên phải bằng cách lập luận, lý giải chặt chẽ, có cơ sở khoa học hơn,
không được áp đặt chủ quan hoặc xem thường ý kiến của họ. Đối với những học viên có những
tư tưởng mới, những giải pháp hay cần phải được khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi
để họ tiếp tục nghiên cứu phát triển.
Bốn là, có chính sách cụ thể, khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần đối với hoạt động
nghiên cứu khoa học của học viên.
Động lực thúc đẩy tính tích cực tự giác phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay không chỉ phụ thuộc vào việc
48

nâng cao nhận thức, vào môi trường dân chủ, mà còn phụ thuộc rất lớn vào chính sách đãi ngộ
về vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của họ. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Trường sĩ quan Lục quân II khoá VIII đã nhấn mạnh: "Có chính sách phù hợp động viên cán bộ,
giáo viên, học viên, nhân viên chuyên môn kỹ thuật tích cực tham gia nghiên cứu khoa học"[6,
tr.12]. Thực chất của việc khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học là sự giải quyết mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa đào tạo và sử dụng
con người, vạch ra mục tiêu hoạt động cho họ, tạo ra động lực cho tính tích cực của mỗi học
viên.
Thực hiện chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần đối với hoạt động nghiên cứu
khoa học của học viên, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là phải làm tốt công tác thông tin,
tuyên truyền biểu dương khen thưởng những học viên có thành tích trong hoạt động nghiên cứu
khoa học. Một bài viết hay, một giải pháp tốt nếu chỉ nằm trong sách vở tài liệu sẽ ít người biết đến
và tác dụng giáo dục sẽ không cao. Chính thông qua hoạt động thông tin tuyên truyền không chỉ có
tác dụng nêu gương sáng cho mọi người học tập, mà bản thân những học viên có thành tích họ
càng cảm thấy vinh dự, tự hào và nỗ lực phấn đấu nhiều hơn. Bên cạnh đó cần phải coi trọng xây
dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách đãi ngộ, sử dụng theo hướng phát huy tính tích cực
nghiên cứu khoa học của học viên. Trong khả năng có thể cần phải nâng mức thù lao cao hơn nữa
đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là những nghiên cứu khoa học của học viên, bởi lẽ
đây là đối tượng, mục đích của quá trình đào tạo. Đồng thời đưa nghiên cứu khoa học của học
viên thành một tiêu chuẩn ưu tiên trong xem xét, đề bạt, phong quân hàm, phân công công tác sau
khi học viên tốt nghiệp ra trường.
Tính tích cực tự giác của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là quá
trình diễn ra bên trong của chính người học dưới tác động của các yếu tố bên ngoài, đồng thời nó
là kết quả sự nỗ lực chủ quan của mỗi học viên. Con người càng trưởng thành về mặt x ã hội thì
vai trò năng động chủ quan càng có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển năng lực của
họ. Chính vì vậy, bản thân mỗi học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay
phải tự tạo ra cho mình nhu cầu, động cơ, mục tiêu phấn đấu; phải tự chiến thắng chính bản thân
mình để phấn đấu vươn lên. Mỗi học viên phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện đức tính ham học,
cầu tiến bộ vươn tới cái mới. Không thoả mãn dừng lại với những kết quả đạt được mà phải xem
đó là tiền đề, là điều kiện thuận lợi trên con đường phát triển năng lực của m ình. Phải thường
xuyên rèn luyện cho mình đức tính cần cù, chịu khó trong học tập, nghiên cứu, kiên quyết khắc
phục những biểu hiện của tư tưởng tự cao, tự đại, bởi đó chính là kẻ thù nguy hiểm bên trong k ìm
hãm sự phấn đấu vươn lên của mỗi học viên. Sinh thời V. I. Lênin và Hồ Chí Minh thường phê
phán gay gắt những cán bộ, đảng viên mắc "thói kiêu ngạo cộng sản" từ đó không chịu khó học
tập, rèn luyện và tu dưỡng.
Cổ nhân đã dạy: sự học là vô bờ, học không biết chán. Mỗi học viên phải thấm nhuần lời
dạy của V. I. Lênin: " Học, học nữa, học mãi", đồng thời phải thường xuyên học tập và rèn luyện
theo gương Bác Hồ vĩ đại: Chỉ có một thứ "ham" đó là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
49

Cũng với việc rèn luyện những đức tính trên, mỗi học viên cần phải tự xây dựng và nghiêm
túc thực hiện kế hoạch học tập, nghiên cứu của mình, chủ động dành thời gian thường xuyên bổ
sung cập nhật tri thức mới để không ngừng làm giàu trí tuệ và phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học.
Kết luận chương 2
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay là một yêu cầu khách quan trong quá trình giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
Những năm qua trước những chuyển biến mạnh mẽ của điều kiện kinh tế xã hội và sự nghiệp
xây dựng quân đội, cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư thích đáng của các cấp, đặc biệt
là sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên... trong Nhà trường, năng lực nghiên cứu khoa
học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II đã có bước phát triển cả về trình
độ tri thức, khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu yêu cầu đào tạo của
Nhà trường và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội trong giai đoạn mới. Nhiều
học viên sau khi tốt nghiệp ra trường phát triển nhanh, có nhiều sáng tạo trong quản lý, chỉ huy, giáo
dục, huấn luyện bộ đội. Tuy nhiên bên cạnh đó việc phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học
viên còn bộc lộ không ít những thiếu sót, hạn chế: trình độ tri thức của một số học viên phát triển
chậm; khả năng phương pháp tư duy, sáng tạo nhất là việc vận dụng nguyên tắc lý luận vào giải
quyết vấn đề thực tiễn ở một số học viên chưa phù hợp. Những hạn chế trên đây bắt nguồn từ cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan; cả người dạy, người học và điều kiện, môi trường nghiên cứu
khoa học của Nhà trường. Chính vì vậy phát huy năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào
tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay cần phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới nội dung
chương trình giáo dục, đào tạo; nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên, phát triển
điều kiện, môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường. Đặc biệt coi trọng phát huy tính tích
cực, tự giác của học viên trong phát triển năng lực nghiên cứu khoa học.
50

KẾT LUẬN
1. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học là một nội dung quan trọng trong phát huy nhân
tố con người nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN
cũng như trong xí nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay là quá trình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức, phát triển khả năng
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo của học viên nhằm để nhận thức và
giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ ở trường cũng
như trên cương vị công tác mới sau khi tốt nghiệp ra trường.
2. Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân II hiện nay có vai trò to lớn không chỉ đối với quá trình phát triển các phẩm chất
năng lực của học viên, đối với việc thực hiện các nhiệm vụ của họ trong quá trình giáo dục, đào
tạo mà còn có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ của người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo
đơn vị cấp phân đội binh chủng hợp thành sau khi họ tốt nghiệp ra trường.
3. Sự phát triển đó của năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở
Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay là một quá trình luôn tuân theo những quy luật và những vấn
đề có tính quy luật nhất định. Trong đó những vấn đề có tính quy luật cơ bản nổi lên là, sự phát
triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân
II hiện nay phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy của đội ngũ giảng viên; phụ thuộc vào điều kiện,
môi trường nghiên cứu khoa học của Nhà trường và phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của chính
người học.
4. Những kết quả đạt được, những hạn chế trong quá trình phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II đều bắt nguồn từ sự tác
động của cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Từ sự phân tích thực trạng và
nguyên nhân đó dưới góc độ triết học tác giả luận văn nêu lên ba giải pháp cơ bản phát triển năng
lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân II hiện nay.
Đó là, tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy
của đội ngũ giảng viên; tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học cho học viên và phát huy tính tích cực tự giác của học viên trong phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học. Nội dung các giải pháp trên đây có mối quan hệ biện chứng, tác động qua
lại lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau trong quá trình phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên
đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân II hiện nay.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay là một đề tào phức tạp, nhưng rất cấp thiết cả về l ý luận và thực tiễn, đòi hỏi
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều môn khoa học trong đó có triết học.
Trong khuôn khổ luận văn tác giả mới bước đầu đặt ra và giải quyết một số vấn đề có tính
chất phương pháp luận, những kết quả đạt được chỉ là những khám phá ban đầu, rất mong được
51

sự quan tâm đóng góp của các nhà khoa học để tác giả tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và hoàn thiện
hơn.

You might also like