You are on page 1of 2

PSI có thể giảm thiểu rủi ro vốn có đối với thương mại Internet như lừa đảo và gian

lận.
Các dịch vụ của PSI có thể giúp người mua hiểu chất lượng và số lượng của sản phẩm
trước khi nhận hàng. Nó có thể làm giảm đáng kể nguy cơ chậm trễ giao hàng hoặc sửa
chữa hay làm lại sản phẩm. Với sự phát triển toàn cầu, người mua từ thị trường quốc tế sẽ
tiếp tục đối mặt với những trở ngại đáng kể đối với sự tăng trưởng ở các thị trường trên toàn
cầu. Các tiêu chuẩn và yêu cầu khác nhau tại mỗi quốc gia, sự gia tăng các hành vi gian lận
trong thương mại là một số trở ngại đáng kể. Do đó, cần phải tìm ra một giải pháp giúp giảm
thiểu chi phí phát sinh và sự chậm trễ khi giao hàng. Phương pháp hiệu quả nhất là Giám định
trước khi xuất hàng.

Đây là một ví dụ điển hình về Tranh chấp về giám định hàng hóa trong hợp đồng bảo hiểm:

Hội đồng Trọng tài ("HĐTT") nhận thấy trong quá trình nhận hàng, vận chuyển và dỡ hàng,
người vận chuyển cũng như BĐ không có ý kiến gì về tình trạng bên ngoài của lô hàng. Vận
đơn ghi rõ “Clean Shipped on Board” nghĩa là “Vận đơn sạch, hàng đã bốc lên tàu”; Hợp
đồng chỉ loại trừ bồi thường do rỉ sét tự nhiên; trong Chứng thư 1 không có chỗ nào cho rằng
lô hàng này bị rỉ sét tự nhiên. Ngược lại, chứng thư này kết luận: “Trong quá trình vận chuyển
từ Trung Quốc về Việt Nam, môi trường thay đổi từ vùng không khí lạnh sang vùng không khí
nóng đã gây ra hiện tượng đổ mồ hôi hàng hóa tạo ra một dung dịch chất điện ly gây ăn mòn
kim loại, tạo ra gỉ sét từ các đai sắt chằng buộc bên ngoài/các mép gờ biên của cuộn thép (các
mép gờ biên này là nơi trực tiếp tiếp xúc với mồ hôi hàng hóa và cũng là nơi mà lớp kẽm mạ
yếu nhất). Sau đó, các gỉ sét này phát triển và lan tỏa vào bên trong bề mặt của cuộn thép gây
ra hiện tượng ố vàng/ố đen trên bề mặt cuộn hàng.” Từ đó, HĐTT kết luận hiện tượng rỉ sét
dẫn tới ố đen/ố vàng đã xảy ra trong quá trình vận chuyển và trước khi dỡ hàng chứ không
phải trước khi bốc hàng lên tàu. Căn cứ Điều 262 Luật Thương mại 2005 và phân tích trên
đây, HĐTT kết luận Chứng thư 1 có giá trị ràng buộc đối với BĐ, và không loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm do không phải là “rỉ sét tự nhiên”.
Theo Biên bản dỡ hàng của cảng và hình ảnh do NĐ cung cấp, HĐTT cho rằng trong quá trình
xếp hàng và dỡ hàng, một số cuộn thép bị móp, khuyết tại mép, tại đầu cuộn ở các vòng phía
ngoài là do bị va đập, nghĩa là các tì vết này xảy ra trước khi dỡ hàng. Theo khoản 1 Điều 48
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, Chứng thư 1 phải ghi rõ nguyên nhân và mức độ tổn thất.
Tuy vậy, chứng thư này chỉ nêu nguyên nhân tổn thất hàng hóa, nghĩa là không tuân thủ hoàn
toàn quy định tại khoản 1 Điều 48 nêu trên.
HĐTT nhận thấy Công ty giám định 1 không xác định mức độ tổn thất hàng hóa nên NĐ phải
thuê Công ty giám định 2 giám định lại tổn thất và làm Chứng thư 2 là phù hợp với quy định
tại khoản 2 Điều 262 Luật Thương mại 2005.
Chứng thư 2 căn cứ vào tình trạng bên ngoài của hàng hóa, tập quán mua bán hàng hóa,
tổn thất và giá thị trường; có 2 công ty đủ năng lực mua số hàng tổn thất nói trên với đơn
giá bình quân là 6.715 đồng/kg. Giá thu hồi 130 cuộn tôn (tole) mạ nhôm kẽm là 535,185
tấn tịnh x 6.715 đồng = 3.593.767.275 đồng. Xét thực tế trên đây, căn cứ vào Chứng thư
2, HĐTT thấy có cơ sở để chấp nhận đơn giá bình quân này. Theo Chứng thư 1, Chứng
thư 2, và trị giá tổn thất nêu trong Bản tự bảo vệ, cụ thể số tiền là 10.268.582.000 đồng –
(3.593.767.275 + 1.114.500.570) = 5.560.314.155 đồng được HĐTT cho là hợp lý nhưng
do NĐ chỉ yêu cầu 5.560.000.000 đồng nên HĐTT chấp nhận số tiền này và buộc Bị đơn
phải trả cho Nguyên đơn số tiền bồi thường bảo hiểm 5.560.000.000 đồng.  
https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/002-%7C-tranh-chap-ve-giam-dinh-hang-hoa-
trong-hop-dong-bao-hiem-a127.html

You might also like