IC - - Bùi Nguyễn Phương Linh

You might also like

You are on page 1of 23

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

Tiểu luận
Kết thúc học phần
Môn học: Đại cương truyền thông Quốc tế

Giảng viên: Nguyễn Minh Tuấn


Sinh viên thực hiện: Bùi Nguyễn Phương Linh
Lớp: Ta46b
Mã số sinh viên: Ta46b-039-1923
Năm học: 2020-2021
Mục lục:
Phần mở đầu ............................................................................................................1
Phần nội dung ..........................................................................................................1
I. Đặc điểm của TTQT từ giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến giai đoạn
hiện nay ..........................................................................................................1
1.1. Truyền thông trong chiến tranh Lạnh ........................................................2
a. Khái quát hệ thống tuyên truyền của Liên Xô ................................................2
b. Hệ thống tuyên truyền của Mỹ ........................................................................2
c. Tranh giành ảnh hưởng đối với thế giới thứ ba ..............................................2
2. Vai trò của TTQT trong thời kì Chiến tranh lạnh ...........................................3
II. Quá trình hình thành và phát triển của chính sách thông tin đối ngoại
của Việt Nam.......................................................................................................8
1. Thông tin đối ngoại là một dạng thông tin ......................................................8
2. Nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại từ năm 2000 .................................8
3. Một số thành tựu trong công tác TTĐN của ViệtNam ...................................9
4. Nghị định 72/2015/NĐ-CP ...........................................................................10
5. Sự cần thiết của việc nắm vững vai trò và nội dung của chính sách thông tin
đối ngoại đối với sinh viên ............................................................................12
III. Phân tích sự cần thiết của xu thế nghiên cứu TTQT như một ngành
khoa học từ các minh chứng thực tế ....................................................13
1. Khái niệm nghiên cứu Truyền thông quốc tế ................................................13
2. Lịch sử phát triển ..........................................................................................13
3. Những xu thế chính cuảTTQT ......................................................................14
4. Xu hướng quốc tế hóa của báo chí thế giới ...................................................14
5. Các nghiên cứu về TTQT tại VN ..................................................................15
6. Sự cần thiết của nghiên cứu truyền thông .....................................................15
6.1. Vai trò của nghiên cứu TTQT ..................................................................15
6.2. Những thành công mà nghiên cứu truyền thông quốc tế mang lại ..........15
a. TTQT phân tích thành công chống COVID-19 của Việt Nam .....................16
b. Donald Trump tranh cử tổng thống Mỹ, TTQT đã có cái nhìn như thế nào về
Trump ............................................................................................................16
Phần nội dung
TTQT được định nghĩa là “truyền thông xuyên biên giới” (Theo Thussu D.K –
International communication: Continuity and change)
Truyền thông quốc tế là hoạt động truyền thông giữa các quốc gia chủ yếu bằng
các phương tiện thông tin đại chúng, do sự tác nghiệp của các nhà báo quốc tế
chuyên nghiệp, nhà truyền thông quốc tế.
Nhìn nhận vai trò của truyền thông trong QHQT là một cách tiếp cận mới về
truyền thông và quan hệ quốc tế. Đó vừa là cách tiếp cận lịch sử, vừa là cách tiếp
cận chức năng.
Truyền thông vừa là công cụ thông tin về quan hệ quốc tế và có vai trò thiết lập
các chương trình nghị sự trong đời sống chính trị quốc gia và quốc tế. Trong thế kỷ
XXI, Internet đang làm thay đổi quan niệm về lãnh thổ, chủ quyền quốc gia trong
khi truyền thông xuyên quốc gia đang mở ra cho hàng triệu cộng đồng mạng những
cơ hội vừa tiêu cực vừa tích cực tác động đa tầng, đa nội dung, đa đối tượng.

Hơn nữa, an ninh quốc gia cũng đang thay đổi, các quốc gia đang phải đối mặt
với nhiều hiểm họa đến từ các quốc gia khác, từ các nhóm người, từ các cá nhân hoặc
là từ sự kết hợp của các nhân tố trên. Các tổ chức tư nhân, các tổ chức phi chính phủ,
các ngành công nghiệp và các hiệp hội có thể cạnh tranh với chính quốc gia mà họ
mang quốc tịch để thu hút sự chú ý của truyền thông từ các quốc gia lớn thông qua
cuộc đấu tranh xuyên quốc gia về chương trình nghị sự chính trị thế giới.
Phần nội dung
I. Đặc điểm của Truyền thông quốc tế từ giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho
đến giai đoạn hiện nay:
Chiến tranh Lạnh là giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1991 liên quan đến cuộc
xung đột giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Đó là vì sức mạnh quân sự, thường được đặc
trưng bởi cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Truyền
thông đóng một vai trò quan trọng trong chiến tranh lạnh, chủ yếu là việc sử dụng
các phương tiện khác nhau để truyền tải thông tin tuyên truyền. Bản tường trình
lịch sử về ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với dân
chúng có một nền tảng rất tiêu cực. . Việc ứng dụng công nghệ trong truyền thông
toàn cầu đóng một vai trò cơ bản, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Hoa Kỳ
đã cam kết tự do thông tin trong giao dịch của họ với các quốc gia khác để cố gắng
giành được sự ủng hộ của họ. Với những tiến bộ công nghệ theo thời gian từ radio,
qua tivi đến fax, vệ tinh và e-mail đã thay đổi những nhận thức ban đầu.
1
1.1. Truyền thông trong Chiến tranh Lạnh:
a. Khái quát hệ thống tuyên truyền của Liên Xô:
Trong Chiến tranh Lạnh, LX thành lập Ủy ban Thông tin Cộng sản cho nhiệm
vụ tuyên truyền trên toàn TG.
Hãng thông tấn TASS là nguồn tin chính của các khối XHCN Đông Âu và các
quốc gia ở thế giới thứ ba.
Ngoài ra, Đài phát thanh Matxcơva là đài quốc tế lớn nhất, sử dụng 83 ngôn
ngữ, phủ sóng toàn cầu.
Chính sách tuyên truyền của LX tập trung vào cuộc đối đầu ý thức hệ giữa
CNCS và CN Đế quốc: Là cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp vô sản lãnh đạo trên
toàn thế giới, chống lại giai cấp tư sản.
Đối tượng tuyên truyền là quần chúng nhân dân lao động ở các nước phát triển
và các quốc gia thuộc thế giới thứ ba.
b. Hệ thống tuyên truyền của Mỹ:
Trong Chiến tranh Lạnh, 3 đài phát thanh VOA, Radio Free Europe và
American Forces Network nhận được tài trợ của chính phủ Mỹ cho nhiệm vụ tuyên
truyền.
VOA là một bộ phận không thể tách rời của nền ngoại giao Hoa Kỳ trong giai
đoạn này.
Năm 1951, chính quyền TT Truman xây dựng Ban tâm lý chiến trực thuộc Ủy
ban An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, nhằm thiết kế chương trình và tư vấn cho các hoạt
động tuyên truyền quốc tế chống cộng sản.
Năm 1953, TT Eisenhower chỉ định cố vấn “chiến tranh tâm lý” cho VOA, thực
hiện các nội dung chống cộng cấp bách.
VOV có mạng lưới toàn cầu, mở rộng tuyên truyền “lối sống Mỹ” cho thính giả
quốc tế.
c. Tranh giành ảnh hưởng đối với thế giới thứ ba:
Trong thời kỳ này, truyền thông Liên Xô và phương Tây tăng cường tuyên
truyền thông tin để chinh phục các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, những nước vừa
thoát khỏi chế độ thuộc địa như châu Phi, Đông Nam Á, Mỹ-Latin và Trung
Đông,…
Ngoài các mục tiêu tuyên truyền về ý thức hệ, hai phe còn tăng cường truyền
thông về các vấn đề kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục,… đến các quốc gia này.

2. Vai trò của Truyền thông quốc tế trong thời kì Chiến tranh lạnh:

2
Trước khi Hoa Kỳ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1940,
ARRL đã thành lập một Quân đoàn khẩn cấp được đào tạo về các tần số ban đầu
không được sử dụng bởi những người nghiệp dư thông thường. Cho đến ngày nay
hệ thống vô tuyến quân sự đã tham gia vào việc đào tạo nhân viên và tiếp tục thử
nghiệm. Chiến tranh lạnh đạt đến đỉnh cao nhất vào năm 1952. Trong thời kỳ này,
Hiệp hội Vô tuyến nghiệp dư được thành lập dưới nỗ lực của Lực lượng Phòng vệ
Dân sự. Sự phát triển này và nhiều kết quả khác là kết quả của việc thừa nhận bản
chất của thảm họa và thông tin liên lạc khẩn cấp. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh,
bóng bán dẫn và mạch tích hợp cũng được phát minh. Nó cũng chứng kiến sự cải
thiện của các tần số từ thấp nhất đến vi sóng. Đến năm 1945, cuộc tranh luận vẫn
diễn ra gay gắt về việc liệu Hoa Kỳ có nên tiếp tục phát sóng qua Đài Tiếng nói
Hoa Kỳ (VOA) sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc hay không. Nó được
nhiều người coi là vũ khí chiến tranh do đó không thể là một phần của chính sách
đối ngoại. Tuy nhiên, chính phủ đã do dự trong việc bãi bỏ VOA. Mặt khác, Liên
Xô tiếp tục với ý định mở rộng phạm vi phủ sóng của họ đến hầu hết các khu vực
của Đông Âu. Sự thù hận của họ với Hoa Kỳ đã thúc đẩy việc tiếp tục mở rộng
VOA để tích hợp tiếng Nga vào năm 1947. Điều này nằm ngoài dự đoán của Hoa
Kỳ rằng đài phát thanh sẽ thành công trong việc xuyên thủng các rào cản liên lạc đã
trải qua trong Thế chiến thứ hai. Đến năm 1949, người Mỹ vô cùng lo sợ trước sự
xâm nhập của những người cộng sản vào Hoa Kỳ. Năm đó chứng kiến việc Quốc
hội ban hành Đạo luật Cơ quan Tình báo Trung ương. Bên cạnh đó, việc thành lập
CIA, đạo luật này cho phép thiết lập một dịch vụ vô tuyến điện mới như một dự án
cho ngoại giao công chúng. Ủy ban Quốc gia cho một tổ chức Châu Âu Tự do cũng
được thành lập để giải quyết hoàn cảnh của những người lưu vong từ Đông Âu.
Được tài trợ bởi CIA, tổ chức này đã thành lập Đài Châu Âu Tự do (REFE) vào
năm 1950, bắt đầu phát sóng vào tháng 7 cùng năm từ Đức. Một đài phát thanh
khác nhắm vào Liên Xô (Radio Liberty hay RL) được tạo ra bởi một tổ chức tương
tự của những người lưu vong. Vì nó cũng được phát sóng từ Đức, tín hiệu RL phải
đối mặt với sự gây nhiễu liên tục của các nhà lãnh đạo Liên Xô ngay từ khi mới
thành lập. Jamming là một công nghệ được Liên Xô sử dụng để can thiệp vào việc
truyền dẫn vô tuyến. Trong thời gian này, các phương tiện truyền thông chủ yếu
bao gồm báo in, phim ảnh, đài phát thanh và TV. Điều này có trước sự phổ biến
của các tổ chức truyền thông phi tập trung như mạng xã hội điện tử. Điều này đáng
được lưu ý bởi vì việc phát sóng đòi hỏi một lượng kinh phí lớn; phương tiện
truyền thông tập trung cực kỳ dễ bị nhà nước kiểm soát.

3
Chiến tranh Lạnh được chấp nhận là đã kéo dài từ năm 1947 đến năm 1991.
Trong thời gian này, phương tiện liên lạc chủ yếu của báo chí đã phát triển từ đài
phát thanh và báo in thành truyền hình. Sự thay đổi này đi kèm với vai trò của
truyền thông từ một "cơ quan ngôn luận" của nhà nước, trở thành một lĩnh vực độc
lập, sơ khai hơn. Không thể phủ nhận vai trò của truyền thông trong việc sản xuất,
đóng góp và duy trì sự đối kháng trong Chiến tranh Lạnh. Khi khát vọng của người
Mỹ đối với chủ nghĩa tư bản châu Âu dường như bị đe dọa; phương tiện truyền
thông trong cả hai khối đã bắt đầu hành động. Mặc dù các hành động của các
phương tiện truyền thông nhà nước của Liên Xô sẽ không được cho là có cách tiếp
cận giám sát, nhưng điều có thể gây ngạc nhiên là mức độ mà các phương tiện
truyền thông phương Tây chiếm vị trí cơ quan ngôn luận.
Sự trung thành mà phần lớn các phương tiện truyền thông dành cho chính sách
của chính phủ và việc chính trị hóa nội dung của nó bắt đầu gần như ngay lập tức
khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Điều này thể hiện rõ ràng khi các phóng sự truyền
hình đầu Chiến tranh Lạnh thường do cơ sở quốc phòng viết kịch bản và đôi khi
được sản xuất. Sự phát triển này của các phương tiện truyền thông chấp nhận ảnh
hưởng của chính phủ là điều cần thiết để tạo ra sự ủng hộ của công chúng đối với
các hành động của nhà nước. Vai trò ban đầu của các phương tiện truyền thông là
thúc đẩy dân chúng sau Thế chiến 2 tái khẳng định và bảo vệ các trung thành chính
trị và kinh tế quốc gia của họ. Trong khi các phương tiện truyền thông phương Tây
thuộc sở hữu tư nhân có nghĩa vụ bảo vệ các lợi ích kinh tế và quân sự của phương
Tây, thì các phương tiện truyền thông Liên Xô do nhà nước kiểm duyệt cũng sẵn
sàng bảo vệ lợi ích của họ. Tất cả các phương tiện truyền thông đã thành công
trong việc tạo ra sự ủng hộ của công chúng đối với các hành động của chính phủ họ
chống lại kẻ thù nước ngoài. Các chính phủ Đồng minh phương Tây và Liên Xô
không bao giờ có thể tạo ra hoặc duy trì đủ sự ủng hộ của công chúng và chủ nghĩa
giễu cợt cho cuộc xung đột kéo dài nếu không có sự đóng góp của giới truyền
thông.
Khi bắt đầu xung đột, các phương tiện truyền thông đưa tin về Chiến tranh Lạnh
giữa Mỹ, các đồng minh và Liên Xô đã làm gia tăng nỗi sợ hãi trong nước về sự
hủy diệt sắp xảy ra. Các chiến dịch “The Red Scare” của các phương tiện truyền
thông phương Tây đã được trình bày trên mọi nguồn phương tiện truyền thông hiện
hành. Việc sử dụng bản in với những hình ảnh dễ sửa đổi và dễ cảm xúc đã giúp
xác định lại bản sắc dân tộc như một nước Mỹ nhân đức và yêu nước, chống lại
một phương đông xã hội chủ nghĩa nguy hiểm và phá hoại. Các phương tiện truyền
thông đã phân phát các khẩu hiệu tuyên truyền cực đoan như "Tốt hơn là chết hơn
4
đỏ!" Loại hình tuyên truyền chính trị hóa này đã gây ra sự cuồng loạn về chủ nghĩa
cộng sản và chiến tranh hạt nhân . Nó hoạt động để khuất phục bất kỳ thiện cảm
nào trong nước đối với kẻ thù hoặc chống lại cuộc xung đột thường xảy ra trong
chiến tranh. Đó là một hành động có tính toán nhằm duy trì sự đối kháng của công
chúng đối với kẻ thù và từ chối các chính sách kinh tế và chính trị của họ. Các
phương tiện truyền thông mở rộng tuyên truyền đến mọi khía cạnh của cuộc sống
phương Tây, từ đài phát thanh, phim ảnh, truyền hình và báo in cho đến cả trường
học. Bộ phim “Cơn ác mộng đỏ” đã được giảng dạy như một phần của chương
trình giảng dạy tiêu chuẩn và là bằng chứng về việc các phương tiện truyền thông
đưa tin về quần chúng được nhà nước công nhận. Hành động thao túng phương tiện
truyền thông để tạo ra nỗi sợ hãi và hoang tưởng cho quần chúng không thể bị định
giá thấp, đó là nỗ lực có ý thức của những người có quyền lực nhằm gạt bỏ ý kiến
không được ưa chuộng và truyền bá chương trình nghị sự thống trị. Nó cũng hỗ trợ
củng cố và phân cực của sự khác biệt văn hóa và củng cố hệ tư tưởng chính trị.
Các phương tiện truyền thông của Liên Xô cũng sử dụng phương tiện phát thanh
trong các quốc gia của mình và các quốc gia khác như một hình thức tuyên truyền
xuyên quốc gia. Bởi vì các phương tiện truyền thông của Liên Xô đã bị nhà nước
kiểm duyệt; nó đã tìm cách hợp pháp hóa sự xuất hiện của nó bằng cách ngụy trang
nguồn gốc sản xuất của nó. Liên Xô có nhiều đài phát thanh "quốc tế" thực sự được
đặt tại Cộng hòa Xô viết. Những hành động này của các phương tiện truyền thông
cho thấy sự tiến triển từ một nhà sản xuất dường như thụ động hơn trong việc ủng
hộ công chúng và tuân thủ chính trị, trở thành một công cụ tích cực của chính cuộc
chiến. Các phương tiện truyền thông của cả hai bên đều chịu trách nhiệm tạo ra dư
luận, đóng góp vào việc tuyên truyền, và duy trì sự đối kháng thông qua chiến tranh
tâm lý. Tuy nhiên, nhiều hãng truyền thông phương Tây, chẳng hạn như Voice
America, BBC, và Vatican Radio, đã tìm kiếm một cách tiếp cận khác. Trong khi
duy trì lòng trung thành về mặt chính trị đối với các quốc gia của họ, chính phủ đã
nói ngắn gọn là đưa những khía cạnh tích cực của quốc gia họ vào Liên Xô. Đây là
một hình thức ngoại giao nhẹ nhàng nhưng gắn kết . Nó tìm cách chống lại tuyên
truyền của Liên Xô bằng cách lật đổ đưa ra một cái nhìn tích cực về kẻ thù được
nhận thức. Trong khi làm điều này, các phương tiện truyền thông phương Tây đã
sớm nhận ra sự liên quan của thực tế rằng Liên Xô không phải là một xã hội thuần
nhất. Đế chế thuộc địa bao gồm nhiều quốc tịch, chẳng hạn như người Ukraine và
những người đến từ các nước vùng Baltic. Bằng cách điều chỉnh các thông báo vô
tuyến cho từng dân tộc thiểu số, phương Tây đã có thể xây dựng một chiến lược dài

5
hạn nhằm phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ. Điều này đối nghịch sâu sắc với nhà nước
Xô Viết, vốn lo sợ sự lớn mạnh của những người ly khai trong nước .

Các phương tiện truyền thông của thời kỳ Chiến tranh Lạnh thậm chí có thể
được công nhận với việc tiếp thị cuộc xung đột. Chính nhà báo người Mỹ Walter
Lippmann đã coi cuộc xung đột là ‘Chiến tranh Lạnh’ do không có chiến tranh
quân sự trực tiếp . Tuy nhiên, xung đột quân sự chỉ vắng bóng giữa UUSR và Mỹ.
Vì sự hủy diệt lẫn nhau của hai cường quốc hạt nhân; Liên Xô và phương Tây chỉ
tham gia vào các cuộc chiến tranh ủy nhiệm với các quốc gia vệ tinh. Một ví dụ
như vậy là Chiến tranh Việt Nam năm 1955-1975. Chính phủ Hoa Kỳ coi việc
tham gia vào cuộc chiến là một biện pháp phòng ngừa cần thiết để ngăn chặn sự
tiếp quản của cộng sản đối với miền Nam Việt Nam. Đây là một phần trong chiến
lược ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản của phương Tây.

Chiến tranh Việt Nam được Michael Arlen gọi là ‘cuộc chiến truyền hình’ đầu
tiên. Điều này là do phương tiện truyền thông đưa tin về cuộc xung đột hiện được
đưa tin quá mức qua truyền hình. Nó cũng đi kèm với những bức ảnh mạnh mẽ và
giàu cảm xúc, chẳng hạn như tác phẩm đoạt giải Pulitzer ‘Vietnam Napalm’ .
Truyền hình đưa tin về cuộc xung đột không ngừng và kéo dài trong vài năm.
Trong khi tin tức đưa tin vào thời kỳ đầu của cuộc xung đột thường được viết theo
kịch bản và ủng hộ phương Tây, thì báo cáo này lại không. Các phương tiện truyền
thông đã có quyền truy cập không được kiểm soát vào cuộc xung đột và độc lập
hơn trong việc đưa tin của họ. Theo đó, phản ứng của công chúng đối với việc liên
tục phơi bày sự tàn khốc của chiến tranh cũng thay đổi. Các phương tiện truyền
thông phương Tây đã rời bỏ vị trí là cơ quan ngôn luận của chính phủ, và bắt đầu
áp dụng cách tiếp cận cơ quan giám sát hơn. Đó là sự thay đổi này, kết hợp với việc
tường thuật bằng đồ họa về cuộc chiến, từ đó đã được công nhận là chiến thắng của
người Mỹ. Vai trò của truyền thông được coi là đã khơi dậy tình cảm phản chiến
trong nước trong công chúng Mỹ bằng cách đưa họ về những tàn khốc của chiến
tranh trong phòng khách của chính họ. Sự cố này cho thấy sự suy giảm vai trò của
truyền thông trong việc duy trì sự đối kháng và sự ủng hộ của công chúng đối với
xung đột .
Hành động quan trọng và rõ ràng nhất của giới truyền thông, làm xói mòn sự
đối kháng của công chúng đối với Liên Xô và sự ủng hộ đối với cuộc xung đột, là
việc xuất bản Bài báo của Lầu Năm Góc. Một số tờ báo, bao gồm The New York
Times và Washington Post, đã in các trích đoạn của các tài liệu của chính phủ được
6
coi là tuyệt mật . Những bài báo này tiết lộ sự bóp méo có chủ ý của chính phủ đối
với các số liệu thống kê được báo cáo trước đây vốn được coi là không mong
muốn. Sự sai lệch liên quan đến số lượng nhân quả và các hoạt động thành công, tệ
hơn đáng kể so với những gì đã nêu trước đây. Các phương tiện truyền thông giờ
đây đã chứng minh cho người dân thấy chính phủ đã đánh lừa họ như thế nào về sự
thật của chiến tranh. Những gì các phương tiện truyền thông đã làm ở đây là định vị
lại họ như là người phân phối thông tin đáng tin cậy duy nhất và làm xói mòn niềm
tin vào chính phủ. Sau đó, phản ứng trong nước đối với cuộc xung đột ủy nhiệm
thời Chiến tranh Lạnh này đã thay đổi. Các phong trào phản chiến trong nước và
quốc tế phát triển, và các phương tiện truyền thông phải chịu trách nhiệm. Điều này
chứng kiến sự từ chối hàng loạt của ‘Chủ nghĩa McCarthy’; cáo buộc không trung
thành với đất nước vì phản đối chiến tranh mà trước đây đã có tác dụng gạt bỏ bất
đồng chính kiến .
Điều hiển nhiên là trong suốt Chiến tranh Lạnh, các phương tiện truyền thông
đóng vai trò trung tâm trong việc tạo ra và duy trì sự đối kháng giữa cả hai bên của
cuộc xung đột. Cả hai phương tiện truyền thông của Liên Xô và phương Tây đều
coi nhau là kém cỏi và duy trì luận điệu “chúng tôi và họ”. Các quan điểm thống trị
đã được thực thi và những người gièm pha bị gạt ra ngoài lề. Các phương tiện
truyền thông đã tạo ra những bản sắc dân tộc đạo đức để hợp pháp hóa bản thân và
tố cáo kẻ thù của họ. Một đóng góp đáng kể của truyền thông trong việc duy trì sự
đối kháng trong Chiến tranh Lạnh là tạo ra trạng thái sợ hãi kéo dài. Tuyên truyền
giật gân và đưa tin chính trị hóa đã làm xã hội lo sợ về sự hủy diệt sắp xảy ra và
chứng hoang tưởng nghiêm trọng. Điều này đã hỗ trợ chính phủ trong thu hoạch
những người ủng hộ. Các phương tiện truyền thông cũng hoạt động như một công
cụ trực tiếp của cuộc xung đột bằng cách truyền thông tin cho người dân Liên Xô.
Bản thân điều này đã là một hành động cực kỳ đối nghịch hoạt động rất hiệu quả
như một phương thức quyền lực mềm của phương Tây .
Khi các phương tiện truyền thông ngày càng chuyển sang vị trí giám sát việc
đưa tin, một số phản đối mà nó đã tạo ra chống lại Liên Xô đã hướng vào chính phủ
quốc gia. Nói chung, truyền thông là nhân vật chính của Chiến tranh Lạnh trong
việc nuôi dưỡng và duy trì sự đối kháng trong phân chia lưỡng cực. Nó đạt được
điều này bằng cách đưa tin giật gân, và khai thác sự phân chia văn hóa, duy trì sự
sợ hãi của xã hội và sản xuất tuyên truyền. Đóng góp rõ ràng và trực tiếp nhất cho
sự đối kháng trong Chiến tranh Lạnh là việc tạo ra một chiến lược liên lạc mang
tính lật đổ với dân chúng của kẻ thù.

7
II. Quá trình hình thành và phát triển của chính sách thông tin đối
ngoại của Việt Nam.
1. Thông tin đối ngoại là một dạng thông tin:
Thông tin đối ngoại được hiểu là tin tức, là thông báo, là tri thức về một sự vật
hay một hiện tượng được chứa đựng trong các hình thức nhất đinh, được tiếp nhận,
lựa chọn và sử dụng trong công tác đối ngoại. Thông tin đối ngoại bao gồm những
thông tin trong nước và quốc tế được dùng trong quá trình hoạt động đối ngoại
Thông tin đối ngoại là một lĩnh vực hoạt động: Thông tin đối ngoại là một bộ
phận rất quang trọng trong công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
nhằm làm cho các nước, ngừơi nước ngoài ( bao gồm cả người nước ngàoi đang
sinh sống và làm việc tại VN), người VN đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài
hiểu về đất nước, con người VN, dường lối và chủ trương chính sách, thành tựu đổi
mới của nước ta.
Năm 1992, Ban bí thư TW Đảng (Khóa VI) ra chỉ thị số 11 (ngày 13/6/1992) về
“đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”. Đây là văn bản đầu tiên của
Đảng và Nhà nước về công tác TTĐN. Đưa ra định hướng chỉ đạo hoạt động thông
tin đối ngoại của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1998,
Bộ Chính trị khóa VIII tiếp tục ra thông báo số188 “về công tác thông tin đối ngoại
trong tình hình mới”. Sau đó vào năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 10
về “Tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại”,…mang lại
nhiều kết quả khả quan, tích cực đối với công tác TTĐN.
2. Nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại từ năm 2000:
Thông tin đối ngoại có nhiệm vụ phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, những chủ trương quan trọng trên mọi lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng...; bác bỏ những thông tin sai lệch,
xuyên tạc về Việt Nam.
Đường lối và chính sách đối ngoại, bao gồm cả chính sách kinh tế đối ngoại;
chủ trương nhất quán Việt Nam ''sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển''; yêu cầu và tiềm năng
của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước trên nguyên tắc cùng có lợi, tôn
trọng độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của nhau.
Giới thiệu đất nước - con người, lịch sử và nền văn hoá lâu đời, phong phú, đa
dạng, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam.
Năm 2012, Bộ Chính trị ra Kết luận số 16 về “Chiến lược phát triển thông tin
đối ngoại giai đoạn 2011-2020”.

8
Trong đó, xác định rõ “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong
công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta; là nhiệm vụ thường xuyên,
lâu dài”.
Kết luận nhấn mạnh: Công tác thông tin đối ngoại đã đóng vai trò quan trọng
trong tiến trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và
trên trường quốc tế, làm cho thế giới hiểu rõ và hiểu đúng về Việt Nam, qua đó
tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Theo quy chế quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại được ban hành kèm theo
Quyết định số 79/2010/QD-TTg ngày 30-11-2010 của Thủ tướng Chính phủ, thông
tin đối ngoại là’ thông tin quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con người, lịch sử,
văn hóa dân tộc VN; thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước VN ra
thế giưới và thông tin thế giới vào VN’
Thông tin đối ngoại là một ngành đào tạo: Có nhiệm vụ ‘ đào tạo cán bộ có trình
độ chuyên môn ở bậc đại học, có khả năng thực hiện chức trách của các phóng
viên, biên tập viên thông tin đối ngoại tại các cơ quan thông tấn báo chí; công tác
tham mưu, tư vấn, tổ chức đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể chính trị-xã hội ; hoặc thực hiện các chức trách đòi hỏi sự hiểu biết cơ
bản, hệ thống kiến thức và kĩ năng nghiệp vụ thông tin đối ngoại. Đồng thời có thể
tự học, tự nâng cao trình độ hoặc tiếp tục học tập ở mức học cao hơn.
3. Một số thành tựu trong công tác TTĐN của ViệtNam:
Thông tin kịp thời về công cuộc đổi mới của Việt Nam cho nhân dân thế giới,
kiều bào và đối tác nước ngoài;
Xây dựng, quảng bá hình ảnh Việt Nam mới: Hòa bình, ổn định, phát triển,
năng động và đầy tiềm năng;
Tạo ra kênh thông tin đối ngoại trực tiếp, hiệu quả,…
Công tác TTĐN có sự chuyển biến đáng kể về lực lượng nhân sự: trình độ cán
bộ nâng cao, thích ứng với hoàn cảnh mới, …
Các hình thức ngoại giao nhân dân, ngoại giao công chúng bắt đầu hình thành
và phát triển không ngừng,…
Công tác TTĐN đối với nhân dân, chính phủ các nước trên thế giới đã có bước
chuyển nhảy vọt: TTĐN quảng bá nhiều sự kiện chính trị - kinh tế - XH quan trọng
đến đông đảo bạn bè quốc tế,…
Công tác TTĐN đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã có những
bước chuyển lớn: Thông tin về thành tựu phát triển đất nước, chính sách đại đoàn
kết dân tộc, quyền con người, bảo vệ lãnh thổ,…
9
Các hình thức thông tin chủ yếu là thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng (VTV 4, VOV5, Tạp chí Quê Hương,…)
4. Nghị định 72/2015/NĐ-CP
Ngày 7/9/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/2015/NĐ-CP qui định về
hoạt động thông tin đối ngoại. Đây là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà
nước nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, trực tiếp là Kết luận 16-
KL/TW ngày 14/2/2012 của Bộ Chính trị về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại
giai đoạn 2011-2020. Bộ TT&TT chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực này, đã thành lập Cục Thông tin đối ngoại, đơn vị thực thi công
tác quản lý nhà nước về thông tin đối ngoại. Bộ máy thực hiện công tác thông tin đối
ngoại của các tỉnh, thành phố từng bước được hình thành và phát triển. Nếu năm
2010 chưa tới 10% các tỉnh, thành phố có cán bộ kiêm nhiệm làm công tác thông tin
đối ngoại, thì đến tháng 7/2015 đã có 100% các tỉnh, thành phố có cán bộ kiêm nhiệm
làm công tác thông tin đối ngoại. Các địa phương đã triển khai các nhiệm vụ theo
Chương trình hành động về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013–2020. Các cơ quan
báo chí đã có các đơn vị báo đài chủ lực thực hiện công tác thông tin đối ngoại bao
gồm: Truyền hình đối ngoại VTV4, VTC10; Hệ phát thanh đối ngoại VOV5; Các
báo đối ngoại của Thông tấn xã Việt Nam như Báo Vietnam News, Báo Le Courrier
du Vietnam, Báo điện tử Vietnam Plus, Báo Ảnh Việt Nam. Hiện có 52 văn phòng
thường trú ở nước ngoài của 4 cơ quan, bao gồm Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam, Báo Nhân Dân và Đài Truyền hình Việt Nam.
Mạng lưới cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cũng phát triển mạnh, đã có
gần 100 cơ quan đại diện Việt Nam trên khắp các châu lục, đóng vai trò quan trọng
trong công tác thông tin đối ngoại ở địa bàn ngoài nước, tại các sự kiện quốc tế và
trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Qua hơn hai thập niên tiến hành cải cách đối mới, trên mặt trận đối ngoại, chúng
ta đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng tâm là giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều
kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế
của đất nước. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ bước đầu phá thế bao vây
cấm vận, chúng ta đã nỗ lực, chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa
dạng hóa, đa phương hóa, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất
cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội. Chúng ta đã gắn kết chặt chẽ
ba trụ cột: Ngoại giao chính trị - Ngoại giao kinh tế - Ngoại giao văn hóa, tạo dựng
môi trường khu vực và quốc tế hết sức thuận lợi, tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ quốc
10
tế cho phát triển kinh tế của ta, đồng thời tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Bên
cạnh đó, trong quá trình triển khai chính sách đối ngoại, chúng ta đã phối hợp nhịp
nhàng giữa ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Trong bối cảnh thế giới có
nhiều biến động, xu hướng dân chủ hóa, đa phương hóa và liên kết khu vực, tiểu khu
vực phát triển mạnh mẽ cho thấy ngoại giao Nhà nước không thể thiếu ngoại giao
nhân dân, ngược lại, các hoạt động ngoại giao nhân dân phát triển mạnh mẽ với nhiều
hình thức phong phú, đa dạng nhưng cần thiết phải bám sát chủ trương, đường lối
đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Các hoạt động đối ngoại nhân dân đều hướng đến
tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, tuyên truyền quảng bá về Việt Nam, góp phần
tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Trải qua các giai đoạn phát
triển đất nước, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, thông tin đối ngoại đã giới thiệu
ra quốc tế hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, những thành tựu của công cuộc
đổi mới và những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao
vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Trước đây, Việt Nam vốn
chỉ được thế giới biết đến qua tên của những cuộc chiến thì nay đã được thay bằng
một Việt Nam giàu bản sắc văn hóa, đang nỗ lực phát triển kinh tế xã hội và tham
gia có trách nhiệm vào những vấn đề của cộng đồng thế giới. Điều này được thể hiện
rõ nét qua những sự kiện quan trọng như việc Việt Nam được các nước Châu Á đề
cử làm đại diện cho châu lục vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất thế giới (WTO), là quốc gia có tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh thứ hai châu Á, chỉ đứng sau Trung Quốc và có tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng nhanh hơn cả Trung Quốc, là quốc gia hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài, thu hút hàng tỷ đô la đầu tư nước ngoài trực tiếp, là con hổ kinh
tế mới nhất ở châu Á. Với thế mạnh truyền thống nghìn năm văn hiến giàu bản sắc
dân tộc và có nhiều danh lam thắng cảnh là di sản văn hóa thế giới, Việt Nam trong
những năm qua đã thu hút được hàng triệu du khách quốc tế. Tuy nhiên, công tác
thông tin đối ngoại vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Nguyên nhân của những
hạn chế đó do cả yếu tố chủ quan và khách quan đem lại. Chặng đường phía trước,
công tác thông tin đối ngoại có nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với nhiều
thách thức. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đặt ra
đối với từng cơ quan, từng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại là phải ý thức đầy
đủ trách nhiệm chính trị - xã hội, thấm nhuần sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng,
không ngừng trau dồi tri thức và năng lực chuyên môn. Từ đó, công tác thông tin đối
ngoại được thực hiện và triển khai có hiệu quả hơn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo
11
của Đảng, sự quan tâm sâu sát, đầu tư cơ sở vật chất, thống nhất quản lý thông tin
đối ngoại của Nhà nước và sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ giữa các ngành, các cấp,
các địa phương, các doanh nghiệp... cùng với sự tiến bộ, hiện đại hóa các phương
tiện thông tin đại chúng, nhất định công tác này sẽ được đẩy mạnh, hoàn thành nhiệm
vụ trên mặt trận đối ngoại, thu được nhiều kết quả to lớn và đặc biệt góp phần vào
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
5. Sự cần thiết của việc nắm vững vai trò và nội dung của chính sách thông
tin đối ngoại đối với sinh viên.
Là một sinh viên của Học viện Ngoại giao, tôi cảm thấy việc nắm vững được vai
trò và nội dung căn bản của chính sách thông tin đối ngoại là vô cùng cần thiết vì
nó không chỉ giúp ích cho việc học tập tại Học viện mà còn giúp bản thân trang bị
những kiến thức vững chắc cho nghề nghiệp của chúng ta sau này. Việc nắm rõ
công tác thông tin đối ngoại giúp sinh viên giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước,
con người, lịch sử, văn hóa đến với các du học sinh đã và đang học và làm việc tại
Học viện nói riêng và Hà Nội nói chung, giúp các bạn có đủ khả năng phản bác các
thông tin sai, xuyên tạc về sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân Việt
Nam. Hiện nay, mục tiêu của cách mạng Việt nam là đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện. Việc
nắm rõ nội dung của thông tin đối ngoại sẽ giúp chúng ta dễ dàng hơn trong công
tác đối ngoại sau này, chúng ta sẽ biết làm thế nào để truyền tải thông tin có chọn
lọc đến với đối tác quốc tế tạo tiềm năng hợp tác và phát triển,từ đó có thể xây
dựng các chương trình chiến dịch thông tin tuyên truyền lớn cả ở trong nước và
ngoài nước, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, nghệ thuật, tích cực quảng
bá du lịch, tham gia các diễn đàn quốc tế. Phát huy vai trò của các cơ quan đại diện
của ta ở nước ngoài trong việc thông tin đối ngoại và quảng bá hình ảnh Việt Nam
ra thế giới. Thông tin đối ngoại là một mảng công việc rất quan trọng trong công
tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đó là cầu nối, phương tiện mở rộng giao lưu,
hiểu biết giữa Việt Nam với các nước. Làm tốt công tác thông tin tuyên truyền đối
ngoại sẽ giúp các bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình một cách chính xác, giúp họ
hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Qua đó, phục vụ chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế của ta,
thu hút các nguồn lực bên ngoài như vốn, công nghệ, du lịch phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.

12
III. Phân tích sự cần thiết của xu thế nghiên cứu Truyền thông quốc tế
như một ngành khoa học từ các minh chứng thực tế.
1. Khái niệm nghiên cứu Truyền thông quốc tế:
Truyền thông quốc tế là hoạt động truyền thông quảng bá giữa các quốc gia
bằng phương tiện thông tin đại chúng. Ở khía cạnh thương hiệu, doanh nghiệp thì
truyền thông quốc tế là các hoạt động xúc tiến, quảng bá thương hiệu ra thị trường
quốc tế để nâng cao độ nhận biết thương hiệu, quảng bá sản phẩm dịch vụ đến với
khách hàng mục tiêu, tìm kiếm đối tác kinh doanh, thu hút đầu tư... ở thị trường
nước ngoài thông qua các kênh truyền hình quốc tế, báo, tạp chí, digital, tài trợ sự
kiện quốc tế...
Khi chúng ta nói đến truyền thông, thuật ngữ này được hiểu theo một nghĩa rất
rộng. Truyền thông có khi được hiểu như việc chuyển tải thông tin trên các chương
trình truyền hình, đài, báo; cũng có khi việc tuyên truyền, truyền bá các thông tin
trên đường phố cũng được coi là truyền thông… Chính vì nghĩa rất rộng của truyền
thông như vậy nên nhiều nhà khoa học đã rất lúng túng khi cố gắng định nghĩa về
một ngành khoa học cụ thể nghiên cứu về truyền thông (media studies). Tuy nhiên,
trải qua thời gian và nhờ sự nỗ lực của rất nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực
khác nhau, từ toán học, xã hội học, tâm lý học đến ngôn ngữ học, ngành học này đã
được định hình một cách chắc chắn trong phạm vi của các ngành khoa học xã hội.
Nghiên cứu truyền thông là một ngành trong khoa học xã hội, nghiên cứu về bản
chất và hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với các cá nhân và xã hội, cũng như
phân tích những nội dung truyền thông và các biểu hiện truyền thông trong thực tế.
Với tư cách là một bộ môn khoa học liên ngành, nghiên cứu truyền thông sử dụng
các phương pháp và lý thuyết của các ngành khoa học khác như xã hội học, nghiên
cứu văn hoá, tâm lý học, lý thuyết nghệ thuật, lý thuyết thông tin, và kinh tế học.
2. Lịch sử phát triển
Những nhà nghiên cứu truyền thông tiêu biểu đầu tiên gồm Marshall McLuhan,
Stuart Hall, Ien Ang và Jean Baudrillard. Bài viết của Walter Benjamin vào năm
1936 với tựa đề "The Work of Art in the Age of Mechanical Reproduction" (Tác
phẩm nghệ thuật trong thời đại tái sản xuất cơ khí) đánh dấu sự mở đầu của việc
nghiên cứu quan hệ giữa các phương tiện truyền thông hiện đại và văn hoá.
Ở nước Anh, vào những năm 1960, nghiên cứu truyền thông được giảng dạy ở
khoa tiếng Anh. Vào thời điểm đó, ngành khoa học này thường được giảng dạy ở bậc
cao đẳng hay các trường kỹ thuật chứ chưa được dạy ở các trường đại học, trừ trường
hợp ngoại lệ là tại Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá đương đại, Đại học Birmingham
năm 1964, bởi Richard Hoggart.

13
Vào những năm 1970, Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá đương đại đã tập trung các
nghiên cứu của mình vào mối quan hệ giữa truyền thông và quyền lực. Dưới sự lãnh
đạo của Stuart Hall, người nổi tiếng với mô hình mã hoá/giải mã, Trung tâm này đã
thực hiện những nghiên cứu hết sức quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu truyền
thông về mối quan hệ giữa các văn bản và khán giả.
Trong một vài thập kỷ vừa qua, các nghiên cứu về truyền thông đại chúng thường
quan tâm đến vấn đề hiệu quả truyền thông, đặc biệt những mối quan hệ như bạo lực
trên phim và những thái độ quá khích ngoài đời thực. Bài viết của David Gauntlett
năm 1998 “Ten Things Wrong With the Media Effects Model" (Mười sai lầm với mô
hình hiệu quả truyền thông) đã nêu ra những vấn đề mà các nhà nghiên cứu trước
ông đã mắc phải; trong tác phẩm viết sau đó, Gauntlett đã đề xuất các phương pháp
nghiên cứu sáng tạo mới ở đó người tham gia được mời tạo ra các chương trình
truyền thông, một quá trình tự thể hiện bản thân được cho là có thể giúp tìm hiểu sâu
hơn về những đặc điểm tâm lý ẩn sâu trong mỗi cá nhân.
3. Những xu thế chính của truyền thông quốc tế:
Xu thế tập trung quyền lực truyền thông( the trend towards the power
concentration of media) trong tay những tập đoàn lớn, chủ yếu là Mỹ.
Xu thế đa phương tiện hóa trong ngành truyền thông( the trend towars using
multimedia in communication)
Xu thế đa dạng hóa nội dung truyền thông
Xu thế đa dạng hóa chủ thể truyền thông và công chúng truyền thông
Xu thế sử dụng truyền thông quốc tế trong ngoại giao
4. Xu hướng quốc tế hóa của báo chí thế giới:
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các cơ quan báo chí đều muốn đẩy mạnh ảnh
hưởng của mình ở các quốc gia khác. Họ đưa tờ báo của mình vươn ra khuôn khổ
một quốc gia.
Theo đó, Quốc tế hóa báo chí là hình thức mà một tờ báo, ấn phẩm báo chí được
phát hành ở nhiều quốc gia, hoặc phát hành ở quốc gia này nhưng được bán ở quốc
gia khác.
Thực tiwwxn và lý luận luôn song hành và hỗ trợ cho nhau để khám phá một
ngành khoa học mới. TTQT cũng nhưu vây. Trong những năm tới, các nhà khoa
học và nghiên cứu TTQT tại VN sẽ tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống ácc
nguồn thông tin như:
Các tin tức và bình luận quốc tế trên các phương tiện truyền thông khác nhau
(chẳng hạn như các ấn phẩm in ấn, phát thanh, truyền hình và internet).
Một số nguồn tin (ví dụ nhưu thông cáo báo chí và báo cấo cáo chí, trong đó có
nhiều nguồn thông qua truy cập trực tiếp từ internet).
14
Các hình thức truyền thông trực tiếp của hợp tác quốct ế trong phạm vi mà họ
đang mở để quan sát (ví dụ: các cuộc tranh luận, các cuộc họp báo: mở cửa cho báo
chí và công chúng).
Các văn bản quốc tế.
5. Các nghiên cứu về TTQT tại VN, gồm:
Nghiên cứu về các bước cơ bản của việc tạo ra một không gian thông tin liên lạc
chiến lược toàn cầu duy nhất.
Phân tích các chiến lược cho chinhs ách thông tin đối ngoại của các cường quốc
hàng đầu thế giới (Nga, Mỹ, Nhật Bản, vv) và các nước khu vực (Trung Quốc, Mỹ,
Nhật Bản, vv) và các nước khu vực (Trung Quốc, Hàn Quốc...)
Phân tích các hoạt động của chính phủ và các phương tiện truyền thông của họ
trong lĩnh vực truyền thông quốc tế.
Xem xét những triển vọng cho sự phát triển của TTQT của Việt Nam trong quá
trình hình thành một không gian thông tin thống nhất của khu vực và quốc tế.
Nghiên cứu về vấn đề xác định chủ đề của truyền thông toàn cầu và phân tích so
sánh của các hoạt động thông tin của các tổ chức này. Mục đíchc của quá trình
TTQT là nghiên cứu về mô hình và đặc điểm của sự hình thành và phát triển của
cộng đồng thế giới để từ đó đưa ra chiến lược thông tin phù hợp, phục vụ mục tiêu
của quốc gia. Đặc biệt chú ý đến chi tiết và phân tích toàn diện các cơ sở của chính
sach đối ngoại của nước CHXHCN VN, vị trí và vai trò của nước ta trong TTQT
hiện đại, cũng nhưu xem xét các tính năng chính của các phương tiện truyền thông
đại chúng, chính phủ và các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này.

6. Sự cần thiết của nghiên cứu truyền thông:


6.1. Vai trò của nghiên cứu truyền thông quốc tế:

Vai trò thúc đẩy quyền lực chính trị

Vai trò thúc đẩy kinh tế

Vai trò thúc đẩy giao lưu văn hóa

Với vai trò quan trọng truyền thông rất lớn đối với xã hội loài người, Nghiên
cứu truyền thông ra đời để giúp cho truyền thông đóng góp nhiều vai trò tích cực
hơn là tiêu cực. Nghiên cứu truyền thông là các hoạt động nghiên cứu về sự tác
động của truyền thông đối với công chúng qua đó các nhà làm truyền thông có sự
điều chỉnh về nội dung, hình thức và phương tiện truyền thông để tăng tính hiệu
quả của việc sử dụng truyền thông đối với các vần đề của xã hội.

15
6.2. Những thành công mà nghiên cứu truyền thông quốc tế mang lại:
a. Truyền thông quốc tế phân tích thành công chống COVID-19 của Việt
Nam:
Trang tin tiếng Đức watson.ch của Thụy Sĩ vừa có bài viết nhấn mạnh minh
mạch thông tin và sự đồng lòng của nhân dân đã góp phafn vào thành công chống
dịch COVID-19 của Việt Nam. Tác gải bài báo đặt câu hỏi làm sao Việt Nam có
thể kiểm soát dịch bệnh tốt như vậy, đồng thời xem xét tình hình hiện tại và nhận
định có 4 lí do làm nên sự thành công của Việt Nam.
Có rất nhiều lí do mang tính thuyết phục được đề cập đến, một trong số những lí
do quan trọng đó là Việt Nam cung cấp thông tin rõ ràng, minh bạch. Chính phủ
Việt Nam tổ chức họp báo hằng ngày và cập nhập những diễn biến mới nhất, trong
khi báo chí, truyền thông xã hội, thậm chí cả tin nhắn điện thoại cũng được sử dụng
cho mục đích này.

b. Donald Trump tranh cử tổng thống Mỹ, truyền thông quốc tế đã có cái
nhìn như thế nào về Trump:

Ngoại trừ đài truyền hình Fox News, được mệnh danh là tiếng nói không chính
thức của đảng Cộng Hòa, và trang mạng Breihbard.com, công khai ủng hộ ứng cử
viên Donald Trump, hầu hết những cơ quan truyền thông lớn của nước Mỹ dường
như đã rủ nhau nhắm vào Trump mà đưa ra những cái xấu, cũng như vạch ra (fact
check) những lời nói không đúng sự thật của ứng cử viên đại diện cho đảng Cộng
Hòa này. Nồng độ và tốc độ của những bài viết tố khổ Trump nặng nề và dày đặc
đến nỗi Trump phải kêu lên: “cuộc bầu cử đang bị gian lận,” và một chứng cớ của
những sự gian lận đó, theo Trump, là “truyền thông và Clinton đang âm mưu làm
cho tôi thất cử”. Đây cũng là lần đầu trong lịch sử 143 năm của tờ Detroit News;
126 năm của tờ Arizona Republic. Báo Mỹ không ưa gì Donald J Trump. Trong tốp
100 tờ báo in hàng đầu, chỉ có 2 tờ ủng hộ Trump. Hơn 200 tờ báo hậu thuẫn cho
Hillay, con số này với Trump chưa đầy 20. Thậm chí, một vài tờ cũng chỉ ủng hộ
kiểu nửa vời. Điều khả dĩ nhất mà tờ Fort Wayne News Sentinel có thể làm được
là: “Ơn Chúa vì có Mike Pence”. Mike Pence là liên danh của Trump. Washington
Times nói Trump là ‘bất toàn’, ‘thô bỉ và lỗ mãng’. Điều mà họ thích thú chính là
thực tế, ông có ‘đủ mọi địch thủ: từ các học giả uyên thâm, ‘các nhà khoa học xã
hội’, những người bên trong Beltway, các nhà hàn lâm, và những người công chính
hiểu rõ về các chính sách sai lầm’. Họ thấy rằng, hình ảnh của Trump đang được tô
vẽ bởi truyền thông một chiều. Đó là cái nhìn của truyền thông Mỹ. Thế còn truyền
thông của các nước trên thế giới thì sao?

Tờ Milenio của Mexico City trong một hình bìa, đi tít “Make America dumb
again,” hỏi độc giả và giới phân tích là chúng ta nên làm gì về “người đàn ông đã
làm chúng ta giờ phải tiếc nhớ gia đình nhà Bush.” Báo mạng El Deforma, một
16
trang tin châm biếm tương tự tờ The Onion, dành một số bài lớn để nhạo báng
tuyên bố sẽ xây bức tường để ngăn cách Hoa Kỳ và Mexico của Donald Trump,
trong đó có bài viết về việc Canada xây dựng một bức tường chia cách Mỹ và Gia
Nã Đại trong trường hợp Trump đắc cử, và bài “Trump đã bắt đầu xây tường” –
trong đó có hình Donald Trump đứng cạnh một lá cờ Mỹ và một bức tường Lego là
những bài đáng chú ý nhất. Chumel Torres, người dẫn chương trình của Mexico El
Pulso de la Republica, cũng nhắc đến Trump với bao hài hước, nhưng cũng than
rằng chỉ có thể dùng Trump để “mua vui cho khán giả” tới một mức độ nào thôi, vì
“nói về Trump hoài tôi mệt quá đi, bởi vì nói đi nói lại cũng chỉ là những tuyên bố
ngu ngốc của ông ta thôi.”

Canada: Kẻ thù lớn nhất của Trump chính là Trump


Ngoài Mexico, nước láng giềng phía Bắc của Mỹ là Canada cũng quan tâm đến
sự có mặt và lên như diều gặp gió của Trump trong chính trường Mỹ. Thủ Tướng
Canada, ông Justin Trudeau, nổi tiếng là một người “anti-Trump”, tức “chống
Trump.” Lãnh đạo một hòn đảo của Canada thì đùa rằng sẽ mở rộng vòng tay đón
người Mỹ tị nạn nếu Trump lọt vào Tòa Bạch Ốc. Thử vào Google đánh cụm từ
“Trump – moving to Canada,” người ta sẽ thấy có gần 14 triệu bài về đề tài này, vì
thế không ai ngạc nhiên khi Trump đã làm tốn rất nhiều giấy bút của truyền thông
nước láng giềng Gia Nã Đại. Toronto Star là tờ báo đăng nhiều bài viết về Trump,
trong đó có những bài gọi Trump là một “ứng cử viên không được lòng dân nhất
trong lịch sử”, mô tả các cuộc vận động tranh cử của Trump là “cơn thịnh nộ của
testosterone (tiết tố nam)”, và lưu ý Trump thực sự là “một anh hùng ca của ảo
tưởng.
Nga: Bầu cho Trump để tránh chiến tranh Nga-Mỹ
Trump từng khoe khoang mình sẽ “có mối liên hệ rất tốt với Putin.” Và sau khi
Putin khen Trump là “một người chắc chắn là thông minh và tài giỏi,” Trump đáp
lại lời khen của Putin, kêu gọi Tổng Thống Nga là “một người đàn ông có uy tín
cao trong đất nước của mình và xa hơn nữa.” Phần lớn báo chí Nga (hoàn toàn do
nhà nước quản trị), chỉ tập trung vào những lời khen ngợi giữa hai bên. Năm
ngoái, ký giả Ivan Nechepurenko trong một bài viết bằng tiếng Anh trên trang tin
Anh ngữ Moscow Times, ghi nhận sự tương đồng giữa Trump và Putin: “Cả hai
đều là những người chống lại giới nắm quyền (anti-establishment), là những người
tự tin, và không cảm thấy bị hạn chế bởi sự phải phép chính trị (political
correctness),” Nechepurenko viết. “Họ là những thành viên của một hệ thống chặt
chẽ: Putin là một người được đào tạo từ guồng máy an ninh của Liên Xô, Trump
thuộc về thế giới doanh nghiệp Mỹ. Cả hai muốn được miêu tả là người đàn ông
chân chính, không phải là một phần của giới nắm quyền”.
17
Đức: “Người đàn ông nguy hiểm nhất thế giới!”
Truyền thông Đức cũng bày tỏ nhiều bất ngờ về cuộc tranh cử tổng thống của
Trump. Tháng Bảy năm 2015, đài truyền hình quốc tế Deutsche Welle mô tả
Trump là “ứng cử viên tổng thống khiến châu Âu kinh ngạc”; “Trump đang dẫn
đầu một số cuộc thăm dò trong số các ứng cử viên đảng Cộng Hòa, nhưng hầu hết
người Đức, và người châu Âu, khó có thể xem Donald Trump là một ứng cử viên
“nghiêm túc”, ký giả Carla Bleiker viết. “bởi vì họ có những kỳ vọng khác ở một
chính trị gia.”
Tại Trung Quốc, tờ Global Times đơn cử trường hợp của Trump như một sự
diễu cợt của nền dân chủ Mỹ, lập luận Trump là chứng cớ cho thấy việc để cho
đám quần chúng ô hợp chọn người lãnh đạo quả không phải là một điều hay. Tờ
Global Times cảnh báo: “Hoa Kỳ hãy cẩn trọng để đừng biến đất nước mình thành
một nguồn lực phá hoại chống lại hòa bình thế giới, và tốt hơn là hãy dừng ngay
việc chỉ trích những quốc gia khác về cái gọi là chủ nghĩa dân tộc và bạo động của
nước họ.”
Tại Pháp, tờ Liberation có nhiều bài viết phê phán Trump, gọi ứng cử viên này
là “Cơn ác mộng của Mỹ,” so sánh Trump với chính trị gia Le Pen của Pháp, và đặt
câu hỏi điều gì thì sẽ làm cho “phong trào Trump” có thể sụp đổ.
Tại Nhật, nhật báo Yomiuri Shimbun viết về quan tâm của nước này: Nếu Trump
trở thành tổng thống Mỹ, thì đó là một nguy cơ cho an ninh quốc gia của hai quốc
gia Mỹ-Nhật.”
Tại Nam Mỹ, tờ Daily Maverick đi tít “Mặt tối của chủ nghĩa dân túy ở Mỹ”,
tả Trump như một “sản phẩm của đảng Cộng Hòa.” Tờ City Press đi tít: “Chúa
giúp chúng ta nếu Trump đắc cử.”Còn nhiều nữa. Nhưng nhìn chung, báo chí thế
giới đa số đều ngao ngán trước viễn ảnh Trump trở thành người có nhiều quyền lực
nhất trên trái đất.
Tác động mạnh mẽ của truyền thông quốc tế như một công cụ định hình nền
văn hóa thế giới toàn cầu trở nên rõ ràng trong quá trình diễn ra các sự kiện quốc tế
lớn, chẳng hạn như Thế vận hội Olympic, khi mọi người từ khắp nơi trên thế giới
đến một nơi trên thế giới và ở cùng nhau Thế vận hội giao lưu với nhau, tương tác
chặt chẽ và chia sẻ và làm phong phú thêm kinh nghiệm văn hóa của họ.
Sự nghiên cứu Truyền thông quốc tế như một ngành khoa học là vô cùng cần
thiết vì nó giúp tìm hiểu về chính sách thông tin đối ngoại của các quốc gia, giúp
xây dựng chính sách thông tin, chiến tranh thông tin, các chính sách truyền thông.
Nghiên cứu truyền thông quốc tế giúp ta phân tích được các luồng truyền thông
cùng với nhiều khía cạnh đến từ các nguồn thông tin trên quốc tế từ đó có thể đưa

18
ra các quan điểm cá nhân, đánh giá không bị hiểu sai, hiểu lệch lạc các thông tin
thực tiễn.

19
Nguồn tham khảo
David Gauntlett, Ten things wrong with the "effects model" in trong cuốn
Approaches to Audiences – A Reader, Roger Dickinson, Ramaswani Harindranath
& Olga Linné, biên tập (1998). Nxb Arnold, London
Nguyễn Thị Hồng Nam(Chủ biên, 2020) và nhóm tác giả. Truyền thông quốc tế, Lý
luận & Thực tiễn, NXB Thông tin &Truyền thông
Lê Thanh Bình (2012) Giáo trình Đại cương Truyền thông quốc tế, NXB TT –
Truyền thông
Phạm Thái Việt (2015), Giáo trình Đại cương Truyền thông quốc tế, NXB Chính trị
quốc gia sự thật
Daya Kishan Thussu (2018), International Communication, Continuity and Change,
NXB Bloomsbury Academic
Anokwa, K., Lin, C. A., & Salwen, M. B. (Eds.). (2003). International
communication: Concepts and cases. Wadsworth Publishing Company;
https://hcma1.hcma.vn/daotao/Pages/khoa-quan-he-quoc-
te.aspx?CateID=191&ItemID=15297
http://dongphuonghoc.org/article/623/chinh-sach-doi-ngoai-doi-moi-cua-viet-
nam.html
http://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/tong-quan-cong-tac-thong-tin-doi-ngoai
http://tuyengiao.vn/90-nam-truyen-thong-nganh-tuyen-giao-cua-dang/thong-tin-
doi-ngoai-gop-phan-nang-cao-vi-the-viet-nam-128936
https://dangcongsan.vn/thoi-su/cong-tac-thong-tin-doi-ngoai-the-hien-su-chu-
dong-tich-cuc-545207.html
http://tuyengiaohungyen.vn/bai-viet/nhung-van-de-co-ban-ve-cong-tac-thong-tin-
doi-ngoai-hien-nay.aspx
https://123docz.net//document/3790054-tieu-luan-cao-hoc-mon-thong-tin-doi-
ngoai-thong-tin-doi-ngoai-doi-voi-cong-dong-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai.htm
http://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/vai-tro-cua-thong-tin-va-noi-dung-hoat-dong-
thong-tin-doi-ngoai
http://www.luanvan.co/luan-van/luan-van-cong-tac-thong-tin-doi-ngoai-cua-viet-
nam-trong-thoi-ky-doi-moi-36408/

20
https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/1249/vai-tro-cua-truyen-thong-trong-phat-
trien-khoa-hoc-va-cong-nghe-khu-vuc-phia-nam.aspx
https://sites.google.com/site/buiquangthangvicas/sach/xxx/x-2
http://qvcorp.com.vn/dich-vu-3/Nghien-cuu-truyen-thong-117.html
https://danviet.vn/donald-trump-va-cu-dat-mui-truyen-thong-ngoan-muc-
7777724274.htm
https://nghiencuuquocte.org/2016/06/07/vai-tro-truyen-thong-troi-day-trump/
https://hcma1.hcma.vn/daotao/Pages/khoa-quan-he-quoc-
te.aspx?CateID=191&ItemID=15297
sp_cover (cognella.com)
Challenges in International Communication (atiner.gr)

21

You might also like