Tài nguyên khoáng sản là tích tụ vật chất dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ Trái Đất. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của con người và khai thác sử dụng khoáng sản có tác động mạnh mẽ đến môi trường sống. Trong các loại khoáng sản hiện nay đang được khai thác, Titan và Cát tự nhiên là 2 loại tài nguyên đem lại lợi nhuận khổng lồ và cũng là đối tượng được khai thác bừa bãi gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường. Do hoạt động khai thác và sử dụng khoáng sản đã gây ra các vấn đề tác động tới môi trường, ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Trong đó, hậu quả nghiêm trọng nhất là làm mất đất, mất rừng, ô nhiễm nước, ô nhiễm bụi, khí độc, lãng phí tài nguyên. Quá trình vận chuyển, chế biến khoáng sản gây ô nhiễm bụi, khí, nước và chất thải rắn. Đồng thời, sử dụng khoáng sản sẽ gây ra ô nhiễm không khí (SO2, bụi, khí độc...) và ô nhiễm nguồn nước. Qua số liệu thống kê và điều tra từ các doanh nghiệp khai thác và chế biến sa khoáng titan ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, nhận thấy từ hoạt động thăm dò, khai thác cho đến chế biến titan đều đang phải gánh chịu những ảnh hưởng từ Biến Đổi Khí Hậu. Các loại hình BĐKH ảnh hưởng nhiều nhất chủ yếu là mưa bão, lũ lụt và hạn hán, nước biển dâng và xâm nhiễm mặn. Và đặc biệt nguy cơ ô nhiễm phóng xạ tại các khu vực khai thác titan là đặc biệt nghiêm trọng. Các hoạt động khai khoáng, tác động của môi trường (môi trường thay đổi trong quá trình tuyển quặng và chế biến sâu quặng titan) là những tác nhân khiến nước thải nhiễm phóng xạ. Lượng nước thải sinh ra từ hoạt động tuyển quặng và chế biến titan chiếm hơn 20% lượng nước sử dụng, theo như công suất khai thác hiện nay thì lưu lượng nước thải ra là rất lớn. Đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường trong việc khai thác Titan: Cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước và việc giám sát của nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản gắn với BVMT; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sạch, thân thiện với môi trường trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản; phát triển các công nghệ xử lý và tái chế, tái sử dụng chất thải… Cát là nguyên liệu chính của ngành xây dựng và loại vật liệu không thể thiếu trong các lĩnh vực như khoan dầu, sản xuất chip điện tử, kính, mỹ phẩm và nhiều lĩnh vực sản xuất khác, nhu cầu sử dụng cát đã gia tăng với tốc độ chóng mặt. Bởi nguồn thu từ khai thác, buôn bán loại vật liệu này ngày càng trở lên hấp dẫn, lợi nhuận cao nên hoạt động khai thác cát sỏi trái phép hình thành và phát triển với qui mô lớn, gây tổn hại đến môi trường, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân và tiêu tốn tài nguyên. Hiện nay, Việt Nam có 600 mỏ khai thác cát trên các tuyến sông, trong đó có 166 dự án địa phương cấp song song với việc nạo vét luồng tuyến và bên cạnh đó vẫn còn tình trạng khai thác cát trái phép. Theo Bộ Xây dựng, tài nguyên cát sỏi tự nhiên của Việt Nam có thể cạn kiệt trong hơn 10 năm tới. Chỉ 5 năm nữa Việt Nam sẽ cạn kiệt nguồn cát tự nhiên do cát sông bị khai thác quá mức để phục vụ cho ngành xây dựng. Việc khai thác cát sông quá mức dẫn đến mất môi trường sống ven sông và thủy sinh, phá hủy hệ động thực vật địa phương, mất nơi lưu trú và lớp che phủ cho lòng sông. Ngoài ra, khai thác cát trực tiếp từ lòng sông đang chảy làm ảnh hưởng đến mật độ của các quần thể động vật không xương sống và cá ở đáy sông. Bên cạnh đó, tiếng ồn và sự dịch chuyển trong quá trình khai thác cát sông của thiết bị công nghiệp nặng có thể xua đuổi các loài động vật hoang dã dọc theo vùng ven sông. Còn ảnh hưởng tới sinh kế người dân như ĐBSCL đang bị sụt lún, thu hẹp do việc khai thác nước ngầm quá mức cho phát triển nông nghiệp và các mục đích khác như xây dựng các đập, sử dụng nước ở thượng nguồn; khai thác cát sông ngày càng tăng khiến dòng chảy của nước và trầm tích bị giảm; giảm bổ sung các tầng chứa nước; mở rộng cơ sở hạ tầng, nước biển dâng. Hậu quả là nhiễm mặn đất và các tầng chứa nước, cạn kiệt các tầng chứa nước, sự di cư của các loài cá bị hạn chế, gia tăng ô nhiễm, giảm dòng chảy của các chất dinh dưỡng, suy thoái vành đai rừng ngập mặn ven biển, hệ sinh thái chung bị ảnh hưởng, gây khó khăn cho nông nghiệp và nghề cá, đồng thời hạn chế nguồn nước sạch cho sinh hoạt. Những tác động này đang làm thay đổi vùng đồng bằng sông Cửu Long trũng thấp, dự kiến sẽ làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến an ninh lương thực vào đầu năm 2050 và khả năng biến mất hoàn toàn của đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2100. Để giải quyết vấn đề trên đã có nhiều giải pháp được đưa ra như sử dụng cát nhân tạo, chế tạo bê tông không cát,… Theo kết luận của Bộ Xây dựng thì đặc tính của cát nhân tạo giúp các kết cấu bê tông chịu được điều kiện môi trường khắc nghiệt và ngăn ngừa sự ăn mòn cốt thép bằng cách giảm độ thấm, độ ẩm và hiệu ứng đóng băng. Ứng dụng cát nhân tạo giúp tăng độ bền và cường độ của bê tông đồng thời giảm khuyết tật của bê tông. Việc sử dụng cát nhân tạo còn giúp ngăn chặn việc nạo vét các lòng sông để lấy cát, khai thác cát trái phép dẫn đến các thảm họa môi trường. 2. TÀI NGUYÊN ĐỘNG VẬT Với sự xuất hiện và phát triển không ngừng của văn minh loài người việc tuyệt chủng trên đất đang diễn ra ngày càng phức tạp và nghiêm trọng hơn. Từ những việc như săn bắt, hái lượm đến việc đốt rừng và ngày nay là nền công nghiệp gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu - con người đã đẩy nhanh quá trình tuyệt chủng trên toàn thế giới và làm suy giảm nghiêm trọng hệ động thực vật. Mặc dù trong tương lai, con người có thể bị tuyệt chủng bởi tác động bên ngoài khác, nhưng chính việc làm biến đổi khí hậu của con người đang khiến chúng ta có nguy cơ tuyệt chủng nhanh hơn bao giờ hết. Gần 1/3 số loài động vật trên Trái Đất hiện có nguy cơ tuyệt chủng với nhiều trường hợp có thể biến mất chỉ trong vài thập kỷ tới. Hành tinh xanh đã trải qua 5 sự kiện tuyệt chủng hàng loạt trong lịch sử và nhiều chuyên gia cảnh báo rằng sự kiện thứ 6 có thể đang diễn ra do hoạt động của con người kể từ "kỷ nguyên khám phá". Theo Sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), khoảng 41.000 loài động vật - chiếm gần 1/3 tổng số được đánh giá - đang bị đe dọa tuyệt chủng, trong đó có nhiều loài và phân loài nổi tiếng như đười ươi Sumatra (Pongo abelii), báo Amur (Panthera pardus orientalis), voi Sumatra (Elephas maximus sumatranus), tê giác đen (Diceros bicornis), đồi mồi (Eretmochelys imbricata), khỉ đột sông Cross (Gorilla gorilla diehli) và hổ Sunda (Panthera tigris sondaica). Trong một báo cáo vào năm 2018, Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) nói rằng hơn 90% rạn san hô trên thế giới có thể chết vào năm 2050 ngay cả khi đạt mục tiêu giới hạn sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5℃. Cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 6 diễn ra có thể dẫn tới các hệ lụy nghiêm trọng ảnh hưởng tới nhân loại như sau: Khoảng 1/3 nguồn cung cấp thực phẩm trên thế giới dựa vào các loài thụ phấn như ong, vì thế nếu chúng chết đi, sản lượng nông nghiệp có thể giảm mạnh; Độ phì nhiêu, màu mỡ của đất đai sẽ giảm mạnh nếu các vi sinh vật có lợi cho cây trồng bị chết đi. Hệ quả là các trận lũ lụt, lở đất sẽ diễn ra thường xuyên hơn và cây trồng kém phát triển, làm giảm năng suất thu hoạch; Thiếu nước ngọt, thiên tai thường xuyên. Điều kiện sống khô cằn tại các cánh rừng sẽ làm tăng nguy cơ cháy rừng; Đại dịch ngày càng một nhiều. Giải pháp hiện nay chính là con người tiêu thụ sáng suốt để bảo vệ trái đất. Việc nâng cao nhận thức về cuộc đại tuyệt chủng đang tiếp diễn cũng như các hậu quả gắn liền với nó sẽ giúp tạo ra sự thay đổi thiết yếu.