Professional Documents
Culture Documents
http://dx.doi.org/10.17576/JEM-2021-5503-03
Thương mại công nghiệp cao: Có nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia?
(Perdagangan Berteknologi Tinggi: Adakah ia dapat meningkatkan daya saing negara?)
Zera Zuryana Idris
Đại học Quốc tế Hồi giáo Malaysia
Saifuzzaman Ibrahim
Đại học Putra Malaysia
Hanny Zurina Hamzah
Đại học Putra Malaysia
Tóm tắt
Nghiên cứu này làm sáng tỏ tác động của phát triển công nghệ thông qua hoạt động thương
mại quốc tế đến năng lực cạnh tranh quốc gia. Do đó, mục tiêu của bài viết này là kiểm tra
thực nghiệm tác động của việc tham gia vào thương mại công nghệ cao, cả xuất khẩu và nhập
khẩu, đối với khả năng cạnh tranh quốc gia. Nghiên cứu được thực hiện trên một mẫu gồm 20
quốc gia xuất khẩu công nghệ cao lớn, trong giai đoạn 2007 đến 2016. Một phân tích kinh tế
lượng của dữ liệu bảng đã được sử dụng. Xem xét Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu là
biến phụ thuộc, kết quả chỉ ra rằng cả xuất khẩu và nhập khẩu công nghệ cao đều tác động
tích cực đến năng lực cạnh tranh quốc gia. Cụ thể, xuất khẩu công nghệ cao thúc đẩy phát
triển công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhập khẩu công nghệ cao đóng
vai trò là cơ chế chuyển giao công nghệ và tác động tích cực đến năng lực cạnh tranh quốc
gia. Những phát hiện này bao hàm việc nó sẽ có lợi cho một quốc gia khi xác định và phát
triển các ngành công nghệ cao có tiềm năng nhằm đạt được mức độ cạnh tranh quốc gia cao
hơn.
Mở đầu
Sau cuộc Cách mạng Công nghiệp, thương mại công nghệ cao (công nghệ cao) ngày càng
phát triển. Sự xuất hiện của các công nghệ mới giúp các quốc gia có thể sản xuất nhiều hàng
hóa chất lượng hơn. Thương mại công nghệ cao đề cập đến việc xuất khẩu và nhập khẩu các
sản phẩm của đồng nghĩa với các nước phát triển do thâm dụng vốn của sản phẩm. Tuy nhiên,
dữ liệu gần đây cho thấy dữ liệu các nước đang phát triển đang ngày càng trở thành nhà xuất
khẩu các sản phẩm công nghệ cao.Tuy nhiên, dữ liệu gần đây cho thấy các nước đang phát
triển đang ngày càng trở thành nhà xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao.
Hình 1 chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu công nghệ cao từ các nước đang phát triển
cao hơn so với các nước phát triển, do độ dốc lớn hơn. Về số lượng, xuất khẩu công nghệ cao
của các nước đang phát triển tăng 436% từ 188,9 tỷ USD năm 2000 lên 1013,08 tỷ USD năm
2017. Ngược lại, xuất khẩu công nghệ cao từ các nước phát triển tăng 72,6% từ 969,10 tỷ
USD năm 2000 lên 1672,70 tỷ USD vào năm 2017. Tương tự như vậy, thị phần mà ngành sản
xuất liên quan đến cường độ nghiên cứu và phát triển (R&D) cao. Xuất khẩu công nghệ cao
toàn cầu cho thấy xu hướng tăng từ năm 2000 đến 2017 (Hình 1). Giá trị xuất khẩu công nghệ
cao toàn cầu lên tới 1,16 nghìn tỷ USD vào năm 2000. Giá trị này đã tăng hơn gấp đôi để đạt
2,69 nghìn tỷ USD vào năm 2017. Về lý thuyết, Về lý thuyết, sản phẩm công nghệ cao là mặt
hàng xuất khẩu công nghệ cao hơn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng chế tạo từ các nước
đang phát triển đang tăng từ năm 2007 đến năm 2018 và cao hơn so với của các nước phát
triển từ năm 2012 trở đi (Hình 2). Tính đến năm 2018, xuất khẩu công nghệ cao từ các nước
đang phát triển chiếm khoảng 22,20% tổng xuất khẩu sản phẩm chế tạo. Mặt khác, xuất khẩu
công nghệ cao từ các nước phát triển chỉ chiếm khoảng 20,22% tổng xuất khẩu hàng chế tạo.
HÌNH 2. Xuất khẩu công nghệ cao (% xuất khẩu hàng chế tạo), 2007-2018
Nguồn: Chỉ số Phát triển Thế giới
Không giống như thương mại thông thường, việc mở rộng thương mại công nghệ cao gắn liền
với sự thay đổi và đổi mới công nghệ nhanh chóng. Các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận
mối quan hệ tích cực giữa xuất khẩu công nghệ cao và đổi mới (Ismail 2013; Sandu &
Ciocanel 2014). Khi các quốc gia tăng cường xuất khẩu công nghệ cao, người ta kỳ vọng rằng
họ sẽ tham gia vào nhiều hoạt động đổi mới hơn. Một số tác giả cho rằng đổi mới nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia (Chen 2013; Gani 2008). Trong Mô hình kim cương của Porter
(1990), phát triển công nghệ được nhấn mạnh là một trong những yếu tố quyết định năng lực
cạnh tranh quốc gia. Ngoài sự đổi mới, các tài liệu trước đây cũng nhấn mạnh một số cách
thức mà thương mại quốc tế có thể nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia.
Thứ nhất, thương mại quốc tế buộc các quốc gia phải cải thiện chất lượng thể chế của mình
thông qua giả thuyết “chạy đua lên vị trí dẫn đầu” (Levchenko 2011). Sau khi mở cửa cho
thương mại quốc tế, các quốc gia cuối cùng sẽ cải thiện các điều kiện kinh tế vĩ mô bao gồm
thực thi hợp đồng, quyền sở hữu và bảo vệ nhà đầu tư để duy trì tính cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Thứ hai, thương mại quốc tế buộc các quốc gia phải tham gia vào hoạt động
đổi mới liên tục. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đạt được tăng trưởng bền vững
trong dài hạn, các quốc gia phải tiếp tục đổi mới (Romer 1990). Thông qua đổi mới, các trụ
cột của khả năng cạnh tranh như cơ sở hạ tầng, chất lượng và lực lượng lao động lành nghề,
môi trường thương mại thuận lợi và sự tinh vi trong kinh doanh cần phải được cải thiện.
Ngoài sản xuất và xuất khẩu, năng lực cạnh tranh quốc gia có thể được nâng cao thông qua
nhập khẩu. Nhập khẩu cho phép các quốc gia giảm thiểu chi phí sản xuất và có được đầu vào
chất lượng cao từ các quốc gia khác. Nhờ đó, họ có thể chuyên môn hóa trong lĩnh vực
chuyên môn của mình và nâng cao năng suất cũng như khả năng cạnh tranh. Cuối cùng, nhập
khẩu đóng vai trò như một kênh chuyển giao công nghệ. Công nghệ có trong hàng hóa nhập
khẩu có thể làm tăng năng suất của nước nhập khẩu và có thể có những tác động học tập liên
quan đến nhập khẩu (Acharya & Keller 2007).
Với một số cách thức mà đổi mới và thương mại quốc tế có thể ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh quốc gia, việc tham gia vào thương mại công nghệ cao được cho là có mối tương quan
cao với đổi mới dự kiến sẽ có tác động tích cực đến mức độ cạnh tranh quốc gia của một quốc
gia. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh của các nước xuất khẩu công nghệ cao, đặc biệt là các
nước thuộc nhóm nước đang phát triển chưa đạt yêu cầu (Hình 3). Chỉ số năng lực cạnh tranh
toàn cầu (GCI) của các nước xuất khẩu công nghệ cao thuộc nhóm nước đang phát triển thấp
hơn nhóm nước phát triển. Một trường hợp cực đoan là Trung Quốc; mặc dù là nước xuất
khẩu hàng hóa công nghệ cao lớn nhất, nhưng điểm năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn ở
dưới mức 5,00 điểm.
Xét về các quốc gia cạnh tranh cao nhất trên thế giới, 20 quốc gia hàng đầu đều là các quốc
gia phát triển (Bảng 1). Mặc dù các nước đang phát triển đang ngày càng xuất khẩu hàng hóa
công nghệ cao như được minh họa trong Hình 1 và 2, nhưng quốc gia đang phát triển duy
nhất được xếp hạng gần với các nước phát triển đó là Malaysia ở vị trí thứ 23. Trong khi đó,
quốc gia xuất khẩu công nghệ cao lớn nhất toàn cầu là Trung Quốc lại kém xa Malaysia ở vị
trí thứ 27. Không chỉ vậy, mặc dù vị thế của các nước xuất khẩu công nghệ cao đến từ các
nước phát triển tốt hơn các nước đang phát triển nhưng cũng bị những nước không phải là
nước xuất khẩu công nghệ cao lớn như Thụy Điển soán ngôi. Do đó, nó đặt ra câu hỏi liệu
việc tham gia vào thương mại công nghệ cao có thể ảnh hưởng tích cực đến năng lực cạnh
tranh quốc gia hay không.
BẢNG 1. Xếp hạng Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu, 2017
Rank Country Income Group Score
1 Switzerland High-income 5.86
2 United States High-income 5.85
3 Singapore High-income 5.71
4 Netherlands High-income 5.66
5 Germany High-income 5.65
6 Hong Kong High-income 5.53
7 Sweden High-income 5.52
8 United Kingdom High-income 5.51
9 Japan High-income 5.49
10 Finland High-income 5.49
11 Norway High-income 5.4
12 Denmark High-income 5.39
13 New Zealand High-income 5.37
14 Canada High-income 5.35
15 Taiwan High-income 5.33
16 Israel High-income 5.31
17 United Arab Emirates High-income 5.3
18 Austria High-income 5.25
19 Luxembourg High-income 5.23
20 Belgium High-income 5.23
23 Malaysia Upper-middle 5.17
income
27 China Upper-middle 5.00
income
Nguồn: Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu 2017-2018, Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF)
Về mặt lý thuyết, đổi mới và thương mại quốc tế lẽ ra phải cải thiện năng lực cạnh tranh
quốc gia. Trong khi xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao buộc các quốc gia phải cải thiện
môi trường kinh tế của mình, thì việc nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao có thể giúp
tăng khả năng cạnh tranh quốc gia thông qua tăng năng suất, giảm chi phí sản xuất, nâng cao
chuyên môn hóa và các tác động học tập liên quan đến nhập khẩu. Trong khi thảo luận về
việc mở rộng thương mại công nghệ cao, các tài liệu trước đây đã nêu bật yếu tố quyết định
thương mại công nghệ cao (Ismail 2013; Kabaklarli et al. 2017; Mehrara et al. 2017; Sandu
& Ciocanel 2014). Nghiên cứu tác động của thương mại công nghệ cao ít được chú trọng.
Cho đến nay, các nghiên cứu trước đây về tác động của thương mại công nghệ cao chỉ tập
trung vào tăng trưởng kinh tế (Demir 2018; Erkananda & Parlinggoman, 2017; Wabiga &
Nakijoba 2018) và năng lực đổi mới (Wu et al. 2017). Bất chấp nỗ lực xứng đáng này, họ
không tính đến tác động có thể có của thương mại công nghệ cao đối với các điều kiện kinh
tế tổng thể có thể phát sinh thông qua xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao.
Dựa trên các tài liệu, bài viết này nhằm mục đích xem xét tác động của thương mại công
nghệ cao đối với khả năng cạnh tranh quốc gia.
FIGURE 3. GCI Score and high-tech exports, average 2014-2016
Phần còn lại của bài viết sẽ được viết theo cấu trúc như sau: phần tiếp theo, phần 2, sẽ thảo
luận về các tài liệu liên quan về vấn đề này. Tiếp theo là một chiến lược thực nghiệm bao
gồm đặc tả mô hình và phương pháp ước tính được sử dụng để giải quyết mục tiêu nghiên
cứu trong Phần 3. Phần 4 trình bày kết quả và thảo luận. Phần 5 đưa ra kết luận, hàm ý chính
sách và gợi ý cho nghiên cứu trong tương lai.
HÌNH 4. Minh họa định nghĩa và khái niệm năng lực cạnh tranh
Nguồn: Ảnh minh họa của tác giả
PTDi TKi
TK *
TKi là tri thức công nghệ của quốc gia 𝑖 và TK* là tri thức công nghệ phù hợp ở các quốc
gia tiên tiến nhất trong mẫu. PTDi đo lường khoảng cách về kiến thức công nghệ giữa quốc
gia 𝑖 và biên giới công nghệ. Việc giải thích biến số này dựa trên lý thuyết tăng trưởng của
Solow (1956), trong đó nó phản ánh tiềm năng bắt kịp. Lý thuyết này dự đoán rằng các nước
nghèo hơn sẽ tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn các nước phát triển dựa trên quy luật hiệu
suất giảm dần. Trong trường hợp này, dấu dự kiến của a1 là âm. Tuy nhiên, lý thuyết này đã
bị tranh cãi bởi Abramovitz (1986) khi ông lập luận rằng khả năng bắt kịp hiệu quả sẽ không
xảy ra nếu không có khả năng xã hội. Năng lực xã hội bao gồm khả năng áp dụng và hấp thụ
công nghệ, thúc đẩy đầu tư và tham gia vào thị trường toàn cầu. Hơn nữa, tốc độ một quốc
gia áp dụng và hấp thụ công nghệ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm lực lượng lao động
có hiểu biết về công nghệ, khả năng thu hút đầu tư (Ngân hàng Thế giới 2008) và các điều
kiện hỗ trợ khác (Porter 1990) để thúc đẩy phổ biến công nghệ. Có được những khả năng
này được thực hiện với mức thu nhập cao hơn. Ví dụ, các quốc gia có thu nhập cao hơn có
thể phát triển cơ sở hạ tầng tốt hơn để thu hút đầu tư. Điều này sau này sẽ tạo thuận lợi cho
quá trình lan tỏa công nghệ và góp phần tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Trong trường hợp a1 có thể biểu hiện một dấu hiệu tích cực. Vì rất khó để tìm ra mức độ tri
thức công nghệ phù hợp ở một quốc gia so với biên giới công nghệ, log của GDP bình quân
đầu người ban đầu đã được sử dụng thay thế theo Fagerberg et al. (2007).
Ti trong phương trình 1 biểu thị năng lực cạnh tranh công nghệ của quốc gia i . Nó đề cập
đến khả năng cạnh tranh của một quốc gia trên thị trường hàng hóa và dịch vụ mới. Năng
lực cạnh tranh công nghệ cao hơn được kỳ vọng sẽ đóng góp tích cực vào năng lực cạnh
tranh quốc gia. Do đó, kỳ vọng tiên nghiệm cho a 2 là dương. Ci biểu thị năng lực cạnh tranh.
Nó đo lường khả năng khai thác và phản ánh năng lực của một quốc gia. Năng lực càng cao
thì năng lực cạnh tranh càng cao. Do đó, a3 được mong đợi một cách tích cực. P i dự kiến sẽ
biểu thị khả năng cạnh tranh về giá. Nó đề cập đến khả năng của một quốc gia cung cấp sản
xuất chi phí thấp. Chi phí họ có thể cung cấp càng thấp thì càng có xu hướng cạnh tranh.Do
đó, chúng tôi dự đoán a4 sẽ thể hiện một dấu hiệu tiêu cực. 𝑊𝑖 phản ánh khả năng cạnh tranh
về nhu cầu. Nó đề cập đến khả năng đáp ứng nhu cầu thế giới được thể hiện bằng số lượng
xuất khẩu. Xuất khẩu có tiềm năng tăng khả năng cạnh tranh quốc gia khi các thị trường lớn
hơn thúc đẩy hiệu quả lao động, phát triển sản phẩm và cải thiện các môi trường kinh tế
khác. a5 dự kiến sẽ dương do mối quan hệ cùng chiều giữa nhu cầu thế giới và tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Mở rộng phương trình ban đầu như trong phương trình 1, chúng tôi đưa vào các biến công
nghệ cao để xem xét tác động của thương mại công nghệ cao đối với khả năng cạnh tranh
quốc gia. Để xem xét tác động của thương mại công nghệ cao đến năng lực cạnh tranh quốc
gia, các mô hình sau được ước lượng:
NCit 0 1PTDi 2Tit 3Cit 4 Pit 5TTit
it
NCit 0 1PTDi 2Tit 3Cit 4 Pit 5 XTit
it
NCit 0 1PTDi 2Tit 3Cit 4 Pit 5 MTit
it
Trong phương trình 3, 4 và 5,NCit là năng lực cạnh tranh quốc gia của quốc gia i tại thời
điểm t . a0 là một thuật ngữ bất biến phổ biến cho tất cả các quốc gia trong tất cả các năm.
Thay vì sử dụng một thước đo duy nhất như tăng trưởng kinh tế để đo lường năng lực cạnh
tranh, nghiên cứu này sử dụng Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu do Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF) đưa ra. Đây là thước đo được chấp nhận rộng rãi nhất về năng lực cạnh
tranh quốc gia. Nó đánh giá khả năng của các quốc gia trong việc đạt được tăng trưởng và
cung cấp mức sống cao cho công dân của họ. Theo GCI, năng lực cạnh tranh của một quốc
gia bao gồm các yếu tố như thể chế, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo
dục tiểu học, giáo dục và đào tạo đại học, hiệu quả thị trường hàng hóa, phát triển thị trường
tài chính, mức độ sẵn sàng về công nghệ, quy mô thị trường, mức độ tinh vi trong kinh
doanh và đổi mới R&D.
PTDi là tiềm năng phổ biến công nghệ của nước tôi i . Theo Fagerberg et al. (2007), nhật
kýGDP bình quân đầu người được sử dụng để đại diện cho tiềm năng phổ biến công nghệ.
Tit đo lường khả năng cạnh tranh công nghệ của quốc gia i tại thời điểm t. C it biểu thị năng
lực cạnh tranh đo lường năng lực của một nước để khai thác công nghệ. Nó đo lường mức
độ năng lực của một quốc gia i tại thời điểm t. Pit biểu thị khả năng cạnh tranh về giá.
Trong công thức 3, 4 và 5, các biến công nghệ cao lần lượt được đưa vào. Các phương trình
3, 4 và 5 lần lượt xem xét tác động của tổng thương mại công nghệ cao (TT), xuất khẩu công
nghệ cao (XT) và nhập khẩu công nghệ cao (MT) đến khả năng cạnh tranh quốc gia.TT it là
giá trị của tổng thương mại công nghệ cao (xuất khẩu và nhập khẩu) của đất nước i tại thời
điểm t . XTtt nó biểu thị giá trị của tổng kim ngạch xuất khẩu công nghệ cao từ quốc gia i đó
ra thế giới tại một thời điểm t . Trong khi MTtt là giá trị tổng nhập khẩu công nghệ cao của
đất nước từ thế giới i tại thời điểm t .
Theo Levchenko (2011), thương mại quốc tế buộc các quốc gia phải cải thiện chất lượng thể
chế sau khi mở cửa thông qua “cuộc đua lên đỉnh” (Levchenko 2011). Xuất khẩu các sản
phẩm công nghệ cao buộc các quốc gia phải cải thiện môi trường kinh tế của họ, chẳng hạn
như cơ sở hạ tầng, quyền sở hữu trí tuệ, nguồn nhân lực, v.v. Những điều này được cho là sẽ
góp phần tạo nên khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Do đó, a 5 trong phương trình 4 dự
kiến sẽ thể hiện một dấu hiệu tích cực. Ngoài xuất khẩu công nghệ cao, nhập khẩu cũng có
khả năng đóng góp tích cực vào năng lực cạnh tranh quốc gia. Eaton và Kortum (1999) đã
chỉ ra rằng nỗ lực nghiên cứu phụ thuộc vào những ý tưởng kiếm được trong và ngoài nước.
Nhập khẩu giúp các nước đang phát triển bắt chước công nghệ và nâng cao năng suất của
đất nước đồng thời tạo ra các công nghệ mới (Coe et al, 1997). Tương tự như xuất khẩu,
chúng tôi dự đoán rằng nhập khẩu công nghệ cao sẽ đóng góp tích cực vào năng lực cạnh
tranh quốc gia. Kỳ vọng tiên nghiệm cho a5 trong Phương trình 5 là dương Do tác động tích
cực mà cả xuất khẩu và nhập khẩu công nghệ cao có thể có đối với khả năng cạnh tranh
quốc gia, kỳ vọng tiên nghiệm cho a5 trong Phương trình 3 cũng phải dương.
MÔ TẢ DỮ LIỆU
Nghiên cứu này bao gồm một mẫu gồm 20 quốc gia xuất khẩu công nghệ cao. Danh sách
các quốc gia xuất khẩu công nghệ cao được xác định từ cơ sở dữ liệu Chỉ số Phát triển Thế
giới để lựa chọn các quốc gia này. Danh sách này sau đó được chia thành hai nhóm, đã phát
triển và đang phát triển, dựa trên phân loại thu nhập của họ. Sau đó, 10 quốc gia hàng đầu
được chọn từ nhóm các nước phát triển và 10 quốc gia hàng đầu được chọn từ nhóm các
nước đang phát triển. Các quốc gia mẫu được chọn là Đức, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (USA),
Singapore, Hàn Quốc, Pháp, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Thụy Sĩ, Hà Lan, Bỉ,Trung Quốc,
Malaysia, Mexico, Thái Lan, Philippines, Ấn Độ, Brazil, Liên bang Nga, Romania và
Indonesia. Khoảng thời gian cho nghiên cứu này là từ năm 2007 đến năm 2016, dựa trên sự
sẵn có của dữ liệu thương mại công nghệ cao. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thương mại
và kinh tế từ nhiều nguồn khác nhau để xem xét tác động của thương mại công nghệ cao đối
với cạnh tranh quốc gia. Biến phụ thuộc trong mô hình này là điểm GCI. Điểm GCI phù hợp
với định nghĩa của chúng tôi về năng lực cạnh tranh quốc gia. Bằng cách sử dụng một chỉ số
tổng hợp như vậy, phép đo khả năng cạnh tranh của chúng tôi là toàn diện và không chỉ dựa
trên một phép đo duy nhất. Theo đề xuất của Buckley et al. (1988), một thước đo hữu ích về
khả năng cạnh tranh nên bao gồm hiệu suất cạnh tranh, tiềm năng cạnh tranh và quy trình
cạnh tranh. Nghiên cứu này sử dụng điểm GCI làm thước đo hiệu quả hoạt động của một
quốc gia so với các quốc gia khác thay vì tốc độ tăng trưởng. Dữ liệu có thể được lấy từ một
loạt Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu do WEF thực hiện hàng năm.
Biến giải thích cốt lõi trong phân tích này là thương mại công nghệ cao. Dữ liệu về thương
mại công nghệ cao trong nghiên cứu này sẽ là tổng thương mại, xuất khẩu và nhập khẩu. Từ
cơ sở dữ liệu UN COMTRADE, các giá trị cho xuất khẩu và nhập khẩu công nghệ cao đã
được trích xuất. Dữ liệu này được lấy theo dòng sản phẩm sử dụng mã SITC Rev.4 và sau
đó được tổng hợp để có được tổng xuất khẩu, nhập khẩu và thương mại công nghệ cao của
mỗi quốc gia trong mỗi năm.
Theo đề xuất trong Fagerberg et al. (2007), tiềm năng phổ biến công nghệ được đo lường
bằng sự chênh lệch giữa trình độ công nghệ được sử dụng ở một quốc gia i và quốc gia tiên
tiến nhất trong mẫu. Tuy nhiên, rất khó để tìm ra con số gần đúng cho tổng trình độ công
nghệ được sử dụng ở một quốc gia so với quốc gia tiên tiến nhất (quốc gia tiên tiến nhất
trong mẫu). Theo Fagerberg et al. (2007), chúng tôi sử dụng log của mức GDP bình quân
đầu người ban đầu để tính toán tiềm năng lan tỏa.
Khả năng cạnh tranh công nghệ được đại diện bởi chỉ số sẵn sàng về công nghệ thu được từ
Ngân hàng Thế giới. Chỉ số sẵn sàng về công nghệ đo lường xu hướng các quốc gia khai
thác các cơ hội do công nghệ thông tin và truyền thông mang lại (Breene 2016). Khả năng
cạnh tranh về năng lực được đo bằng chỉ số năng lực đổi mới lấy từ Ngân hàng Thế giới.
Điều này đo lường khả năng đổi mới của một quốc gia. Khả năng cạnh tranh về giá được đại
diện bởi chi phí lao động thu được từ Ngân hàng Thế giới. Nó thể hiện khả năng của một
quốc gia sản xuất với chi phí rẻ hơn.
KẾT LUẬN
Thương mại công nghệ cao đang mở rộng sau thời kỳ Cách mạng Công nghiệp. Việc mở
rộng thương mại công nghệ cao gắn liền với những thay đổi công nghệ nhanh chóng. Các lý
thuyết dự đoán rằng công nghệ và đổi mới sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy
nhiên, mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu công nghệ cao còn thấp. Bài viết
này nhằm mục đích xem xét tác động của thương mại, xuất khẩu và nhập khẩu công nghệ
cao đối với năng lực cạnh tranh quốc gia. Sử dụng bộ dữ liệu bảng gồm 20 nhà xuất khẩu
công nghệ cao trong suốt giai đoạn 2007-2016, nghiên cứu này đã tìm ra bằng chứng về mối
quan hệ tích cực giữa thương mại công nghệ cao và năng lực cạnh tranh quốc gia. Cả xuất
khẩu và nhập khẩu công nghệ cao đều đóng góp tích cực vào mức độ cạnh tranh quốc gia
cao hơn. Bài báo này cũng chứng minh rằng khả năng cạnh tranh về giá là không đáng kể so
với các khía cạnh khác của khả năng cạnh tranh.
Những phát hiện của bài viết này có một số chính sách và ý nghĩa kinh tế. Tham gia vào
thương mại công nghệ cao có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nói cách
khác, thương mại công nghệ cao nâng cao khả năng của một quốc gia để đạt được năng suất
cao hơn, sự thịnh vượng và phúc lợi kinh tế. Do đó, các quốc gia nên chú trọng hơn vào sự
phát triển của ngành công nghiệp công nghệ cao. Xuất khẩu công nghệ cao phải đi kèm với
nâng cao năng lực công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Hơn nữa, cần tăng
cường chính sách tạo điều kiện chuyển giao tri thức thông qua các sản phẩm công nghệ cao
nhập khẩu. Bên cạnh đó, đáng chú ý là khả năng cạnh tranh về giá không còn đáng kể đối
với năng lực cạnh tranh quốc gia trong trường hợp các nhà xuất khẩu công nghệ cao. Thay
vì cạnh tranh với tư cách là nhà sản xuất chi phí thấp, các quốc gia nên cạnh tranh dựa trên
sự đổi mới có thể nâng cao mức độ cạnh tranh quốc gia. Nghiên cứu này liên quan đến một
cỡ mẫu nhỏ hạn chế việc khái quát hóa các phát hiện. Do đó, nghiên cứu trong tương lai nên
xem xét số lượng quan sát lớn hơn để có kết luận chắc chắn hơn.