You are on page 1of 30

VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH-LÊ HỮU TRÁC

Chúng ta không chỉ biết đến Lê Hữu Trác không chỉ là một nhà nghiên cứu y học nổi tiếng mà
chúng ta còn biết đến ông với tư cách là một vị quan triều đình giỏi binh thư võ lược và là một
nhà văn tài ba. Ông có biệt danh là Hải thượng lãn ông. Các tác phẩm của ông mang đậm màu
sắc của y học nhưng đồng thời nó cũng mang những giá trị văn học tiêu biểu. Thượng kinh kí sự
là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ
chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được
chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào phủ chúa Trịnh không chỉ miêu tả cuộc
sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức
độ này.
Tác phẩm viết theo thể kí sự. Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung
đại. Tác phẩm kí thường có cốt truyện là sự thực cuộc sống. Người viết kí trung thành với sự
thật, khai thác sự thật theo quan điểm cá nhân. Kí là thể văn xuôi tự sự có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa sự thực lịch sử và cảm xúc của người viết.Đoạn trích được viết bằng chữ Hán miêu
tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua
những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp là Lê Hữu Trác được chúa Trịnh sâm triệu về kinh đô
chữa bệnh cho chúa và thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của
tác giả.
Đoạn văn đầu tiên tác giả miêu tả lên một bức tranh quang cảnh bên ngoài phủ chúa Trịnh.
Quang cảnh ấy được tác giả đi miêu tả từ bao quát đến cụ thể từ ngoài vào trong. Tính chất kí
trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Và cứ thế hình
ảnh phủ chúa Trịnh hiện lên qua cái nhìn của tác giả thật sa hoa,tráng lệ. Nào là ngẩng đầu lên,
đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang
thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào
đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian. Rồi lại đến những dãy hành lang quanh co nối
nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân
thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác giả cũng nghĩ mình đang ở
trong mơ. Tác giả cứ ngẫm mình như một tên nhà quê nghèo nàn lạc hậu lạc vào một chốn bồng
lai tiên cảnh như thế này. Vốn không màng đến danh lợi nhưng tác giả vẫn không thể không thốt
lên lời khen cho vẻ đẹp nơi đây. Đến hậu hậu mã thì lại càng đẹp hơn nào là cột và bao lươn lượn
vàng, nào là nhà đại đường cũng vàng nốt, tất cả các cột đều vàng hết, nhìn vừa trang trọng cổ
kính lại vừa đẹp nên thơ. Vào nội cung cảnh càng xa hoa tráng lệ: trường gấm, màn là, xập vàng,
ghế rồng, hương hoa ngào ngạt...tất thảy những thứ ấy làm cho phủ chúa thêm lung linh huyền
ảo biết bao nhiêu. Tác giả ngẫu hứng làm nên mấy câu thơ về phủ chúa Trịnh:
"Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây...
... Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào."
Chính vì những sang giàu như thế mà nhân dân phải cực khổ biết bao nhiêu. Điều đã cho thấy
chúa Trịnh Sâm không hề mảy may đến cuộc sống của nhân dân chỉ biết bóc lột họ để xây nên
những thành quách cột vàng đẹp như thế này. Cây cối chim kêu, cột vàng... mọi thứ ấy không
biết là bao nhiêu mồ hôi nước mắt của nhân dân. Những cung cách trong cung cũng cho thấy phủ
chúa là nơi tôn kính vô cùng, những người lính ở đó mỗi người một việc, lời lẽ thì hết sức cung
kính. Thế tử chỉ là một đứa bé sáu tuổi nhưng muốn thế tử cởi áo để khám bệnh thì ngự y phải
lạy bốn cái mới được khám. Đến khi tác giả được mời cơm thì than ôi toàn những món của ngon
vật lạ.
Có thể thấy chúa trịnh là nơi rất nguy nga lộng lẫy nhưng tác giả cũng phê phán thói sống quá
giàu sang, quá đầy đủ tiện nghi mà thiếu đi sinh khí tự do. Chính đó là nguyên nhân gây ra bệnh
của thế tử.
Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ... nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã
làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh
đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng
chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi
quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi và
diệt vong. Ông hiểu rõ căn bệnh thế tử nhưng sợ chữa khỏi ngay sẽ bị giữ lại bên chúa, bị công
danh trói buộc, thế nhưng nếu chữa bệnh cầm chừng cho thái tử thì lại không đúng với lương tâm
của người thầy thuốc vì thế cho nên ông quyết định chữa bệnh cho thế tử. Mặc cho những ý kiến
khác của các ngự y ông vân quyết giữ vững lập trường của mình.
Đoạn trích đã vẽ nên bức tranh sinh động, đầy tính hiện thực về cuộc sống xa hoa, uy quyền của
chúa Trịnh qua đó bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của tác giả. Qua đó ta càng thấy lối sống xa
hoa của những bậc vua chúa ngày xưa và thêm kính trọng người thầy thuốc, nhà kí sự tài ba Hãi
Thượng Lãn Ông.
TỰ TÌNH II-HỒ XUÂN HƯƠNG
I. Mở bài
 Trình bày những nét tiêu biểu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Nữ sĩ được mệnh danh: “Bà chúa
thơ Nôm” với rất nhiều những bài thơ thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp và niềm cảm thông,
thương xót cho số phận những người phụ nữ.
 Giới thiệu bài thơ Tự tình II: Đây là một trong số 3 bài thơ trong chùm thơ Tự tình thể hiện
nỗi niềm buồn tủi trước cảnh ngộ lỡ làng.
II. Thân bài
1. Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường
• Câu 1: Thể hiện qua việc tái hiện bối cảnh:
 Thời gian: Đêm khuya, trống canh dồn – nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể hiện
bước đi thời gian gấp gáp, vội vã ⇒ Con người chất chứa nỗi niềm, bất an
 Không gian: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng tĩnh vắng
⇒ Con người trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn

• Câu 2: Diễn tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng từ ngữ gây ấn tượng mạnh:
 Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn, đồng thời thể hiện bản
lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.
 Cái hồng nhan: Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng
⇒ Hai vế đối lập: “cái hồng nhan” đối với “với nước non”

⇒ Bi kịch người phụ nữ trong xã hội

2. Hai câu thực: Diễn tả rõ nét hơn tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi
• Câu 3: Hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa
 Chén rượu hương đưa: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu
 Say lại tỉnh: vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình
vương vít cũng nhanh tàn, để lại sự rã rời
⇒ Vòng luẩn quẩn ấy gợi cảm nhận duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận

• Câu 4: Nỗi chán chường, đau đớn ê chề


- Hình tượng thơ chứa hai lần bi kịch:

 Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn ⇒ tuổi xuân đã trôi qua
 Khuyết chưa tròn: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn, tròn
đầy ⇒ sự muộn màng dở dang của con người
- Nghệ thuật đối → tô đậm thêm nỗi sầu đơn lẻ của người muộn màng lỡ dở

⇒ Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.
3. Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Xuân Hương
- Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của người mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính:

 Rêu: sự vật yếu ớt, hèn mọn mà cũng không chịu mềm yếu
 Đá: im lìm nhưng nay phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”
 Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng bỉnh, ngang
ngạnh
 Nghệ thuật đối, đảo ngữ ⇒ Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt
⇒ Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng

⇒ Sự phản kháng của thiên nhiên hay cũng chính là sự phản kháng của con người

4. Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán trường, buồn tủi
• Câu 7:
 Ngán: chán ngán, ngán ngẩm
 Xuân đi xuân lại lại: Từ “xuân” mang hai ý nghĩa, vừa là mùa xuân, đồng thời cũng là tuổi
xuân
⇒ Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người cứ qua đi mà không
bao giờ trở lại ⇒ chua chát, chán ngán.

• Câu 8:
 Mảnh tình: Tình yêu không trọn vẹn
 Mảnh tình san sẻ: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn đã không
được trọn vẹn nhưng ở đây còn phải san sẻ
 Tí con con: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau
càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn
⇒ Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành tí con con

⇒ Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân phận làm
lẽ

5. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả:

+ Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa

- Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6

- Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.


III. Kết bài
 Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
 Thông qua bài thơ thể hiện giá trị hiện thực và bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một
nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”
Bài viết
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong
văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong
những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ tinh thần nhân đạo
trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ
trong văn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.
Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi
qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu
thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy. Tiếng
trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi
chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.
Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng
không đến bằng một chữ trơ - trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với
đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa nghĩa là uống
rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn không quên được mối
sầu!
Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế,
thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi
người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.
Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông
xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái
đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng:
mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến. Hoá ra thân phận mình cô
đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà
có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn
trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ
khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn
vươn lên đâm toạc chân mây. Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà là hình ảnh của
tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn làm loạn, muốn được giải
thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân
Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng
dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Câu thơ
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán nản kéo dài. Cuộc
đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã
đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái
tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ - Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu
thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có
số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ
bi quan, chán nản của tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh.
Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả
mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, ...
và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn... để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số
phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối
tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi
đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm
toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sống thể hiện những cảm
xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn
vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi
mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc
chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán
gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của
con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng
trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những mơ ước
hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc
bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải tỏa. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán.
Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ
sở của những điều kiện lịch sử - xã hội mới mà thôi.

THU ĐIẾU - CÂU CÁ MÙA THU-NGUYỄN KHUYẾN


Trời vào thu với màu sắc thê lương ảm đạm, với gió heo may se sắt lạnh lùng và những chiếc lá
vàng nhẹ rơi bỏ lại thân cây trơ trọi, não nề. Mùa thu có lẽ làm cho người ta bâng khuâng hoài
cảm nhiều nhất và là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ.

Quay ngược bánh xe lịch sử ta sẽ bắt gặp những mùa thu tuyệt vời ngập tràn trong những trang
thơ của bao thế hệ. Nhắc đến mùa thu không thế không nhắc đến “Câu cá mùa thu” của Nguyễn
Khuyến – một bức tranh mùa thu mà Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Là điển hình hơn cả cho mùa
thu của làng cảnh Việt Nam”.

Tiếp xúc với bài thơ điều đầu tiên cho ta ấn tượng là mật độ xuất hiện vần “eo” trong bài thơ.
Chúng ta hãy đếm xem: có tất cả bảy tiếng sử dụng vần “eo”. Nếu để ý khảo sát trong tiếng Việt
thì ta sẽ phát hiện ra một điều thú vị là vần “eo” trong ngôn ngữ của ta thường làm cho không
gian, sự vật bị dồn nén, co lại, kết tinh lại trong cái khuôn khổ nhỏ nhất của nó.

Trời thu đã mang sẵn cái khí lạnh trong nó lại càng lạnh thêm trong cái từ “lạnh lẽo” ấy. Nước
hồ thu đã trong rồi nay lại càng trong thêm nữa bởi từ “trong veo”. Khoảng trống rộng lớn làm
cho chiếc thuyền câu nhỏ bé lại càng nhỏ bé thêm khi nó được tác giả thấy rằng “bé tẻo teo”.
Hình ảnh “Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” làm chúng ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Trần Đăng
Khoa:

Ngoài thềm rơi chiếc lá đa


Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Trở về câu thơ của Nguyễn Khuyến động từ “vèo” gợi cảm giác rơi nghiêng của lá. “Khẽ đưa
vèo” câu thơ có cấu trúc động từ thật là lạ, làm cho ta thấy dường như tiếng rơi ấy nó không là
hiện thực mà nó đang diễn ra trong tâm thức của nhà thơ. Chiếc lá ấy của nhà thơ làng Yên Đỗ
và Trần Đăng Khoa như là ảo ảnh. Trong cái ảo ảnh đó, người đọc và cả tác giả dường như
không kiểm soát kịp nó có thật hay không nữa.

Bức tranh mùa thu đến đây khẽ lay động dưới nét phát họa của nhà thơ.Qua hai câu đề của bài
thơ bức tranh mùa thu không được đặt trong không gian rộng lớn như ở “Thu vịnh” mà nó bị giới
hạn lại trong cái phạm vi nhỏ bé của “ao thu”. “Ao thu” hai tiếng ấy có vẻ gì đó là lạ, đặc thù.
Hình ảnh “ao thu” như muốn chứng minh sự nhỏ bé khác thường của nó.Toàn bộ khung ảnh
được vẽ lên như một bức tranh tí hon có thể đặt trọn trong lòng bàn tay ta vậy.

Nó có một cái gì đó ngồ ngộ, dễ thương và cuốn hút lạ thường. Nó thu tóm toàn bộ không gian,
làng cảnh Việt Nam im lìm, vắng lặng nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt.Đến đây không
gian được mở rộng ra, nhà thơ đã di chuyển điểm nhìn từ không gian nhỏ bé của “ao thu” hướng
về không gian lớn của bầu trời. Ở đấy nhà thơ bắt gặp:“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.

Cái động từ “lơ lửng” như gợi cho ta một cảm giác về một chuyển động mà ngỡ như là đứng
yên. Những đám mây mùa thu như khẽ nhích từng tí một, bồng bềnh trong bầu trời thu xanh
ngắt. Cái chuyển động của chiếc thuyền câu cũng vậy, nó như hơi khẽ lắc trong sóng nước mùa
thu.Trở lại câu thơ: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí”.

Ta thấy nó có một cái gì đó dễ gây ấn tượng. Chữ “làn” xuất hiện làm cho cảnh vật nó như mơ
hồ, khó mà nắm bắt được. “Hơi gợn tí” nó gợi lên trước mắt chúng ta một hình dáng của sóng.
Nó không ồn ào dữ dội như sóng biển mà có nó lăn tăn lan ra trên mặt hồ. Bức tranh mùa thu
như trầm mình trong cái yên ả, tĩnh mịch ấy.Có một câu châm ngôn cho rằng: không có một vẻ
đẹp xuất sắc nào mà không mang đôi nét kì quặc. Cho nên câu thơ: "Ngõ trúc quanh co khách
vắng teo".

Tuy gợi cho ta cảm giác rờn rợn da thịt nhưng bức tranh mùa thu ở đây vẫn có một nét đẹp rất
nên thơ, bình yên và trong sáng. Con người nhà thơ ở đây có phần nào lộ diện hơn:

"Tựa gối buông cần lâu chẳng được


Cá đâu đớp động dưới chân bèo"

Thế câu "Tựa gối ôm cần" thật lạ. Nó như thú nhận rằng nhà thơ đang lo nghĩ về một việc gì đó
rất dữ dội, nó như đang giằng xé lấy ông. Phải chăng đó chính là nỗi buồn thời cuộc, nỗi buồn
mà đến cuối đời nhà thơ vẫn không nguôi ngoai được phần nào.

Kết thúc bài thơ cảnh vật mùa thu im lìm như bị đánh thức dậy trước cái âm thanh bật hơi thật
mạnh của cụm từ "đâu đớp động". Tạo ra một nét đối nghịch trong bài thơ: Cảnh vật ở trên được
miêu tả là một bức tranh tĩnh lặng đến hoang vắng thì đến cuối bài thơ nó như bắt đầu tiếp nhận
được sức sống, bức tranh như sinh động hẳn lên. Nhưng nó lại cũng khiến cho bài thơ im ắng vô
cùng.

Ba tiếng "đâu đớp động" chõi lên một chút rồi lại đè xuống dưới sự áp chế mãnh liệt của vần
"eo". Cách sử dụng nghệ thuật, dùng cái động để diễn tả cái tĩnh làm cho cảnh vật trong bài thơ
càng vắng lặng hơn, nỗi buồn như bao trùm cả một khung cảnh rộng lớn. Bài thơ còn mang trong
nó một sắc điệu xanh sắc xanh của mây trời, của lá cây, của nước mùa thu.

Tất cả như hòa quyện vào nhau làm cho bài thơ tạo nên một bức tranh hài hòa cân đối, có một
màu sắc rất riêng của Việt Nam. Một chiếc lá vàng đâm ngang tô thêm cho bức tranh mùa thu
một vẻ đẹp mới lạ. Đọc "Câu cá mùa thu" ta càng yêu thêm non sông xứ sở đất Việt này.
Bức tranh mùa thu đậm chất vẻ đẹp thiên nhiên của Việt Nam trong bao biến động xô bồ của
cuộc đời này. Có cần chăng nhiều lúc lòng chúng ta nên lắng lại để thưởng thức "Thu điếu" để
thanh lọc lại hồn mình, để yêu quê hương đất nước, yêu tiếng Việt trong sáng và giàu đẹp này
hơn nữa ...
THƯƠNG VỢ - TÚ XƯƠNG
Mở bài phân tích Thương vợ
- Giới thiệu vài nét về tác giả Tú Xương (1870 – 1907): một trong những tác giả có cách viết trào
phúng, hài hước, mang tư tưởng li tâm Nho giáo.
- Khái quát về bài thơ Thương vợ - một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú
Xương viết về bà Tú.
Thân bài phân tích Thương vợ
* Phân tích 2 câu đề
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
- Hoàn cảnh buôn bán làm ăn của bà Tú:
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác dù
mưa hay nắng.
+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định -> gợi tả một cuộc đời
nhiều mưa nắng, một cuộc đời lắm cơ cực, gian nan, chênh vênh, nguy hiểm, phải vật lộn để
kiếm sống.
=> Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định.
- Lí do:
+ “nuôi đủ”: chăm sóc hoàn toàn -> sự chịu thương chịu khó của bà Tú, phải vất vả cực nhọc,
làm lụng gánh vác, tất bật ngược xuôi chỉ để nuôi đủ "năm con với một chồng".
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không
dư.
-> Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng là đứa
con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.
=> Hoàn cảnh éo le trái ngang, gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ.
Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng.
=> Bà Tú là người phụ nữ tần tảo, đảm đang, chu đáo với chồng con.
* Phân tích 2 câu thực
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
- Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú nhưng sáng tạo hơn nhiều
(đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):
+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn -> gợi tả nỗi đau thân phận và mang
tính khái quát
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu
=> Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.
- Sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”:
+ Eo sèo: từ láy tượng thanh ý chỉ sự kì kèo, kêu ca phàn nàn một cách khó chịu -> gợi tả cảnh
tranh bán, cãi vã nơi “mặt nước”.
+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy
hiểm, lo âu
-> Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề buôn bán
nhỏ.
=> Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm, phải lặn lội trong
nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, đồng thời thể hiện lòng xót
thương da diết của ông Tú.
* Phân tích 2 câu luận
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
- “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú Xương
cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu, không một lời phàn nàn, lặng lẽ
chấp nhận sự vất vả vì chồng vì con.
- “nắng mưa”: chỉ sự vất vả
- “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều
- "âu đành phận", “dám quản công”: dù cho phận mỏng duyên ôi, bà Tú vẫn chấp nhận, cam
chịu, không lời oán thán.
-> Sự vất vả và gian truân, đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
=> Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu
thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.
* Phân tích 2 câu kết
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
- Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi:
+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó
buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả.
-> Lời chửi mang ý nghĩa xã hội sâu sắc: thói đời bạc bẽo là nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú
phải khổ; ông Tú thầm trách bản thân một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng của bản thân.
- Tự ý thức:
+ “Có chồng hờ hững”: Tú Xương tự rủa mát mình và cũng là tự phán xét, tự lên án bản thân
mình
-> Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời.
- Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.
-> Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc.
=> Hai câu thơ đã khái quát nỗi lòng thương vợ của ông Tú.
Kết bài phân tích Thương vợ
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
+ Nội dung: Xây dựng thành công hình ảnh bà Tú - một người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh, đã
gánh vác gia đình với những gánh nặng cơm áo gạo tiền đè lên đôi vai gầy. Qua đó cũng cảm
nhận được tình thương yêu, quý trọng người vợ của Trần Tế Xương.
+ Nghệ thuật: Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, giàu sức biểu cảm; vận dụng sáng tạo hình
ảnh, cách nói văn học dân gian; kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng.
- Liên hệ, mở rộng: Suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.
Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ
văn Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan làm
một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng
sống làm lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian.
Nhắc đến Tú Xương ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ
cười hóm hỉnh, trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với
người vợ tần tảo hy sinh suốt một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.
Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc
đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài
lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều
do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào trong thơ ca của ông “Tiền bạc phó cho con mụ
kiếm” hoặc “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”.
Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn là những vấn đề ấy được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất
ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề mở ra một không gian, thời gian và công việc của bà Tú.
Một công việc vất vả, cơ cực và gian nan vô cùng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Nghề buôn bán theo quan niệm của người xưa là con đường đầu tiên để làm giàu “Phi thương bất
phú” nhưng công việc của bà Tú thì lại đối lập hoàn toàn. Chỗ buôn bán ở đây không phải là
vùng đất tốt, bằng phẳng mà ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “là cái địa điểm
cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”.
“Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm buôn bán của bà Tú nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với
bao nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây là “quanh năm” hết
ngày này qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Một công việc
nhọc nhằn, vất vả mà người vợ phải gánh vác để lo cho gia đình.
Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những
việc lớn như kinh tế gia đình phải do người đàn ông lo liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm ấy
ở đây là bà Tú - người đàn bà giàu lòng yêu thương, giàu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với
một chồng”. Đủ ở đây nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người làm mà bảy miệng ăn ta thấy
trách nhiệm nặng nề đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình.
Trong câu thơ này có sử dụng nghệ thuật đối năm con là số nhiều nhưng lại được đặt ngang hàng
để đối với một chồng là số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng với số tiền bạc để
nuôi một chồng. Như ta đã biết cuộc đời ông Tú ngắn ngủi và đơn giản, 37 năm, dường như gói
gọn trong ba việc chính: đi học, đi thi và làm thơ. 15 tuổi bắt đầu đi thi, 22 năm ròng rã còn lại
vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi là biết bao chi phí, tiền của do một
tay bà Tú trang trải. Khép lại hai câu đề miêu tả không gian, thời gian và công việc của bà Tú
đến hai câu thực mở ra một hình ảnh “thân cò”:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mặt buổi đò đông”
Câu thơ gợi cho ta nhớ đến hình ảnh quen thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo
đưa chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tần
tảo sớm hôm lo cho gia đình. Bà Tú ở đây là thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự
mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” làm cho
hình ảnh ấy càng trở nên cụ thể, sâu sắc hơn.
Chắc hẳn bà Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng
vì miếng cơm manh áo gia đình mà phải liều lĩnh đối mặt với chốn hiểm nguy để rồi phải “eo
sèo” nơi “đò đông”. Hai tính từ ở đầu câu và cuối câu đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.
Dường như nhà thơ đang rất cảm thông và thương xót cho thân phận của vợ mình mà như nhỏ lệ
trước hình ảnh ấy. Hai câu thơ có thể được coi là hay nhất trong bài cũng như khiến cho con
người ta rung động nhất khi tái hiện về hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu tác giả giữ vị trí, đóng vai trò là người chồng đứng ở bên ngoài
“khách quan” để quan sát, nhận xét và cảm thông cho bà Tú thì bốn câu thơ sau Tú Xương nhập
thân vào trong tâm tư, nỗi niềm của người vợ để cất lên tiếng than “chủ quan” và chân thực hơn.
Hai câu luận là lời than thở mà Tú Xương nói hộ lòng vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt có nghĩa là duyên cớ làm phát sinh việc gì đó. Duyên theo
quan niệm của Phật giáo là phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau và trở
thành vợ chồng, giúp các cặp đôi yêu thương gắn kết trong cuộc đời. “Tu trăm năm mới thành
bạn đồng hành, tu ngàn năm mới được chung chăn gối” dân gian tạo thành một cặp duyên và nợ.
Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mà nợ thì hai, duyên ít nợ nhiều. Ngẫm cho kĩ
bà Tú lấy được ông Tú cũng là một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại
nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả cực nhọc của một thân phận được nâng lên
thành định mệnh của cả một kiếp người. Vì là duyên là nợ nên “âu đành phận”. Âu có nghĩa là
cam chịu, đành là chấp nhận.
Vì là cam chịu và chấp nhận điều đó nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. Các số từ theo
thứ tự: một, hai, năm, mười được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó
khăn trên đôi vai của bà Tú. “Âu đành phận” và “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ
cho thấy cách ứng xử của người làm vợ luôn nhẫn nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con.
Khép lại bài thơ hai câu kết được nâng lên thành tiếng chửi. Thác ra giọng bà Tú, Tú Xương đã
chửi rủa cái bạc bẽo của cha mẹ nhà chồng và vô tích sự của bản thân đối với vợ.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Những bà mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu, vì quan niệm
phong kiến hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm
không công mà đối xử tệ bạc với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhàng mà thâm
thúy trong ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền/ Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay
“Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau”.
Tú Xương không chỉ là một nhà thơ trữ tình mà còn nổi tiếng là nhà thơ trào phúng. Thơ ông
không chỉ là tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mà còn là những vần thơ tự trào bản
thân. Trong câu thơ trên nhà thơ mượn lời vợ mình để chửi chính bản thân mình là một người
chồng “hờ hững”, vô tích sự không gánh đỡ gì được cho vợ mà ngược lại còn làm nặng trĩu thêm
cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ.
Nhà thơ coi mình là kẻ chẳng ra gì cũng là một cách để ca ngợi, đề cao vợ theo cái cách chưa
từng thấy trong thơ văn trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời cái bộ
anh”. Cái đặc sắc của hai câu kết tuy là tiếng chửi nhưng vẫn mang hàm ý đùa vui, tự cười, tự
trách mình nhưng vẫn là để bày tỏ sự cảm thông với vợ.
Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung đại Việt
Nam cuối thế kỉ XIX, hai nhà thơ tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự trào. Thơ ông với
những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ hóa, sử dụng ngôn ngữ đời
thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình và có sức gợi hình, gợi cảm.
“Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ bác
học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và bộ lộ được tâm trạng, tình
cảm của Tú xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ
Đường luật là 4/3 và 2/2/3 càng làm cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.
Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm chân thành
của nhà thơ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nào mà có những bài
thơ viết về vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ cho thấy một tâm hồn cởi
mở, đôn hậu của nhà thơ đối với vợ mà còn chứng tỏ tài năng, thi bút của một thi sĩ biết vận
dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian.

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG-NGUYỄN CÔNG TRỨ


Dàn ý số 3
a) Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Công Trứ là một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương
mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc.

- Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý
thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ.

b) Thân bài
* Cảm hứng chủ đạo
- “ngất ngưởng”: thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả.

=> Tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.

=> Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, tác giả có ý thức rất rõ về tài năng và bản
lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ hưu.

* Luận điểm 1: Quan điểm sống ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp (6 câu
đầu)
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự
của tác giả -> Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.

- “Ông Hi Văn… vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để
bộc lộ tài năng

- Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:

+ Tài năng: giỏi văn chương (khi thủ khoa), tài dùng binh (thao lược)

-> Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ
doãn Thừa Thiên

-> Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang văn vẻ toàn tài.

=> Sáu câu thơ đầu là lời từ thuật của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng
phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng.

* Luận điểm 2: Quan điểm sống ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ (10 câu tiếp)
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:

+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

+ Đi chùa có gót tiên theo sau.

=> Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng

+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược
đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.

=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng.

- Quan niệm sống:

+ “Được mất... ngọn đông phong” : Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung
tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian

+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm
giác vui vẻ triền miên.

+ “Không… tục” : không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục, sống thoát tục ->
sống không giống ai, sống ngất ngưởng.

=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.

* Luận điểm 3: Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch (3 câu cuối)
- “Chẳng trái Nhạc... Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang
với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
=> Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là
bề tôi trung thành.

- “Trong triều ai ngất ngưởng như ông” : vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống
“ngất ngưởng”

=> Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông
thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài.

* Đặc sắc nghệ thuật:


- Vận dụng thành công thể hát

- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng

- Sử dụng điển tích, điển cố

c) Kết bài
- Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng
- Trình bày suy nghĩ của bản thân về bài thơ.

Mỗi con người tạo nên một tính cách, mỗi nhà văn cũng có một phong cách riêng cho mình
nhưng đặc biệt là có những tính cách nổi bật khiến người ta nhắc đến là nhớ ngay đến người đó.
Và Nguyễn Công Trứ có một tính cách đặc biệt như thế, ông được biết đến với một cá tính đặc
biệt, mạnh mẽ "ngất ngưởng". chính cá tính ấy làm cho người ta nhớ đến ông nhiều hơn. Đặc
biệt cá tính của ông được thể hiện rất rõ trong bài thơ bài ca ngất ngưởng.

Bài ca ngất ngưởng giống như một lời tự thuật của Nguyễn Công Trứ về cuộc đời, tài năng, tính
cách của ông. Đó là một tài năng lớn cũng là một tính cách lớn vượt qua khuôn khổ của thời
trung đại cũng như nho giáo. Ông sinh ra trên mảnh đất Nghệ An, cùng thời với ông cũng có rất
nhiều người tài giỏi tuy nhiên người ta lại nhớ đến ông. Phải chăng do tính cách khá đặc biệt của
ông- một sự ngất ngưởng và lối sống chân thật ấy đã làm người ta nhớ đến ông nhiều hơn?.

Tác giả mở đầu bằng năm câu thơ để thuật lại cuộc đời làm quan của mình. Cuộc đời đó có vinh
hoa hiển lạc nhưng cũng có lúc vất vả khốn cùng:
" Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"
Chỉ với năm câu thơ tác giả đã giới thiệu cho chúng ta vè phần đời làm quan của ông. Trước tiên
ta tìm hiểu khái niệm của từ " ngất ngưởng", ngất ngưởng là từ đồng nghĩa với ngất nghểu có thể
hiểu là một người luôn ở tư thê cao không vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã. Nguyễn
Công Trứ dùng tính từ này để nói về mình phải chăng là cả một ẩn ý?.

Trước hết là câu thơ đầu tiên thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Cùng với bản
tuyên ngôn về chí làm trai " chí làm trai nam bắc đông tây- cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể"
thì câu thơ đầu trong bài này cũng là một bản tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của ông

" Vũ trụ nội mạc phi phận sự"


Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này không có việc gì
không phải là phận sự của ta. Dường như ta thấy Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một
nhà nho nhân chính. Nó nói lên sự ý thức tầm quan trọng cá nhân của ông và sự nhiệt huyết
trong cuộc đời của ông.

Sau đó ông tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:

"Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.


Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"
Đối với ông mà nói làm quan như " vào lồng", câu thơ ấy có nghĩa là tác giả coi việc làm quan
giống như bị nhốt trong lòng. Bởi vì với tính cách ngông nghênh cùng ý chí ngút trời " vẫy vùng
trong trời đất" những đạo lí Tam cương ngũ thường trở thành khuôn phép gò bó tính cách của
ông. Nguyễn Công Trứ tự xưng là ông, đó là một cách xưng hô độc đáo. Dẫu biết làm quan là bó
buộc mất tự do nhưng ông vẫn làm vì nhờ đó ông thể hiện được tài năng cũng như hoài bão của
mình. Qua đó Nguyễn Công Trứ thể hiện mình như một giá trị hiển nhiên giữa đời mà không thể
phủ nhận được.

Sau đó là một loạt chức quan được kể ra như " thủ khoa", "tham tán", " tổng đốc đông" ," bình
tây đại tướng" khi lại " Phủ doãn thừa thiên". Có thể nói cuộc đời làm quan của ông hiển đạt vô
cùng tất thảy đều là những quan to. Tuy nhiên ở ngoài đời thực thì ông có bị giáng chức xuống
làm một anh lính quèn. Tuy nhiên ông từng có một câu nói vô cùng nổi tiếng đó là : "Làm tổng
đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục". vì thế cho nên dù làm ở cấp
nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan trọng miễn sao ông được thỏa sức giúp nước nhà.

Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra buổi nghỉ quan về hưu của Nguyễn Công Trứ. Đúng là một
con người khác lạ đến buổi dứt áo quan về quê cũng thật khác bình thường:

"Đô môn giải tổ chi niên,


Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"
Chia tay chốn quan trường nhà thơ về với quê hương thật đúng là " ngất ngưởng". Người ta về
quan tiệc tùng linh đình về trong võng lọng kiệu đẹp, hay cùng lắm là con ngựa gầy nhưng
Nguyễn Công trứ thì lại khác. Về quê chẳng tiệc chia tay, chẳng người đưa tiễn, chẳng vọng lọng
kiệu ngựa mà chỉ một mình với con bò vàng đủng đỉnh. Bò mà đeo đạc ngựa thật sự chỉ có
Nguyễn Công Trứ mới có mà thôi!.

Về quê nhà thơ tự do vui thú với cảnh quê hương và ca trù. Ông lên thăm chùa mà tự cười nhạo
mình từ bi nhưng thật ra đằng sau lại có hai cô ả đào. Theo sau. Như thế là thất kinh nhưng bụt
không tức giận mà phải bật cười vì tích cách của vị quan già ngông nghênh ấy.

Những câu thơ còn lại đều nói về cuộc đời và vui thú của ông khi về hưu:

"Được mất dương dương người thái thượng,


Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"
Cuộc đời của ông từ đây nhàn hại với những thú vui tao nhã. Đối với ông khen chê không là
chuyện ông đáng để tâm tới ông cứ sống theo cách của mình. Cuộc đời này còn gì vui hơn hạnh
phúc hơn khi được sống đúng là chính mình. Mấy ai được sống là chính mình còn Nguyễn Công
Trứ thì làm được điều đó. từ đây ông đắm mình trong thú vui tuổi già đó là ca trù không vướng
tục. Từ "khi" được điệp đi điệp lại nhiều lần thể hiện sự lặp lại của những thú vui ấy. Ca trù,
rượu nóng ông say sưa trong hơi men và điệu các điệu tùng. Đúng là một cuộc sống đầy âm
nhạc. Ông cứ sống như thế chẳng theo tiên theo phật cứ sống theo cách của chính ông mà thôi.
Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài nếu như hai câu trước trải dài để thể hiện sự thanh thản khi về
hưu thì hai câu sau lại đầy ắp tiếng nhạc.

Nguyễn Công Trứ tự đặt mình ngang hàng với những các nhân vật nổi tiếng ngày xưa:

"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,


Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"
Trái Tuân thời Hán và ba người thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những danh tướng có sự
nghiệp hiển hách. Kết thúc bài thơ ông không quên nhắc tới công lao mà mình đã đạt được trước
khi về hưu. Đó là nghĩa vua tôi cũng đã tròn đạo. Ông ca lên điệp khúc ngất ngưởng của mình,
ông sống và làm việc tận tụy hết mình nhưng đồng thời cũng có những thú vui khác người. Thú
vui ấy chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có , ông ngất ngưởng như vậy đấy.

Như vậy có thể thấy Nguyễn Công Trứ quả là một con người độc đáo ông tự ý thức được tài
năng cũng như vị trí của mình. Ông sống mà không cần quan tâm đến người ta nói gì về mình.
Và quả thật bài ca ngất ngưởng đã truyền tải hết sự ngất ngưởng của nhà thơ. Bài thơ không chỉ
ngất ngưởng ở nội dung mà cả giọng điệu cũng góp phần làm nên bài thơ này.
VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC-NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
I.Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phẩm

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một đỉnh cao trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm là
nơi kết tinh sâu sắc nhất và tiêu biểu nhất cho tư tưởng của tác giả. gửi tấm lòng k và không phục
vô cùng Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một bức tượng đài vĩ đại về người chiến sĩ nông dân
trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dù đầy đau thương mất mát song lại vô cùng anh dũng
hào hùng của dân tộc.

II. Thân bài:


1. Phần lung khởi:
 "Hỡi ôi": câu cảm thán mở đầu thể hiện niềm thương tiếc chân thành xen lẫn sự bàng
hoàng đau xót
 Súng giặc đất rền: Trời đất quay cuồng, khi tiếng súng của quân giặc phát lên không gian
trời đất cũng xáo động, lung lay khiếp sợ
 Thể hiện sự tàn phá kinh hoàng, nặng nề của quân giặc với những loại vũ khí tối tân, thể
hiện sự tàn bạo vô nhân tính của chủ nghĩa thực dân

 Lòng dân trời tỏ: người dân Việt Nam đứng lên bảo vệ quê hương đất nước tấm lòng yêu
nước được trời đất chứng giám, cuộc chiến đấu của nhân dân ta là cuộc chiến đấu vì chính
nghĩa được đất trời ủng hộ -> dù hi sinh nhưng cuộc chiến đấu oanh liệt đã tấm lòng của
những người nghĩa sĩ đều trở nên bất tử
 Đoạn văn đã khái quát bối cảnh và tinh thần thời đại đồng thời khẳng định sự bất tử của
người nông dân nghĩa sĩ
2. Phân thích thực
a. Nguồn gốc xuất thân của người nghĩa sĩ:
 Họ đều xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, từ dân ấp, dân lân,...phải chịu biết
bao áp bức của thực dân và phong kiến
 "Cui cút làm ăn": hoàn cảnh sống cô đơn không ai nương tựa lam lũ vất vả nhưng chăm
chỉ cần cù
 Họ là những con người chất phác, hiền lành cả đời nghĩ đến ruộng vườn với những việc
thường nhật, họ hoàn toàn xa lạ với việc binh đao chiến trận
 Nghệ thuật tương phản "vốn quen" - "chưa biết", "chưa quen" - "chỉ biết" để nhấn mạnh
tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng
b. Lòng yêu nước nồng nàn:
 Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân từ chỗ lo sợ trông chờ tin quan đến căm thù
giặc và rồi bản thân tự vùng lên chống lại -> sự chuyển hóa phi thường trong thái độ của
người nông dân
 Khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần tự nguyện của nhân dân được nâng cao, họ tự nguyện
dấn thân không ai ép buộc. Ở họ ta không nhận thấy hình dáng bi thảm bị ép buộc mà họ
vào trận bằng tinh thần tự nguyện, lựa chọn cao cả dựa trên truyền thống dân tộc
 Đối với giặc ngoại xâm căm ghét căm thù đến tột độ
 Đối với tổ quốc họ không dung tha những kẻ lừa dối bịp bợm
c. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nghĩa sĩ
 Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”,
tinh thần chiến đấu sẵn sàng tự nguyện vì chính nghĩa mà sẵn sàng hi sinh
 Hào hùng dũng cảm, "coi giặc cũng như không".
 Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi,...
 Một bên là vũ khí tối tân của nền khoa học quân sự , một bên là vật dụng hàng ngày làm
vũ khí. Tất cả những miêu tả làm nổi bật lên sự chêch lệch của trận chiến, điều kiện chiến
đấu và tinh thần đấu tranh dũng mãnh coi giặc như không liều mình như chẳng có , làm kẻ
thù thất điền bát đảo
 Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu quan
hai nọ”
 "Đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành
động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi, tạo khí thế hoành tráng. Đặc
biệt câu 13,14,15 câu văn ngắn nhịp ngắn, kết cấu mạnh tiết tấu nhanh, tạo dựng không khí
dồn dập, khí thế áp đảo kẻ thù, tinh thần tự nguyện đã nâng tầm họ lên, làm cánh tay thêm
mạnh, ý chí thêm cao.
 Đoạn văn đã dựng lên tượng đài người nghĩa sĩ Cần Giuộc vươn lên từ khó khăn, vượt qua
khó khăn với sức mạnh phi thường, tinh thần quả cảm, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh bảo vệ
dân tộc quê hương
 Thể hiện sự tự hào trân trọng ngợi ca của tác giả đối với những người chiến sĩ chân chất,
dũng cảm
3. Phần Ai vãn
 Sự hi sinh của người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện một cách hình ảnh cùng với niềm tiếc
thương chân thành
 Hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, chia lìa,... gợi không khí đau thương, buồn bã sau
cuộc chiến.
 Tiếng khóc vang lên, bao nhiều tiếng khóc hòa trong nỗi đau. Con người cỏ cây sông núi
đều khóc, khóc vì sự nghiệp của họ, khóc vì một nỗi những người dân chân lấm tay bùn
đáng nhẽ phải được bảo vệ thì lại lâm nạn
 Tiếng khóc ấy không bớt đau thương hòa trọn vào nhau vừa thống thiết lại vừa bi tráng
nức nở xót xa thấm đấy nước mắt trước thảm cảnh những gia đình mất đi người thân trong
chiến trận.
 Bên cạnh đó là tiếng căm hờn, chửi thẳng lũ thực dân Pháp tàn ác, oán giận triều đình vô
trách nhiệm, lo lắng xót xa cho những người ở lại.
4. Phần kết
 Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ", "Danh tiếng nghìn năm còn
lưu mãi"
 Dù đã anh dũng hy sinh nhưng tinh thần quả cảm, tinh thần yêu nước nồng nàn và sức
mạnh của người nông dân nghĩa sĩ đã trở thành một tượng đài bất tử vang danh muôn đời
 Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng
thất thế.
 Dù là tiếc thương nhưng lại vô cùng bi tráng chứ không bi lụy, sự hi sinh là sự hi sinh cao
cả càng tô đậm vẻ đẹp của người nghĩa sĩ
III. Kết bài:
- Khẳng định giá trị của tác phẩm

Bài văn tế đã khắc họa lại tượng đài của người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong cuộc chiến đấu để anh
dũng hào hùng của dân tộc ta. Họ chiến đấu không phải để lưu danh sử sách mà vì hòa bình. Họ
vào cuộc chiến với thái độ hiên ngang, lựa chọn lẽ sống cao cả trở thành một đạo lí tốt đẹp cho
dân tộc ta. Qua đó ta thấy được sự thấu hiểu tấm lòng trân trọng ngợi ca thương tiếc của Đồ
Chiểu dành cho những người anh hùng áo vải vĩ đại. tác phẩm sẽ mãi là một khúc ca bi tráng anh
hùng mãi giữ vững giá trị không chỉ trong nền văn học Việt Nam mà còn trên dòng chảy lịch sử
dân tộc.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như một "bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên ngang" mà lạ thay
gót thời gian không hề tàn phá nổi. Nguyễn Đình Chiểu - con người ấy đã đi xa chúng ta từ lâu
lắm rồi nhưng những áng văn thơ của người còn trẻ mãi, đỏ mãi.

Hỡi ơi
Súng giặc đến rền Lòng dân trời tỏ.
Câu thơ tứ tự mở đầu tách đôi ra làm hai vế gãy gọn nhưng sức khái quát của nó thật lớn. Chỉ
ngần ấy câu chữ đã vẽ lên một cách, toàn diện về những điều mà người viết muôn gửi gắm: tội
ác và nghĩa cả, cái đau thương tang tóc và cái cao lớn đẹp đẽ, một bên là súng giặc mâu thuẫn
với lòng dân.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn mà danh nổi tợ pha
Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất mà tiếng vang như mỏ.
Đã rõ hơn rồi, tác giả muốn nói điều gì. Câu thơ phản ánh sự tương phản, giữa "mười năm công
vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh Tây" - sức vùng lên mạnh mẽ, quyết liệt, mau lẹ của những
người nông dân. Mười năm vỡ ruộng ít ai biết đến, thế mà một trận nghĩa đánh Tây, những con
người nghĩa sĩ đã gây được "tiếng vang như mỏ". Tứ thơ như báo trước cái anh hùng của họ, sức
mạnh của họ và cả cái bi thương tất yếu nữa.

Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn


Riêng lo nghèo khó.
Hình ảnh những con người bình thường hiện lên, những con người sẽ làm nên lịch sử ấy, họ
chẳng phải là ai cả, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau rặng dừa, bụi chuối vì
nghĩa lớn mà hi sinh. Họ hi sinh khi "Tổ quốc cần". Và hình ảnh của họ trở nên cao đẹp từ đó.
Họ chỉ là những người quen lấm láp với công việc cấy cày.

Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết:


Ruộng trâu ở trong làng bộ.
Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.
Cuộc sống của họ lặng thầm, ngày ngày chỉ biết lăn lộn cùng miếng cơm manh áo nhưng cuộc
sống nghèo đói vẫn ghì sát đất. Họ chưa bao giờ hình dung nổi việc binh đao. Lần đầu nghe tin
giặc Pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những người "dân đen" "con đỏ", lo sợ, trông
đợi rồi thất vọng.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng Trông tin quan như trời hạn trông mưa Mùi tinh
chiên vấy vá đã ba năm Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Chờ mong "tin nhạn" nhưng rồi
nhạn vắng bóng. Họ đi từ thắc thỏm hi vọng đến vô vọng, từ lo sợ, hoảng loạn đến căm ghét - cái
căm ghét trong mơ hồ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
Cho dù sự căm ghét chỉ được phôi thai qua ý niệm mơ hồ nhưng sự phẫn nộ đã dâng lên ngùn
ngụt. Họ muốn lao ra bằng tay không để "ăn tươi nuốt sống kẻ đã gây bao tội ác". Đọc tới đây, ta
chợt nhớ lại lời hịch sang sảng, vang vọng một thời của Trần Quốc Tuấn "Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" (Hịch tướng sĩ). Sự day dứt, đau
đớn vò xé tâm can thôi thúc con người hành động, thôi thúc con người muốn "nuốt gan uống
máu quân thù" cho hả dạ. ở Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy. Họ bắt đầu nghĩ tới non sông
đất nước và cảm thấy nhục nhã nếu như cứ để cho lũ "chó má" ấy giày xéo lên những giá trị tinh
thần của dân tộc ngàn thu văn hiến.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu


Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Ý thức được như thế, họ đã đi đến quyết tâm làm một cuộc nổi dậy. Họ vùng lên tinh thần sẵn
sàng tự nguyện.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ đã hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Họ chẳng cần phải trốn tránh khi tiếng gọi
của quê hương tha thiết đến thế. Họ biết phải chiến đấu, xả thân để giữ lấy bờ ao bụi chuối, giữ
lấy mảnh đất biết mấy thân yêu gắn bó, giữ lấy những điều thiêng liêng mà họ cho là không liên
quan gì đến "cha ông nó" cả. Hình ảnh của họ thật đẹp, những tấm lòng của họ thật cao cả. Hình
ảnh ấy thật khác xa với người lính trước kia khi phải đối mặt với tiếng trống giục quân bắt bớ
"bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa".

Người nghĩa sĩ của Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc chiến đấu vẫn mang một màu bình dị
sáng trong. Họ là những người "dân ấp dân lân" với những vũ khí thô sơ, chỉ là một ngọn tầm
vông, một nùi rơm, con cúi, thế nhưng họ đã dệt nên những trang sử hào hùng, vẻ vang. Họ thật
cao đẹp, thật anh hùng và tràn đầy dũng khí. Bên trong "manh áo chật" đáng thương, nhỏ bé lại
chứa đựng bao điều lớn lao, cao cả.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng hằng lưỡi dao
phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.
Họ là những con người bình dị nhưng anh hùng. Khi cầm cuốc làm ruộng họ là những con người
hiền như đất, như khoai song khi đối mặt với kẻ thù, họ không kém phần dữ tợn. Họ hòa hợp
bằng tinh thần đoàn kết của người dân áo vải đất Việt. Cái tinh thần đoàn kết mà trước đây
Nguyễn Trãi từng ngợi ca trong Cáo bình Ngô.

Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ - của những con người cụ thể trong công cuộc
đánh Tây bằng một tâm trạng nô nức, phấn chấn.

Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không
Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu sung sướng vung lên như một thanh gươm trên chiến trường
trước sức mạnh ồ ạt, tấn công dồn dập như vũ bão của những người nghĩa sĩ. Cách ngắt nhịp
ngắn gọn đã tạo nên một khí thế xông trận bừng bừng, mang hơi thở gấp gáp của cuộc hỗn chiến.
Trong khung cảnh ấy, tung hoành giữa chiến địa chỉ còn có người nông dân mộ nghĩa anh dũng,
oai phong lẫm liệt. Giọng thơ có khác nào hồn cáo của Nguyễn Trãi mấy trăm năm về trước.

Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn
Nguyễn Đình Chiểu có lẽ cũng muốn lắm, để viết được những sự thất bại chồng chất của kẻ thù.
Nhưng ở đây ta thấy trận đánh dù có rầm rộ đến đâu đi nữa nó cũng mang tính chất của người
dân cầm cuốc, cầm cày đã quen. Họ thất bại là phải, bởi lẽ:
Mười ban võ nghệ nào đợi tập rèn
Chín chục trận binh thư không chờ bày bố.
Đấy là những cơn người anh hùng nhưng rất đáng thương. Nhìn hoàn cảnh đánh giặc của họ, ai
mà không xót xa cho những con người cụ thể và xót xa cho cả toàn đất nước. Bởi thế âm điệu
thơ như mặt hồ đang nổi sóng bỗng dưng lắng xuống, đang hừng hực lửa chiến trận bỗng chốc
trở nên hoang vắng lạnh lùng, mang màu sắc bi thương não nuột.

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ ...
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Những câu thơ như câm lặng trôi trong niềm kí ức của tác giả. Nhà thơ gửi một nỗi tiếc thương
vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ làm cho cả trời đất, cây cỏ tang thương, nhỏ
lệ, cái chết nhuốm màu sầu ải lên vạn vật. Cả một bầu trời âm u, tối tăm trước sự hi sinh mất mát
của những người nghĩa sĩ.

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.
Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Những hình ảnh thương tâm ấy gặm nhấm tâm can ta, linh hồn ta đau nhức. Nguyễn Đình Chiểu
đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người anh hùng hi sinh vì Tổ quốc. Từ những
âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng
khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của đất nước.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu đã hội tụ lại mọi nỗi đau để cất lên tiếng khóc cao cả.
Sau phút giây đau thương, nức nở, lời ván đang đắm chìm trong thảm đạm bỗng tỉnh táo hẳn lên,
nêu bật một quan niệm tuyệt vời về nhân sinh, về lẽ sống và cái chết.

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.
Hơn còn mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.
Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một quan điểm mang tính nhân văn sâu sắc: Thà chết chứ nhất
định không chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô danh. Câu thơ "sống đánh giặc thác cũng
đánh giặc" dược nêu cao như một chân lí sống rực rỡ, chói ngời. Chân lí ấy đã xua tan bao cảm
giác bi thương, mất mát của người nghĩa sĩ đã dâng trọn tấm thân mình cho đất nước, quê hương.

Thác mà trả nước non rồi nợ, sánh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Họ là những tấm gương sáng cho muôn đời con cháu mai sau. Linh hồn người nghĩa sĩ trong
tưởng niệm thành kính của tác giả vẫn níu lấy cuộc sống để theo đuổi đến cùng sự nghiệp giết
giặc cứu nước, Với Nguyễn Đình Chiểu, họ vẫn sống và được ngưỡng mộ.

Ôi chết thế không thể nào chết được


Không thể chết những người dân yêu nước
Những con người không chịu ô danh.
(Tố Hữu)
Họ đã vui vẻ hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một người nông dân "cày xong thửa ruộng". Cái
chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, bình thản. Nhưng cái yên lành, bình thản ấy lại gợi
nỗi đau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.
Với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường, Nguyễn Đình
Chiểu đã xây dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa hùng tráng. Qua "Bức tượng
đài nghệ thuật" ấy tác giả gửi gắm một quan niệm sống tốt đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là
tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu tình dân, nghĩa nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn được mở ra. Và chúng ta -
những người con của đất nước phải nhớ giữ lấy giá trị ngàn đời mà bao thế hệ, bao lớp người
từng xây dựng nên giang sơn, gấm vóc của ngày hôm nay. Điều mà Nguyễn Khoa Điềm đã xúc
động viết lên những lời thơ xiết bao ân nghĩa.
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
(Đất Nước)
CHIẾU CẦU HIỀN-NGÔ THÌ NHẬM
I. Mở bài:
- Đôi nét về tác giả Ngô Thì Nhậm: Một Nho sĩ toàn tài có đóng góp to lớn, tích cực cho triều đại
Tây Sơn

- Chiếu cầu hiền là tác phẩm được sáng tác nằm mục đích kêu gọi các hiền tài khắp mọi nơi cởi
bỏ tị hiềm, gắng đem hết tài sức của bản thân ra giúp vua trong sự nghiệp chấn hưng đất nước

II. Thân bài:


1. Quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
- Mở đầu là một hình ảnh so sánh: “Người hiền như sao sáng trên trời”: nhấn mạnh, đề cao vai
trò của người hiền

- “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần”: quy luật tự nhiên ⇒ khẳng định người hiền phụng sự cho
thiên tử là một cách xử thế đúng, là lẽ tất yếu, hợp với ý trời.

- Khẳng định:“Nếu như che mất … người hiền vậy”: Người hiền có tài mà đi ẩn dật, lánh đời
như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị giấu đi

⇒ Hiền tài như sao sáng, cần phải ra sức giúp thiên tử trị vì, nếu không là trái quy luật, đạo trời

⇒ Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục, cách đặt vấn đề hấp dẫn, có sức thuyết phục

2. Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước
a.Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà:
- Khi thời thế suy vi:

 Mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng


 Ra làm quan: sợ hãi, im lặng như bù nhìn hoặc làm việc cầm chừng
 Một số “ra biển vào sông”: ẩn đi mỗi người một phương
⇒ Sử dụng hình ảnh lấy từ kinh điển Nho gia hoặc mang ý nghĩa tượng trưng: Tạo cách nói tế
nhị, châm biếm nhẹ nhàng; thể hiện kiến thức sâu rộng của người cầu hiền

- Khi thời thế đã ổn định: “chưa thấy có ai tìm đến” ⇒ Tâm trạng của vua Quang Trung, niềm
khắc khoải mong chờ người hiền ra giúp nước

- Hai câu hỏi tu từ liên tiếp “Hay trẫm ít đức…vương hầu chăng”: Thôi thúc, khiến người nghe
tự suy ngẫm

⇒ Cách nói khiêm tốn nhưng thuyết phục, tác động vào nhận thức của các hiền tài buộc người
nghe phải thay đổi cách ứng xử

b. Thực trạng và nhu cầu của thời đại


- Tình hình đất nước hiện tại:

 Buổi đầu dựng nghiệp nên triều chính chưa ổn định


 Biên ải chưa yên
 Dân chưa hồi sức sau chiến tranh
 Đức của vua chưa nhuần thấm khắp nơi
⇒ Cái nhìn toàn diện sâu sắc: triều đại mới tạo lập, mọi việc đang bắt đầu nên còn nhiều khó
khăn

- Nhu cầu thời đại: hiền tài phải ra trợ giúp nhà vua

 Sử dụng hình ảnh cụ thể “Một cái cột…trị bình”: Đề cao và khẳng định vai trò của hiền tài
 Dẫn lời Khổng Tử “Suy đi tính lại…hay sao”: Khẳng định sự tồn tại của nhân tài trong
nước
⇒ Đưa ra kết luận người hiền tài phải ra phục vụ hết mình cho triều đại mới

⇒ Quang Trung là vị vua yêu nước thương dân, có tấm lòng chiêu hiền đãi sĩ. Lời lẽ: khiêm
nhường, chân thành, tha thiết nhưng cũng kiên quyết, có sức thuyết phục cao

3. Con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước:


- Cách tiến cử những người hiền tài:

 Mọi tầng lớp đều được dâng thư bày tỏ việc nước
 Các quan được phép tiến cử người có tài nghệ.
 Những người ở ẩn được phép dâng sớ tự tiến cử.
⇒ Biện pháp cầu hiền đúng đắn, thiết thực và dễ thực hiện
- “Những ai … tôn vinh”: lời kêu gọi, động viên mọi người tài đức ra giúp nước:

⇒ Quang Trung là vị vua có tư tưởng tiến bộ

4. Nghệ thuật
- Cách nói sùng cổ

- Lời văn ngắn gọn, súc tích, tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ, khúc chiết đủ lí đủ tình

III. Kết bài:


- Khái quát lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của văn bản

- Tác phẩm thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung và triều đình Tây Sơn trong việc
cầu hiền tài phục vụ cho sự nghiệp dựng nước

Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và
mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại
có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của
vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức
mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc.
“Chiếu cầu hiền” đã được viết khi mà vua Lê Chiêu Thống đã “mời” quân Thanh vào xâm lược
nước ta. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ đã lên ngôi vua và đã lấy hiệu là Quang Trung. Quang Trung
đã đem quân ra Bắc để quét sạch hết 20 vạn quân Thanh và cả bọn tay sai và bè lũ bán nước. Khi
đã thua trận Lê Chiêu Thống cùng như đã cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị. Và lúc này
thì triều Lê sụp đổ, thay thế vào đó là triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Có thể thấy
rằng trước sự kiện trên đã có một quan thần trong triều Lê khả năng là do theo trung quân ái
quốc lỗi thời với thời Lê. Và dường như hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên dường như tất
cả đều trốn tránh ẩn nấp và cũng đã không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất
nước. Và khi đã đoán biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung cũng như đã liền phái
Ngô Thì Nhậm để có thể thay mình viết chiếu cầu hiền dùng làm để kêu gọi những người tài giỏi
ra cứu dân, giúp nước.
Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ ra kế sách
này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài trong thiên hạ. Ngô
Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì ông là người tài giỏi cũng là bậc
bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệnh
cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không
phải ban bố những mệnh lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là
phải tìm được người hiền tài ra giúp dân giúp nước.
Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như là sức
mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài chiếu nọ đã nói
lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói rằng đó chính là nhan đề
mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó là “Hiền tài là nguyên khí của quốc
gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự
nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao
sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những
gì vĩnh hằng và quan trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen
ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy
cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến là do trời
sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng của mình cống hiến
cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như cũng đã muốn cho sĩ phu hiền
tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua
giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của
những bậc hiền tài. Và ta như thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây
là một tính rất quan trọng cho chiếu cầu hiền.
Có thể thấy khi đến đoạn văn tiếp theo dường như cũng đã nói về nguyện vọng của nhà vua khi
mà ông đã mong muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây
dựng đất nước. Tác giả dường như đã đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và cả
chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Có lẽ ta như thấy được cách
trình bày thẳng thắn cho thấy được ra những sự trung thực thật thà cũng như là một sự quang
minh chính địa của vua Quang Trung. Cũng như thông qua đó ta thấy được sự chân thành và đó
còn chính là tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo
lắng của vua Quang Trung ở đây được ví như “trời còn tăm tối”hay là “đương ở buổi đầu của
nền đại định” và cả “công việc vừa mới mở ra” đó như cũng chính là những khó khăn bức thiết
của triều đại nhà Nguyễn, hơn hết đó là đất nước như cũng đang rơi vào tình thế khó khăn. Ta
cũng như đã thấy được chính hình ảnh đất nước được hiện ra qua những câu văn của Ngô Thì
Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó chính là một đất nước mà dường như ở đời đầu mới ở buổi rất khó
khăn, hơn nữa là tương lai còn chưa sáng rõ. Ở buổi đầu khó khăn như vậy thì việc thiếu nhân tài
thì làm sao có thể sáng được cơ chứ, và cũng chính vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài
về để có thể được phụng sự giúp đỡ vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Trong buổi đầu đó
thì dường như cả “kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, hay ngay cả việc biên ải chưa chưa yên, và
nhân dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với đó chính là “một cái cột
không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”. Khi nhìn vào thực tế thì “mưu lược một người không thể
dựng nghiệp trị bình”. Và cũng chính vì thế mà ta như thấy được vua Quang Trung như thật sáng
suốt biết bao khi đã biết được tầm quan trọng của người hiền tài.
Cho đến cuối cùng thì bài chiếu như đã nêu ra đó là chính sách cầu tài của vua Quang Trung.
Dường như ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong những đường lối chính sách của
vua mà thôi. Và chúng ta có thể đánh giá đó là những chính sách công bằng cho tất cả mọi
người, và cho thấy được vua Quang Trung là một vị vua anh minh, thương yêu nhân dân
Thêm vào đó nữa chính là cách tiến cử hết sức rộng mở đó chính là việc tự mình dâng sớ tâu bày
tất cả các sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Thông qua bài
chiếu ta thấy được tài năng biết trọng người tài, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Và đây
quả thực là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa chính trị vừa lại là một tác phẩm văn học có giá trị.

You might also like