You are on page 1of 10

BỘ NỘI VỤ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THUYẾT MINH, ĐỊNH HƯỚNG


xây dựng dự thảo Nghị định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức
(Kèm theo công văn số /BNV-CCVC ngày tháng năm 2022
của Bộ Nội vụ)

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số
509/VPCP-TH ngày 19/01/2022 của Văn phòng Chính phủ về việc xây dựng dự
thảo Nghị định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức (sau đây viết tắt là
dự thảo Nghị định), sau khi nghiên cứu, Bộ Nội vụ thuyết minh, định hướng các
nội dung trong dự thảo Nghị định như sau:
I. CĂN CỨ, CƠ SỞ XÂY DỰNG DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH
1. Căn cứ chính trị
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7
khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược
đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trong đó có nội
dung: “Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và
luân chuyển cán bộ: Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức
để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm
vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo
vùng, khu vực”;
Tại Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06/6/2018 của Bộ Chính trị về triển
khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW đã giao: “Ban Cán sự đảng Bộ Nội vụ
chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng cơ chế, lộ trình, nội dung
thực hiện thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức. Trên cơ sở
đó, các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm
vụ; đồng thời, nghiên cứu, từng bước phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù
và theo vùng, khu vực khi đủ điều kiện (thực hiện từ năm 2018)”.
2. Căn cứ pháp lý
Khoản 6 Điều 1 bổ sung Điều 39 của Luật Cán bộ, công chức của Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức
“Thực hiện kiểm định chất lượng đầu vào công chức, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều 37 của Luật này. Việc kiểm định chất lượng đầu
vào công chức được thực hiện theo lộ trình, bảo đảm công khai, minh bạch, thiết
thực, hiệu quả”.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG
ĐẦU VÀO CÔNG CHỨC
1. Những kết quả đạt được
Trong việc thực hiện quy trình tuyển dụng công chức từ trước đến nay
hoạt động mang tính kiểm định chất lượng đầu vào chủ yếu do các bộ, ngành,
địa phương tuyển dụng thực hiện trên cơ sở đánh giá hồ sơ, văn bằng, chứng
chỉ mà chưa có hoạt động sát hạch, sàng lọc thí sinh trước khi đánh giá năng
lực chuyên môn. Thí sinh buộc phải tham dự đầy đủ các môn thi theo yêu cầu
của kỳ thi, dù có thể đã không đạt yêu cầu các môn điều kiện. Các nội dung thi
về kiến thức chung, ngoại ngữ, tin học được đánh giá đồng thời với nội dung
thi tuyển về kiến thức, kỹ năng chuyên môn, vì vậy, có sự chênh lệch về năng
lực thí sinh. Nhiều thí sinh không có đủ điều kiện, nền tảng kiến thức, kỹ năng
cần thiết vẫn tham dự kỳ thi tuyển dụng công chức dẫn đến lãng phí nguồn lực
tổ chức kỳ thi, lãng phí thời gian và cơ hội lựa chọn nghề nghiệp phù hợp hơn
với thí sinh.
Sau khi Nghị định số 161/2018/NĐ-CP nay được thay thế bằng Nghị định
số 138/2020/NĐ-CP việc thực hiện vòng 1 kỳ thi tuyển dụng công chức được
các bộ, ngành, địa phương triển khai. Các quy định về thực hiện vòng 1 kỳ thi
tuyển dụng công chức quy định trong Nghị định số 138/2020/NĐ-CP tương tự
như trong Nghị định số 161/2018/NĐ-CP. Việc thực hiện vòng 1 kỳ thi tuyển
dụng công chức đã đạt được những kết quả nhất định.
Thứ nhất, vòng 1 góp phần sàng lọc thí sinh, lựa chọn thí sinh có nền
tảng kiến thức tốt tham gia vòng 2 của kỳ thi tuyển dụng công chức.
Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong tổ chức thi vòng 1. Một số bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đã nghiên cứu xây dựng phần mềm thi tuyển công chức trên máy vi tính và
đã áp dụng đối với các kỳ thi tuyển công chức. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào vòng 1 đã góp phần bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh, khách quan, công
bằng, minh bạch, chống được tiêu cực, gian lận trong thi cử; mọi công dân có
đủ điều kiện, tiêu chuẩn đều có cơ hội như nhau để đăng ký và tham gia quá
trình lựa chọn vào nền công vụ làm việc tại các cơ quan trung ương và địa
phương.
Thứ ba, nội dung thi tuyển vòng 1 đã bước đầu được đổi mới theo hướng
phù hợp hơn với thực tế.
Thứ tư, quá trình thực hiện vòng 1 kỳ thi mở rộng sự tham gia của các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học thay vì chỉ có sự tham gia của cơ
quan tuyển dụng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong kiểm tra,
đánh giá năng lực của thí sinh.
2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả bước đã đạt được thì việc thực hiện vòng 1
còn bộc lộ một số hạn chế:
Thứ nhất, Phần câu hỏi về Kiến thức chung chủ yếu tập trung vào
đánh giá hiểu biết về pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức, chức trách,
nhiệm vụ. Về ngoại ngữ mới chỉ đánh giá kỹ năng đọc, hiểu thông thường
mà còn thiếu nội dung đánh giá về việc sử dụng ngoại ngữ trong môi trường
công vụ.
Thứ hai, trong tổ chức thực hiện thi tuyển vòng 1, nội dung thi tuyển,
cách thức ra đề thi chưa phù hợp. Mục đích chính của vòng 1 là nhằm lựa chọn
được người có năng lực nền tảng cần thiết, phù hợp vào nền công vụ. Tuy
nhiên, để tuyển chọn được những ứng viên đủ năng lực thì nội dung, chất lượng
ngân hàng câu hỏi là yếu tố quan trọng.
Song trong thực tế thời gian vừa qua, khi việc thực hiện thi vòng 1, nhiều
cơ quan tuyển dụng còn có sự lúng túng nhất định trong việc ra đề thi để chọn
được đúng người theo yêu cầu.
Trong không ít trường hợp, nội dung đề thi chưa bao quát hết các lĩnh
vực và chuyên ngành, chưa thực sự sát với vị trí việc làm, dẫn đến chưa đánh
giá đúng năng lực của thí sinh. Nội dung thi tuyển vòng 1 có nơi tập trung vào
các vấn đề lý luận chung, hoặc lặp lại các kiến thức mà người dự thi đã được
học trong các trường đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân, khó đánh giá
được khả năng hiểu biết xã hội, năng lực tư duy, khiến cho việc đánh giá vòng
1 chưa đạt được mục tiêu kiểm định. Ở một số bộ, ngành, địa phương, nội dung
thi, đề thi vòng 1 được các cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng đặt từ nhiều
nguồn khác nhau, nên nội dung, mức độ khó, dễ khác nhau, vì thế khó đảm bảo
những người trúng tuyển và trở thành công chức có cùng mặt bằng năng lực và
đáp ứng được yêu cầu công việc.
Như vậy, có thể thấy, việc thực hiện vòng 1 kỳ thi như hiện nay không
những chưa đảm bảo được mặt bằng chung của công chức được tuyển dụng.
Trên thực tế, việc thi tuyển vòng 1 thời gian qua có nơi có lúc chưa thực sự
phản ánh chính xác khả năng làm việc trong tương lai của công chức. Điều này
lý giải tại sao nhiều trường hợp người có kỹ năng làm việc tốt đã được kiểm
nghiệm qua thời gian làm hợp đồng tại cơ quan, đơn vị hoặc được đào tạo tại
các cơ sở đào tạo có uy tín ở trong và ngoài nước nhưng vẫn không trúng tuyển
bởi nội dung thi thường là lý thuyết chung, không có phần thi để đánh giá
những năng lực chuyên biệt cho từng vị trí.
Thực trạng này là một trong những nguyên nhân làm công chức được
tuyển dụng tuy có cùng vị trí việc làm nhưng chênh lệch nhau về năng lực. Kết
quả đánh giá vòng 1 chỉ có giá trị đối với cơ quan tuyển dụng công chức tổ

2
chức thi vòng 1 mà không có giá trị với cơ quan tuyển dụng công chức khác,
thiếu tính liên thông trong việc sử dụng kết quả vòng 1, mặc dù cùng vị trí
việc làm.
Thứ ba, thiếu tính chủ động trong xây dựng ngân hàng câu hỏi cho
vòng 1. Thực tế, các bộ, ngành và địa phương chưa chủ động trong việc xây
dựng ngân hàng câu hỏi phục vụ cho công tác thi tuyển công chức. Việc thi
tuyển công chức mới chỉ dừng lại ở mức độ khi nào có chỉ tiêu tuyển dụng, các
cơ quan, đơn vị mới thành lập Hội đồng tuyển dụng và tiến hành xây dựng các
bộ câu hỏi phục vụ cho từng kỳ thi cụ thể, chưa có ngân hàng câu hỏi phục vụ
lâu dài cho công tác tuyển dụng công chức.
Thứ tư, phần mềm thi tuyển công chức trên máy tính được xây dựng áp
dụng tại một số bộ, ngành và địa phương mà chưa được xem xét, đánh giá, đưa
vào sử dụng bắt buộc trong công tác thi tuyển công chức của tất cả các bộ,
ngành và địa phương, đa số phần mềm chưa có tiêu chuẩn thống nhất hoặc
phần mềm chưa có bản quyền theo quy định.
Thứ năm, với việc phân cấp tuyển dụng, các cơ quan tuyển dụng phải
trực tiếp tổ chức thực hiện vòng 1 kỳ thi dẫn đến việc lãng phí thời gian, nhân
lực, vật lực trong quá trình tuyển dụng công chức. Mỗi lần tuyển dụng tại bộ,
ngành và địa phương, các nội dung vòng 1 kỳ thi đều phải thực hiện lại từ đầu
(như: thuê các chuyên gia xây dựng, thẩm định bộ câu hỏi). Việc này gây tốn
kém về ngân sách. Bên cạnh đó, trong không ít trường hợp khi tuyển dụng, cơ
quan tuyển dụng nhận được số hồ sơ không lớn, nguồn tuyển bị hạn chế, chất
lượng không đồng đều nhưng vẫn phải thực hiện đầy đủ quy trình vòng 1, chi
phí cho việc thi vòng 1 trên 1 thí sinh rất cao mà lệ phí thi khó có thể bù đắp
được.
Thứ sáu, việc tổ chức các hội đồng tuyển dụng được giao cho các Bộ,
ngành ở trung ương và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong đó thành viên của các Hội
đồng không cố định, chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa hình thành được một đội ngũ
chuyên trách trong thi tuyển công chức. Nghiệp vụ công tác tổ chức thi tuyển chưa
sâu trong khi khối lượng công việc rất lớn đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao dẫn
tới những lúng túng và thiếu ổn định trong các khâu của quy trình tuyển dụng
công chức làm hạn chế hiệu quả của hoạt động này. Trong khi đó, công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát còn có những hạn chế nhất định, tiềm ẩn nguy cơ việc phát
sinh tiêu cực.
Thứ bảy, việc chấp hành các quy định về công tác tuyển dụng công chức
tại một số bộ, ngành, địa phương chưa đầy đủ, chất lượng chưa cao, chưa đồng
đều, có nơi còn xảy ra sai phạm.
3. Yêu cầu đổi mới mô hình tuyển dụng công chức
Một là, làm rõ quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức.

3
Cần làm rõ thế nào là kiểm định chất lượng đầu vào công chức; cần quy
định chi tiết về nguyên tắc, hình thức tổ chức, nội dung kiểm định, cơ quan, tổ
chức kiểm định, trình tự, thủ tục kiểm định, trong đó hình thức tổ chức và nội
dung kiểm định là hết sức quan trọng và phải được đổi mới. Như vậy sẽ đảm
bảo công tác tuyển dụng công chức khách quan, chính xác, tuyển dụng đúng
người cần tuyển nhằm nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Hai là, phải có một ngân hàng câu hỏi kiểm định cho tất cả các bộ, ngành
và địa phương để bảo đảm sự thống nhất nội dung, kiến thức, mức độ khó của các
câu hỏi, áp dụng cho toàn bộ các thí sinh thi tuyển công chức trên cả nước là hết
sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Việc có một ngân hàng câu hỏi kiểm định thống nhất trên cả nước sẽ làm
tăng tính khách quan trong thi kiểm định, đáp ứng đầy đủ các quy định của
pháp luật, việc kiểm định đầu vào công chức bảo đảm về năng lực, phẩm chất
tương ứng và bảo đảm công khai, công bằng, minh bạch.
III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CỦA DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH
Việc xây dựng dự thảo Nghị định được kế thừa từ Đề án thống nhất việc
kiểm định chất lượng đầu vào công chức. Theo đó, thực hiện Nghị quyết số
132/NQ-CP, Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ xây dựng Đề án thực hiện thống
nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt. Bộ Nội vụ xác định đây là một Đề án lớn, quan trọng và đã tổ chức
xây dựng dự thảo Đề án với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà quản lý,
chuyên gia của Ban Tổ chức Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ.
Năm 2019, Bộ Nội vụ đã tổ chức Hội thảo tại Hà Nội lấy ý kiến góp ý
của các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố từ Thừa Thiên Huế trở ra về dự thảo
Đề án; tổ chức Hội thảo tại Thành phố Hồ Chí Minh lấy ý kiến góp ý của các
địa phương từ thành phố Đà Nẵng trở vào đối với dự thảo Đề án. Bộ Nội vụ
tiếp tục hoàn thiện dự thảo Đề án trên cơ sở kết quả của hai hội thảo này.
Năm 2020-2021, Bộ Nội vụ tiếp tục tổ chức Hội thảo lấy ý kiến các nhà
khoa học, nhà quản lý, chuyên gia Ban Tổ chức Trung ương, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc
hội và các đơn vị có liên quan.
Trong quá trình xây dựng Đề án, Bộ Nội vụ đã nhận được các ý kiến
đóng góp của 64 cơ quan (bằng văn bản), trong đó bao gồm 20 cơ quan Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, đa phần các ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương bày tỏ sự nhất trí
cao với dự thảo Đề án: về sự cần thiết, mục tiêu của Đề án, về phương án đổi
mới nội dung, quy trình, phương thức kiểm định chất lượng đầu vào công
chức, lộ trình thực hiện. Bên cạnh việc cơ bản nhất trí với dự thảo Đề án, các

4
Bộ, ngành, địa phương góp ý để làm rõ tính pháp lý của Đề án, nội dung, quy
trình kiểm định, thời hạn của giấy chứng nhận kiểm định chất lượng đầu vào
công chức. Bộ Nội vụ đã nghiêm túc tiếp thu, hoàn chỉnh dự thảo Đề án để
trình Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, thực hiện ý của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Bộ Tư pháp
đề nghị Bộ Nội vụ nghiên cứu, sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định quy
định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức, đồng thời, rà soát để đề xuất
sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan về thi tuyển công chức, tạo đầy đủ,
cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
của hệ thống pháp luật về tuyển dụng công chức. Do đó, Bộ Nội vụ đã báo cáo
Thủ tướng Chính phủ và được Thủ tướng đồng ý chuyển từ việc xây dựng Đề
án sang xây dựng Nghị định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về việc xây dựng dự thảo Nghị
định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức, Bộ Nội vụ đã thành lập Ban
soạn thảo Nghị định. Từ đầu năm 2022 đến nay, Bộ Nội vụ đã tổ chức 2 cuộc
họp Ban soạn thảo và 3 cuộc Hội thảo tại miền bắc, miền trung, miền nam lấy ý
kiến các Bộ, ngành, địa phương. Theo đó, đa số các Bộ, ngành, địa phương đều
thống nhất với nội dung dự thảo Nghị định và đề nghị Bộ Nội vụ sớm trình
Chính phủ để triển khai thực hiện.
IV. NỘI DUNG CHÍNH CỦA DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH
1. Phạm vi, đối tượng
a) Về phạm vi
Dự thảo nghị định quy định về đối tượng, nguyên tắc, điều kiện, tiêu
chuẩn, hình thức, nội dung, phân công cơ quan tổ chức thực hiện kiểm định,
quy định trình tự, thủ tục kiểm định, hiệu lực của kết quả kiểm định.
b) Đối tượng áp dụng
Các cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức hoặc các cơ quan, tổ
chức, đơn vị được phân cấp thẩm quyền tuyển dụng công chức sử dụng kết
quả kiểm định làm cơ sở để thực hiện việc tuyển dụng công chức. Thẩm
quyền tuyên dụng vào làm công chức vẫn thuộc các cơ quan quản lý và sử
dụng công chức.
2. Nguyên tắc kiểm định
Dự thảo Nghị định đảm bảo nguyên tắc việc kiểm định chất lượng đầu
vào công chức phải công khai, minh bạch, khách quan, đúng pháp luật.
Thông tin về kiểm định chất lượng đầu vào công chức được công khai, tạo cơ
hội cho tất cả thí sinh có đủ điều kiện, tiêu chuẩn được tham gia kiểm định.
Với việc phân cấp tuyển dụng công chức hiện nay, các cơ quan tuyển
dụng phải trực tiếp tổ chức thực hiện vòng 1 kỳ thi dẫn đến việc lãng phí thời
gian, nhân lực, vật lực trong quá trình tuyển dụng công chức. Mỗi lần tuyển

5
dụng tại bộ, ngành và địa phương, các nội dung vòng 1 kỳ thi đều phải thực
hiện lại từ đầu (như: thuê các chuyên gia xây dựng, thẩm định bộ câu hỏi,
thuê phần mềm tổ chức thi, thuê địa điểm tổ chức, thành lập Hội đồng và các
ban giúp việc, tổ chức chấm thi cho 3 môn). Việc này gây tốn kém về ngân
sách và huy động số lượng người tham gia rất lớn. Bên cạnh đó, trong không
ít trường hợp khi tuyển dụng, cơ quan tuyển dụng nhận được số hồ sơ không
lớn, nguồn tuyển bị hạn chế, chất lượng không đồng đều nhưng vẫn phải thực
hiện đầy đủ quy trình vòng 1, chi phí cho việc thi vòng 1 trên 1 thí sinh rất
cao mà lệ phí thi khó có thể bù đắp được và có những nơi số lượng người
tham gia thi vòng 1 rất đông nhưng chỉ tiêu ít, dẫn đến việc lãng phi nguồn
nhân lực khi không thể để những người đã đạt vòng 1 đó được tham gia các
kỳ tuyển dụng khác hoặc do các bộ, ngành, đia phương khác tổ chức. Do đó,
việc thực hiện thống nhất kiểm định chất lượng đầu vào công chức thay vì
mỗi bộ ngành, địa phương tự tổ chức thi tuyển sẽ tiết kiệm được các chi phí
cho công tác tuyển dụng từ ngân sách nhà nước. Các chi phí giảm bao gồm
chi phí về tiếp nhận hồ sơ, xây dựng ngân hàng câu hỏi, tổ chức coi thi, chấm
thi, chi phí của hội đồng thi tuyển. Hoạt động kiểm định chất lượng đầu vào
công chức sẽ nâng cao về hiệu quả tuyển dụng, cơ quan tuyển dụng công
chức sẽ có thụ hưởng các lợi ích: Nguồn tuyển lớn từ nguồn thí sinh đạt điều
kiện kiểm định thay vì giới hạn từ các thí sinh nộp hồ sơ trong mỗi đợt tuyển
dụng. Cơ quan tuyển dụng công chức có điều kiện lựa chọn những thí sinh có
năng lực tốt nhất, phù hợp nhất trở thành công chức; Giảm chi phí trong tổ
chức tuyển dụng công chức; Rút ngắn thời gian tuyển dụng công chức;
Nguồn dự tuyển luôn chủ động từ các thí sinh có giấy chứng nhận kiểm định
chất lượng đầu vào công chức thay vì phụ thuộc vào nguồn dự tuyển từ thông
báo tuyển dụng của cơ quan; Mặt khác, khi các cơ quan đơn vị tuyển dụng
không phải lo vòng 1 sẽ có thời gian tập trung nâng cao chất lượng để tuyển
dụng công chức vào làm việc. Do đó, xét về tổng thể, việc thống nhất kiểm
định chất lượng đầu vào công chức không những không phát sinh thêm chi
phí mà còn có thể tiết kiệm được cho ngân sách nhà nước.
Vì vâỵ, tại dự thảo Nghị định đã đề xuất thống nhất Bộ Nội vụ là cơ quan
thực hiện việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức.
3. Về căn cứ, điều kiện kiểm định
Việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức được hiểu không phải là
một hình thức tuyển dụng công chức. Do đó, để có cơ sở thực hiện việc kiểm
định chậm nhất ngày 15 tháng 01 hằng năm Bộ Nội vụ phải ban hành kế hoạch
kiêm định. Trong kế hoạch phải nêu rõ tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký kiểm
định, hình thức, nội dung và thời gian, địa điểm tổ chức kiểm định;
4. Nội dung kiểm định
Thực hiện chủ trương đổi mới về nội dung và hình thức trong thi tuyển
công chức theo hướng đơn giản hóa thủ tục, đề cao trách nhiệm của người đứng

6
đầu cơ quan sử dụng công chức và nâng cao chất lượng công tác tổ chức thi,
ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thi tuyển công chức để phòng
chống tiêu cực trong thi tuyển, Bộ Nội vụ đề nghị việc kiểm định chất lượng
đầu vào công chức được thực hiện bằng hình thức thi trắc nghiệm trên máy vi
tính, nội dung kiểm định không chỉ đánh giá về việc hiểu biết chung của thí
sinh dự thi về chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật về quản lý
Nhà nước mà yêu cầu thí sinh hiểu về quyền, nghĩa vụ, chức trách, nhiệm vụ
của công chức, kiến thức về văn hóa, lịch sử, đạo đức công vụ…Ngoài ra,
nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng các câu hỏi kiểm định sẽ tập trung đánh giá
năng lực tư duy, nhận thức, khoa học, năng lực ứng dụng vào thực tiễn của thí
sinh.
Tại dự thảo Nghị định đề xuất không yêu cầu phải thi môn ngoại ngữ và
tin học vì theo yêu cầu chuẩn đầu ra về ngoại ngữ của sinh viên tốt nghiệp các
trình độ trung cấp chuyên nghiệp, cử nhân đều yêu cầu đáp ứng trình độ ngoại
ngữ bậc 3. Đồng thời, tại các cơ sở giáo dục đại học hiện quy định chuẩn đầu ra
trình độ ngoại ngữ đối với sinh viên khi tốt nghiệp theo Quyết định số
1400/QĐ- TTg, mà chuẩn đầu ra về trình độ ngoại ngữ đó phù hợp với yêu cầu
về trình độ ngoại ngữ tương ứng với ngạch công chức tham gia dự tuyển. Đối
với tin học, do hiện nay yêu cầu sử dụng công nghệ thông tin trong các cơ sở
giáo dục cũng như quy định việc tổ chức thi tuyển trên máy tính cũng là bước
kiểm tra kiến thức và kỹ năng sử dụng tin học. Tuy nhiên, đối với những vị trí
việc làm yêu cầu phải có trình độ ngoại ngữ hay tin học ở trình độ cao thì cơ
quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức có thể yêu cầu kiểm tra tại lúc thực
hiện quy trình tuyển dụng công chức.
5. Xác định người đạt kết quả trong kỳ kiểm định
Tuyển chọn được người có năng lực nền tảng, cần thiết để đảm bảo mặt
bằng chung về chất lượng công chức trong phạm vi cả nước đối với vị trí cần
tuyển dụng, làm cơ sở cho các cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu
cầu, nhiệm vụ; Việc xác định người đạt trong đánh giá kiểm định khi trả lời
đúng từ 60% câu hỏi trở lên nhằm nâng cao chất lượng của việc tuyển dụng
công chức.
Việc phân loại kết quả kiểm định giúp cho các cơ quan có thẩm quyền
tuyển dụng xác định nhu cầu chất lượng của công chức đối với từng vị trí việc
làm. Ví dụ đối với những vị trí việc làm cần nghiên cứu sâu thì có thể lựa chọn
những người có kết quả kiểm định đạt loại cao để thực hiện việc kiểm định
hoặc đối với vị trí việc làm thực hiện nội dung công việc đơn giản hơn có thể
lựa chọn những người có kết quả kiểm định đạt loại thấp hơn. Ngoài ra việc
phân loại kết quả kiểm định cũng giúp cho các Bộ, ngành, địa phươn lựa chọn
người làm việc tại các địa bàn khác nhau trong mỗi cơ quan, đơn vị.
6. Tổ chức thực hiện kiểm định

7
Nhằm tổ chuẩn bị cho việc tổ chức kiểm định chất lượng đầu vào công
chức, với trách nhiệm là cơ quan thực hiện tổ chức kiểm định, Bộ Nội vụ xác
định sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất, nâng cao năng lực trong kiểm định chất lượng đầu vào công chức. Trong
giai đoạn đầu, tập trung xây dựng hệ thống các phòng máy tính có quy mô phù
hợp để thực hiện kiểm định chất lượng đầu vào công chức; xây dựng hệ thống
phần mềm kiểm định, hệ thống bảo mật, ngân hàng câu hỏi đáp ứng yêu cầu
kiểm định chất lượng đầu vào công chức. Xây dựng website và hệ thống cơ sở
dữ liệu về kiểm định chất lượng đầu vào công chức để kịp thời cung cấp, chia
sẻ thông tin cho các tổ chức, đơn vị và cá nhân quan tâm. Về nội dung này Bộ
Nội vụ dự kiến tập trung thực hiện khi Nghị định được Chính phủ ban hành và
xong trước 31/12/2022 và bắt đầu thực hiện việc kiểm định chất lượng đầu vào
công chức từ ngày 01 tháng 01 năm 2023.
Hằng năm, Bộ Nội vụ sẽ tổ chức tối thiểu 02 kỳ kiểm định, việc thông báo
kế hoạch kiểm định được công khai, thí sinh có nguyện vọng tham gia kiểm
định đăng ký trực tiếp trên phần mềm kiểm định của Bộ Nội vụ được niêm yết
tại website và cổng thông tin điện tử của Bộ Nội vụ. Việc nộp phiếu đăng ký
kiểm định và nộp lệ phí đều thực hiện qua điện tử. Trong mỗi đợt kiểm định,
Bộ Nội vụ sẽ tổ chức đồng thời tại các điểm thi ở miền bắc, miền trung, miền
nam (ngoài ra về sau nếu phát triển được hệ thống cơ sở vật kiểm định sẽ tổ
chức thêm nhiều khu vực kiểm định để tạo thuận lợi tốt nhất cho các thí sinh).
Việc thông báo danh sách đủ điều kiện tiêu chuẩn, kết quả kiểm định đều được
thực hiện trên hệ thống thông tin điện tử.
Thí sinh đăng ký kiểm định chỉ việc điền thông tin theo mẫu có sẵn, trong
đó thí sinh được đăng ký thời gian tham gia kiểm định (đợt 1 hoặc đợt 2), địa
điểm tham gia kiểm định phù hợp nhất với mình.
7. Về sử dụng kết quả kiểm định
Kết quả kiểm định có giá trị sử dụng trong toàn quốc chính là xây dựng
nhân sự nguồn để tuyển dụng. Nguồn đạt kiểm định này sẽ là nơi lựa chọn cho
các cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng thay vì giới hạn từ các thí sinh nộp hồ
sơ trong mỗi đợt tuyển dụng. Cơ quan tuyển dụng công chức có điều kiện lựa
chọn những thí sinh có năng lực tốt nhất, phù hợp nhất tham gia thi tuyển để trở
thành công chức. Kết quả kiểm định sẽ được công khai trên trang thông tin điện
tử hoặc cổng thông tin điện tử và gửi về các Bộ, ngành, địa làm cơ sở cho việc
tuyển dụng công chức.
Dự thảo Nghị định kế thừa từ Đề án án kiểm định chất lượng đầu vào
công chức, trong quá trình xây dựng đề án và dự thảo Nghị định đã nhiều lần
lấy ý kiến về giá trị kiểm định, theo đó đa phần các Bộ, ngành, địa phương đều
chọn giá trị kiểm định trong 24 tháng vì nếu để 36 tháng thì có thể chính sách,
kiến thức thi đã thay đổi và nếu để 12 tháng thì thí sinh chưa kịp tham gia kỳ
tuyển dụng đã có thể hết giá trị của kết quả kiểm định.

8
Trên đây là Bản thuyết minh, định hướng xây dựng dự thảo Nghị định về
kiểm định chất lượng đầu vào công chức./.

You might also like