nhiều tâm sự cũng như những cảm xúc sâu lắng (Sự cô đơn lẻ loi). -Âm thanh “văng vẳng” thể hiện được sự yên ắng của cảnh vật thiên nhiên. Không gian rộng lớn, yên ắng, không 1 hoạt động sinh hoạt nào => nghe rõ được từng tiếng trống canh => nhấn mạnh thêm sự lẻ loi, cô đơn của người phụ nữ. “Dồn” => tấn công vào tâm trạng chủ thể trữ tình, càng làm cho chủ thể trữ tình cảm nhận rõ thêm về sự cô đơn và buồn tủi. -“Trơ cái hồng nhan”: sự tự nhận thức được thân phận của mình, thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, không định đoạt được số phận bản thân, không ai đồng cảm và hiểu được nổi lòng của mình. Sự bất lực trước cuộc đời khi không thể thay đổi được định kiến xã hội. -“Chén rượu”: sự giải trốn tránh thực tại, tìm đến những thứ mơ ảo để quên đi sự cô đơn, buồn tủi. Nhưng không có tác dụng giải quyết được vấn đề, đến khi tỉnh lại vẫn phải đối diện với nó. “Lại”: sự lặp lại nhiều lần việc trốn tránh thực tại, 1 sự vô ích nhưng không còn cách nào khác tốt hơn thay thế => sự tuyệt vọng, không có lối thoát được nổi buồn trong lòng. -“Vầng trăng”: hình ảnh thơ phổ biến => ẩn dụ cho khát khao tình yêu của người phụ nữ => chưa được trọn vẹn. -“Xiên ngang”, “Đâm toạc”: sự vẫy vùng của chủ thể trữ tình, sự chống lại số phận. 1 sự mạnh mẽ muốn vượt qua được bão lòng. -“Xuân”: tuổi xuân của người con gái. “Mảnh tình”: sự ít ỏi của tình cảm, tình cảm vốn là thứ không thể đếm, nhưng ở đây lại là “mảnh” => sự thiếu thốn tình cảm => khao khát có được hạnh phúc. “Con con”: nhấn mạnh sự thiếu thốn tình cảm. Đối với nền văn học Việt Nam trong khoảng cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, ta có thể thấy được không ít các tác phẩm tiêu biểu nói về chủ nghĩa nhân đạo, đòi quyền sống, đấu tranh giải phóng con người… Và trong số các tác phẩm đó, Tự Tình của Hồ Xuân Hương lại là tác phẩm tiêu biểu đòi hạnh phúc cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Là 1 chủ đề táo bạo đối với tác giả và tác phẩm trong thời đại ấy, thể hiện lên bức tranh tâm trạng của người phụ nữ nói chung và Hồ Xuân Hương nói riêng. Từ các tài liệu, Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ vô cùng cá tính trong thời đại ấy. Bà có không ít các tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán, cùng với đó là trên dưới 40 bài thơ Nôm. Đồng thời, Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ tiêu biểu viết về phụ nữ, là tiếng nói thương cảm của người phụ nữ xã hội xưa. Tự Tình thuộc thể thơ thất ngôn bát cú, mang đậm chất thái độ của Hồ Xuân Hương về khát vọng hạnh phúc cũng như sự phẫn uất trước số phận lúc bấy giờ. Đòi quyền hạnh phúc cho cá nhân bà cũng như đối với người phụ nữ trong chế độ cũ. Bài thơ mở ra với 2 câu đề, trong số chúng đã cho chúng ta thấy được bức tranh thời gian khi vào đêm khuya với âm thanh văng vẳng của tiếng trống canh: “…” Như những tác phẩm khác:“Chinh phụ ngâm khúc”, ta sẽ thấy được bài thơ xuất hiện trong thời điểm vào đêm, là lúc 1 ngày dài sắp sửa kết thúc. Cũng là lúc tâm trạng con người có nhiều sự thay đổi, nhiều tâm trạng và suy tư hơn bao giờ. HXH đã khéo léo cho chúng ta thấy được nổi buồn man mác của chủ thể trữ tình trong bài thơ. Đó là 1 nổi buồn, 1 nổi cô đơn giữa sự tăm tối của trời khuya. Không những vậy, với âm thanh “văng vẳng trống canh”, ta còn thấy được sự yên tĩnh khi vào đêm, nó khiến cho không gian tăm tối trở nên rộng lớn, u sầu hơn. Như phóng đại thêm nổi buồn trong lòng tác giả, nó khiến chúng ta phải trầm lắng cùng Hồ Xuân Hương. Tiếng trống canh không chỉ văng vẳng mà nó còn dồn dập, phải chăng đó là do tâm trạng của HXH mà tiếng trống như đánh nhanh hơn? Sự cảm nhận ấy của HXH như muốn cho ta thấy được sự rối bời trong tâm trạng của tác giả. Đó là nổi buồn trước sự cô đơn lẻ loi. Không những thế, ta thấy được nhận thức về thân phận của tác giả qua câu thơ: “…” HXH biết được số phận trớ trêu của bản thân trong xã hội cũ. Điều đó cũng như nói lên số phận của người phụ nữ nói chung và của HXH nói riêng, họ đẹp, họ giỏi nhưng vẫn không thể tự định đoạt được duyên phận của mình. Họ chỉ biết bất lực giao hết mọi thứ cho mọi thứ xung quanh. Cùng với đó là phép đảo ngữ, ta sẽ thấy được sự đau đớn của HXH trước số phận hẫm hiu. Sự bất lực ấy là sự bất lực của cá nhân nhỏ bé đứng trước xã hội to lớn, có muốn phản kháng cũng không được. Đó là bức tranh về 1 người phụ nữ có số phận oái ăm. Với 2 câu thực, ta sẽ cảm nhận được rõ hơn tâm trạng của tác giả: “…” Chi tiết “chén rượu hương” thể hiện lên sự trốn tránh thực tại tàn nhẫn của HXH. Khi con người rơi vào bế tắc, họ sẽ tìm đến những thứ mơ ảo để có thể quên đi thực tại, quên đi những nổi buồn của hiện thực. Thế nhưng nó chỉ là giải pháp tạm thời, bởi hết say thì con người ta vẫn sẽ phải đối mặt tiếp với thực tại, không thể trốn tránh được. HXH có lẽ biết là vậy nhưng bà vẫn chọn cách “say lại tỉnh”, việc tìm đến hơi men đã không còn là 1 điều gì đó quá xa lạ đối với tác giả. Đó là sự tuyệt vọng của của chủ thể trữ tình, cô đơn, buồn tủi nhưng chẳng thể làm gì được, chỉ biết làm bạn với hơi men để quên đi hiện tại. Không những vậy, việc sử dụng hình ảnh thơ khá phổ biến “vầng trăng khuyết” như ẩn dụ về thân phận của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Khát khao hạnh phúc nhưng thực tại lại phũ phàng, giễu cợt với họ. Với 2 câu luận, ta thấy được sự phản kháng của HXH: “…” Từ cách sử dụng phép đảo ngữ, ta sẽ thấy được sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của HXH cả trong thơ văn cũng như trong cuộc sống. Trong thơ văn, HXH phá cách không ít lần để tạo nên các tác phẩm mang đậm chất HXH, 1 biểu tượng của riêng bà. Còn đối với cuộc sống, HXH dù không thể thay đổi được nhiều nhưng bà vẫn chống lại xã hội, vẫn khao khát và đòi quyền hạnh phúc của bản thân. Cùng với cách sử dụng các động từ mạnh “…” trong miêu tả sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, ta sẽ thấy trong đó cũng có 1 sự mạnh mẽ của HXH trước cuộc sống khắc nghiệt. HXH dám đứng lên chống lại, dám phản khảng lại xã hội để đòi quyền hạnh phúc cho bản thân bà cũng như của người phụ nữ, đó là 1 điều hết sức táo bạo có tư tưởng vượt thời đại. Bài thơ kết thúc bằng 2 câu: “…” Tác giả sử dụng từ “xuân” không chỉ để chỉ vòng tuần hoàn của thời gian mà còn là tuổi của người con gái, tuổi của chính tác giả, cùng với đó là “lại lại” cho thấy sự lặp đi lặp lại của vòng tuần hoài, lần nào cũng như nhau, cũng thiếu hụt tình cảm. Sự thiếu hụt ấy khiến tác giả “ngán”, HXH không muốn lúc nào cũng phải như vậy, không muốn lúc nào người phụ nữ cũng là người phải chịu đựng sự thiếu thốn tình cảm ấy. Bà khao khát có 1 tình cảm trọn vẹn. Tình cảm theo thường lệ sẽ không thể đếm được, nhưng ở đây HXH sử dụng “mảnh”, như muốn nhấn mạnh thêm về sự ít ỏi trong tình cảm, nó không chỉ dừng lại ở đó, mà nó còn “san sẻ tí con con”. Đã ít lại còn ít hơn! Càng cho ta thấy được bi kịch cô đơn của chủ thể trữ tình. Với phép nghệ thuật tăng tiến giảm dần đó, HXH đã không chỉ thể hiện được khát vọng về tình cảm của bản thân, mà còn như 1 lời than vãn trước số phận oái ăm. Tóm lại, qua “Tự Tình”, ta không chỉ thấy được 1 bức tranh tâm trạng buồn tủi của HXH nói riêng mà còn là của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung, họ cô đơn và luôn khao khát về 1 tình yêu trọn vẹn. Đồng thời, ta cũng thấy được nét cá tính của HXH khi dám phản kháng lại xã hội, tuy không thay đổi được gì, nhưng đó cũng là 1 sự táo bạo ở thời điểm bấy giờ. Việc bà làm mang tư tưởng vượt thời đại, dám đòi quyền hạnh phúc, dám đấu tranh cho bản thân và cho người phụ nữ. Không chỉ có tư tưởng hiện đại mà qua “Tự Tình”, ta cảm nhận được ở HXH là 1 nhà thơ có cách dùng từ sáng tạo, và khả năng Việt hóa thơ Đường, tạo ra 1 nét cá tính đặc biệt.