Professional Documents
Culture Documents
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU TÂM LÝ SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU TÂM LÝ SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT
Câu 1: Nêu các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý người làm nghệ thuật.
Tâm lý học và nghệ thuật mặc dù là hai lĩnh vực tưởng chừng không liên quan với nhau nhưng
thực chất lại có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Mối tương quan giữa chúng dựa trên cơ sở: nghệ thuật
trong thực tiễn sáng tạo là một hoạt động tâm lý, với tư cách đó nó có thể và cần phải được phân tích
theo lối tâm lý học: dưới góc độ này nó ngang bằng với mọi hoạt động khác của con người do các motive
tâm lý chi phối mà tâm lý học lấy làm đối tượng nghiên cứu. Nhưng mặt khác, Tâm lý học có thể rút ra
cái gì đi chăng nữa thì cũng chỉ giới hạn ở cấu trúc tâm lý của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, chứ không
bao giờ “chạm” đến những tầng sâu kín của nghệ thuật.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận nghệ thuật dưới nhiều góc độ, hình thức khác nhau nhưng
nhìn chung tất cả đều thống nhất cho rằng, cấu trúc tâm lý của hoạt động sáng tạo nghệ thuật bao gồm
ba thành phần cơ bản, đó là: tri giác, tưởng tượng và cảm xúc. Trong đó, tri giác được coi là cơ sở ban
đầu, là điều kiện của hoạt động. Tưởng tượng đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên hình tượng nghệ
thuật, còn xúc cảm là nhân tố làm nền, liên kết, huy động các quá trình tâm lý, là nhân tố thúc đẩy hoạt
động của tri giác và tưởng tượng.
1. Tri giác:
Định nghĩa: Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của
sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan.
Các loại tri giác: Căn cứ vào đối tượng tri giác có thể chia tri giác thành:tri giác nhìn, tri giác
không gian, tri giác thời gian, tri giác chuyển động, tri giác con người.
a. Tri giác nhìn: phản ánh sự vật hiện tượng trọn vẹn nhờ thị giác.
Một số nhân tố thuộc trường kích thích ảnh hưởng tới tri giác nhìn:
- Sự gần nhau giữa các sự vật
- Sự giống nhau
- Sự khép kín (bao hàm): sử dụng tất cả các thành phần để tạo ra một chỉnh thể
- Nhân tố tiếp diễn tự nhiên: Các thành phần của các hình quen thuộc thường được liên kết
thành một hình.
b. Tri giác không gian: phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan của sự vật hiện tượng.
Tri giác không gian bao gồm:
- Tri giác hình dạng sự vật,
- Tri giác độ lớn của vật,
- Tri giác chiều sâu, độ xa và các phương hướng.
c. Tri giác thời gian: phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan.
Các nhân tố ảnh hưởng tới tri giác thời gian.
- Tuổi và kinh nghiệm:
- Động cơ, trạng thái tâm lý.
d. Tri giác chuyển động: phản ánh sự biến đổi vị trí của sự vật. Bao gồm sự thay đổi vị trí,
hướng, tốc độ.
- Chuyển động tương đối: Đi xe nhìn bên ngoài, vật gần chuyển động nhanh, vật xa chuyển
động xa chậm.
- Chuyển động ra xa: Luật xa gần trong hội họa.
- Tri giác âm thanh trong không gian:
2. Tưởng tượng:
Tưởng tượng không chỉ là một đặc tính của hoạt động thần kinh, là bản năng, mà còn là một
trong những đặc điểm tối ưu của nhân loại, đánh dấu bước tiến hoá của con người so với con vật, nói lên
trình độ phát triển của con người.
Nghệ thuật là sự sáng tạo, muốn sáng tạo thì người nghệ sĩ phải có óc tưởng tượng phong phú,
bởi bản thân hiện thực không đưa lại cho con người cái toàn vẹn, cái hoàn hảo trong các hình tượng nghệ
thuật. Một hình tượng nghệ thuật muốn thể hiện sự tổng hợp và sự khái quát cao thì trong tư duy của
người nghệ sĩ phải gắn liền với tưởng tượng và xúc cảm. Các nhà nghiên cứu cho rằng, tưởng tượng là
cấu trúc hạt nhân cùng với xúc cảm tạo nên năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.
Theo Chu Quang Tiềm, tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật là “căn cứ vào những ý tưởng có
sẵn làm tài liệu, rồi cắt xén, gạt bỏ, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một hình tượng mới” . Như vậy, ông
quan niệm “chỉ có tưởng tượng sáng tạo mới sản sinh ra nghệ thuật”, tưởng tượng không thể tách rời
khỏi các biểu tượng, mà biểu tượng là do kinh nghiệm thu thập được. Ông chia tưởng tượng ra làm 2
loại:
Tưởng tượng tái tạo: Là quá trình người nghệ sĩ phục hồi, tái diễn lại những kinh nghiệm cũ
trong ký ức mình để tạo nên chất liệu, chuẩn bị cho việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên,
đây chưa phải là quá trình sáng tạo mà chỉ là quá trình tích lũy, là sự chọn lựa trong thế giới hiện thực
những sự kiện, những con người, những vấn đề phù hợp với xúc cảm, phù hợp với ý đồ sáng tạo của
người nghệ sĩi.
Tưởng tượng sáng tạo: Theo Chu Quang Tiềm đây mới thực chất là quá trình sáng tạo nghệ
thuật. Trong giai đoạn này, người nghệ sĩ sẽ tập hợp những yếu tố, những hồi ức, những tài liệu đã được
lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập chúng theo cơ cấu, cấu trúc mới nhất định để tạo nên hình tượng
nghệ thuật. Sự tổng hợp này có thể được phát triển theo chiều hướng đính kết các đặc điểm, các chi tiết
của những đối tượng khác nhau hoặc theo hướng nhân cách hoá, điển hình hoá, khái quát hoá, nhấn
mạnh từng chi tiết trong bản thân sự vật, hiện tượng để tạo nên những hình tượng nghệ thuật mới. Hình
tượng nghệ thuật này càng chứa đựng yếu tố mới lạ bao nhiêu thì khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ
càng được đánh giá cao bấy nhiêu.
M.A.Nau Drop thì chia tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sĩ thành 3 mức độ khác nhau:
Tưởng tượng hoang đường: Là giai đoạn thấp nhất trong hoạt động tưởng tượng của người nghệ
sĩ. Ở mức độ này, khi tưởng tượng người nghệ sĩ thường thiên về những điều kỳ diệu, khác thường. Ông
cho rằng, trong giai đoạn này, người nghệ sĩ đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, ngây thơ, chỉ dựa vào những
mâu thuẫn mang tính chất bất thường, kỳ lạ giữa thế giới hiện thực với cuộc sống tưởng tượng bay bổng
của người nghệ sĩ. Để được thoả mãn các lý tưởng đạo đức mà họ khát vọng vươn tới nhưng không đạt
được trong thế giới hiện thực nên phải gửi gắm vào những hình tượng nghệ thuật hoang đường. Đây
cũng cũng chính là sự biểu hiện những ước mơ thầm kín về hạnh phúc và lòng khát khao tự do.
Mức độ nhân cách hóa: Là giai đoạn người nghệ sĩ chuyển các đặc điểm về tinh thần và tâm
trạng, chuyển tất cả những khát vọng hoang đường mà họ đã thực hiện ở giai đoạn trước vào hiện thực,
vào các vật thể vật chất. Đây là hành động của một sự liên tưởng không lường trước và nhiều lúc bản
thân người nghệ sĩ cũng không ý thức được do các mối liên tưởng nào tạo nên. Và khả năng chuyển từ
tưởng tượng sang tưởng tượng trong tác phẩm nghệ thuật thì chỉ có ở người nghệ sĩ mà thôi.
Mức độ nhập thân: Tiền đề của sự nhập thân được tạo nên bởi các biểu tượng rõ ràng về những
con người, những hoàn cảnh xuất thân... Đây chính là quá trình người nghệ sĩ tưởng tượng ra toàn bộ
cuộc sống thực tại trong thế giới ảo về các hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo nên. Khi nhập thân, người
nghệ sĩ sẽ đặt mình vào chính đời sống của nhân vật, họ suy nghĩ, biểu cảm như nhân vật trong từng điều
kiện, trường hợp cụ thể. Sự hoá thân càng cao, mức độ thành công của tác phẩm càng lớn. Điều kiện để
tạo nên trạng thái nhập thân của người nghệ sĩ không nhất thiết là những cái họ đã trải qua trong cuộc
sống mà đây thực chất là quá trình người nghệ sĩ tiếp nhận những tác động từ bên ngoài, dựa trên những
kinh nghiệm đã có, họ sẽ suy nghĩ một cách sâu sắc, đầy đủ về nhân vật, chú ý tới những đặc điểm ngoại
hình và nội tâm của nhân vật. Khi có đủ ba điều kiện này, trí tưởng tượng bắt đầu hoạt động và người
hoạ sĩ sẽ hóa thân vào nhân vật của mình để sáng tạo.
Như vậy tưởng tượng là cái khuấy động ban đầu của nghệ thuật, là mảnh đất đem lại vàng bạc,
châu báu cho các loại hình nghệ thuật. Người ta dùng tưởng tượng để sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật
và gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình trong đó. Tưởng tượng càng phong phú thì giá trị nghệ thuật
càng được đẩy lên cao.
Như vậy, cái đích cuối cùng trong tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sĩ là tạo ra các hình
tượng nghệ thuật. Đó chính là hệ thống các lớp cảm xúc tiêu biểu trong xã hội, là nơi lưu giữ các xúc
cảm thẩm mỹ và cũng là nơi truyền đạt những thông điệp thẩm mỹ. Chính nhờ có tưởng tượng và thông
qua tưởng tượng mà toàn bộ các hình tượng nghệ thuật tồn tại trong các tác phẩm đã đạt đến trình độ
của sự tưởng tượng khái quát, tạo nên cái riêng, cái độc đáo của từng nhân cách sáng tạo và mang tính
khác lạ so với thế giới hiện thực.
3. Cảm xúc:
Cảm xúc là một cấu tạo tâm lý xuất hiện thường xuyên trong cuộc sống của người nghệ sĩ. Có
thể nói rằng, khi tiếp nhận thế giới hiện thực, song song với quá trình nhận thức (tri giác) thì cảm xúc
của người nghệ sĩ cũng được trải nghiệm. Chính vì có sự trải nghiệm này mà người nghệ sĩ luôn luôn có
sự đam mê, có những khát vọng cháy bỏng tạo nên động lực bên trong, thôi thúc họ thể hiện vào trong
tác phẩm của mình.
Trong các điều kiện ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của người nghệ sĩ, cảm xúc được đánh giá
là yếu tố cốt lõi, là nhân tố trung tâm quan trọng hơn cả tri giác. Theo Ri Bớt, nhà Tâm lý học người
Pháp: Cảm xúc của người nghệ sĩ luôn luôn tuôn trào khi họ đứng trước một sự vật, một con người, một
sự kiện tồn tại trong thế giới hiện thực và có liên quan ít nhiều đến họ. Tư chất đầu tiên và cơ bản đòi
hỏi phải có ở người sáng tác là một tâm hồn giàu xúc động, đã là người ai cũng có những yêu, ghét, hờn
giận, vui buồn… nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt, dễ xúc động, dễ nhạy cảm. Như thế
muốn có nghệ thuật trước hết người sáng tác phải có tình cảm nồng nàn, cảm xúc mãnh liệt. Puskin cũng
cho rằng: Ý chí, lý tính sẽ bất lực nếu người nghệ sĩ thiếu cảm xúc ngập tràn tâm hồn.
Cảm xúc của người nghệ sĩ được thể hiện trong một cấu trúc đối nghịch. Chính cấu trúc đối
nghịch này đã tạo nên tính hai mặt trong quá trình tiếp nhận thế giới hiện thực. Ở họ, khi nhìn nhận đánh
giá các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan bao giờ cũng được phân định rõ ràng bởi các
cặp phạm trù đối nghịch: Yêu – ghét, căm thù, kính trọng – khinh bỉ... Những cặp phạm trù này trong
xúc cảm đã tạo ra cấu trúc đối nghịch của hình tượng nghệ thuật như:
- Đối nghịch giữa nội dung và hình thức biểu hiện của hình tượng.
- Đối nghịch giữa chất liệu sáng tạo và sản phẩm sáng tạo.
- Đối nghịch giữa những nội dung phản ánh trong chính bản thân hình tượng.
Cảm xúc sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ là cảm xúc được hòa nhập với óc tưởng tượng
sáng tạo, trong cảm xúc có tưởng tượng, trong tưởng tượng có cảm xúc. Chính vì vậy, Cảm xúc trong
hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng vượt lên những xúc cảm của đời thường, sự mãnh liệt hay u uất của
nó cũng được bộc lộ ở các cung bậc cảm xúc khác với cung bậc của người thường.
Như vậy, để nghệ thuật có thể lay động được lòng người thì người nghệ sĩ nhất thiết phải tìm
được điểm tiếp xúc, điểm trùng hợp, điểm kết hợp giữa cảm xúc tự tôi và cảm xúc nhân loại, làm cho
hai loại cảm xúc này được dung hòa thành một thể thống nhất. Không có cảm xúc nghệ thuật cũng đồng
nghĩa không có sự sáng tạo nghệ thuật. Ở người nghệ sĩ, cảm xúc góp phần làm nên sự khác nhau giữa
tài năng này với tài năng khác, cho dù họ có giống nhau về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật.. Có thể
nói, cảm xúc có vai trò to lớn trong mọi hoạt động nghệ thuật. Trong hoạt động sáng tạo thì cảm xúc
chính là động lực mạnh mẽ thôi thúc người nghệ sĩ sáng tạo. Cảm xúc có trong mọi giai đoạn của quá
trình sáng tạo nghệ thuật.
Tóm lại, tri giác, tưởng tượng và cảm xúc luôn phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc tổ chức các
khâu cơ bản của quá trình sáng tạo nhằm xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật. Như quan điểm của
nhà văn Pháp Guy de Moupassant cho rằng: ‘“ Cảm xúc do nhận thức (tri giác) tạo nên thông qua tưởng
tượng, muốn tưởng tượng đúng đòi hỏi người nghệ sĩ phải có vốn sống. Muốn vậy, phải tiếp cận thường
xuyên và trực tiếp với cuộc sống của con người”.
Câu 2: Các anh/chị thấy các yếu tố đó ảnh hưởng như thế nào đến sản phẩm mà các anh
chị đã sáng tạo?
Ba yếu tố “tri giác, tưởng tượng và cảm xúc” có ảnh hưởng rất lớn trong quá trình sáng tạo
nghệ thuật của người nghệ sĩ nói chung và người đam mê hội họa nói riêng.
1. Tri giác: Các quy luật của tri giác thường tác động vào tâm lí người vẽ tranh:
f. Ảo giác
Ảo giác là tri giác không đúng, bị sai lệch.
Những hiện tượng này tuy không nhiều, xong nó có
tính quy luật.
Trên thực tế, ảo giác đã được các nghệ sỹ vận
dụng rất sáng tạo và đã đem lại nhiều hiệu ứng cảm
nhận thị giác thú vị, sâu sắc và thẩm mỹ ấn tượng trong
những tác phẩm thuộc các lĩnh vực của nghệ thuật thị
giác. Bài chuyên ngành thiết kế module của Mạnh
2. Tưởng tượng: Việc xây dựng hình ảnh trong não bộ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng
tạo nghệ thuật.
3. Cảm xúc
Trong nghệ thuật tạo hình, mỗi tác phẩm đều hàm chứa những yếu tố tinh thần, thể hiện sự cảm
nhận và suy ngẫm của người nghệ sĩ. Có thể nói, sự cảm nhận và sáng tạo có mối quan hệ mật thiết với
nhau, đó là một quá trình liên tục: đầu tiên là những kích thích, cảm xúc được tiếp nhận nhờ thị giác;
qua thời gian, những cảm xúc này được tích lũy, bổ sung nhằm nâng cao năng lực tư duy sáng tạo cho
người nghệ sĩ, giúp chúng ta tìm ra ngôn ngữ phù hợp sáng tạo tác phẩm để thể hiện hiệu quả nhất ý
tưởng của mình.
Cảm xúc ảnh hưởng rất nhiều đến cách tạo dựng tác phẩm. Nhiều sản phẩm nghệ thuật có thể
phản ánh chính xác tâm tư, tình cảm của tác giả.
Như vậy, sự cảm nhận trong nghệ thuật tạo hình chính là sự nhạy bén, tinh tế, sắc sảo của thị
giác về hiện thực khách quan, hay chính là trí nhớ về hình thể, màu sắc ở sai số nhỏ nhất giúp phán đoán
chính xác. Từ cảm nhận ban đầu, bằng tài năng của mình, người họa sĩ đã tạo nên tác phẩm mang nội
dung không chỉ ở kết cấu vật thể mà còn ở chính hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển tải.
Kết luận: Cả 3 yếu tố “tri giác, tưởng tượng, cảm xúc” có ảnh hưởng sâu sắc đến những người
làm nghệ thuật nói chung cũng như sinh viên trường Mỹ thuật Công nghiệp nói riêng. Tìm hiểu kĩ về
các yếu tố này giúp chúng ta hiểu biết hơn về tâm lí học nghệ thuật và từ đó hoàn thiện tư duy và kĩ năng
của mình trong con đường sáng tạo nghệ thuật hơn.