You are on page 1of 22

PHIẾU ÔN TẬP VỀ TÁC GIẢ HỒ XUÂN HƯƠNG

1. Tác giả Hồ Xuân Hương


a. Con người

Hồ Xuân Hương sống vào khoảng nửa cuối thế kỹ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX;
Bà là con gái của ông Hồ Phi Diễn (1704 – 1786) quê ở Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lưu, Nghệ An; thân mẫu là bà Hà Thị (? – 1814) người trấn Hải Dương. Năm
mười ba tuổi, sau khi thân phụ mất thì Hồ Xuân Hương theo mẹ về làng Thọ
Xương đi học rồi ở nhà. Bà có một tuổi thơ êm đềm ở dinh thự Cổ Nguyệt đường
ven Hồ Tây, khi ấy là nơi xa hoa bậc nhất Đàng Ngoài.

b. Cuộc đời

Cuộc đời riêng của Bà rất long đong, hai lần lấy chồng đề phải làm lẽ và hai lần
chồng đều chết. Song vượt lên số phận, bà luôn đấu tranh chống chế độ đa thê,
chống nạn coi thường phụ nữ. Cho nên thơ bà giàu chất chiến đấu và rất hấp dẫn.

c. Sự nghiệp
- Tác phẩm chính: Tập Lưu Hương kí gồm 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm
và khoảng 150 bài thơ Nôm truyền tụng. Thơ bà là tiếng nói tình yêu đôi lứa
với các cung bậc u buồn, thương nhớ, ước nguyện, gắn bó thủy chung.
- Phong cách nghệ thuật

+ Hồ Xuân Hương sử dụng tài tình và sáng tạo chữ Nôm và thể thơ Nôm Đường
luật.

+ Vận dụng tài tình ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào các loại từ tiếng Việt, đem lại
nét độc đáo và tạo giá trị thẩm mỹ cho thơ bà.

+ Trào phúng và trữ tình là hai đặc điểm nổi bật trong thơ HXH.

+ Kết cấu thơ bà luôn “vẫy gọi”, luôn mở để người đọc có thể suy luận nhiều
chiều.

Thơ Hồ Xuân Hương được đánh giá cao với nét thanh thanh tục tục đặc
sắc, những tác phẩm của bà đã đóng góp rất nhiều trong việc Việt hóa thể thơ
Đường luật và sử dụng rất tài tình các loại từ tiếng Việt, đặc biệt là các từ láy,
từ tượng hình… cũng như là thể hiện những tư tưởng tiến bộ vượt khỏi
khuôn khổ thời đại bấy giờ.

2. Nội dung thơ Hồ Xuân Hương


a. Mang cái tôi rất riêng, rất độc đáo
- Cái tôi luôn khẳng điịnh chính mình
- Cái tôi luôn phản kháng
b. Đấu tranh chống chế độ đa thê, cảm thông với người phụ nữ
- Mang tinh thần đấu tranh đòi cuộc sống hạnh phúc cho phụ nữ, phản đối chế độ
đa thê, phê phán những thói hư tất xấu của một bộ phận nam giới
- Những nhân vật trong thơ bà hoặc chính là bà hoặc là người phụ nữ bất hạnh
trong xã hội phong kiến.
c. Đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ
- Ca ngợi những người phụ nữ
- Giữ niềm tin vào ngày mai
d. Ca ngợi vẻ đẹp và khát vọng của người phụ nữ
- Vẻ đẹp hình thể
- Vẻ đẹp nội tâm
- Khát vọng tự do hạnh phúc
3. Đề văn về một số tác phẩm tiêu biểu
a. Một số tác phẩm tiêu biểu
Tự tình I
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!

Tự tình II
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!

Tự tình III
Chiếc bánh buồn vì phận nổi lênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Mời ăn trầu (Mời trầu)


Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi*,
Này của Xuân Hương mới quệt** rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

*Trầu hôi: lá trầu không có vị cay hang


**quệt: vừa mới quệt vôi, trầu mới têm còn tươi ngon

b. Đề mẫu + Dàn ý
Phân tích bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương

Dàn ý

Mở bài phân tích “Tự tình”:

 Trình bày những nét tiêu biểu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Nữ sĩ được mệnh
danh: “Bà chúa thơ Nôm” với rất nhiều những bài thơ thể hiện sự trân trọng vẻ
đẹp và niềm cảm thông, thương xót cho số phận những người phụ nữ.
 Giới thiệu đối tượng cần phân tích – bài thơ Tự tình II: Đây là một trong số 3
bài thơ trong chùm thơ Tự tình thể hiện nỗi niềm buồn tủi trước cảnh ngộ lỡ
làng.
Thân bài phân tích “Tự tình”:

* Phân tích hai câu đề “Tự tình”: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường

-Câu 1: Thể hiện qua việc tái hiện bối cảnh:

 Thời gian: Đêm khuya, trống canh dồn – nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống
thể hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã ⇒ Con người chất chứa nỗi niềm, bất
an

 Không gian: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng tĩnh
vắng

 Con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn

-Câu 2: Diễn tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng từ ngữ gây ấn tượng
mạnh:

 Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn, đồng thời thể
hiện bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.

 Cái hồng nhan: Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng

 Hai vế đối lập: “cái hồng nhan” đối với “với nước non”

 Bi kịch người phụ nữ trong xã hội


* Phân tích hai câu thực “Tự tình”: Diễn tả rõ nét hơn tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm
buồn tủi

-Câu 3: Hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa

 Chén rượu hương đưa: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu

 Say lại tỉnh: vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như
cuộc tình vương vít cũng nhanh tàn, để lại sự rã rời

 Vòng luẩn quẩn ấy gợi cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận

-Câu 4: Nỗi chán chường, đau đớn ê chề, hình tượng thơ chứa hai lần bi kịch:

 Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn, tuổi xuân đã trôi qua

 Khuyết chưa tròn: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên
mãn, tròn đầy ⇒ sự muộn màng dở dang của con người

 Nghệ thuật đối tô đậm thêm nỗi sầu đơn lẻ của người muộn màng lỡ dở

 Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.

* Phân tích hai câu luận “Tự tình”: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân
Hương

-Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của người mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính:

 Rêu: sự vật yếu ớt, hèn mọn mà cũng không chịu mềm yếu

 Đá: im lìm nhưng nay phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân
mây”

 Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng
bỉnh, ngang ngạnh

 Nghệ thuật đối, đảo ngữ thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt

 Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng

 Sự phản kháng của thiên nhiên hay cũng chính là sự phản kháng của con người

* Phân tích hai câu kết “Tự tình”: Quay trở lại với tâm trạng chán trường, buồn tủi

-Câu 7:
 Ngán: chán ngán, ngán ngẩm

 Xuân đi xuân lại lại: Từ “xuân” mang hai ý nghĩa, vừa là mùa xuân, đồng thời
cũng là tuổi xuân

 Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người cứ qua
đi mà không bao giờ trở lại ⇒ chua chát, chán ngán.

-Câu 8:

 Mảnh tình: Tình yêu không trọn vẹn

 Mảnh tình san sẻ: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn
đã không được trọn vẹn nhưng ở đây còn phải san sẻ

 Tí con con: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này
cạnh nhau càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn

 Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở
thành tí con con

 Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu
thân phận làm lẽ

* Phân tích giá trị nghệ thuật trong “Tự tình”:

 Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả:

 Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa

 Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6

 Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.

Kết bài phân tích “Tự tình”:

 Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

 Thông qua bài thơ thể hiện giá trị hiện thực và bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu
sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”

Dàn ý phân tích bài thơ “Mới trầu”


Mở bài: Giới thiệu những hiểu biết của em về tác giả Hồ Xuân Hương, tác phẩm
“Mời trầu”

Thân bài:

- Lý giải nhan đề “mời trầu”

Mời trầu là một hình giao tiếp thường xuất hiện trong văn hóa của người Việt Nam.
Khi khách đến nhà, người chủ nhà sẽ thường mời trầu, mời nước sau đó mới bắt đầu
câu chuyện.

Mời trâu không chỉ là nét đẹp truyền thống dân gian mà còn là tục lễ trong các đám
rước dâu, cưới hỏi. Khi nhà trai tới hỏi chuyện nhà gái, bao giờ cũng có cơi trầu để
bày tỏ nỗi niềm và mong muốn kết mối lương duyên. Bởi thế, mời trầu là hình ảnh
tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi, là minh chứng cho sự nên duyên vợ chồng, là
niềm vui, là sự chung thủy.

Nếu là người thường, mời trầu sẽ chỉ là hình thức thủ tục cần phải có, nhưng trong
mắt Hồ Xuân Hương, mời trầu đã nói lên cả một số phận, cả một cuộc đời con người.

Câu khai: Hình ảnh quả cau miếng trầu

- hình dáng quả cau: nhỏ nhỏ xinh xinh, chứ không là quả cau to tròn mập.
Nho nhỏ ở đây còn ví như thân phận con người bé nhỏ trong cái xã hội phong
kiến đầy rầy bất công. Nho nhỏ như số phận của những người phụ nữ trong xã
hội trong nam khinh nữ ấy.
- hình ảnh miếng trầu không phải là miếng trầu thơm mà lại là “miếng trầu hôi”.
Phải chăng bà đang xót thương cho chính mình và những người phụ nữ, luôn bị
xã hội vùi dập và chà đạp.

Câu thừa: Khẳng định bản thân

Tên tác giả xuất hiện, có lẽ chưa ai như bà, biến mình thành nhân vật chính với lời
khẳng định chắc nịch và đầy khảng khái, quyết liệt

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Bà không hề dịu dàng, mà mạnh mẽ quả quyết khẳng định chủ quyền của mình với
miềng trầu vừa được mời kia. Bà đã quyệt vôi vào đấy rồi, bà đã có ý định ăn miếng
đó rồi nên nó là của Xuân Hương đấy. Một câu thơ nghe như là một lời tuyên bố thẳng
thừng. Đồng thời vừa cảnh cáo những kẻ le ve xung quanh đừng có mà nhăm nhe đồ
của Xuân Hương nữa. Theo nghĩa đen có thể hiểu nôm na là thế, nhưng ẩn sau đó là
tâm tình của “bà chúa thơ Nôm”. Không phải ai cũng dám khảng khái đưa tên mình
vào thơ ca như bà. Nhưng bà hiểu mình là ai. Bà hiểu mình đang làm gì và muốn gì.
Do đó, bà mới có thể không ngại ngần xướng tên lên như thế. Đồng thời qua đó, bà
cũng muốn nhắc nhở thế gian, Hồ Xuân Hương là người phụ nữa đã trải đời nhiều rồi.
Nên bà không e dè, cũng không sợ hãi để luồn cúi. Dù xã hội có thối nát đến đâu, thì
bà vẫn sẽ giữ mãi những nét riêng của bà, những điều thuộc về bà.

Câu chuyển: Câu nói giao duyên

“Có phải duyên nhau thì thắm lại,”

“có phải duyên nhau” mặc dù là nữ giới, nhưng tác giả đã chủ động để tìm kiếm tình
yêu. Xuân Hương không ngồi chờ đợi để cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, mà tự mình tìm
kiếm, quyết định hạnh phúc lứa đôi.

=>không sợ mang tiếng là con gái mà “cọc đi tìm trâu”. Thi sĩ chỉ biết rằng, nếu đã
phải duyên nhau thì nên thắm lại, đừng dùng dằng mà khiến hai bên đau khổ.

Câu hợp: Niềm mong mỏi về hạnh phúc lứa đôi

Màu xanh của lá, màu trắng của vôi vốn là màu đẹp của tự nhiên. Thế nhưng qua con
mắt của “bà chúa thơ Nôm” nó trở nên thật thâm thúy.

“Bạc” ở đây là bạc tình bạc nghĩa. => những người có duyên với nhau rồi thì hãy biết
trân trọng, hãy thắm thiết chứ đừng nhạt nhòa non nớt như màu xanh của lá, đừng phụ
bạc lẫn nhau để rồi mà đau khổ.

Nghệ thuật đặc sắc

Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đây là thể thơ có quy luật nghiêm khắc về luật, niêm và
vần (theo bằng trắc) và có bố cục rõ ràng. Ta có thể thấy điều này thể hiện rõ trong
cách gieo vần của bài Mời trầu.
Vần ở các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Cụ thể ở đây
là “hôi”, “rồi” “vôi”. Bốn câu trong bài Mời trầu được viết đúng theo thứ tự là các
câu: khai, thừa, chuyển, hợp.

Kết bài

Chuyện về “Bà chùa thơ Nôm” như chuyện truyền kỳ về những nữ nhi thời phong
kiến tuyệt sắc giai nhân nhưng lại có số phẩn long đong, lận đận.

Mời trầu của Hồ Xuân Hương, không chỉ khiến ta càng khâm phục thêm tài năng ứng
đối, chơi chữ của bà, mà còn thấm đượm tinh thần vì tình yêu, hạnh phúc tự do của bà.
Vốn là phận nữ nhi, lại trải qua bao cuộc bể dâu, nên bà luôn mang trong mình tình
cảm yêu thương và cảm thông sâu sắc với phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bà tiếc
mình không có đủ sức mạnh để lay chuyển thời thế, để nâng tầm vị thế của phái nữ
trong cái thế giới coi thường phái yêu ấy. Bả chỉ còn cách dùng con chữ để khẳng định
chính mình. Cỗ vũ cho cái đẹp, khuyến khích tình yêu đôi đứa tự nguyện và phê phán
những thói hư tật xấu ở đời. Nếu có thời gian và cơ hội, các bạn hãy tìm đọc những
bài thơ sắc sảo của bà. Chắc chắn, các bạn sẽ càng thêm yêu mến một tâm hồn “hồng
nhan mà bạch mệnh” ấy.

c. Bài phân tích mẫu

Mẫu 1: Phân tích bài thơ Tự tình II

Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài ba ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII — đầu thế kỉ
XIX. Ngoài tập “Lưu Hương kí” bà còn để lại khoảng 50 bài thơ Nôm, phần lớn là thơ
đa nghĩa, vừa có nghĩa thanh vừa có nghĩa tục. Một số bài thơ trữ tình đằm thắm, thiết
tha, buồn tủi… thể hiện sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khao
khát sống và hạnh phúc tình duyên. Chùm thơ “Tự tình” phản ánh tâm tư tình cảm của
Hồ Xuân Hương, của một người phụ nữ lỡ thì quá lứa, duyên phận hẩm hiu, … Bài
thơi này là bài thứ hai trong chùm thơ Tự tình” ba bài.

Thi sĩ Xuân Diêu trong bài “Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm” đã viết: “Bộ
ba bài thơ trữ tình này cùng với bài “Khóc vua Quang Trung” của công chúa Ngọc
Hân làmị một khóm riêng biệt, làm tiếng lòng chân thật của người đàn bà tự nói về
tình cảm bản thân của đời mình trong văn học cổ điển Việt Nam…” Ông lại nhận xét
thêm về đỉệ thơ, giọng thơ: “…trong bộ ba bài thơ tâm tình này, bên cạnh bài thơ vẩn
“ênh hẻ nênh và bài thơ vần “om” oán hận, thì bài thơ vần “on” này mong đợi, chon
von”.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,


Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bống xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.

Hai trong ba bài thơ, nữ sĩ đều nói về đêm khuya, canh khuya. “Tự tình I” bà ví
“Tiếng gà vãng vẳng gáy trên bom – Oán hận trông ra khắp mọi chòm”. Ở bài thơ này
cũng vậy, bà tỉnh dậy lúc canh khuya, hay thao thức suốt đêm khuya, tâm trạng ngổn
gang phiền muộn.

Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống từ một chòi canh xa đưa lại như thúc
giục thời gian trôi nhanh, tuổi đời người đàn bà trôi nhanh: “Canh khuya văng vẳng
trống canh dồn”. “Hồng nhan” là sắc mặt hồng, chỉ người phụ nữ. “Trơ” nghĩa là lì ra,
trơ ra, chai đi, mất hết cảm giác. “Nước non”: chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội.

Câu thơ: “Trơ cái hồng nhan với nước non” nói lên một tâm trạng: con người
đau buồn nhiều nỗi, nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời, tựa như
gỗ đá, mất hết cảm giác. Nỗi đau buồn đã đến cực độ. Từ “cái” gắn liền với chữ “hồng
nhan” làm cho giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận, cái
duyên số đã quá hẩm hiu rồi. Ta có cảm giác tiếng trống dồn canh khuya, thời gian
như cơn gió lướt qua cuộc đời, lướt qua số phận và thân xác nhà thơ.
Con người đang than thân trách phận ấy đã có một thời son trẻ tự hào: “Thân
em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh một “tấm lòng son” trọn vẹn, lại tài năng,
thế mà nay đang trải qua những đêm dài cay đắng. Qua đó, ta thấy cái xã hội phong
kiến buổi ấy chính là tác nhân đã làm xơ xác, khô héo phận hồng nhan.

Đằng sau hai câu đề là những tiếng thở dài ngao ngán. Cố vẫy vùng để thoát ra,
bươn ra khỏi cái nghịch cảnh nhưng đâu dễ! Tiếp theo là hai câu thực:

“Chén rượu hương đưa say lợi tỉnh,


Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.

Nghệ thuật đối rất thần tình: “Chén rượu” với “vầng trăng”, trên thì “hương
đưa”, dưới lại có “bóng xế”, đặc biệt ba chữ “say lại tỉnh” vời “khuyết chưa tròn”
đăng đối, hô ứng nhau làm nổi bật bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở, cô đơn.
Muốn mượn chén rượu để khuây khoả lòng mình, nhưng vừa nâng chén rượu lên môi
mùi hương phả vào mặt, đưa vào mũi.

Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi buồn, nhưng càng uống càng tỉnh.
“Say lại tỉnh” để rồi tỉnh lại say, cái vòng luẩn quẩn ấy về duyên phận của nhiều phụ
nữ đương thời, trong đó có Hồ Xuân Hương như một oan trái. Buồn tủi cho thân phận,
bao đêm dài thao thức đợi chờ, nhưng tuổi đời ngày một “bóng xể”.

Bao hi vọng đợi chờ. Đến bao giờ vầng trăng mới “tròn”? Đến bao giờ hạnh
phúc đến trong tám tay, được trọn vẹn, đầy đủ? Sự chờ mong gắn liển với nỗi niềm
khao khát. Càng cô đơn càng chờ mong, càng chờ mong càng đau buồn, đó là bi kịch
của những người đàn bà quá lứa lỡ thì, tình duyên ngang trái, trong đó có Hồ Xuân
Hương.

Hai câu trong phần luận, tác giả lấy cảnh để ngụ tình. Đây là hai câu thơ tả
cảnh “lạ lùng” được viết ra giữa đêm khuya trong một tâm trạng chán ngán, buồn tủi:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,


Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Ý thơ cấu trúc tương phản để làm nổi bật cái dữ dội, cái quyết liệt của sự phản
kháng. Từng đám rêu mềm yếu thế mà cũng “xiên ngang mặt đất” được! Chỉ có rải rác
“đá mấy hòn” mà cũng có thể “đâm toạc chân mây” thì thật kì lạ! Hai câu thơ, trước
hết cho ta thấy thiên nhiên tiềm ẩn một sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên
mạnh mẽ vô cùng.

Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ mang màu sắc, đường nét,
hình khối mà còn có gương mạt, có thái độ, có hành động, cũng “xiên ngang…”, cũng
“đâm toạc”… mọi trở ngại, thế lực. Xuân Hương vốn tự tin và yêu đời. Con người ấy
đang trải qua nhiều bi kịch vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội
nhưng thực tại vẫn chua xót.

Đêm đã về khuya, giữa cái thiên nhiên dào dạt, bốn bề mịt mùng bao la ấy,
người đàn bà hẩm hiu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà trong bài
“Tự tình”, nữ sĩ đã buồn tủi viết:

“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,


Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”.

Cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lòng một người đàn bà cô đơn. Khao
khát được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như mọi người đàn bà khác.
Nhưng “hồng nhan bạc mệnh”! Đêm càng về khuya, người đàn bà không thể nào chợp
mắt được, trằn trọc, buồn tủi, thân đơn chiếc, thiếu thốn yêu thương, xuân đi rồi xuân
trở về, mà tình yêu chỉ được “san sẻ tí con con”, phải cam chịu cảnh ngộ:

“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,


Mảnh tình san sẻ tí con con”.

Xuân đi qua, xuân trở lại, nhưng với người phụ nữ thì “mỗi năm mỗi tuổi như
đuổi xuân đi”… Chữ “ngán” nói lên nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì quá
lứa, đang trải qua sự mòn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, tan nát
thành nhiều “mảnh”, thế mà chua chát thay chỉ được “san sẻ tí con con”.
Câu thơ là tiếng than thân trách phận. Phải chăng đây là lần thứ hai Hồ Xuân
Hương chịu cảnh làm lẽ? Tinh đã vỡ ra thành “mảnh” lại còn bị “san sẻ”, đã “tí” lại
“con con”. Mỗi chữ như rưng rưng những giọt khóc. Câu thơ này, tâm trạng này được
nữ sĩ nói rõ thêm trọng bài “Lấy chồng chung”:

“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,


Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Môt tháng đôi lẩn có cũng không!”.

Tóm lại, “Tự tình” là lời tự than, tự thương xót, buồn tủi cho duyên số, duyên
phận hẩm hiu của mình. Càng thao thức cô đơn, càng buồn tủi. Càng buồn tủi, càng
khao khát được sống trong hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tại nặng nề, cay đắng
bủa vây, khiến cái hồng nhan phơi ra, “trơ” ra với nước non, với cuộc đời. Người đọc
vô cùng cảm thông với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và
người phụ nữ trong xã hội cũ. Giá trị nhân bản là nội dung sâu sắc nhất của chùm thơ
lự tình” của Hồ Xuân Hương.

Cách dùng từ rất đặc sắc, độc đáo thể hiện phong cách nghệ thuật Hồ Xuân
Hương: “trơ cái hồng nhan”, “say lại tỉnh”, “khuyết chưa tròn”, “xiên ngang”, “đâm
toạc”, “ngán nỗi”, “lại lại”, “tí con con”, … Chữ dùng sắc nhọn, cảnh ngụ tinh, diễn tả
mọi đau khổ bi kịch về duyên số. Qua bài thơ này, ta càng thấy rõ Hồ Xuân Hương đã
đưa ngôn ngữ dân gian, tiếng nói đời thường vào lời ca, bình dị hoá và Việt hoá thể
thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bà xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm” của nền thi ca
dân tộc.

Mẫu 2: Phân tích bài thơ Tự tinh I

Thật không thể sai một chút nào khi sĩ Xuân Diệu đã vinh danh nữ sĩ Hồ Xuân
Hương chính là "Bà chúa thơ Nôm”. Và trong những sáng tác “nhớ mặt đặt tên” của
nữ sĩ thì thật sự cũng có rất nhiều sáng tác như “Bánh trôi nước” và bộ trong ba bài
thơ “Tự tình” đặc sắc của Hồ Xuân Hương. Dường như bài thơ đầu tiên trong chùm
bài thơ “Tự tình” cũng như đã có được cho mình một dấu ấn riêng trong lòng độc giả.
Mở đầu với những câu thơ như:

"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom…

…Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!"

Dễ dàng có thể nhận thấy được cũng chính với hai câu đề gợi ra một không
gian bao la, đồng thời đây cũng như đã mở ra được một không gian như cũng thật là
mờ mịt. Dễ nhận thấy được rằng, cũng chính từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp
mọi chòm xóm, cho đến thôn làng. Ta dường như cũng có thể thấy được chính những
người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Thế rồi ta như cũng đã thấy được có
những tiếng gà gáy "văng vẳng" trên bom thuyền từ xa đưa tới. Thế rồi ta như thấy
được trong những đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà
gáy lại như cũng thật "văng vẳng" như thế. Hồ Xuân Hương thật tài tình khi cũng đã
sử dụng thành công những nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy). Ta dường như cũng sẽ
để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê dường như cũng đã góp phần
làm nổi bật tâm trạng "oán hận" chính cho thân phận của người phụ nữ cứ trằn trọc và
như thao thức suốt những canh trường. Người phụ nữ này dường như cũng đã ngồi
dậy, đồng thời cũng như lại lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh. Ta dường như cũng
đã thấy được rằng, thế rồi "trông ra" màn đêm mịt mùng. Có thể nhận thấy được chính
màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận biết bao nhiêu:

"Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông xa khắp mọi chèm ".

Đặc biệt, ta như thấy được chính trong hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo
ra hai hình ảnh "mõ thảm" và đó cũng có cả "chuông sầu" đối nhau. Người đọc dường
như cũng sẽ thấy được những sự hô ứng nhau, thế rồi ta dường như cũng đã thấy được
những nỗi cực tả nỗi đau khổ, và như cũng thật là sầu tủi của riêng mình đang sống
trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì. Thực sự người con gái này như cũng đã gặp những trắc
trở trong tình duyên. Ta như thấy được đó cũng như đã chất chứa biết bao nhiêu
những vần thơ đầy ám ảnh. Nữ sĩ như thật tài tình khi luôn luôn phủ định để khẳng
định đó chính là những tiếng "cốc" của "mõ thảm", tiếng "om" của "chuông sầu".
Nhân vật trữ tình như cũng đã thao thức biết bao đêm trường và luôn luôn buồn tủi
cho số phận của mình như cũng thật là cô đơn biết bao nhiêu. Thế rồi trong sự cô đơn
đó như được làm nổi bật lên đó chính là những tiếng “mõ thảm” kia chẳng ai khua cả
mà cũng cốc. Thực sự tất cả những điều này dường như cũng đã nói lên những hồi
chuông như cũng thật là xót xa biết bao nhiêu. Đặc biệt nó như cắt cứa, như cũng xoáy
sâu thêm vào lòng người như chính nỗi buồn tê tái đến ngao ngán.

"Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?"

Ai đã yêu mến thơ Hồ Xuân Hương thì cũng đã được đọc những những vần thơ
tươi xinh, phơi phới biết bao nhiêu khi thời con gái đó chính là "Thân em vừa trắng
lại vừa tròn" (Bánh trôi nước). Thế rồi có những câu thơ đầy hình ảnh đẹp, căng tràn
nhựa sống như "Hai hàng chân ngọc duỗi song song" (Đánh đu),… và chính những
điều này ta dường như cũng đã mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ
dường như cũng đã được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.

Thực sự ta như thấy được chính những lời than tự tình trong cô đơn được khơi
sâu trong phần luận, hay ở phần để mà "rầu rĩ" thêm, giận hờn thêm cho duyên phận
hẩm hiu biết bao nhiêu.

Những câu "Trước nghe" đối với "sau giận", "tiếng" cũng đã thật là khéo léo hô
ứng với "duyên". Thế rồi không chỉ dừng lại ở đó ta như thấy được chính sự "rầu rĩ" là
tâm trạng đối với "mõm mòm" là trạng thái. Và vẫn còn đó ta dường như cũng đã
nghe thấy được những câu như "Trước nghe nhưng tiếng..." dường như cũng đã là
những tiếng gì? - Tiếng của miệng thế gian? Hay cũng có thể tiếng gà văng vẳng gáy,
thế rồi ta như thấy được lại có những tiếng "chuông sầu", tiếng "mõ thảm" đang "cốc".
Tất cả dường như cũng đang "om" trong lòng mình? Thế rồi giờ đây ta như thấy được
chính giữa canh khuya thao thức, càng nghe càng thêm "rầu rĩ", buồn tủi. Đặc biệt hơn
ta như thấy được những lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng "giận", và đồng thời ta
như thấy được rằng khi chúng ta dường như lại càng cảm thấy được tâm trạng trữ tình
cứ càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Trong câu thơ như chất chứa những giọt lệ và ta
dường như cũng thấy được ở đó luôn luôn là một trái tim luôn luôn khao khát yêu.

Độc giả có thể thấy được rằng, chính với những kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ.
Điều này dường như cũng chính là một sự thách đố với số phận, với duyên số. Thế rồi
ta như thấy được nữ sĩ dường như vẫn cứ "bướng bỉnh" trước bi kịch cô đơn của mình
khi "duyên để mõm mòm" rồi bật ra những câu thơ như thật tếu táo và cũng đầy thách
thức:

"Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!"

Với những vần thơ như đầy sự nghi vấn đồng thời nó dường như cũng đầy sự
cảm thán biết bao nhiêu nghịch lý trong này. Thực sự thì nữ thi sĩ dường như cũng vẫn
còn như đang tin vào tài năng của chính bản thân mình và tin vào việc bà cũng có thể
làm xoay chuyển được duyên phận.

Quả thực ta như thấy được chính bài thơ "Tự tình" khi đã được gieo vần "om",
năm vần thơ của nữ sĩ người đọc cũng có thể thấy được rằng, chính những vần thơ nào
mà nữ sĩ viết ra dường như đều mang được những sự đầy hóc hiểm bằng chính những
bút pháp thật điêu luyện xong cũng chất chứa biết bao những nỗi niềm. “Tự tình”
chính là nỗi khao khát làm sao để có thể nói lên được những tiếng than thân trách
phận về những bi kịch của sự cô đơn nên đã nhận được sự đồng điệu của tất cả mọi
người đặc biệt là đối với người phụ nữ cùng hoàn cảnh. “Tự tình” như một bài thơ thủ
thỉ tâm tình về chính thân phận hẩm hiu của những người phụ nữ với nhau.

Mẫu 3: Phân tích bài thơ Tự tình III

Dàn bài:

Mở Bài: Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ “Tự tình” (bài III)
 “Bà Chúa Thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương là một nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ,
thơ của bà chính là tiếng nói thương cảm đối với số phận người phụ nữ, đồng
thời đó còn là sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
 Bài thơ “Tự tình” (bài III) nằm trong chùm thơ “Tự tình” của bà là một trong
những sáng tác mà ở đó ta cảm nhận tiếng nói lên “tiếng lòng” người phụ nữ.

Thân Bài

 Phân tích bốn câu thơ đầu để thấy được hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ.
 Phân tích hình tượng thiên nhiên trong câu thơ để thấy được tâm trạng và thái
độ của nhà thơ trước số phận.
 Phân tích tâm sự của nhà thơ trong bài.
 Nhắc đến mùa xuân là nhớ về tuổi xuân của mình, nữ thi sĩ ngán ngẩm
bởi mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến nhưng tuổi xuân mà qua thì là
hết hẳn.
 Lời thơ như lời tâm sự của nhà thơ về chính tình duyên và số phận của
mình, nỗi lòng của nhà thơ thể hiện sự khát khao có được hạnh phúc

Kết Bài: Khẳng định giá trị bài thơ: Bài thơ nói lên bi kịch duyên phận của nhà thơ,
đồng thời cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ.

Bài làm mẫu

Hồ Xuân Hương là một trong nữ thi văn nổi tiếng trong xã hội cũ. Bà được mệnh danh
là “Bà Chúa thơ Nôm”. Trong các bài thơ của bà đều nói lên tiếng nói cảm thương
người phụ nữ và khẳng định đề cao và ý thức đầy bản lĩnh. Theo đó, tác phẩm “Tự
Tình” của bà được coi là bài thơ bộ lộ những cảnh éo le, buồn tủi, cay đắng của người
phụ nữ. Đồng thời cũng nói lên khát vọng mong cầu hạnh phúc của người phụ nữ xã
hội xưa. Đặc biệt tác phẩm tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên “tiếng lòng” người phụ
nữ. Thân phận người phụ nữ đầy chua xót, tủi hổ, đau đớn

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh


Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Nếu bài tự tình thứ nhất mở đầu bằng âm tanh tiếng gà gáy văng vẳng, thì bài tự tình
thứ 3 lại là một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là hình ảnh của chiếc
thuyền với tâm trạng buồn về phận nổi lênh đênh.

Chiếc thuyền chính là người con gái giữa dòng đời. Một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh
giữa cuộc đời buồn thay cho cuộc đời của mình “giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”.
Nếu giữa dòng sông mênh mông ấy là hình ảnh chiếc bách nhỏ lênh đênh không biết
trôi về đâu, thì giữa dòng đời rộng lớn, hình ảnh người con gái góa trẻ cũng không biết
sẽ trôi về đâu.

Nỗi bi ai, đau khổ không chỉ ở trong 2 câu thơ đầu mà trong câu thơ sau, cũng diễn tả
nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ.

Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,


Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt. Vậy mà sóng gió vẫn cứ ập tới, đe dọa
liên tiếp vỗ vào mạn thuyền. Hai câu thơ này đều mang tâm trạng buồn rầu, ngao ngán
cho thân phận người phụ nữ. Cây muốn yên mà gió chẳng lặng. Cuộc sống người phụ
nữ xã hội xưa mấy khi được hạnh phúc. Hạnh phúc tưởng chừng trong tầm tay nhưng
cũng lại vỡ tan. Vậy là đang “như chim liền cành” bống nhiên đứt gánh giữa đường.

Nếu bốn câu đề là tâm trạng buồn tủi của người phụ nữ góa trẻ thì hai câu sau thể hiện
sự buông xuôi của người phụ nữ:

Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.


Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.

Trong ý thơ, tác giả mặc cho ai lăm le cầm lái để đưa thuyền vào đậu bến. Dù cho dog
lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi tác giả cũng không quan tâm.
Động từ “Mặc” ở đây thể hiện sự buông xuôi thực sự. Cuộc đời người góa phụ trẻ giờ
đây giống như chiếc thuyền trôi lênh đênh ngoài biển khơi, ai muốn lái muốn chèo
đều không còn là nỗi bận tâm nữa rồi.
Chỉ ai câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội xưa. Dù có khao khát
hạnh phúc thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh, vận mệnh. Không thể thay đổi
được sự thật phũ phàng của xã hội là biển khơi, đẩy đưa thuyền đi theo ghềnh thác
cũng đành phải theo mà không thể chống cự. Nối tiếp tâm trạng này là

Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,


Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Tác giả sử dụng rất nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, buồng xuôi như “cam lòng”
“ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi, còn ai nữa sẽ đếnvới mình đây? Mà nếu có ai đến thì cũng
cam lòng mà không thể chống cự được. Mặc dù người phụ nữ hiểu rằng, bước sang
một chiếc thuyền khác thì cuộc đời cũng vẫn “tấp tênh”, cũng không có gì khởi sắc.
Nhưng dẫu vậy cũng cam lòng vì tình thế không thể khác được.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã nhỏ bé, bị áp bức, bị xã hội hà khắc thì
thân phận người góa phụ trẻ còn thê lương hơn. Người góa phụ trẻ không có lựa chọn,
ai muốn đẩy thuyền trôi đâu thì đẩy. Chỉ biết cam lòng, ôm nỗi đau vào lòng. Thấu
hiểu nỗi đau đớn, oan ức, bất công của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã lấy thi ca để
nói lên tiếng lòng. Bà chính là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, đòi quyền
sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, hà khắc của xã hội.

Người phụ nữ xưa nhỏ bé, chịu bao áp bức vậy mà vẫn phải “tam tòng tứ đức”, giỏi
việc nhà, đảm đang, khéo léo. Trong khi đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường
tình. Đàn bà trẻ góa một lần coi như cuộc đời là cánh bèo trôi dạt, không có lựa chọn,
không có quyền lên tiếng, dù vào tay ai cũng cam lòng.

Không chỉ tự tình 3 mới nói lên nỗi bất công hà khắc của xã hội, bài thơ tự tình 1 và 2
của Hồ Xuân Hương cũng là tiếng lòng người phụ nữ. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng
lận đận đường tình duyên, cuộc đời phong bã bão táp. Tác giả cũng là người con gái
đẹp, có mư cầu hạnh phúc nhưng bị xã hội phong kiến đàn áp nên hạnh phúc khó kiếm
tìm. Nhiều lần đứt đoạn, nhiều lần suy sụp, chới với, nhưng Hồ Xuân Hương luôn có
cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, thấu hiểu và dám lên tiếng.
Với tài năng sử dụng ngôn ngữ cùng với các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc bài thơ Tự
tình III của Hồ Xuân Hương đã là tâm trạng buông xuôi, cam lòng của người góa phụ
trẻ. Nhưng kết thúc đó cũng là tiếng lòng khao khát muốn được hạnh phúc, muốn
vùng vẫy. Bài thơ lột tả chân thực xã hội phong kiến bất công, hà khắc với người phụ
nữ. Thân phận người góa phụ rẻ rúng, bèo dạt lênh đênh. Qua đây, chúng ta càng thấu
hiểu hơn và cảm thông hơn cho những người phụ nữ xã hội cũ. Và càng cảm phục ý
chí, tài năng, tâm hồn của “Bà chúa thơ Nôm – Hồ Xuân Hương”.

4. Một số nhận định đánh giá


- Thật là tinh quái, những câu hay đọc lên đến ghê người. Người ta thường có
câu: “Thi trung hữu họa”, nghĩa là “Trong thơ có vẻ”. Như thơ Xuân Hương thì
lại là “Thi trung hữu quỷ”, tức “Trong thơ có quỷ.” – nhà thơ Tản Đà
- Trong suốt tập thơ của nàng, không mấy bài là không có lả lơi, dầu tả cảnh gì,
vịnh vật gì cũng vậy. Mà tiếc thay nhời văn thật là chải chuốt, giọng văn thật là
êm đềm. – Giáo sư Lê Quảng Hàm
- Xuân Hương bị nỗi u hoài chua chát ám ảnh. Đó là khát vọng tiềm thức, là sự
hiện thân của Tội - Gốc. – Nhà văn Trương Tửu
- Thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường mà là một thứ thơ
muốn lặn sâu vào sự thật, vào những thứ đáy rất kín thẳm của tâm tư. Những
thứ kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân, chủ nghĩa mà trái lại đã
được hàng vạn người đồng tình cảm. – Nhà thơ Xuân Diệu
- Tác giả H. Lopes (CH Pháp) trong bài viết “Tựa tuyển tập Hỗ Xuân Hương”
nhận xét: Ở đây hiện ra với chũng ta là một người đàn bà nói thơ những điều
mà chưa một người đàn ông nào biết cách diễn đạt. Ta những muốn xứng đáng
là người tình của cô gái thủ thỉ bên tai rằng: “Thân em… vẫn giữ tấm lòng
son”.
- “Tứ thơ dồi dào những vẫn tỏ ra vui mà không buông tuồng, buồn mà không
đau thương; khốn khổ mà không bức bách. Thật là do tính tình nghiêm chỉnh
mà ra” – Nhà phê bình Tốn Phong.

5. Những lưu ý khi phân tích thơ đường luật:


- Đọc – hiểu, giải thích ý nghĩa nhan đề
“Tự tình”: từ bộc lộ tình cảm, cảm xúc của chính mình. Trong bài thơ “Tự
tình” Hồ Xuân Hương tự hé mở nỗi lòng đồng thời bộc lộ sự thương cảm đối
với số phậm hẩm hiu của người phụ nữ và đề cao khát vọng sống mãnh liệt của
họ.
- Bám sát bố của bài thơ
Thất Ngôn Bát Cú Đường luật gồm 4 phần:

+ Đề: mở ra, giới thiệu tựa đề

+ Thực: giải thích, triển khai tựa đề

+ Luận: bàn luận về ý nghĩa của bài thơ

+ Kết: Tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ

Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

+ Thất ngôn tứ tuyệt (七言四絶) là một thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7
chữ, trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối.

+ Bố cục 4 phần

 Câu Khai: mở ra ý bài thơ


 Cầu thừa: mở rộng, triển khai, cụ thể hóa ý mở ở câu khai
 Câu chuyển: chuyển ý, có vai trò quan trọng trong việc bộc lộ ý thơ
 Câu hợp: có quan hệ chặt chẽ với câu chuyển, cùng nhau tạo thành một
cặp thể hiện rõ ý câu chuyển và thâu tóm toàn bộ ý tứ bài thơ.

- Ngoài ra cần chú ý luật lệ trong thơ Đường luật:


+ Vần: Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống
nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường
luật chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu
này được gọi là "vần với nhau". 
+ Đối:
Ðối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động
từ đối động từ...
  Ðối ý: ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối
cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua Ðèo Ngang.
  Trong thể thơ này, 2 câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối
nhau.

+ Luật: Bằng (B) – Trắc (T)


Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, và
dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật.
Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu huyền; thanh
trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng.
+ Niêm (dán cho dính lại): Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp các
câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác
NIÊM là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ với nhau. Trong bài Ðường
Luật, hai câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau.
- Phân tích thơ theo mạch cảm xúc nhân vật trữ tình
- Bám sát vào câu chữ của văn bản để hiểu và cảm nhận nội dung, ý nghĩa,
thông điệp của văn bản (giải mã văn bản).

You might also like