You are on page 1of 8

[Tài liệu độc quyền] GAC VAN - “Here is a gift for you”

BÀI VĂN MẪU VỀ “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ’’

Đề: (Bám sát cấu trúc đề minh họa 2022 của Bộ Giáo dục & Đào tạo)
“... Vậy là phải xong cái trùng vị thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải
luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sống thần
đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sống. Vòng thứ hai này
tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cũng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đồ ghì cương lái,
băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía
cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập
đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sắn
lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vắng reo
tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa
sinh nỏ trấn lấy. Còn một trùng vấy thứ ba nữa...”

(Trích “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD, 2018, tr 189)

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật người lái đò trong đoạn trích trên.
Từ đó, nhận xét về bút pháp xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân.

Lưu ý: Đây là bài văn mẫu viết về một đề bài bất kỳ - cốt là hướng đến việc bám sát cấu trúc đề
thi minh họa để triển khai/.

Bài làm:
Còn nhớ một nhà phê bình nào đó đã từng không thể giấu đi được những bộc bạch về ký -
một thể loại đặc thù: “Mỗi một trang ký được viết ra là mỗi một “trang hoa” ra đời. Đó kì thực là
những trang hoa, trang ngọc của những tâm hồn giàu xúc cảm; am hiểu sâu sắc, đến độ cuộc sống
con người”. Cái thể ký rộng lớn này thường được người ta ví như bức sơn dầu phác thảo lại những
tinh hoa của cuộc sống bằng những nét vẽ tài hoa, phóng túng, mang đậm cái tôi của người cầm bút.
Chẳng thế mà Nguyễn Tuân khi viết “Người lái đò sông Đà” đã tung hoành trên trận địa ngôn ngữ
bằng tất cả tài năng và tâm hồn - và những “trang hoa” của ông cứ thế hấp dẫn người đọc bao thế
hệ. Đó là một áng văn đẹp được thêu dệt nên từ tình yêu đất nước và con người, cụ thể là cái tình
nồng đượm của một đời văn muốn dùng ngôn từ để tốc ký vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của đất và người
miền Tây Bắc... Với đoạn trích trên, người ta được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp tâm hồn của người
lái đò - một vẻ đẹp của “thứ vàng mười đã qua thử lửa”; đồng thời thấy được nét tài hoa, độc đáo
trong bút pháp xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân.

Có thể nói rằng, tùy bút - một thể thuộc loại hình ký, là thể đặc thù mà ở đó, tác giả ghi chép
lại những quan sát và suy ngẫm của mình về cảnh vật, con người xung quanh một cách trung thực,
hấp dẫn. Nếu như truyện ngắn từng được ví như “một lát cắt trên thân cây cổ thụ”, mà qua đó người
ta thấy được “cả trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu), thì tùy bút lại là một sự tái hiện
toàn diện hiện thực khách quan nhưng gắn kết chặt chẽ với mạch chảy của cái tôi trữ tình độc đáo.
Đọc thế này, người ta có cơ hội được chiêm ngưỡng một lượng tri thức dồi dào và khám phá thế
giới của trí tưởng tượng phong phú. Ở những thiên tùy bút có giá trị, ta dễ dàng bắt gặp những hình
tượng nhân vật chuyên chở quan niệm, tư tưởng của tác giả về cuộc đời, cụ thể là cái đẹp. Hình
tượng nhân vật được hiểu như là “bản dập của những con người sống” (chữ dùng của Bertolt
Brecht), là đứa con của hiện thực được nuôi dưỡng bằng tình cảm, tư tưởng của nhà văn. “Người lái
đò sông Đà” của Nguyễn Tuân cũng là một thiên tùy bút như vậy. Ở đó, bên cạnh hình tượng con
sông Đà với nhiều chất riêng, độc giả còn bắt gặp hình tượng nhân vật người lái đò với nhiều phẩm
chất đáng quý.

“Đặc Việt Nam” - đó là ba chữ mà nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã ưu ái dành tặng
riêng cho Nguyễn Tuân - một nhà văn có thể nói là đã đứng riêng ra một “phái”. Có một điều đặc
biệt ta phải thừa nhận, những tập văn của ông không phải là tùy bút, cũng ngả về tùy bút không ít
thì nhiều. Ông dường như không thể nào bỏ được cái lối phiếm luận, cái giọng khinh bạc bất cứ về
việc gì, nên có nhiều đoạn lê thê... Tuy vậy, đọc Nguyễn Tuân, bao giờ người ta cũng thấy trào dâng
trong mình một hứng thú đặc biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự
hành văn một cách hoàn toàn “Việt Nam”. Con người ấy, viết văn không chỉ bằng ngòi bút của một
nhà văn, mà còn bằng nhãn quan và nét vẽ của một họa sĩ, một nhà điêu khắc. Chẳng thế mà văn
Nguyễn Tuân rất giàu màu sắc, hình khối, đậm chất điện ảnh. Điều này thể hiện rõ nét thông qua
thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”, rút ra từ tập Sông Đà (1960) - một đứa con tinh thần được
hoài thai từ chuyến đi thực tế lên Tây Bắc. Ở tùy bút ấy, với lòng tự hào của mình, nhà văn đã khắc
họa những nét thơ mộng, khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo,
trữ tình; đồng thời phát hiện, ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ, tinh thần trí dũng của con người lao
động mới. Vậy chân dung của người lái đò ấy - con người đại diện cho “chất vàng mười” của đất
nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện lên như thế nào?

| “Người lái đò sông Đà” - ngay từ nhan đề, người đọc ta đã khựng lại và mường tượng ra
rằng, hình tượng trung tâm của thiên tùy bút này không ai khác chính là một người lái đò trên sông
nước. Cũng không phải ngẫu nhiên mà ngay từ lời đề từ, một câu nói của nhà thơ cách mạng người
Ba Lan đã được dẫn lại: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”. Tôi tự hỏi, tiếng hát trên dòng
sông kia - có phải giản đơn là Nguyễn Tuân đang muốn nói rằng dòng sông ấy cũng có linh hồn
không? Không hẳn. Có lẽ gần gũi hơn, Nguyễn muốn nhấn mạnh và ngợi ca về tiếng hát của con
người trên dòng “Đà giang độc bắc lưu” ấy. Người lái đò “lọt” vào tầm mắt của nhà văn trong tùy
bút trên, thật đặc biệt, là một ông lão đã bước vào cái tuổi bảy mươi - cái tuổi mà người ta vẫn hay
bảo với nhau rằng: “Thất thập cổ lai hy”. Vậy mà ở đây, ở cái tuổi thất thập ấy, người lái đò “vẫn
đẹp như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch”. Chúng ta còn nhớ những cánh tay “lêu nghêu
như cái sào” của lão? Còn nhớ cáo “khuynh khuỳnh” bất cứ lúc nào của đôi chân? Còn nhớ cái tinh
anh, vời vợi của nhữn giới “như mong một cái bến xa”? Nguyễn Tuân đã có những nét phác thảo
giản đơn nhưng cực kỳ tinh tế về nhân vật như thế. Vậy người lái đò ấy, trong trùng vị thạch trận
trên sẽ càng hiện lên đẹp đẽ đến thế nào?

Có lẽ chúng ta nên thử nhìn ngắm cái hiểm hóc và hung bạo của sông Đà. Đà giang chảy
giữa đại ngàn Tây Bắc ấy, cớ sao lại trở nên hung hiểm đến vậy? Có chăng, vì chảy giữa đất, giữa
rừng; chứng kiến biết bao nhiêu những sự kiện lịch sử khắc nghiệt, con sông ấy trở nên “hung bạo”
hơn? Trong đoạn trích trên, ta thoáng thấy điều đó thông qua những vòng vây được bày binh bố trận
bởi thác đá sông Đà. Đoạn trích trên mở ra một trận địa mới, một trùng vị thạch trận thứ hai mãnh
liệt hơn, nguy hiểm hơn, với nhiều cửa tử hơn. “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá”. Những tảng đá lớn nhỏ khác nhau thì lại “không ngớt khiêu khích”. Tài năng của Nguyễn
Tuân là ở đó. Nhìn về một con sông, nhưng con sông ấy đâu chỉ là dòng lưu chuyển của mạch nước
từ thượng nguồn về hạ lưu? Sông Đà và cả những thứ nằm trong lòng sông ấy, hiện lên như một
linh hồn, một thực thể biết sống, một kiểu “hùm thiêng” đầy mãnh lực. Nhìn thấy sự hung hãn của
thác đá sông Đà bao nhiêu, giờ đây, người đọc ta sẽ càng ngưỡng mộ những vẻ đẹp tâm hồn của
người lái đò bấy nhiêu.

Trước hết, ta nhìn thấy ở người lái đò một sự từng trải, dồi dào kinh nghiệm. Sự gắn bó của
người lái đò với con sông này những tưởng như sự gắn bó của đời người tri kỷ, đến nỗi ông hiểu
được tính khí” ngang bướng của nó, hiểu được từng cửa tử, từng của sinh. Xưa, ta thấy cụ Nguyễn
Du tâm niệm:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

(Truyện Kiều)

Nghĩa là cảnh như thế nào phụ thuộc vào tâm trạng của chủ thể nhìn ngắm nó. Cảnh sẽ tươi
vui khi tâm người trong sáng, cảnh sẽ sầu thương khi tâm người tối mịt. Giờ đây, trên trang viết
Nguyễn Tuân, ta lại thấy một mối quan hệ đặc biệt giữa người và cảnh, chỉ khác là, người đang cố
hiểu cảnh, và đã hiểu được cảnh. Hãy cùng xem cách mà Nguyễn Tuân miêu tả sự thấu hiểu tường
tận đó: “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sóng thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm của trận, có bốn cửa tử một cửa
sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa
con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Rất dứt khoát, vẻn vẹn: “đã nắm
chắc”, “đã thuộc quy luật” - chữ “đã” cho chúng ta thấy một chiều kích của quá khứ, một kinh
nghiệm dày dặn, một sự từng trải. Đối với một người dành cả đời để bằng sóng, vượt thác như
người lái đò lão thành kia, thì thấu suốt “tính khí” của từng quãng sống cũng không có gì là khó
hiểu. Mọi thứ, từ “năm của trận”, cụ thể trong đó “bốn cửa tử một của sinh”, rồi vị trí của từng cửa -
đều được ông lái thuộc lòng. Tới đây, tôi chợt nhớ đến một đoạn thơ của nhà thơ Huy Cận:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,


Dàn đan thế trận lưới vây giăng’’

(Đoàn thuyền đánh cá)

Cái cách mà những người dân chài biển kia “ra đậu dặm xa dò bụng biển”, rồi “dàn đan thế
trận lưới vây giăng” làm cho tôi hình dung: Họ đã hiểu cái thiên nhiên kỳ vĩ, rộng lớn ấy biết
nhường nào! Họ hiểu cái “bụng biển” bao la nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt. Hơn cả sự
hiểu, họ còn tạo ra một thế trận đặc biệt, để khám phá sự giàu có của đại dương. Cũng giống như
người lái đò trong tình huống trên, hiểu một con sống như hiểu một con người!

Không chỉ là một người từng trải, dồi dào kinh nghiệm, người lái đò còn thực sự rất dũng
cảm, tài ba, mưu trí. Dũng cảm ở đâu? Đó là khoảnh khắc ông “cưỡi đến cũng như cưỡi hổ” khi
vượt thác sông Đà. Cái tư thế cưỡi hổ này thật đặc biệt! Xưa, ta từng nghe đến chuyện Võ Tòng tay
không đả hổ trên đồi Cảnh Dương: “Võ Tòng được thế lợi, lại ấn mạnh mồm nó xuống rãnh ấy, rồi
tay trái vẫn ghì chặt cổ hùm, tay mặt giơ lên, nắm lại như quả đồng sắt, cứ nhè đầu, nhè tại nó mà
giáng xuống như giã giò! Chàng thoại luôn một hơi sáu bảy chục đấm, thì thấy cọp ứa máu ra mồm,
ra mũi, ra mắt, ra tai... đỏ lòm lòm”. Nay, ta lại thấy cảnh “cưỡi hổ” của một ông lão lái đò kỳ cựu.
Cách Nguyễn Tuân dùng từ thật tài hoa, độc đáo! Cưỡi thác - cưỡi hổ, mà đâu phải cưỡi một cách
nhẹ nhàng như chu du ngắm hoa thưởng ngoạn, mà là tư thế “cưỡi đến cùng”. Chỉ cần một tư thế
vậy thôi, người ta đã hình dung được sự dũng cảm của người lái đò ấy như thế nào. Tuổi tác không
phải là giới hạn cho lòng dũng cảm của con người. Không phải càng già người ta càng trở nên yếu
đuối đi. Trong những hoàn cảnh cần thiết, dù ở giai đoạn nào trong đời người, dù trai tráng, dù tứ
tuần hay thất thập, dũng cảm vẫn là một khí chất đáng ngưỡng mộ của những con người lao động
đặc thù như lão.

Nhưng để có được tư thế Võ Tòng ấy, đâu chỉ cần sự dũng cảm? Ở đây, Nguyễn Tuân đã rất
tinh tế khi nhận ra, bên cạnh sự dũng cảm đó, người lái đò còn cực kỳ mưu trí, tài ba. Ngay từ
những câu văn đầu khi sắp sửa bước vào thạch trận thứ hai, Nguyễn đã nhìn thấy sự nhanh nhạy
trong từng hành động, cử chỉ của lão: “Không một phút nghỉ tay nghi mắt, phải luôn vòng vây thứ
hai và đổi luôn chiến thuật”. “Phải luôn” và “đổi luôn” cho chúng ta nhìn thấy được trạng thái linh
hoạt của người làm sông nước này. Sau này, trong một dịp đọc được một bài báo phỏng vấn về
những con người làm nghề lái đò, chèo thuyền, tôi còn nhớ một ông lão nọ ở Mai Châu từng tâm
sự: “Cái nghề sông nước này, không nhanh, không nhạy thì chết. Không đùa được. Chỉ cần một
chút bất cẩn, lơ là, mất mạng như chơi”. Quay trở lại câu chuyện của người lái đò, dẫu tại khúc sông
này, chúng có tăng thêm bao nhiêu của tử đi chăng nữa thì vẫn chẳng thể nào “đánh lừa” được lão.
“Nắm chặt lấy được cái bàn sóng đánh luồng rồi, ông đồ ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”, mặc cho “bốn
năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trải tiền xô ra định níu thuyền lội vào tập đoàn của tử”.
Từng hành động đều rất dứt khoát, không hề do dự: “nắm chặt” - “ghì cương lái” - “bám chắc” -
“phóng nhanh” - “lái miết một đường”. Thời khắc ấy, người lái đò chợt hiện lên như một dũng
tướng tài ba. Đã đôi lần khi đọc đến đoạn văn này, tôi chợt hình dung nếu từng câu văn của Nguyễn
Tuân là ý tưởng để một họa sĩ nào đó phác họa, thì bức tranh ấy có lẽ sẽ hiện lên thật đẹp. Đó có thể
là một bức tranh đại ý thế này: giữa cảnh sóng xô bờ đá, con thuyền hiên ngang tiến về phía trước.
Trên con thuyền ấy, một người lái đò tay nắm chặt mái chèo, mắt nhìn thẳng, làm chủ luồng nước,
đánh bật con sóng mà phóng thật nhanh. Đó là tư thế của những con người làm chủ. Làm chủ mọi
hoàn cảnh, mọi thách thức, mọi khó khăn - như cách mà bao nhiêu năm qua người Việt ta vẫn vậy.
Con người hiện lên thật đẹp giữa bức tranh ấy!

Ta thấy đó, cách mô tả của Nguyễn Tuân quả là khác biệt. Khác biệt bởi con người mê “xê
dịch”, vốn đã rất “ngông”, rất tài hoa nghệ sĩ ấy đâu dễ dãi chấp nhận lối miêu tả giản đơn, tầm
phào? Từng lời được viết ra đúng thật như những lời hoa, trang hoa. Cái câu mà cổ nhân thường nói
“thi trung hữu họa” - nếu được đối thoại, tôi muốn nói thêm, “ký trung hữu họa”. Không chỉ trong
thơ, mà cả trong ký, chất họa là hồn. Nguyễn Tuân có lẽ phải hiểu lắm mới có thể hình dung kỹ
càng và chân thật đến vậy! Phải tài ba lắm mới viết được những câu văn khiến người đọc được
“phiêu cùng” như thế! Đến đây, tôi hiểu rằng câu chuyện của sáng tạo nghệ thuật có lẽ chẳng hề dễ
dàng. Viết, phải vừa đem đến cho người đọc một điều gì đó mới mẻ trong văn phong; phải vừa cho
ta người thấy cái phông hiện thực, phông văn hóa sâu rộng của người mang danh phận nghệ sĩ. Và
Nguyễn Tuân đã làm được điều đó! Quay trở lại đoạn trích này, ta càng ngưỡng mộ vẻ đẹp của
người lái đò hơn khi “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sẩn lên mà chặt đôi ra
để mở đường tiến”. Cho đến khi, “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vắng reo tiếng
hò của sóng thác luồng sinh”. Không chỉ là một người lái đò kỳ cựu, từng trải; không chỉ là sự dũng
cảm, mưu trí đơn thuần; ở con người ấy, chúng ta còn thấy toát lên cái chất “tài hoa nghệ sĩ”. Có
phải vì chính Nguyễn Tuân tài hoa nghệ sĩ như thế, nên nhân vật của Nguyễn tự bao giờ cũng phảng
phất lấy cái “hơi”, cái “điệu”, cái “khí chất” trời phú ấy? Người lái đò có tự biết mình tựa như một
nghệ sĩ hay không? Hay chỉ đến khi qua đôi mắt của một nhà văn như Nguyễn, chính lão ta hay
những người đọc như chúng ta mới bắt đầu tự ngẫm về công việc này. Với mỗi hòn đá, kiểu đá khác
nhau, chẳng nề hà khó nhọc, lại càng không khinh suất, ông “ứng xử” khác nhau - một kiểu ứng xử
rất khéo mà dường như chỉ có những người làm nghệ thuật mới “nhạy” đến vậy. Tôi chợt nghĩ đến
cách mà Dương Hương Thư đã “vượt thác” trong một tác phẩm của nhà văn Võ Quảng: “Dượng
Hương Thư đánh trần đứng sau lại có người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng
“xoạc”! Thép đã cắm vào sỏi! Dương Hương Thư ghì chặt lên đầu sào, lấy thế trụ lại, giúp cho chú
Hai và thằng Cù Lao phóng sao xuống nước...” Dù là “trạc ngoại tứ tuần” như Dương Hương Thư,
hay cái độ tuổi “thất thập” như người lái đò, thì ta vẫn thấy một điểm chung giữa những con người
lao động thời kỳ mới: Dũng cảm, tài ba, mưu trí đến độ! Sẽ là một sự ngạc nhiên đối với tất cả
chúng ta, khi ta được chiêm ngưỡng cái cách một ông lão đã tầm 70 “tránh mà rảo bơi chèo”, “đè
sẩn lên mà chặt đôi ra”. Tôi gọi đó là “sức trẻ”, là năng lượng dồi dào của những con người mang
trong mình “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại “giấu đi”
cái tên của nhân vật. Ông không định danh nhân vật của mình bằng tên gọi, mà định danh nhân vật
bằng tính cách, bằng phẩm chất chung như một đại diện cho cả thế hệ người. Sau này, nghiên cứu -
phê bình văn học hiện đại gọi đó là thủ pháp “mờ hóa”. Vậy dụng ý của sự mờ hóa này là gì? Phải
chăng, Nguyễn Tuân không chỉ dành riêng sự ưu ái để ngợi ca một người lái đò đơn độc giữa sông
nước; mà cái cốt yếu sâu xa hơn, nhà văn đang muốn ngợi ca bức tranh toàn cảnh về con người Việt
Nam thuở ấy - con người Việt Nam thời kỳ lao động mới?

Một người lái đò từng trải, tài hoa, tài ba, mưu trí, dũng cảm! Bao nhiêu năm qua, cũng đã
từng có biết bao người lái đò xuất hiện trong văn học. Nhưng đến Nguyễn Tuân, vẻ đẹp ấy không
chỉ là những phẩm chất thường gặp, mà cái cốt là sự phóng chiếu phẩm chất tài hoa nghệ sĩ vào
trong đời sống lao động của con người. Lao động không chỉ là khó nhọc, là vất vả, hóa ra, lao động
là một hành trình kiến tạo, là một “cuộc chơi” nghệ thuật, một phần trình diễn độc đáo. Người lái đò
- con người ấy hiện lên giữa bức tranh sông nước, giữa lối chơi “độc tấu” của một con người phải
lòng với tùy bút như Nguyễn quả là một may mắn. Nếu như dòng tùy bút trước Cách mạng Tháng
Tám của Nguyễn Tuân thấm đẫm sự kiệu bạc của cái “tôi” tác giả - một con người tài hoa, muốn
“nổi loạn” chống lại xã hội phàm tục, thì sau Cách mạng, ông đã hòa mình vào cuộc sống của nhân
dân, rũ bỏ cái “tôi”, vươn lên thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Cách mạng đã
mang đến một hơi thở mới và cuộc “lột xác” ngoạn mục trong văn Nguyễn Tuân. Thuở ấy, chính
ông cũng đã tự thừa nhận rằng: “Chưa có thu nào mà mây mùa khói mùa đẹp được như mây khói
mùa này. Sớm cũng như hôm, bốn chiều tám hướng chân giới Việt Nam nổi bồng lên những hình
mây khỏe mạnh và những sắc mây lộng lẫy” (Ngày đầy tuổi tôi cách mạng). Nguyễn quyết tâm “tự
đào thải hết mọi cố nhân trong lòng

mình”. Gạt qua những kiểu người “tài hoa”, những kiểu sống “tài tử” từng được xem như là “đạo
sống”, để mọi thứ trở thành “vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân giờ đây đã hướng ngòi bút của
mình đến việc khám phá đời sống, vẻ đẹp thiên nhiên - đất nước - con người. Đặc biệt là những
người lao động bình thường, giản dị mà rất mực tài hoa, dũng cảm. Không còn cảm giác “thiếu quê
hương” như trước kia nữa, nhà văn giờ đây coi quê hương gói lại trong từng con nước nhỏ, từng
dòng thác, từng con người lao động vô danh như một ông lái. Có thể nói, tùy bút Nguyễn Tuân
thấm đượm thứ văn hóa Đông Tây đã được ông tiếp nhận - không chỉ hiểu triết lý mà còn thấm cả
đạo lý, dù hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân vẫn thấy mình nặng nợ với đất nước, với làng
xóm, phố phường, thấy mình có gốc rễ từ lịch sử.

Đến đây, ta thật sự khâm phục “bút pháp xây dựng nhân vật” của Nguyễn Tuân. Sáng tạo
nghệ thuật, một khi đã lấy nhân vật như một sự phản ánh cho tư tưởng, tình cảm của mình; nghệ sĩ
phải thật sự để tâm để bút pháp để khắc họa những con người ấy. Trong văn học, bút pháp nghệ
thuật chính là cách thức nhà văn sử dụng ngôn từ, kết cấu và các phương tiện nghệ thuật khác để
xây dựng nên thế giới nghệ thuật. Trong tiếng Latin, bút pháp còn gần nghĩa với từ “phong cách”,
“văn phong”, và dưới góc độ lý luận, ta có thể hiểu bút pháp là một khía cạnh, một yếu tố của
phong cách nghệ thuật. Bút pháp xây dựng nhân vật chính là cách mà người viết vận dụng các
phương tiện nghệ thuật cần thiết để kiến tạo bức chân dung nhân vật, từ cách mô tả nhận dạng đến
nhân tính, ngoại hình đến suy nghĩ, hành động và tính cách. Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà”, ta
thấy Nguyễn Tuân đã vận dụng rất linh hoạt bút pháp, kết hợp giữa việc mô tả ngoại hình, hành
động và tích cách của con người. Ở đó, nhà văn không chỉ mô tả một cách bình thường như một nhà
ký họa, mà còn gửi gắm vào đó cái tôi trữ tình độc đáo, đậm chất tài hoa, lãng mạn, thông qua hệ
thống ngôn từ mới mẻ. Lắm khi, nhà văn cũng không thể nào giấu đi được cái khinh bạc, cái
“ngông” vốn đã là bản chất xưa nay của mình. Bút pháp linh hoạt đó giúp cho nhân vật hiện lên một
cách rõ nét, mang một linh hồn, một nét đẹp dù có vẻ chung đấy, nhưng cũng cực kỳ riêng biệt. Bút
pháp trên có thể xem là một chiếc chìa khóa để Nguyễn Tuân dễ dàng khai mở thế giới tính cách
của nhân vật, từ đó, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người lao động thời kỳ mới. Mỗi nhà văn có
một bút pháp riêng, một chiếc chìa khóa riêng như vậy! Không chỉ thế, chính bút pháp khác biệt
này cũng giúp cho văn Nguyễn Tuân mang đậm dấu ấn nghệ thuật riêng, một nét phong cách riêng,
để người đọc chỉ cần đọc qua đôi ba dòng đã thốt lên rằng: “Đấy là Nguyễn! Chỉ có thể là Nguyễn!”
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Anh Đức đã dành hết lời ngợi khen cây bút này: “Không biết
chừng nào mới lại có một nhà văn như thế... Tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện
riêng”. Dù trước hay sau Cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn giữ được nét riêng trong bút pháp của
mình: trữ tình, lãng mạn, độc đáo, tài hoa. Nhờ những nhà văn với những bút pháp riêng biệt, mà
văn chương không chỉ Việt Nam nói riêng mà thế giới nói chung trở nên phong phú hơn bao giờ
hết!

Tóm lại, đọc “Người lái đò sông Đà”, ta được chứng kiến vẻ đẹp của những con người
trong khung cảnh đời sống lao động mới, với những phẩm cách cao quý, đáng tôn vinh. Họ là
những đại diện tiêu biểu cho cuộc sống mới của dân tộc.

“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sống xuôi...”

(Đất nước)

Có lẽ người lái đò kia, hay bất kỳ một con người vô danh nào khác - vẫn lặng lẽ ngày đêm
lao động, duy trì các tuyến đò chở hàng lên vùng cao, làm nên cái “trăm màu” trên con sống lịch sử.
Ở “Người lái đò sông Đà”, ta còn thấy được cái phóng túng của Nguyễn Tuân khi chơi lối chơi “độc
tấu” của tùy bút: ngôn từ điêu luyện, được gọt giũa công phu, cách sử dụng những hình ảnh so sánh,
liên tưởng độc đáo, kết hợp cảm quan nghệ thuật - hội họa - điện ảnh thật tài tình. Nguyễn Tuân
đúng thực hợp với tùy bút. Tùy bút và Nguyễn Tuân như một cuộc gặp gỡ của đội tri kỷ, rất hợp để
hiểu nhau, rất hợp để nhà văn này thỏa sức tung hoành câu chữ: những nét chữ tự do, phóng túng
nhưng cũng rất tài hoa, uyên bác và gần gũi. Ta biết không, Nguyễn Tuân từng tự nhận mình là một
người lao động, như bất cứ nghề lao động nào khác. Trong các bản khai về nghề nghiệp, thay vì viết
“Nhà văn”, hoặc “Người viết văn”, ông ghi: “Chuyên viên tiếng Việt!”

Song, văn của Nguyễn Tuân không phải ai cũng đọc được. Nhớ lại lời kể của Tô Hoài trong
hồi ký “Cát bụi chân ai”: “Văn của Nguyễn Tuân là thứ văn kén người đọc, có người không thể chịu
nổi cái giọng khệnh khạng của Nguyễn Tuân, nhưng nếu đã mê thì mê như điếu đổ”. Có người đọc
Nguyễn Tuân thấy khó chịu. Khó chịu vì lão này mê chữ nghĩa quá chăng? Khó chịu vì lão này
tham kiến thức quá chăng? Cũng phải thú thật, Nguyễn Tuân không phải là nhà văn “được lòng”
mọi độc giả của mình, kể cả những nhà văn khác. Nguyễn khệnh khạng vậy, nhưng bước vào văn
đàn là rẽ riêng một “phái”, chọn riêng một “chỗ đứng” để không trùng lẫn với bất cứ ai. Ăn một bát
phở mà thấy cả phố phường ăn theo, người đã tỏ ra khó chịu. Viết một bản thảo, người còn phải viết
bằng giấy hoa, được ủ hương bưởi. Cái chất ngông ấy là chất keo kết dính ông với nghệ thuật, để
dẫu đi đâu, viết gì, hễ cứ nhìn thấy những câu từ kiểu bạc hay tài hoa, người ta lại nhớ ngay đến con
người ấy. Dù sao đến cuối cùng, dù yêu hay ghét, ta vẫn nên dành một thái độ tôn trọng đối với một
nghệ sĩ đã làm cho văn đàn Việt Nam đỡ nhàm chán hơn rất nhiều!

Nguyễn Tuân - một người với quan niệm rất chặt chẽ, nghiêm chỉnh, cẩn trọng về nghề,
luôn tận tụy hết mình, dốc cạn mình - để đến với cái đẹp. Trong cuộc đời cầm bút, ông tâm niệm
phải viết cho ra được những con chữ có gân, có mắt, những con chữ phải nói lên được khí phách
“tung hoành của một đời người”. Có lẽ câu chuyện của Nguyễn Tuân trở thành một định hướng cho
rất nhiều người làm nghề sáng tạo. Đã viết văn, phải sợ con chữ mình bị thấp khớp. Đã viết văn,
phải sợ văn mình bị cứng đơ. Ý thức được như vậy thì người viết mới chỉn chu hơn trong công việc
sáng tạo. Hãy nhớ đến cảm giác của Nguyễn Tuân: “Hằng đêm, ngồi trước trang giấy đến sáng; đến
sáng mà vẫn không đưa được con thuyền chữ nghĩa vượt ra cái bờ sống quạnh vắng thể lường thì
thấy mình như một kẻ tầm thường, một kẻ bất lực”. Hơn nữa, mỗi người viết cần phải cần mẫn như
đời ong, nếu muốn “biến trăm hoa thành mật ngọt” thì phải “đòi vận chuyến ong bay” (từ dùng của
Chế Lan Viên). Làm sao có thể khép cửa phòng văn mà hì hục viết? Về phía người đọc, chúng ta
cần thiết phải trân trọng những tác phẩm của những nhà văn như vậy, bởi đó là tinh túy được chắt
lọc kỹ càng, và là những câu chuyện giúp ta tự khai phóng chính mình ra khỏi sự nhàm tẻ của thực
tại, vươn đến chân trời lý tưởng của thẩm mỹ và nhân văn.

60 năm trước, ta nhìn thấy một người lái đò thật đẹp như vậy trên trang viết Nguyễn Tuân.
60 năm sau - ngay lúc này đây, khi đời sống đã khoác lên mình bộ áo mới: bộ áo của cách mạng
công nghiệp 4.0, chúng ta còn giữ cho mình nguyên vẹn những phẩm cách tốt đẹp ấy? Chúng ta
hiếm thấy hơn những người lái đò. Chúng ta hiếm thấy hơn những cuộc chiến trên trận địa sinh tử
với thác ghềnh, với nước non. Ngày nay, lao động của chúng ta có vẻ đa dạng hơn, và cuộc sống
của con người cũng có vẻ “hưởng thụ” hơn:

“Em có chạnh lòng chăng

giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu...”

(Nguyễn Duy)

Vậy giữa thành phố huy hoàng bạt ngàn quán nhậu này, ta đã thử bao giờ cảm thấy chạnh
lòng thay? Rằng ở một nơi nào đó trên dải đất chữ S này, có những người lao động thầm lặng, vô
danh vẫn ngày đêm miệt mài kiến tạo...

- Hết-

You might also like