You are on page 1of 7

Karl VI của Thánh chế La Mã

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Karl VI (tiếng Đức: Karl VI.; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là
Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai vàng từ anh Karl VI
trai của mình là Joseph I, với các tước vị Hoàng đế La Mã Thần thánh (Karl VI),
Vua của Bohemia (Karel II), Vua của Hungary và Croatia (Károly III), và Vua
của Serbia, Đại vương công Áo, etc., năm 1711. Ông thất bại trong việc giành
ngai vàng Tây Ban Nha (Carlos III) sau cái chết của người bà con của ông,
Carlos II của Tây Ban Nha, năm 1700 mà không để lại con cái kế vị. Ông cũng
có yêu sách về các ngôi vị quân vương của Napoli (Carlo VI), Sardegna (Carlo
III) và Sicilia (Carlo IV).

Ông thành hôn với Elisabeth Christine của Brunswick-Wolfenbüttel, và họ có với


nhau 2 người con sống sót đến tuổi trưởng thành: Maria Theresa, chào đời 1717,
quân chủ cuối cùng của Vương tộc Habsburg, và Maria Anna, chào đời 1718,
chồng bà được bổ nhiệm làm thống đốc cai quản đất Hà Lan thuộc Áo.

Bốn năm trước ngày sinh của Maria Theresa, với vấn đề thiếu người thừa kế
nam, Hoàng đế Karl VI đã ban hành Sắc lệnh thực dụng 1713. Ông ủng hộ
quyền kế vị của con gái mình, đứng trên các con của Cựu hoàng Joseph I, phủ
nhận các nghị quyết mà ông đã ký dưới thời vua cha, Leopold I. Karl đã thực
hiện các chiêu bài ngoại giao với các cường quốc châu Âu khác để họ chấp
thuận không can thiệp vào việc kế vị của Áo. Các cường quốc đã đòi hỏi những
yêu sách khắc nghiệt: Vương quốc Anh buộc Áo giải tán Công ty Thương mại
nước ngoài của Áo.[1] Tổng cộng, Vương quốc Anh, Vương quốc Pháp, Tuyển
hầu quốc Sachsen-Liên bang Ba Lan-Litva, Cộng hòa Hà Lan, Đế quốc Tây Ban
Nha,[2] Cộng hòa Venezia,[3] Lãnh địa Giáo hoàng,[3] Vương quốc Phổ,[4]
Nga,[3] Vương quốc Đan Mạch,[4] Savoy-Sardinia,[4] Tuyển hầu quốc
Bayern,[4] và Đại hội Đế chế[4] đã công nhận sắc lệnh. Pháp, Tây Ban Nha,
Saxony-Poland, Bayern và Phổ sau đó bội ước. Karl qua đời năm 1740, bắt đầu Danh sách
Chiến tranh kế vị Áo, chống lại quyền kế vị của Maria Theresa, kéo dài 8 năm.
Công tước Teschen 1711–1722
Vua của Napoli 1707–1735
Tiểu sử Vua của Sardegna 1708–1735
Vua của Hungary 1711–1740
Vua của Croatia 1711–1740
Thời trẻ Vua của Bohemia 1711–1740
Đại vương công Áo 1711–1740
Đại Công tước Karl (tên rửa tội Carolus Hoàng đế La Mã Thần thánh 1711–1740
Franciscus Josephus Wenceslaus Balthasar Vua của Đức 1711–1740
Johannes Antonius Ignatius), là con trai thứ Công tước Luxembourg 1714–1740
hai của Hoàng đế Leopold I với người vợ Bá tước Namur 1714–1740
thứ 3, Công nương Eleonor Magdalene của Công tước Brabant 1714–1740
Neuburg, chào đời ngày 1 tháng 10 1685. Công tước Limburg 1714–1740
Gia sư của ông là Anton Florian, Vương Công tước Lothier 1714–1740
công Liechtenstein. Công tước Milan 1714–1740
Bá tước Flanders 1714–1740
Sau cái chết của Carlos II của Tây Ban Bá tước Hainaut 1714–1740
Nha, năm 1700, mà không có người kế vị, Vua của Sicily 1720–1735
Karl tự xưng là Vua của Tây Ban Nha— vì Công tước Parma và Piacenza 1735–1740
cả hai Karl đều là thành viên Nhà Công tước Guastalla 1735–1740
Habsburg.[5] Điều này dẫn tới Chiến tranh
Hoàng đế tương lai Karl VI kế vị Tây Ban Nha, tranh chấp với một Tại vị 12 tháng 10 năm 1711 – 20
thành viên hoàng tộc Pháp, Philip, Công tháng 10 năm 1740
tước xứ Anjou, cháu vua Louis XIV của Đăng quang 22 tháng 12 năm 1711,
Pháp, kéo dài 40 năm. Vương quốc Bồ Đào Nha, Vương quốc Anh, Scotland, Frankfurt
Ireland và phần lớn các vương hầu trong Thánh chế La Mã ủng hộ Karl.[6] Tiền nhiệm Joseph I
Charles III, đổ bộ lên đất Tây Ban Nha năm 1705 và ở đó 6 năm, nhưng chỉ nắm Kế nhiệm Karl VII
được quyền cai trị tại Catalonia, cho đến cái chết của anh ông, Joseph I, Hoàng
đế La Mã Thần thánh; ông trở về Vienna về kế tự hoàng đế.[7] Không muốn Thông tin chung
nhìn thấy Áo và Tây Ban Nha lập Liên minh cá nhân lần nữa, phía Vương quốc
Anh rút lực lượng viện binh cho Áo, chiến tranh lên đến đỉnh điểm với các hiệp Sinh 1 tháng 10 năm 1685
ước Utrecht và Rastatt ba năm sau. Hiệp ước 1713 được phê chuẩn, công nhận Cung điện Hofburg, Viên,
Philip là Vua của Tây Ban Nha, tuy nhiên, Vương quốc Naples, Công quốc Đế quốc La Mã Thần thánh
Milan, đất Hà Lan thuộc Áo và Vương quốc Sardinia – vốn thuộc quyền quản Mất 20 tháng 10 năm 1740 (55
lý của Tây Ban Nha, phải nhượng lại cho Áo.[8] Để ngăn chặn liên minh cá nhân tuổi)
Pháp - Tây Ban Nha, Philip bị buộc phải từ bỏ quyền kế vị người ông trên ngai Palais Augarten, Viên, Đế
vàng Pháp. Karl thất vọng vì để mất Tây Ban Nha, và kết quả là ông bắt chước quốc La Mã Thần thánh
trang phục của một vị vua Tây Ban Nha, theo như sử gia Anh quốc Edward Phối ngẫu Elisabeth Christine của
Crankshaw, bao gồm "một đôi màu đen và ống, giày màu đen và vớ đỏ".[8] Brunswick-Wolfenbüttel
Hậu duệ Maria Theresa, Hoàng hậu
Cha của Karl và các cố vấn quan tâm đến việc định hôn cho ông. Họ để mắt tới Thánh chế La Mã
Elisabeth Christine của Brunswick-Wolfenbüttel, con gái lớn của Louis Rudolph, Đại công nương Maria Anna
Công tước xứ Brunswick-Wolfenbüttel. Bà nổi tiếng vì sắc đẹp của mình.[9] Đại công nương Maria
Ngày 1 tháng 8 năm 1708, tại Barcelona, Charles kết hôn gián tiếp với bà. Bà Amalia
sinh cho ông 2 cô con gái sống tới tuổi trưởng thành, Maria Theresa và Maria
Tên đầy đủ
Anna.
tiếng Đức: Karl Franz Joseph Wenzel
Balthasar Johann Anton Ignaz
Kế vị nhà Habsburg Hoàng tộc Nhà Habsburg
Thân phụ Leopold I, Hoàng đế La Mã
Việc thiếu người thừa kế nam dẫn đến Sắc lệnh thực dụng 1713, tài liệu phủ Thần thánh
quyết người thừa kế nam duy nhất (có hiệu lực trên tất cả các lãnh thổ của
Harburg trừ Hungary, nơi Karl chỉ thuyết phục được họ chấp thuận sắc lệnh Thân mẫu Eleonor Magdalene của
Neuburg
năm 1723).[10] Hoàng đế ủng hộ quyền kế vị của con gái mình đứng trên các
con gái của huynh trưởng Joseph I, và liên tục phủ nhận Hiệp định thừa kế Tôn giáo Công giáo Roma
Mutual mà ông đã ký dưới thời phụ thân, Leopold I. Trong 20 năm tiếp theo, Karl Chữ ký
tranh thủ sự ủng hộ của các liệt cường châu Âu khác.

Trong một thời gian ngắn, có vẻ như, Sắc lệnh thực dụng không phát huy tác
dụng khi Elisabeth Christine hạ sinh một hoàng năm năm 1716. Nhưng cậu bé lại
chết yểu. Một năm sau, Maria Theresa, người con lớn tuổi nhất còn sống tới khi
trưởng thành của ông chào đời. Người đương thời viết rằng trong buổi lễ rửa
tội của cô bé, Karl, mặc dù cố gắng lắm vẫn không giấu được nỗi thất vọng về
giới tính của đứa bé.[11] Năm sau một
hoàng nữ nữa ra đời, Maria Anna.

Karl đã thành công trong Chiến tranh Áo-Thổ Nhĩ Kì


1716–18, sáp nhập Banat vào Hungary, và xác lập
quyền cai trị của người Áo lên Serbia và Oltenia
(Lesser Wallachia).
Karl VI, 1721
Chiến tranh liên minh bốn bên (1718-1720) diễn ra.
Nó cũng khép lại bằng chiến thắng của người Áo;
với Hiệp ước The Hague (1720), Karl đổi Sardinia, cho Công tước xứ Savoy, Victor
Amadeus, để lấy Sicily, đảo lớn nhất tại Địa Trung Hải, nơi khó bảo vệ hơn Sardinia.[12]
Hiệp ước cũng công nhận con trai của Felipe V của Tây Ban Nha, Don Carlos (về sau là
Hoàng đế La Mã Thần thánh, Vua Charles III của Tây Ban Nha), là người kế tự Công quốc Parma và Đại Công quốc Tuscany;
của Bohemia, Vua của Hungary, dù Charles trước đó đã xác nhận quyền thừa kế của Đại Công tước đương nhiệm, Anna
embossed seal Maria Luisa, Nữ Tuyển hầu Palatine.[13]

Năm 1722, Karl thành lập Công ty Ostend để tăng cường giao lưu thương mại giữa châu
Âu với Đông Ấn, Tây Ấn và Phi châu. Hợp đồng có hiệu lực trong 30 năm. Quốc khố của Áo nhận thêm từ 3 đến 6 phần trăm lợi
tức hằng năm. Công ty cạnh tranh lợi ích với người Anh và Hà Lan và trong Hội nghị Vienna (1731), ông giải tán công ty để đổi
lấy sự công nhận Sắc lệnh thực dụng của người Anh.[14]

Hòa bình ở châu Âu bị phá vỡ bởi Chiến tranh Kế vị Ba Lan (1733–1738), một cuộc tranh chấp ngai vàng giữa Augustus của
Saxony, con trai lớn của vua trước, và Stanisław Leszczyński. Áo hỗ trợ Augustus, Pháp hỗ trợ Stanislaw; sau đó chiến tranh nổ ra.
Với Hiệp ước Vienna (1738), Augustus lên ngôi nhưng Karl phải trao Vương quốc Naples cho Don Carlos, đổi lấy vùng đất nhỏ
hơn là Công quốc Parma.[15]

Việc chỉ hôn cho Maria Theresia được tiến hành từ khi cô còn nhỏ. Ban đầu bà được hứa gả Léopold Clément xứ Lorraine, người
được cho là đã đi đến Vienna và gặp Maria Theresa. Nhưng ông qua đời vì bệnh đậu mùa năm 1723, khiến cho Maria Theresa thất
vọng. Em trai Léopold Clément, Francis Stephen, được đưa đến Vienna và thay thế ông. Karl còn để ý đến những người khác
(chẳng hạn Don Carlos) trước khi chấp nhận Francis.[16] Vào cuối cuộc chiến kế vị Ba Lan, Pháp buộc Francis dâng Công quốc
Lorraine (lãnh thổ thừa kế của ông), cho Stanisław Leszczyński, vua bị lật đổ của Ba Lan, sau khi ông ta chết đất này nhập vào
ngôi vua Pháp. Karl yêu cầu Francis bỏ quyền kế vị ở
Lorraine và nói với ông: "Từ bỏ, hoặc là không có
được Nữ Đại Công tước."[17] Francis chấp thuận;
ông thành hôn với Maria Theresa tháng 2, 1736, và
Lorraine được chuyển cho Stanisław vào tháng 7,
1737.

Năm 1737, Hoàng đế tiến hành cuộc chiến tranh với


người Thổ và liên minh với Nga quốc. Không như
cuộc chiến tranh trước, chiến tranh lần này kết thúc
với thất bại của Áo. Phần lớn lãnh thổ đã lấy được
trong năm 1718 (trừ Banat) đã bị chiếm lại. Sự bất
mãn hình thành vì chi phí chiến tranh tốn kém, và
người ta coi nhà cai trị Vienna; Francis của Lorraine,
chồng Maria Theresa, là một điệp viên của người
Pháp tại thành Vienna.[18] Cuộc chiến phơi bày tình
Karl VI với vợ và các con gái năm trạng tồi tệ của quân đội Áo, không đủ sức mạnh tài Hoàng hậu Elisabeth Christine, họa
1730. chính để duy trì cuộc chiến lâu dài mà không có sự hỗ phẩm của Christoph Bernhard
trợ. Francke, 1712.

Qua đời và di sản


Tập tin:2006 Austria 10 Khi Karl qua đời, các lãnh thổ của nhà Habsburg ngập tràn
Euro Göttweig Abbey trong nợ nần; quốc khố còn 100,000 florins; tình trạng đào
back.jpg ngũ lan tràn trong quân đội, lan đến doanh trại của Hoàng
đế.[19] Người đương thời mong rằng Áo-Hungary sẽ giải
Đồng xu kỷ niệm Tu viện
Göttweig có hình Hoàng đế
phóng khỏi ách nhà Habsburg sau khi ông chết.[19]
Karl VI
Hoàng đế đã bị ốm, sau một chuyến đi săn qua biên giới
Hung trong một "ngày ẩm và lạnh điển hình của tháng
10", [20] tại Favorita Palace, Vienna, vào ông chết ngày 20 tháng 10 năm 1740 ở Hofburg.[21]
Trong quyển Memoirs của mình, Voltaire viết[22] rằng nguyên nhân gây ra cái chết Charles
là do ăn phải nấm độc.[23] Karl chết, và Sắc lệnh thực dụng bị bác bỏ. Maria Theresa buộc
phải dùng đến vũ lực để bảo vệ quyền thừa kế các lãnh thổ của bà trước sự đe dọa của
Phổ, Bavaria, Pháp, Tây Ban Nha, Saxony và Ba Lan-khi liên quân các nước tiến sát biên

Cái chết của hoàng đế (Harper's


New Monthly Magazine, Vol. 40,
1870).
giới Áo quốc sau cái chết của cha bà. Trong Chiến tranh Kế vị Áo, Maria Theresa bảo vệ được ngai vàng và phần lớn lãnh thổ
nhưng bị mất vùng đất giàu có Công quốc Silesia cho người Phổ và Công quốc Parma cho người Tây Ban Nha.[24]

Con cái
Tên Chân dung Lifespan Ghi chú

Tập tin:Coat of 13 tháng 4 năm


arms of the 1716 –
Leopold John Đại vương công Áo, chết lúc 7 tháng tuổi.
Vương tộc 4 tháng 11 năm
Habsburg.png 1716

13 tháng 5 năm
1717 – Nữ Đại vương công Áo và thừa tự nhà Habrburg, thành hôn với Francis III
Maria Theresa
29 tháng 11 Stephen, Công tước xứ Lorraine, về sau là Franz I của Thánh chế La Mã
năm 1780

14 Tháng 9
1718 – Nữ Đại vương công Áo, thành hôn với Vương công Charles Alexander của
Maria Anna
16 December Lorraine
1744

5 tháng 4 năm
1724 –
Maria Amalia Nữ Đại vương công Áo, mất khi mới lên 6.
19 tháng 4 năm
1730

Danh hiệu và huy hiệu

Danh xưng
1 tháng 1685 – 12 tháng 10 năm 1711 His Royal Highness Đại Công tước Karl của Áo
1 tháng 11 năm 1700 – 12 tháng 10 năm 1711 His Majesty Vua của Tây Ban Nha
12 tháng 10 năm 1711 – 20 tháng 10 năm 1740 His Imperial Majesty Hoàng đế La Mã Thần thánh

Danh hiệu đầy đủ

Chức danh đầy đủ của Karl trên cương vị hoàng đế và người cai trị các vùng đất của nhà Habsburg cũng như người đòi ngôi vua
Tây Ban Nha là: Karl, Nhờ ân điển của Chúa, Hoàng đế La Mã Thần thánh, vĩnh viễn đáng kính, Vua ở Đức, Castile, Aragon,
Leon, kể cả Sicilies, Jerusalem, Hungary, Bohemia, Dalmatia, Croatia, Slavonia, Rama, Serbia, Galitia, Lodomeria, Cumania,
Navarra, Grenada, Toledo, Valencia, Galicia, Mallorca, Sevilla, Sardinia, Cordova, Corsica, Murcia, Jaen, Algarve, Algeciras,
Gibraltar, quần đảo Canary, những hòn đảo của Ấn Độ và đại lục của biển, Đại vương công Áo, Công tước xứ Burgundy,
Brabant, Milan, Styria, Carinthia, Carniola, Limburg, Luxemburg, Gelderland, Württemberg, Upper và Hạ Silesia, Calabria, Athens
và Neopatria, Vương công Swabia, Catalonia, Asturia, bá tước của Thánh chế La Mã, của Burgau, Moravia, Thượng và Hạ
Lusatia, Hoàng thân Bá tước Habsburg, Flanders, Tyrol, ferrette, Kyburg, Gorizia, Artois, Lãnh chúa Alsace, bá tước Oristano, Bá
tước của Goceano, Namur, Roussillon, Cerdagne, Lãnh chúa của Wendish March, Pordenone, Biscay, Molina, Salins, Tripoli và
Mechelen, vv

Huy hiệu
Heraldry of Karl VI, Hoàng đế La Mã Thần thánh
Huy hiệu Hoàng đế La Mã Thần Huy hiệu dành cho người đòi ngôi
Huy hiệu dành cho người đòi
thánh vua Tây Ban Nha Huy hiệu Vua của Napoli & Sicily
ngai vàng Tây Ban Nha
(1711–1740) ở Aragon

Tổ tiên
Tổ tiên của Karl VI của Thánh chế La Mã

16. Karl II của Áo (=22)


         

     

8. Ferdinand II, Hoàng đế La Mã Thần thánh


         

 
     

17. Maria Anna của Bavaria


         

     

 
(=23)
4. Ferdinand III, Hoàng đế La Mã Thần thánh
         

       

18. William V, Công tước xứ


         

     

 
Bavaria (=26)
9. Maria Anna của Bavaria
         

     
 

19. Renata của Lorraine (=27)


         

     

2. Leopold I, Hoàng đế La Mã Thần thánh


         

     
 

20. Felipe II của Tây Ban Nha


         

     

10. Felipe III của Tây Ban Nha


         

       

21. Anna của Áo


         

     

5. Maria Anna của Tây Ban Nha


         

     

22. Karl II của Áo (=16)


         

     

11. Margaret của Áo


         

 
     

23. Maria Anna của Bavaria


         

     

 
(=17)
1. Karl VI, Hoàng đế La Mã Thần thánh
         

24. Philip Louis, Count Palatine


               

     

 
của Neuburg
12. Wolfgang Wilhelm, Count Palatine of Neuburg
         

       

25. Anna của Jülich-Cleves-


         

Berg
 

     

6. Philipp Wilhelm, Tuyển hầu tước Palatine


         

     
 

26. William V, Công tước xứ


         

     

 
Bavaria (=18)
13. Magdalene của Bavaria
         

     
 

27. Renata xứ Lorraine (=19)


         

     

3. Eleonore-Magdalena của Neuburg


         

28. Louis V, Lãnh chúa Hesse-


                     

     

 
Darmstadt
14. George II, Lãnh chúa Hesse-Darmstadt
         

 
29. Magdalene của Brandenburg
         

     

7. Elisabeth Amalie của Hesse-Darmstadt


         

30. John George I, Tuyển hầu


         

     

 
tước Saxony
15. Sophia Eleonore của Saxony
         

     
 

31. Magdalene Sibylle của Phổ


         

     

         

Chú thích
1. ^ Crankshaw, Edward, Maria 14. ^ Encyclopædia Britannica. 21. ^ In the first days of October 1740,
Theresa, 1969, Longman “Ostend Company”. britannica.com. in a cold day of pouring rain
publishers, Great Britain (pre-dates Truy cập 23 tháng Mười năm 2009. Emperor Charles VI, «in spite of
ISBN), 24. 15. ^ Encyclopædia Britannica. “War of the warnings of his physicians»
2. ^ Jones, Colin: "The Great Nation: the Polish Succession (European (Eliakim Littell, Robert S. Littell:
Pháp from Louis XV to Napoleon", history)”. britannica.com. Truy cập Littell's Living Age, Volume 183,
University of Columbia Press, Anh, 23 tháng Mười năm 2009. T.H. Carter & Company, 1889, pg.
2002, ISBN 0-231-12882-7, 89. 69), went to hunting ducks on the
16. ^ Mahan, 26. shores of Lake Neusiedl, close to
3. ^ a b c Crankshaw, 37. 17. ^ Fraser, Antonia: Maria Antoinette: the Hungarian border and he had
4. ^ a b c d e Pragmatic Sanction of the Journey, Orion books, London, come back chilled and soaked
Emperor Charles VI (http://www.brit 2002, ISBN 978-0-7538-1305-8, p. through to his little country palace
annica.com/EBchecked/topic/4736 7 at La Favorita; on his return, though
97/Pragmatic-Sanction-of-Emperor 18. ^ Crankshaw, 26. he was feverish and suffering from
-Charles-VI), Encyclopædia colic, the Emperor persisted in
19. ^ a b Crankshaw, 33.
Britannica, retrieved 15 October eating one of his favourite dishes, a
2009. 20. ^ Edward Crankshaw: Maria Catalan mushroom stew («a large
Theresa, A&C Black, 2011. And dish of fried mushrooms» for the
5. ^ Fraser, 312.
also: «[...] after a day of hunting, the Littell brothers), prepared by his
6. ^ Encyclopædia Britannica. emperor fell ill with a cold and
“Charles VI (Hoàng đế La Mã Thần cook. He spent the night between
fever. Upon his return to his hunting 10 and 11 October vomiting. The
thánh)”. britannica.com. Truy cập lodge, Charles requested his cook following morning he was gravely
22 tháng Mười năm 2009. to prepare him his favorite dish of ill, brought down by a high fever.
7. ^ Fraser, Antonia: Love and Louis mushrooms. Soon after eating Carried slowly to Vienna in a
XIV: The Women in the Life of The them, he fell violently ill. His padded carriage, he died in the
Sun King, Orion books, London, physicians bled him but to no Hcủaburg nine days after.
2006, ISBN 978-0-7538-2293-7, avail» (Julia P. Gelardi: In
Triumph's Wake: Royal Mothers, 22. ^ «Charles the Sixth died, in the
331.
Tragic Daughters, and the Price month of October, 1740, of an
8. ^ a b
Crankshaw, 9. indigestion, occasioned by eating
They Paid for Glory, Macmillan,
9. ^ Crankshaw, 10–11. 2009). champignons, which brought on an
10. ^ Crankshaw, 12. apoplexy, and this plate of
champignons changed the destiny
11. ^ Mahan, J.Alexander: Maria
of Europe» (Voltaire: Memoirs of
Theresa of Austria, Crowell
the Life of Voltaire, 1784; pp. 48–
publishers, New York, 1932 (pre-
49).
dates ISBN), p, 6.
23. ^ Wasson RG. (1972). The death of
12. ^ Kahn, Robert A.: A History of the
Claudius, or mushrooms for
Habsburg Empire, 1526–1918,
murderers. Botanical Museum
University of California Press,
Leaflets, Harvard University
California, 1992, ISBN 978-0-520-
23(3):101–128.
04206-3, 91.
24. ^ Browning, Reed: The War of the
13. ^ Acton, Harold: The Last Medici,
Austrian Succession, Palgrave
Macmillan, London, 1980, ISBN 0-
Macmillan, 1995, ISBN 0-312-
333-29315-0, p. 256.
12561-5, 362.

Tham khảo
Crankshaw, Edward: Maria Theresa, 1969, Longman publishers, Anh (pre-dates ISBN)
Jones, Colin: The Great Nation: Pháp from Louis XV to Napoleon, University of Columbia Press, Anh, 2002, ISBN 0-
231-12882-7
Fraser, Antonia: Love and Louis XIV: The Women in the Life of The Sun King, Orion books, London, 2006, ISBN 978-
0-7538-2293-7
Mahan, J.Alexander: Maria Theresa of Áo, Crowell publishers, New York, 1932 (pre-dates ISBN)
Kahn, Robert A.: A History of the Habsburg Empire, 1526–1918, University of California Press, California, 1992,
ISBN 978-0-520-04206-3
Acton, Harold: The Last Medici, Macmillan, London, 1980, ISBN 0-333-29315-0
Browning, Reed: The War of the Austrian Succession, Palgrave Macmillan, 1995, ISBN 0-312-12561-5

Liên kết ngoài


Phương tiện liên quan tới Charles VI, Holy Roman Emperor tại Wikimedia Commons

Bản mẫu:Vương tộc Habsburg after Ferdinand II

Bản mẫu:Monarchs of Bohemia Bản mẫu:German monarchs Bản mẫu:Monarchs of Luxembourg Bản mẫu:Đại vương công Áo
Bản mẫu:Công tước Parma

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Karl_VI_của_Thánh_chế_La_Mã&oldid=68917336”

You might also like