You are on page 1of 28

Phần thứ tư

CHƯƠNG XVI GIỚI THIỆU VĂN HỌC Ả RẬP- HỒI GIÁO


VÀ TÁC PHẨM “NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM”
1 - Vùng văn hoá Ả rập - Hồi giáo
SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HỒI GIÁO
Khi đạo Gia Tô đang bành trướng ở phương Tây thì đạo Hồi xuất hiện ở vùng các
dân tộc Ả rập. Nơi đây các dân tộc du mục A rập thường hay đi đánh cướp vùng lân cận
hoặc chặn cướp các đoàn thương nhân đi qua sa mạc. Đầu thế kỉ thứ 7 họ dần dần định cư
vùng có thể làm nông nghiệp, lập ra thị trấn. Hai thị trấn cổ nhất là Medin và
Mecque
(Mecce, Mecca). Dân Arập vốn theo đa thần giáo, bấy giờ họ thờ một mảnh thiên thạch
(vẫn thạch) .
Nhân vật Mahomed (Mahomed có nghĩa là được tôn vinh) sinh năm 570
gần Mecce, nhà nghèo. Cậu bé đi chăn cừu, làm hướng đạo cho các đoàn thương nhân nên
có dịp đi nhiều nơi. Mahomed đã làm nô bộc cho một quả phụ giàu, rồi cưới bà ấy. Từ 40
tuổi đến 50, Mahomed có hành vi khác thường, đề xướng lối sống độc thân . Nhiều người
nhắc nhở đồn đại về ông như một sự lạ và đi nghe ông giảng đạo. Nhiều dân Do Thái bỏ
đa thần giáo mà tin theo Mahomed. Họ mời ông tới Medin, ông chưa đi mà gởi tín
đồ đi trước. Bọn hào mục địa phương ở Mecce định ám sát ông, đúng đêm ấy ông bỏ trốn .
Năm
622 cuộc đào tẩu của Mahomed đánh dấu sự bắt đầu kỉ nguyên Hồi Giáo.
Tới Medin, ông tổ chức tôn giáo mới thành công, lại tổ chức thánh chiến để trừng
phạt những kẻ chống đạo. Quân lính của hai thị trấn đánh nhau dữ dội, phần vì đức tin phần vì
nhân cơ hội này mà cướp bóc. Khi quân của ông chiến thắng, ông được rước về thị trấn
Mecce quê nhà. Về sau Mecce được coi là "đất thánh". Năm 62 tuổi, ông được toàn xứ Ả
rập tôn sùng là giáo chủ. Trước khi lâm chung, ông còn để lại những lời giảng nhân từ hấp
dẫn .
Giáo điều căn bản có thể gọn trong câu thứ nhất "Chỉ có một đức Chúa duy nhất là
Allah và một tiên tri của người là Mahomed". Câu thứ hai là "con người phải phục tùng
ý muốn của Chúa - như thế gọi là Islam " .
Nghi lễ cũng đơn giản với bốn điều răn cơ bản :
- Mỗi ngày cầu nguyện 5 lần và nhớ tắm rửa trước khi cầu nguyện .
- Một lần tối thiểu trong đời cần hành hương đến Mecque .
- Kiêng rượu và thịt heo
- Chiến đấu vì Chúa sẽ được lên thiên đàng .
Hồi nhỏ khi làm hướng đạo, Mahomed gặp một giáo sĩ Gia Tô và đi theo đạo này .
Khi sống ở Mêđin gần người Do thái, ông lại chịu ảnh hưởng Do thái giáo . Vậy đạo Hồi là
một hỗn hợp Gia tô và Do thái giáo .
Giáo chủ - nhà tiên tri Mahomed - có tài ngoại giao, vừa trí xảo vừa có thể dùng bạo
lực , biết tùy thời ( khi mềm dẻo hòa hoãn , khi tấn công quyết liệt) .

12
0
Các quốc vương Hồi giáo đầu tiên sống giản dị gương mẫu - như quốc vương
Aboukark và Giaó chủ Omar I . . . Dần dần về sau mọi quốc vương cũng giống như các vua
chúa phương Đông khác.
Đế quốc A rập lại chia ra thành ba xứ : Ai cập, Baghdad và Cordoue. Dần dà
trung tâm của vùng A rập là Iraq, thủ đô là Baghdad .
Nhìn chung văn hóa vùng Arập phát triển khá đều do học tập văn hoá từ các vùng
xung quanh từ Á sang Âu trong các cuộc tiếp xúc. Từ đó họ đóng góp nhiều sáng tạo, phát
triển, tiếp biến nền văn hoá khu vực của họ.

TÁM CUỘC THẬP TỰ CHINH - XUNG ĐỘT THIÊN CHÚA GIÁO VÀ HỒI GIÁO .
(từ thế kỉ 11 đến 13 ) Từ
năm 1096 đến 1270 xảy ra 8 cuộc thánh chiến . Nguyên
nhân là do xung đột đức tin của hai tôn giáo .
Kẻ gây ra chiến tranh là tín đồ đạo Gia Tô ở Tây Âu nhằm giải thoát thánh mộ chúa
Jesus do người Hồi Giáo chiếm đóng .
Thánh địa Jerusalem vốn thuộc tín đồ đạo Gia Tô nhưng đến thế kỉ 11 nhóm người
Thổ nhĩ kì theo đạo Hồi từ Tân cương đến, tiêu diệt đế quốc Ả rập ở Bagdad, đe dọa thành
Constantinope và châu Âu . . . và chiếm Jerusalem. Khi làm chủ xứ này, họ nghiêm cấm
tín đồ Gia Tô đi hành lễ. Nhân cơ hội này, các lãnh chúa phong kiến muốn chiếm thêm
đất, bọn võ sĩ thích phiêu lưu những nơi xa lạ, nông dân muốn tìm thêm đất cày cấy tự do. Lí
do khác: người Gia Tô ở Phi châu bị người Thổ đánh đuổi nay muốn phản công trả thù người
Thổ.
Giáo hoàng Urbain II tại hội nghị công giáo Clermon ngày 27 tháng 11 năm 1095
đã đề xướng cuộc thánh chiến và Pierre L'Ermite lãnh đạo việc hô hào quần chúng .
Trong bản thông tri gởi các giáo sĩ, Giáo hoàng đã hứa hẹn sẽ tha tội cho những tội
nhân nào tham dự chiến tranh. Vợ con, tài sản của chiến sĩ được giáo hội bảo vệ . Những kẻ
đói khổ, thất nghiệp, lưu manh thừa cơ hội kéo từng đoàn đi cướp giật. Đến đâu họ cũng bị
xua đuổi nguyền rủa đến đó. Họ chết đường chết xá rất nhiều. Qua tới vùng Tiểu Á, ít
người thoát khỏi tay người Thổ nhĩ kì mà trở về.
Trong cuộc chiến tranh dưới ngọn cờ thập tự, ngoài các lãnh chúa nhất là các
lãnh chúa Pháp thì không có quốc vương nào tham dự (Lãnh chúa là những người mang
danh hiệu quí tộc, cai trị từng vùng, dưới quyền lãnh đạo của quốc vương nhưng họ ít khi
chấp hành lệnh quốc vương).
Số lính chính qui của đoàn quân thập tự gồm một triệu người. Họ đến tụ họp trước
thành Constantinope năm 1097 theo sự chỉ huy của một ông hoàng Bỉ, công tước Godefroi de
Bouillon. Từ đó họ tiến quân sang Châu Á. Khi tới Jerusalem phần bị quân Thổ tiêu diệt,
phần vì thiếu nước uống, họ chết gần hết. Số tàn quân còn khoảng bốn chục ngàn. Nhờ đức
tin thúc đẩy, họ quyết liệt tấn công Jerusalem và khi chiếm được thành, họ tổ chức vùng
này thành một quốc gia phong kiến kiểu Châu Âu, gồm các lãnh thổ Edesse, Antioche và
Tripoli. Nhưng các xứ này lại xung đột với nhau. Quốc vương mới Jerusalem không đủ khả
năng chế ngự các chư hầu bởi họ theo đuổi các đường lối chính trị riêng.
Lúc này, vùng Jerusalem bị tấn công từ nhiều phía. Hoàng đế Alexis ở
thành Constantinope dùng đủ mọi cách giành lại xứ Antioche, còn người Hồi giáo thì
muốn lấy lại những đất đai mà họ đã mất. Rồi người Thổ phản công, đánh phá các vùng la
tinh (vùng

12
1
Gia Tô giáo). Năm 1146, họ chiếm xứ Edesse, xua đuổi tín đồ Gia Tô ra khỏi một phần xứ
sở và hăm dọa xứ Antioche. Nhiều cuộc chiến tranh thành chiến lại tiếp diễn .
Cuộc chiến tranh thập tự thứ 4 xảy ra năm 1202-1204. Lần này quân thập tự không
tiến vào Ai Cập và Palestine mà lại đánh phá thành Constantinope, phá hủy đế quốc
Hy Lạp, thành lập đế quốc La Tinh phía Đông (Đế quốc này tồn tại được trên nửa thế kỉ
đến
1261). Trong lúc đánh thành Constantinope, quân thập tự tham tàn man rợ . Họ đập phá các
di sản nghệ thuật để lấy ngọc vàng châu báu, nấu cả tượng đồng và những tác phẩm điêu
khắc cổ xưa để đúc tiền .
Lần thứ 5 quân thập tự đánh xứ Ai Cập nhưng không kết quả .
Lần thứ 6 hoàng đế Frederic II không đánh mà thương nghị với tín đồ đạo Hồi , xin
cho tín đồ Gia Tô được hành lễ ở Jerusalem .
Lần thứ 7 và 8 cuộc chiến của quân thập tự do Saint Louis điều khiển lại bị thất bại
thảm hại - và đó là lần cuối cùng .
Chiến tranh thập tự chinh phát sinh vì lí do tín ngưỡng nhưng kết quả của tám cuộc
chiến ấy chỉ làm cho đức tin của Gia tô giáo giảm đi và thánh địa Jerusalem vẫn không
được giải thoát. Thật ra ban đầu những người tham dự chiến tranh thập tự đều có một đức tin
hồn nhiên về đạo Gia Tô. Họ hưởng ứng lời kêu gọi của giaó hoàng một cách thành thực và
sẵn sàng nhận giáo hoàng làm người hướng đạo. Nhưng những người tiếp tục tham chiến
lại lợi dụng đức tin để kiếm lợi khiến đức tin bị tàn phá. Những cuộc thập tự về sau đã
mang tính chất chính trị và kinh tế hơn là đức tin .
Hàng ngàn lãnh chúa, võ sĩ phải bỏ mạng. Nhiều nhà quí tộc phải chịu phá sản
kiệt quệ trở thành dân nghèo. Trái lại giai cấp thương nhân thành thị nhờ chiến tranh mà
giàu lên. Họ đã bỏ tiền cho lãnh chúa đánh giặc nên họ chi phối được lãnh chúa hoặc
thoát ly khỏi kềm kẹp của bọn này và tăng cường uy quyền của họ. Chính phủ lãnh chúa yếu
đi thì chính phủ quân chủ trung ương mạnh lên, củng cố và bành trướng. Nhìn chung chiến
tranh làm chế độ phong kiến suy yếu đi .
Về kinh tế, quân thập tự chiếm hải cảng lớn ở Syrie tạo điều kiện cho các đô thị
Venice, Jaine, Pisc phát triển mạnh. Các hải cảng Marseille, Barcelona hoạt động lại được
nhờ con đường hàng hải Tây phương và Đông phương khai thông. Thương nghiệp các nước
chung quanh vùng Địa Trung Hải thịnh vượng và lấn át các trung tâm thương mại ở đại lục.
Sản phẩm phương Đông tràn về châu Âu nhất là vào hải cảng Ý (Italia). Thương nhân tải
về nào là thảm quí, gương soi, đồ đạc, khí giới chạm khắc cẩn ngọc vàng, vải quí, lụa
nhung. Những dân tộc Tây Âu sau khi tiếp xúc với nền văn minh phương Đông cao hơn đã
học được cả lối sống phong lưu cao nhã nên rất ưa thích những thứ xa xỉ phẩm này. Chiến
tranh thập tự làm cho chính trị suy yếu đồng thời có lợi cho công thương nghiệp phát triển
và một lần nữa chính nền công thương này lại giết chết hẳn chế độ phong kiến. Giai cấp thị
dân lớn mạnh đủ sức đương đầu với giới lãnh chúa phong kiến. Họ xây dựng một nền kinh
tế tư bản, họ lũng đoạn nền kinh tế nông nghiệp phong kiến và tổ chức một lực lượng chính trị
mới lấn át chính quyền phong kiến để một ngày kia họ làm cách mạng lật đổ chính
quyền đó, thành lập một xã hội khác- xã hội dựa trên công thương làm nền tảng.

2 – Hai tác phẩm văn học tiêu


biểu KINH CORAN
Kinh của Đạo Hồi (Islamism) gồm 114 chương (xurat). Mỗi xurat gồm nhiều aiat
(câu thơ). Toàn bộ cuốn kinh có 6 219 câu thơ. Mỗi chương có một tiêu đề là chủ đề bàn
luận, nhìn chung nội dung các chương không nhất quán .

12
2
Chương đầu dài nhất gần như tóm tắt toàn bộ nội dung kinh Coran. Các nhà thần
học Hồi giáo coi chương đầu như một quyển "bổn kinh" (kinh gốc).
Kinh Coran gồm những bài truyền giáo, luật lệ và qui định nghi lễ thờ cúng, những
lời niệm chú và cầu nguyện, những truyện giáo huấn và ngụ ngôn do Mohamed - người
được Thượng đế Allah giao phó sứ mệnh tiên tri và truyền giảng tôn giáo. Trước hết
Mohamed được "thiên khải tiên tri", làm một thiên sứ xuống trần truyền đạt lời Thượng đế .
Mohamed ghi nhớ những lời ấy .
Kinh Coran ghi lại hai thời kì truyền giáo của nhà tiên tri Mohamed, cũng là hai
lần thiên khải : thời kì ở Mecca và thời kì ở Medin, khoảng năm 610-632 . . .Khi Mohamed
còn sống, chưa có kinh Coran, ông tự tay ghi chép lời truyền giáo của mình. Sau khi ông
qua đời (632) chiến hữu của ông mới ghi chép thành văn bản. Văn bản sớm nhất còn lưu
giữ được quãng thế kỉ 7 - 8. Năm 1923 ở Cairo Ai cập giáo hội Islam chuẩn hóa lần cuối
văn bản, qui định kết cấu, qui tắc đọc, chính tả.v.v… cho phù hợp với sự phát triển của
ngôn ngữ Ả rập .
Nội dung kinh Coran nhằm chống lại chế độ công xã nguyên thủy và hệ tư tưởng
của nó, với tập tục lễ nghi tôn giáo nguyên thủy như ngẫu tượng giáo, đa thần giáo , chống
quan hệ chật hẹp của bộ lạc, chống chiến tranh cướp bóc và trả thù nợ máu.
Kinh Coran đã thần thánh hóa sự bất bình đẳng trong thế giới à rập , khẳng định
quyền tư hữu tài sản , xác định quan hệ áp bức bóc lột giữa người giàu kẻ nghèo , đặc biệt
giữa nam và nữ giới . Nó khẳng định tư tưởng "nhất thần giáo" - chỉ có đấng Allah là cao
quí nhất - là nguồn gốc của sự sống. Cơ sở tư tưởng triết học của Hồi Giáo là tinh thần của
truyện kể, ngụ ngôn như: sự sáng tạo thê gian, tội nguyên thủy , ngày tận thế , v.v…thật ra
bắt nguồn từ tư tưởng tôn giáo triết học Anh. Những tư tưởng này đã từng lưu hành trong các
giáo phái đạo Do thái và Đạo Thiên chúa rồi. Các giáo phái này đã coi kinh Coran là
một tôn giáo và phát sinh ra đạo Islam .
Thêm một nguồn đóng góp nữa là tôn giáo Doroastrer của người Iran từ thời cổ đại
(thế kỉ 7 tr. CN) và quan niệm Malich là vị thần cầm đầu âm phủ - di sản của Do thái giáo
và Thiên chúa giáo…Gia tài văn hóa dân gian của Ả rập cũng góp phần cấu thành bộ kinh
Coran. Trong bộ kinh có đủ sự truyền giảng về thiên đường , địa ngục , ngày sám hối, ngày
phán xét cuối cùng, về A dam và Eva, Jesus Christ … nghĩa là những chất liệu
truyền
thuyết của Kinh Thánh thiên chúa giáo .
KINH CORAN không trình bày một cách hệ thống giaó điều của Đạo. Nó chỉ
đặt cơ sở cho đức tin để sau này các nhà thần học phát triển và xây dựng hệ thống .
Phần lớn văn bản kinh Coran tường thuật những cuộc luận chiến giữa đức thánh
Allah với những người chống đối đạo hoặc những người còn do dự chưa tin đạo. Trong
kinh có những lời nhạo báng công kích những "dị giáo" như Do thái giáo và Thiên chúa
giáo.
Nhiều chỗ nội dung không nhất quán, mơ hồ, lộn xộn, mâu thuẫn, khó hiểu. Đó
cũng là quá trình hình thành tư tưởng của nhà tiên tri Mohamed và sự tìm tòi cách diễn
đạt tư tưởng mới . Từ đó đòi hỏi các nhà truyền giáo phải bình luận và chú giải kinh Coran
KINH CORAN gây ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển tư tưởng văn hóa, triết học,
đạo đức, luật pháp ở các nước Ả rập.
Kinh Coran trước hết là trước tác tôn giáo và luật pháp, và cũng là tác phẩm văn học
đầu tiên của nền văn học Ảrập. Ảnh hưởng của Coran với văn học các nước Hồi giáo
phương Đông cũng tương đương như Kinh Thánh đối với văn học phương Tây .

12
3
Từ thế kỉ 11-12, kinh Coran được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ Ả rập. Châu Âu dịch
kinh Coran để nghiên cứu từ thế kỉ 19.
Kinh Coran phản ánh một chặng đường của lịch sử tư tưởng nhân loại và lịch sử tôn
giáo.
NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM

Được kể vào khoảng trước sau năm 1400, tập truyện dân gian đồ sộ được sáng tác trên
các đất nước của các hoàng đế Ả rập - các nước nói ngữ hệ Ấn- Âu. Sau đó lại được bổ sung
qua nhiều thế kỉ, lưu truyền rộng rãi ở các nước Iran, Irăc , Aicập, Etiopia . . . rồi lan ra
khắp vùng Trung cận Đông. Cuối thế kỉ 14, bộ truyện được định hình .
Lần đầu tiên bộ truyện được công bố ở châu Âu (1704 -1709) trong bản dịch tiếng
Pháp, gồm 12 tập của học giả Antoine Galland. Sau đó bản tiếng Pháp được chuyển dịch
sang nhiều thứ tiếng khác trên thế giới .
Nghìn lẻ một đêm là một hệ thống truyện cổ xoay quanh một câu chuyện hạt nhân .
Đây là sự học tập kết cấu quen thuộc của những bộ truyện cổ Ấn Độ . Ngày xưa ở miền Đông
Ả rập có một nhà vua tên Sariya, vì bà hoàng hậu ngoại tình
nên ông vua căm ghét tất cả phụ nữ. Tính nết ông trở nên hung dữ tàn bạo. Để thỏa nỗi hờn
căm phụ nữ, ông đặt ra luật lệ: mỗi ngày ông cưới một thiếu nữ, sáng sớm hôm sau đem đi
hành quyết… Đã có bao nhiêu cô gái trẻ chết thê thảm, dân chúng khắp nơi hoang mang lo
sợ, những người có con gái đẹp dắt díu con cháu tìm nơi trốn tránh, nhưng thật khó thoát
khỏi bàn tay khát máu của nhà vua .
Sắp đến lượt nàng Seherazat con gái xinh đẹp của vị quan đại thần phải đi nộp
mình cho nhà vua. Quan đại thần buồn rầu vô hạn, cố tìm cách che giấu con mình nên
ngày đêm lo lắng mất ăn mất ngủ. Ông nói thực sự tình với con gái để bàn cách đối
phó . Seherazat là cô gái thông minh tài trí giàu nghị lực nên nàng an ủi cha khuyên
cha cứ yên tâm dẫn nàng vào triều vì nàng đã có mưu kế . Nàng đem theo cô em gái nhỏ ,
dự định sẽ thay nhau kể chuyện cho nhà vua nghe. Mỗi đêm một truyện , nhưng chưa hết
đêm thì cô kể sang truyện kế tiếp, trời sáng câu chuyện hấp dẫn chưa kể xong. Mỗi câu
chuyện còn liên quan đến chuyện sau khiến nhà vua không thể dứt. Suốt một nghìn lẻ một
đêm với tài nhớ chuyện và tài kể hấp dẫn của nàng, với sức mạnh cảm hóa của những nhân
vật phụ nữ trong truyện, nhà vua Sariya được đưa vào một thế giới kỳ thú , khiến ông ta
suy nghĩ nghiêm túc hơn, thấu đáo hơn về con người. Nhà vua đã nguôi quên mối hận của
mình và tuyên bố bãi bỏ lệnh tàn bạo ba năm trước, chính thức cưới Seherazat làm hoàng
hậu
Như mọi truyện kể dân gian, Nghìn Lẻ Một Đêm phản ánh nguyện vọng và ước mơ
của dân chúng trong một xã hội bị áp bức cùng khổ. Họ chỉ mong thái bình yên ấm, may
mắn hạnh phúc. Như các truyện Cuộc hành trình trên biển của thuyền trưởng Xinbat,
Allahdanh và cây đèn thần, Người câu cá với vị thần, Con ngựa thần kì .v.v. . .
Nhiều truyện phản ánh bản chất tốt đẹp của người lao động cần cù chăm chỉ, kiên cường
dũng cảm thông minh tài trí, giàu lòng thương người .
Ali Baba và bốn mươi tên cướp . Truyện kể một cô gái nô lệ tên là Morgan đã cứu
sống gia đình bác tiều phu Ali Baba thoát khỏi bàn tay độc ác của tên cướp Hat xanh .
Nghìn lẻ một đêm còn tập trung vạch trần tội ác của vua chúa, quan chức, phú
thương, phù thủy, bọn bóc lột, nham hiểm tàn ác... Truyện nào cũng thể hiện chân lý thiện
thắng ác, ở hiền gặp lành mang ý nghĩa giáo dục cảm hóa con người.
Tuy nhiên Nghìn Lẻ Một Đêm cũng còn có những nhược điểm như mê tín dị đoan,
mù quáng tin vào số mệnh, lo sợ trời đất quỷ thần khiến cho truyện trở nên li kì huyền bí

12
4
thiếu tính hiện thực. Điều quan trọng nhất là bộ truyện đã mô tả được cả một thế giới muôn
mặt đa dạng của đời sống các dân tộc Ả rập thời Trung cổ một cách rõ nét và sinh động nhờ óc
tưởng tượng phong phú. Đủ mọi loại nhân vật trong xã hội Ả rập , những phong cảnh rộng
lớn luôn luôn thay đổi, những sự kiện gay cấn li kì . Nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện rất
hoàn chỉnh , đột xuất bất ngờ, phức tạp mà chặt chẽ từ các tình tiết , ngôn ngữ kể và tả thật
điêu luyện, như nhà văn M.Gorki nhận xét : “ngôn ngữ Nghìn Lẻ Một Đêm là những
sợi tơ muôn màu lan tỏa khắp bốn phương trời, một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng phủ
trên mặt đất “. Tác phẩm qua tay nhiều người kể và chép nên nhiều truyện không
còn giữ nguyên bản gốc mà bị pha tạp với những yếu tố truyện ngắn hiện đại .
Từ khi ra đời đến nay, Nghìn Lẻ Một Đêm đã trở thành tài sản văn hóa chung của
nhân loại, gây ảnh hưởng lớn từ Đông sang Tây. nhiều người đã sử dụng cốt truyện Nghìn
Lẻ Một Đêm để sáng tác lại phóng tác thành kịch ballet, phim truyện, phim hoạt hình, ca vũ
kịch .v.v . . .
TÍNH THỐNG NHẤT KHÔNG PHÂN BIỆT DÂN TỘC QUỐC GIA CỦA BỘ
TRUYỆN
:
Do sự giao lưu mạnh mẽ (làm ăn, buôn bán mật thiết giữa các dân tộc Ả rập và do
cùng chung tín ngưỡng Đạo Hồi, những truyện cổ Ả rập không phân biệt quốc gia dân tộc
mà trở nên tác phẩm chung của khu vực. Đó là điều độc đáo của bộ truyện này .

Hướng dẫn ôn tập phần văn học Ả rập

1. Trình bày kết cấu của “Nghìn lẻ một đêm” . Ý nghĩa thi pháp của kết cấu đó.
2. Đọc kỹ 3 truyện liên hoàn “Chuyến du hành của thuyền trưởng Xin bát”, thuyết trình về
các vấn đề sau :
+ Khát vọng kinh tế của người Ả rập ?
+ Mẫu người lí tưỏng của vùng đất Ả ập ?
+ Ý nghĩa con số 3 ?
3. Đọc truyện “Allahdanh và cây đèn thần”, trình bày các vấn đề sau :
+Thân phận người lao động bình dân .
+ Tình yêu lãng mạn của công chúa và cảm xúc thẩm mỹ trong tình yêu của
người phụ nữ Ả rập .
4. Đọc truyện “Alibaba và bốn mươi tên cướp”, anh chị suy nghĩ gì về hình tượng nhân vật
nữ chính: cô Morgiane (lòng nhân ái, trí tuệ, quả cảm ... ).
5. Chứng minh rằng “ẩn ức sa mạc” như một đặc điểm thi pháp của truyện cổ “Nghìn lẻ
một đêm”.
6. So sánh tính “văn hoá vùng” của “Nghìn lẻ một đêm” với “Truyện cổ Grim“ của Đức

12
5
ĐỌC THÊM 1

1. TỤNG CA USHA - NỮ THẦN RẠNG ĐÔNG


( trích kinh Rig Veda)
1. Ánh sáng đang tới kìa, ánh sáng đẹp nhất trong mọi nguồn ánh sáng. Ánh sáng
sinh sôi, lan tỏa, ngập tràn.
Bóng đêm đang lui chân để mặt trời bừng dậy, nhường không gian cho buổi
sớm chào đời.
2. Nàng hiện ra kìa, Rạng Đông tươi tắn, làn da trắng sáng trong, trước Nàng,

em Bóng Đêm da đen rời gót khỏi nơi cư ngụ.
Hai chị em bất tử, theo bước nhau, thay đổi sắc màu và cùng tiến về phía trước.
3. Chung bước trên đường xa tít tắp, được các thần linh dạy bảo, hai nữ thần nối
gót nhau đi.
Cùng tươi đẹp, khác màu da nhưng chung phận sự. Đêm tối với Rạng Đông không
cãi cọ bất hòa song cũng không ở cùng nhau.
4. Ôi Usha, chúng tôi ngưỡng mộ Nàng, người dẫn dắt những âm thanh vui vẻ.
Trong ánh sáng chói lọi, Nàng mở rộng cổng trời.
Thức tỉnh toàn vũ trụ, Nàng làm phát lộ vô vàn kho báu thế gian: Nàng đánh
thức
mọi sinh linh trên trái đất.
5. Nàng bước tới những ai đang mê man vùi ngủ: kẻ do vui thú, kẻ bởi giàu sang,
người vì tín ngưỡng.
Ảo mộng triền miên tối tăm che mắt họ: Rạng Đông đã đến, giác tỉnh khắp muôn
người.
6. Đây kẻ chiếm địa vị, kia người tìm vinh quang, người này khát lộc tài, kẻ
khác
say công việc.
Ai nấy theo đuổi nghề nghiệp riêng mình, còn bổn phận Rạng Đông, Nàng đánh
thức tất cả.
7. Chúng ta thấy Nàng trên cao kia, trong sáng, con gái của Bầu trời, cô thiếu
nữ
trẻ trung, ửng hồng trong xiêm y rực rỡ.
Nàng, bà chúa của mọi tài nguyên trên trái đất, rạng ngời tươi trẻ, đang soi
chiếu
chúng ta, Rạng Đông lộng lẫy, buổi sớm mai này.
8. Nàng, người đầu tiên của những Ban Mai bất tử rồi đây sẽ đến với chúng ta,
đang theo bước những Bình Minh đã ra đi ngày trước.
Ôi Usha, bừng lên, tăng khí lực cho muôn loài sinh sống – Và với cả những người đã
chết, xin đánh thức họ khỏi giấc ngủ mơ mòng.

2. CHANDOGYA UPANISHAD
( trích trong Kinh Upanisad)
Chandogya Upanishad gồm 8 chương. Sau hai chương đầu bàn về một số vấn đề nghi thức
tế lễ ..., các chương còn lại bàn về bản chất của Brahman. Chúng tôi trích dưới đây một số
mục (phần) của chương 6 thuộc về bài thuyết giảng của UddAllahka Aruni cho Svetaketu
(con trai đồng thời là học trò của ông), liên quan đến tính duy nhất, bất biến của Brahman,
được minh họa bằng hàng loạt các thí dụ.
2.1. Khanda thứ mười
1. “Này con trai ta, những dòng sông kia đang chảy, con sông phía đông (như
sông Hằng) chảy về hướng tây. Chúng bắt nguồn từ biển rồi lại đổ ra biển (vì những đám
mây đã lấy hơi nước từ nước của biển bốc lên trời rồi gởi trả lại chúng cho biển dưới
dạng mưa). Chúng trở nên chính biển cả. Và khi những con sông đó ở trong biển, nhập
vào làm một với biển cả, không sao biết được, ta là sông này hay sông kia ”.
2. “Cũng như vậy, con ạ, mọi tạo vật sau khi sinh Xuất từ Thực Tại cũng không biết
chính chúng đã trở về từ Thực Tại. Những tạo vật đó dù giờ đây là gì đi nữa, sư tử hay chó
sói, lợn hay giun dế, ruồi hay muỗi, .... tất cả chúng đều xuất phát từ Thực Tại”.
3. “Đó, chính đó là cái bản chất tế vi, tất cả những gì tồn tại đều có tự ngã
của mình trong cái đó. Cái đó là Thực Tại. Cái đó là Tự Ngã và con, Svetaketu, con
cũng là cái đó”.
“Thưa cha, làm ơn giảng giải thêm nữa cho con”. Người con nói.
“Được” cha trả lời.
2.2 – Khanda thứ mười một
1. “Nếu ai đó định đốn ngang rễ của một cái cây lớn, nó ứa nhựa nhưng vẫn sống.
Nếu anh ta đốn ngang thân cây, nó ứa nhựa nhưng vẫn sống. Tự Ngã sống động lan tỏa,
thâm nhập cái cây đó khiến nó đứng vững chãi, hấp thụ chất dinh dưỡng và vui thú”.
2. “Nhưng nếu cuộc sống (Tự Ngã sống động) rời khỏi một cành nhánh nào
của cây, nhánh cây đó sẽ tàn lụi, nếu Tự Ngã lìa bỏ cành thứ hai, cành ấy phải úa héo,
nếu Tự Ngã lìa bỏ cành thứ ba, cành này cũng rã rời. Nếu tự ngã rời bỏ toàn bộ cái cây,
cả cây sẽ chết. Cũng đúng như vậy đó, con trai ta ạ, hãy biết thế”. Vì vậy người cha nói.
3. “Cái thân xác này sẽ tàn tạ và sẽ chết khi Tự Ngã sống động rời khỏi nó, Tự
Ngã sống động thì không chết”
“Đó, chính đó là cái bản chất tế vi, tất cả những gì tồn tại đều có tự ngã của
mình
trong cái đó. Cái đó là Thực Tại. Cái đó là Tự Ngã và con, Svetaketu, con cũng là cái
đó”.
“Thưa cha, làm ơn giảng giải thêm nữa cho con”. Người con nói.
“Được” cha trả lời.
2.3 – Khanda thứ mười hai
1. “Hãy mang về đây một trái vả”
“Thưa cha, nó đây”
“Hãy bửa nó ra”
“Thưa cha, con đã bửa rồi”
“Con thấy gì trong đó?”
“Những cái hạt rất nhỏ ạ”
“Hãy bửa một hạt”
“Con đã bửa một hạt, thưa Cha”
“Con thấy gì trong đó?”
“Không gì cả ạ, thưa Cha”
1. Người Cha nói:”Con trai của ta, cái bản chất tế vi mà con không thể nhận
thấy, chính nó đã làm cho cây vả to lớn kia tồn tại”.
3.”Con ơi, hãy tin điều đó. Đó, chính đó là cái bản chất tế vi, tất cả những gì tồn
tại đều có tự ngã của mình trong cái đó. Cái đó là Thực Tại. Cái đó là Tự Ngã và
con, Svetaketu, con cũng là cái đó”.
“Thưa cha, làm ơn giảng giải thêm nữa cho con”. Người con nói.
“Được” cha trả lời.

12
2 .4 – Khanda thứ mười ba
1.
“Hãy thả muối này vào nước rồi sáng mai đến gặp
ta” Người con làm như cha bảo.
Người cha nói: “Hãy mang đưa tat chỗ muối con đã cho vào nước đêm qua”.
Người con tìm kiếm nhưng không thấy, tất nhiên, vì muối đã hòa tan trong nước.
2.
Người cha nói: “Hãy nếm nước đó ở trên bề mặt. Nó thế
nào?” Con trả lời:”Nó mặn ạ”.
“Hãy nếm nước đó ở khoảng giữa. Thế nào?”
“Thưa, mặn ạ”
“Hãy nếm nước đó ở đáy, thế nào?”
“Mặn, thưa cha”
Cha bảo: “Đổ nước đó đi và đến gặp ta đây”.
Người con đổ nước đi nhưng muối vẫn tồn tại mãi mãi.
Khi ấy người cha bảo: “Ở đây cũng thế, con ạ, không ngờ vực gì nữa, con không
nhận biết được Thực Tại (Sat) nhưng thực ra nó vẫn tồn tại”.
3.
“Đó, chính đó là cái bản chất tế vi, tất cả những gì tồn tại đều có tự ngã của
mình trong cái đó. Cái đó là Thực Tại. Cái đó là Tự Ngã và con, Svetaketu, con
cũng là cái đó”.
TIỂU DẪN
Diễn đàn tư tưởng của Ấn Dộ, cho đến gần hết nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước
công nguyên, về cơ bản là sự độc thoại của tôn giáo, triết học, văn học, đạo đức,... chính
thống BAllahmon . Khi bước sang thế kỷ thứ VI trước công nguyên thì bắt đầu chuyển
mạnh thành đối thoại. Đã xuất hiện nhiều phong trào rộng lớn với các lãnh tụ tinh thần xuất
sắc dũng cảm phủ nhận hệ thống đẳng cấp và nghi lễ trong tôn giáo BAllahmon, đặt lại vấn đề
đối với các nghiên cứu siêu hình của nó, đồng thời, thiết lập trên những điều kiện xã hội đã
thay đổi những cơ sở mới cho hành động và tiến bộ ý thức của con người. Trong đó, trở thành
có đặc trưng rõ nét như những truyền thống lớn, phải kể đến đạo Jain và đạo Phật.
Hai tôn giáo này được sáng lập bởi Vardhamana Mahavira, tức Jina và Gautama
Siddhartha, tức Buddha (đức Phật) - những đại sư giác ngộ nhiệt thành xưng tụng yếu tố
thần thánh trong nhân cách con người và thuyết giảng những nguyên tắc đạo đức của tình
yêu nhân loại, lòng trắc ẩn và đức vị tha. Sự xuất hiện của hai tôn giáo mới cũng làm nảy
sinh hai nền văn học phong phú và đều có tính chất linh thánh: văn học đạo Jain và văn học
Phật giáo mà các tác phẩm thực ra là sự ghi chép lại những bài thuyết giảng của các vị chủ
soái tôn giáo. Ở thời kỳ đầu, cả hai đều từ chối sử dụng ngôn ngữ Sanskrit và tìm kiếm một
ngôn ngữ văn chương của riêng mình: văn học đạo Jain dùng ngôn ngữ Ardhamagadhi còn
văn học Phật giáo dùng ngôn ngữ Pali - những ngôn ngữ phát sinh và có tính chất “tự
nhiên” hơn so với Sanskrit, thường gọi là ngôn ngữ Prakrit.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của đạo Jain chỉ hạn chế trong phạm vi Ấn độ và nhiều mặt, không
thể so sánh với đạo Phật. Hứng thú văn chương cũng như giá trị văn chương trong các kinh điển
đạo Jain cũng ít hơn nhiều so với các kinh Phật.
Đức Phật Gautama Siddhartha (563 – 483 trước CN)
Đó chính là “con người vĩ đại nhất từng xuất hiện trên thế gian này” (ý kiến của thi
hào R. Tagore). Xuất thân là một hoàng tử, vào tuổi 29, ngài đã từ giã vợ con, từ bỏ vương

12
8
quyền cùng mọi của cải, quyền hành, lạc thú để dấn bước trên hành trình gian nan và căng
thẳng của sự nghiên cứu tinh thần tìm lối giải quyết những nổi khổ của nhân lọai. Sau khi
giác ngộ ở tuổi 35, ngài đã cống hiến cả 45 năm còn lại của cuộc đời mình để giác ngộ
chúng sinh. Ngay trong thiên niên kỷ thứ nhất, tôn giáo của ngài đã lan truyền rộng rãi
từ Địa Trung Hải tới Nhật Bản và mặc dù địa vị bị suy thoái khá sớm ở Ấn độ (ngày nay
chỉ còn khoảng 1% dân số theo đạo Phật) nhưng Phật giáo vẫn là một trong những tôn giáo
có tính chất quốc tế quan trọng nhất của nhân loại thế kỷ 20 với hơn 500 triệu tín đồ khắp các
nước Ceylan, Miến Điện, Thái lan, Cam pu chia, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, Trung Quốc,
Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên, Đài Loan, một vài vùng ở Ấn độ, Pakistan, Nepal và ở
Liên Xô (cũ)......
Để có thể đạt những thành tựu vĩ đại như vậy, một sức sống lâu bền và một sự chinh
phục diệu kỳ như vậy (rất cần nhấn mạnh đây là một sự chinh phục hoàn toàn văn hóa –
con đường truyền bá đạo Phật qua bao nhiêu thời đại, tới nhiều xứ sở khác nhau chưa từng khi
nào theo sau lực lượng xâm lược và chưa từng làm đổ một giọt máu nào) chắc chắn trong
thông điệp của đức Phật phải chứa đựng những điều trọng yếu đáp ứng được những yêu cầu
cơ bản, những khao khát muôn thuở của tinh thần nhân loại. Vậy thì những điều trọng yếu
ấy là đâu?
Phải chăng ở ngay xuất phát điểm khi đức Phật không chú tâm tới những nguyên tắc
siêu hình khó nắm bắt ẩn dưới thế giới biểu hiện mà chỉ đau đáu với những nỗi đau của
nhân loại chúng ta “nước mắt chúng sinh trong ba ngàn thế giới đem chứa tích lại
còn nhiều hơn nước trong bốn bể” ?!. Nhưng không chỉ than van, ngài dạy một thái độ đầy
hiểu biết trước đau khổ rằng mọi đau khổ do ở sự thay đổi, ở trạng thái bị quy định và những
nỗi thống khổ như vậy là chung cho tất cả, chẳng trừ một ai. Mọi tạo vật, mọi hiện tượng,
mọi quá trình có sinh thì có diệt, có xuất hiện có biến mất.... Phải thừa nhận chân lý đó,
phải thấu rõ nó. Khi tri thức tỉnh dậy ở trong ta, tiêu diệt ngu mê, ánh sáng tỏa ra, xua
tan tăm tối, khi chúng ta dập tắt ngọn lửa tham lam, sân hận, si mê dấy lên từ ý thức lầm lạc
về tự kỷ, tâm sẽ mát mẻ, yên bình, an lạc. Chính sự tịch ấy là Niết bàn (Nirvana) – nơi
tinh thần được giải thoát.
Tiếp theo, Phật bảo rằng những giả thuyết về khởi thủy hay sự hủy diệt thế giới ...
không cần thiết gì cho việc sống một cuộc sống tốt đẹp bây giờ , nơi này, trên trái đất. Phủ
nhận cả hai cực đoan của lối sống hưởng lạc và khổ hạnh, Phật hướng dẫn con đường ở giữa
(trung đạo). Giác ngộ chân lý chỉ có thể thu hoạch bằng “một sự hoán cải trong tinh thần”,
qua “khuôn đúc toàn thể nhân cách, rèn luyện xúc cảm và điều tiết ý chí”, Tri là Hành.
Bình luận về chân lý Phật giáo, Rhys David từng hết lời ca ngợi: “Chưa từng có
trong lịch sử thế giới một chương trình cứu rỗi được thể hiện đơn giản đến thế trong bản
chất; tự do đến thế, thoát khỏi mọi yếu tố siêu nhân; không hề phụ thuộc vào và thậm chí
tương phản đến thế với niềm tin có một linh hồn và một hy vọng vào kiếp sau”.
Đông đảo nhân loại nhận thấy đây là cái dành cho họ, an ủi thân phận trần tục và
những khổ đau muôn thuở của họ. Hơn hai ngàn năm trăm năm sau đức Phật, trái đất cũng
chưa dịu mát hơn bởi vẫn còn lửa chiến tranh, xung đột, hằn thù, áp bức, bóc lột ... Người ta,
mỗi cá nhân và mỗi dân tộc, chưa hết mê lầm về Ngã. Giọng nói thâm trầm của đức Phật kêu
gọi từ bi, trắc ẩn vẫn vang trong khát vọng của ngàn vạn con tim: “oán hờn không trừ diệt
được oán hờn. Oán hờn phải giải quyết bằng yêu thương, đấy là một định luật vĩnh cửu”.

12
9
Giá trị cao cả của kinh Phật chủ yếu nằm ở đó, và nó còn rất xuất sắc và hấp dẫn ở
tính văn chương. Với phong cách trung thực, thẳng thắn, sống động và sắc sảo, sáng rõ và đầy
sức thuyết phục; với những so sánh giản dị, đời thường, những ngụ ngôn nhẹ nhàng mà sâu sắc,
đôi khi những câu chuyện hài hước hóm hỉnh. Với ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, kinh Phật
là một mẫu mực tuyệt vời của nghệ thuật thuyết pháp.
Jataka (Chuyện tiền thân đức Phật) còn gọi là Kinh Bổn sinh hay Bổn sinh
truyện thuộc Tiểu bộ kinh trong kinh tạng Pali gồm 547 pháp thoại. Kinh kể các câu
chuyện tiền thân của đức Phật, có tác dụng giáo dục lớn về đạo đức Phật giáo đồng thời
là một tác phẩm văn học có giá trị. Về kết cấu, mỗi pháp thoại có ba thành phần: 1 – câu
chuyện xảy ra trong hiện tại gợi nhớ đến một câu chuyện xảy ra trong tiền kiếp. 2 - Phật
kể lại câu chuyện tiền thân. 3 - Nhận diện các nhân vật trong câu chuyện tiền thân. Trong
mỗi pháp thoại đều có các bài kệ bằng thơ, tóm tắt thuyết giảng pháp lành của đức Phật.
Tiền thân Silavaca (Jat 319)- con người không biết ơn
Câu chuyện này khi ở tại Trúc Lâm, một bậc đạo sư đã kể lại về Đề bà đạt đa
(Silavaca). Các tỳ kheo tại pháp đường ngồi nói chuyện: Thưa các hiền giả, Đề bà đạt đa vô
ơn, không biết những công đức của Như lai. Bậc Đại sư đến, hỏi: Này các tỳ kheo, các
ngươi ngồi ở đây đang nói chuyện gì? Sau khi được biết câu chuyện ấy, bậc Đạo sư nói:
Này các tỳkheo, không phải chỉ nay. Đề bà đạt đa mới vô ơn. Trước kia, nó cũng đã vô ơn
rồi. Nó không bao giờ biết công đức gì của Ta! Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của họ, bậc
Đạo sư kể lại câu chuyện quá khứ:
Thuở xưa, khi vua Brahamdatta trị vì ở Ballahnai, Bồ tát sanh trong bụng một con
voi ở núi Hy mã lạp sơn. Khi từ bụng mẹ sinh ra, Bồ tát toàn trắng như một khối bạc; con
mắt Bồ tát giống như những hòn châu báu, chói sáng như năm loại ánh sáng; miệng giống
như tấm màn đỏ; vòi giống như sợi dây bạc điểm thêm những chấm vàng đỏ. Bốn chân
mài láng như sơn mài! Như vậy, thân hình Bồ tát có sắc đẹp tối thượng, trang điểm với
mười bAllah mật tuyệt hảo. Khi Bồ tát lớn lên, tất cả những con voi ở Hy mã lạp sơn tụ họp
lại để hầu hạ Bồ tát. Khi sống ở núi Hy mã lạp sơn cùng với 80.000 con voi, Bồ tát thấy tội
lỗi của đàn voi trong tương lai, nên tách rời khỏi đàn, sống một mình trong rừng, và với đức
hạnh của mình, được gọi là Tượng vương có đức hạnh.
Một người sống ở Ba la nại, chưa quen sống ở rừng, đi vào núi Hy mã lạp sơn, tìm
những vật liệu cho nghề nghiệp nuôi sống của mình, không nhận định được phương hướng, lạc
đường hoảng hốt vì sợ bị chết, vừa đi vừa khoa tay than khóc. Bồ tát nghe nó than khóc quá độ,
động lòng thương, muốn cứu nó thoát khổ, liền đi đến gần nó. Nó thấy Bồ tát, hoảng sợ
chạy trốn. Bồ tát thấy nó chạy, liền đứng lại ngay tại chỗ ấy. Người ấy thấy Bồ tát đứng, cũng
đứng lại. Bồ tát đi đến, người ấy lại bỏ chạy. Khi thấy Bồ tát đứng, cũng đứng lại. Bồ tát đi
đến, người ấy lại bỏ chạy. Khi thấy Bồ tát đứng, nó đứng lại và suy nghĩ: Con voi này, khi
ta chạy thời đứng lại, khi ta đứng thời đi đến gần, nó không có ý muốn hại ta, nó muốn
giúp ta thoát khỏi khổ này. Nghĩ vậy, trở thành mạnh dạn, nó đứng lại. Bồ tát đi đến gần
và nói: Này bạn, sao bạn lại đi lang thang ở đây, khóc than như vậy?
Thưa chủ, không nhận định được phương hướng, lạc đường, tôi sợ chết ! Rồi Bồ tát đưa
người ấy về trú xứ của mình, trong một vài ngày, thết đãi nó với trái cây và những vật
thực khác, nói với nó: Này bạn, chớ sợ hãi. Ta sẽ đưa ngươi đến con đường của loài người
đi ! Bồ tát để nó ngồi trên lưng đưa nó đến con đường có loài người đi. Người ấy là một
người phản bạn, nghĩ rằng nếu có ai hỏi, sẽ nói lên những gì cần phải nói. Tuy ngồi trên
lưng Bồ tát, nhưng người ấy vừa đi vừa nhận diện tướng cây, tướng núi. Bồ tát đi ra khỏi
rừng, đứng trên con đường lớn đưa đến Ballah nại, tiễn người ấy đi và nói: Này bạn, hãy đi

13
0
theo con đường này. Nếu có ai hỏi hay không hỏi chỗ của Ta, chớ có nói cho ai biết. Nói
xong, để người ấy đi, rồi Bồ tát trở lại trú xứ của mình.
Người ấy đến Ba la nại, trong khi đang đi đến con đường của người thợ ngà voi .
Thấy các đồ vật được làm từ ngà voi, nó hỏi : Các bạn, được ngà một con voi đang sống, có
ưa lấy không? Bạn nói gì vậy. Ngà con voi đang sống có giá trị hơn ngà con voi đã chết rồi.
Ta sẽ đem về cho bạn ngà một con voi đang sống ! Sau khi chuẩn bị lương thực, đem theo
một cái cưa sắc bén, nó đi đến trú xứ của Bồ tát. Bồ tát thấy nó liền hỏi: Ngươi đến đây vì
mục đích gì ? Thưa chủ, tôi nghèo khổ, sinh sống quá khổ cực. Nếu bạn cho tôi đôi ngà
của bạn, tôi sẽ bán chúng lấy tiền để nuôi sống. Ta cho bạn ngà của Ta, bạn có cây cưa để cưa
cặp ngà không ? Thưa chủ, tôi đến đây có đem theo cưa. Vậy hãy lấy cưa, cưa ngà để đem về.
Rồi Bồ tát co hai chân lại, ngồi xuống như con bò ngồi. Người ấy cưa hai ngà tối thượng
của con voi ấy. Bồ tát lấy cái vòi giao hai cái ngà cho nó rồi nói: Này bạn, không phải
vì không thích ý, vì không ưa mà Ta cho hai cái ngà này. Nhưng ngàn lần, trăm ngàn lần
thân yêu đối với Ta là cái ngà giải thoát về giác ngộ, ngà này có thể giúp Ta hiểu tất cả các
Pháp. Do vậy, mong rằng sự bố thí những ngà này của Ta sẽ đem lại cho Ta Nhứt thiết trí !
Với lời nói ấy, Bồ tát đưa hai cái ngà cho người ấy như là cái giá của Nhứt thiết trí. Nó lấy là
xong, đem bán đi, khi tiền tiêu hết rồi, lại đến Bồ tát rồi nói:
Thưa chủ, sau khi bán hai cái ngà của chủ, với tiền lấy được, tôi chi trả hết nợ cũ.
Vậy hãy cho tôi cái ngà của chủ, với tiền lấy được, tôi chi trả hết nợ cũ. Vậy hãy cho tôi các
ngà còn lại ! Bồ tát chấp thuận, bảo cưa như lần trước các ngà còn lại. Người ấy đem bán
chúng, rồi lại đến và nói: Tôi không thể sống được hãy cho tôi chân gốc của cái ngà.
Tốt lắm. Con voi nói và ngồi xuống như lần trước. Con người độc ác ấy đạp lên trên cái
vòi giống như sợi dây bạc của bậc Đại chúng sanh, leo lên trên đầu voi như đảnh núi Kelasa,
đánh vào gốc chân của hai cái ngà, móc thịt ra, leo lên trên đỉnh đầu, dùng cưa sắc bén cưa cái
gốc chân ngà, lấy đem đi. Khi người ác độc ấy vừa rời khỏi tầm mắt của Bồ tát, thì quả đất
cứng dày đặc , dài hơn 200.000 do tuần, có thể chở nổi sức nặng kinh khủng của núi Tu di, với
các triền núi bao vây, với tất cả phân tiểu ghê tởm hôi thối; quả đất không thể chịu đựng nổi,
nứt ra tạo thành một vực thẳm. Các ngọn lửa từ nơi “Đáy đại A tỳ địa ngục phun lên, bao
phủ con người phản bạn với một cái màn tử vong, cuốn lấy nó đem đi. Như vậy, khi con
người độc ác ấy bị nuốt vào trong lòng đất, vị thần trú ở nơi khóm rừng làm vang dậy
khắp cả khu rừng với lời nói: Người bạn vô ơn phản bội, dầu có được quốc độ của vua
Chuyển luân cũng không cảm thấy thỏa mãn. Và để thuyết pháp, thiên nhân ấy nói lên bài
kệ này:
“Con người không biết ơn,
Dầu được cho quả đất,
Luôn luôn thấy kẽ hở,
Không bao giờ thỏa mãn”.
Như vậy, thiên nhân thuyết pháp, làm vang động cả khu rừng ấy, Bồ tát sống cho
đến mạng chung, đi theo nghiệp của mình.
Bậc đạo sư nói: Này các tỳ kheo, không phải chỉ nay Đề bà đạt đa mới vô ơn. Trong
quá khứ cũng đã vô ơn rồi! Sau khi kể lại pháp thoại ấy, bậc đạo sư nhận diện tiền thân như
sau: Lúc bấy giờ, người bạn phản bội là Đề bà đạt đa. Vị thiên nhân ở thân cây là Xá lợi
phất. Còn Tượng vương có đức hạnh là Ta vậy !
( THÍCH MINH CHÂU dịch Truyện tiền thân đức Phật - Viện nghiên cứu Phật
học Việt Nam, 1991 - Tập 2, tr 233 – 236 )
MAPADA ( trích kinh PHÁP CÚ)

13
1
Trong kinh tạng Pali, Kinh Pháp cú thuộc Tiểu bộ kinh gồm 423 bài kệ do đức Phật
thuyết giảng trong những dịp khác nhau suốt 45 năm cuộc đời Ngài như một Đại Sư Giác
Ngộ. Chúng được tổ chức thành 26 phẩm (chương) dưới những đầu đề khác nhau.
“Đọc xong kinh Pháp cú, độc giả sẽ thấy trong đó gồm những lời dạy về triết lý và
luân lý cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Những lời dạy cho hàng xuất gia tất nhiên
không bao hàm hàng tại gia, nhưng những lời dạy cho hàng tại gia đương nhiên trùm cả
hàng xuất gia. Do đó, dù ở dạng nào, đọc cuốn kinh này, cũng thu thập được nhiều ích lợi
thanh cao. Tôi tin rằng những lời dạy giản dị mà thâm thúy trong kinh có thể làm cho
chúng ta mỗi khi đọc đến thấy một niềm siêu thoát lâng lâng tràn ngập tâm hồn, và
những đức tính từ bi, hỉ xả, bình tĩnh, lạc quan vươn lên tỏa rộng giữa những ngang trái, hẹp
hòi, khổ đau, điên đảo của cuộc thế vô thường ” (Thích Thiện Siêu).
5. Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ bi mới trừ được
hận thù. Đó là định luật từ ngàn xưa.
6. Người kia, vì không hiểu rằng: “Chúng ta sắp bị hủy diệt” (nên mới phí sức tranh
luận hơn thua). Nếu họ hiểu rõ điều đó, thì chẳng còn tranh luận nữa.
19. Dù tụng nhiều kinh mà buông lửng không thực hành thì chẳng được hưởng phần
ích lợi của Samon, khác nào kẻ chăn bò thuê, lo đếm bò cho người.
(Phẩm Song
yếu )
42. Cái hại của kẻ thù gây ra cho kẻ thù, hay của oan gia đối với oan gia không bằng
cái hại của tâm niệm hướng về hành vi tà ác gây ra cho mình.
43. Chẳng phải cha mẹ hay bà con nào khác làm, nhưng chính tâm niệm hướng về hành vi
chánh thiện làm cho mình cao thượng hơn.
( Phẩm
Tâm)
51. Như thứ hoa tươi đẹp chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có hương thơm, những
người chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành, chẳng đem lại ích lợi.
52. Như thứ hoa tươi đẹp vừa có màu sắc lại có hương thơm, những người nói điều
lành và làm được điều lành, sẽ đưa lại kết quả tốt.
53. Như từ đống hoa có thể làm nên nhiều tràng hoa, từ nơi thân người có thể tạo
nên nhiều việc thiện.
54. Mùi hương của các thứ hoa, dù là hoa chiên-đàn (2), hoa đa-già-la (3) hay hoa
mạt-ly đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của người chân chính,
tuy ngược gió vẫn bay khắp cả muôn phương.
55. Hương chiên-đàn, hương đa-già-la, hương bạt-tất-kỳ (5), hương thanh-liên,
trong tất cả thứ hương, chỉ thứ hương đức hạnh là hơn cả.
56. Hương chiên-đàn, hương đa-già-la đều là thứ hương vi diệu, nhưng không sánh
bằng hương người đức hạnh, xông ngát tận chư thiên.
(Phẩm
Hoa)
60. Đêm rất dài với kẻ mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng thế,
vòng luân hồi sẽ tiếp nối vô tận với kẻ ngu si, không minh đạt Chánh phát.
62. “Đây là con ta, đây là tài sản của ta”, kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế,
nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản ta.
64. Người ngu suốt đời gần gũi người trí, vẫn chẳng hiểu gì Chánh phát, ví như cái
muỗng múc thuốc thang luôn mà chẳng bao giờ biết được mùi vị của thuốc.
65. Người trí dù chỉ gần gũi người trí trong khoảnh khắc cũng hiểu ngay được
Chánh pháp, chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc thang đã biết ngay được mùi vị
của thuốc. ( Phẩm Ngu)
103. Thắng ngàn quân giặc ở chiến trường chẳng bằng người tự thắng. Người tự
thắng là chiến sĩ oanh liệt nhất.
104. Tự thắng mình còn vẻ vang hơn thắng kẻ khác. Muốn thắng mình phải luôn
luôn tiết chế lòng tham dục. (Phẩm Ngàn)
121. Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng “chẳng đưa lại quả báo cho ta”. Phải biết giọt
nước nhểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi ít
mà nên.
122. Chớ khinh điều lành nhỏ, cho rằng “chẳng đưa lại quả báo cho ta”. Phải biết
giọt nước nhểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ trí sở dĩ đầy toàn thiện bởi chứa dồn từng
khi ít mà nên.
123. Như người đi buôn mang nhiều của báu mà thiếu bạn đồng hành, tránh xa con
đường nguy hiểm làm sao, như kẻ tham sống tránh xa thuốc độc thế nào, thì các ngươi cũng
phải tránh xa điều ác thế ấy.
125. Đem ác ý xâm phạm đến người không tà-vạy, thanh tịnh vô nhiễm, tội ác sẽ trở
lại kẻ làm ác, như ngược gió tung bụi.
( Phẩm
Ác)
202. Không lửa nào bằng lửa tham lam, không ác nào bằng ác sân hận. Không khổ
nào bằng khổ ngũ uẩn và không vui nào bằng vui Niết bàn.
(Phẩm An Lạc)
219-220. Người khách ly hương lâu ngày, từ phương xa trở về an ổn được bà con
thân hữu đón mừng thế nào, thì người tạo phước nghiệp cũng vậy, khi từ cõi đời này sang
cõi đời khác, phước nghiệp của họ là kẻ thân hữu đón mừng họ.
(Phẩm Hỷ
ái)
222. Người nào ngăn được cơn giận dữ đang nổi lên, như dừng được chiếc xe đang
chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi, ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ mà thôi.
(Phẩm Phẫn nộ)
252. Thấy lỗi người thì dễ, thấy lỗi mình mới khó. Lỗi người, ta cố phanh tìm như
tìm thóc lẫn trong gạo, còn lỗi mình, ta cố che giấu như kẻ cờ gian bạc lận thu giấu quân
bài.
(Phẩm Cấu uế)
266. Chỉ mang bình khất thực, đâu phải là Tỳ kheo! Chỉ làm nghi thức tôn giáo,
cũng chẳng Tỳ kheo vậy!
267. Bỏ thiện (6) và bỏ ác, chuyên tu hạnh thanh tịnh, lấy “biết” (7) mà ở đời, mới
thật là Tỳ kheo.
(Phẩm Pháp
trụ)
276. Các ngươi hãy nỗ lực lên! Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ chứ không
giác ngộ thế cho ai được. Sự trói buộc của ma vương sẽ tùy sức thiền định của các ngươi mà
được cởi mở.
(Phẩm Đạo)
340. Lòng ái dục tuôn chảy khắp nơi, như giống cỏ Man-la mọc tràn lan mặt đất.
Ngươi hãy xem giống cỏ đó để dùng Tuệ-kiếm đoạn hết căn gốc ái dục đi.
345. Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải bền
chắc, chỉ có lòng luyến ái vợ con, tài sản mới thật sự trói buộc chắc bền.
346. Đối với người trí, những kẻ dắt người vào sa đọa là sự trói buộc chắc bền, nó
hình như khoan dung hòa hoãn mà thật khó lòng thoát ra. Hãy đoạn trừ đừng dính mắc,
lìa dục đừng xuất gia.
(Phẩm Ái dục)
393. Chẳng phải vì bện tóc, chẳng phải vì chủng tộc, cũng chẳng phải tại nơi sanh
mà gọi là Bà la môn; những ai hiểu biết chân thật, thông đạt Chánh pháp, đó mới là kẻ Bà
la môn hạnh phúc.
(Phẩm Bà la
môn)
(Kinh Pháp cú – Thích Thiện Siêu dịch - Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành,
năm 1993)
CHÚ THÍCH:
(1) Phẩm Song yếu: Những Pháp yếu được diễn nói theo cách song đối.
(2) Chiên-đàn-na (Cadana)
(3) Đa-già-la (Cagara): Tên hai thứ cây thơm.
(4) Mạt-ly-ca (Mallika) là một thứ hoa nhỏ, thơm, mọc tùm lum như dây bìm.
(5) Bạt-tất-kỳ (Vassiki) là Vũ-quí-hoa
(6) Thiện đây chỉ cái thiện hữu-lậu, làm thiện với cái tâm bĩ thử ngã nhân.
(7) “biết”: biết giới, biết định, biết tuệ.
CÁC NGỤ NGÔN CỦA ĐỨC PHẬT
Các ngụ ngôn của Đức Phật là tác phẩm viết bằng tiếng Pali, ra đời năm 477 trước
công nguyên, tập hợp những ngụ ngôn mà Đức Phật đã sử dụng để truyền đạt ý nghĩa nhiều
bài giảng của ngài tới các đồ đệ. Câu chuyện Kisa Gotami dưới đây còn được gọi là Ngụ
Ngôn về Hạt Cải, khá nổi tiếng.
KISA GOTAMI
Gotami là cái tên thiếu nữ của nàng, nhưng vì rất dễ mệt mỏi nên nàng được gọi là
Kisa Gotami (Gotami Yếu đuối). Nàng được tái sinh ở Savithi trong một gia đình
nghèo khó, bệnh tật. Khi lớn lên, lấy chồng, đến ở nhà chồng. Vì dòng dõi gia đình, nàng
bị khinh rẻ. Chỉ sau khi sinh được một đứa con trai, nàng mới được mọi người đối xử một
cách kính trọng.
Nhưng khi đứa bé đủ lớn, biết chơi bời chạy nhảy đây đó, nó chết. Nàng vô cùng
sầu khổ. “Từ khi con ra đời mình vốn bị khinh rẻ mới tìm được sự kính trọng trong gia đình
này. Nay họ thậm chí sẽ tìm cách vứt bỏ con ta”. Ôm con vào lòng, nàng ra đi, tìm đến
nhà này nhà khác xin thuốc cho con.
Ở mọi nơi, gặp nàng, người ta đều chế nhạo:”Cô ta từng thấy thuốc cho người đã
chết ở đâu chứ?”. Nói rồi, họ vỗ tay cười thích thú. Nàng không hiểu chút gì về điều họ
muốn nói.
Bấy giờ có một người thông thái thấy nàng: “Người đàn bà này quá đau khổ vì con
nên đã bị lầm lạc tâm trí. Thuốc chữa cho bà, không ai khác, chỉ Đấng Cai Quản Mười
Quyền Lực mới biết thôi”. Ông ta bảo: “Thiếu phụ kia, thuốc cho con trai bà chỉ có một
người có, đó là Đấng Cai Quản Mười Quyền Lực, nhân cách vĩ đại nhất trong thế giới loài
người và thế giới của các Thần thánh, Ngài đang cư ngụ tại tịnh xá gần đây. Hãy đến hỏi
Ngài”.
“Người đàn ông này đã nói chân lý”. Nàng nghĩ và đi tìm Đức Phật. Ôm con
trong lòng, nàng đứng ở vòng ngoài của đoàn tín đồ và nói: “Thưa Đấng đáng tôn kính,
hãy cho tôi thuốc chữa cho con trai tôi”.
Đấng Đại sư, thấy nàng đã sẵn sàng cho sự cải đạo, bèn nói:”Con đã làm đúng,
Gotami, khi đến đây tìm thuốc. Con hãy đi vào thành phố, tới các gia đình, hãy xin những
hạt cải nhỏ từ ngôi nhà nào chưa từng có ai chết cả”.

13
4
“Thưa Đấng Tôn Kính, tốt quá ạ”. Sung sướng, nàng đi vào thành phố. Tới ngôi nhà
đầu tiên, nàng nói:”Đấng Cai Quản Mười Quyền Lực bảo tôi xin những hạt cải nhỏ làm
thuốc cho con trai”. “Ôi dà, Gotami”- họ nói và đưa cho cô.
“Nhưng tôi không cần những hạt này. Trong gia đình đây từng có người đã chết”.
“Cô nói gì, Gotami! Ở đây không thể đếm xuể số người đã chết”.
“Thôi đủ rồi. Tôi không xin những hạt này. Đấng Cai Quản Mười Quyền Lực không
nói tôi dùng những hạt cải của một gia đình đã có bất kỳ một ai từng bị chết”.
Cũng như vậy, nàng tới gia đình thứ hai rồi thứ ba. “Trong toàn thành phố, ở đâu
cũng thế thôi. Đấng Budha tràn đầy lòng từ bi, thương xót vì hạnh phúc nhân loại hẳn thấy
điều đó”. Chế ngự sự xúc động, nàng ra khỏi thành phố, bế con tới một giàn hỏa. “Con trai
yêu quý, mẹ từng nghĩ rằng con là người duy nhất bị cái chết mang đi. Nhưng không phải
thế. Đây là luật chung của toàn thể loài người.” Nàng đặt con lên giàn hỏa. Rồi đọc đoạn
thơ sau:
“Không phải lệ làng xã, không phải lệ phố phường
Không phải qui tắc riêng một gia đình nào cả
Đó là luật chung của thế giới loài người cùng toàn thể thần thánh
Rằng tất cả mọi thứ đã sinh ra đều chẳng vĩnh hằng”.
Sau đó, nàng đi tới gặp bậc Đại Sư. “Gotami, con đã kiếm được những hạt cải
chưa?” “Thưa Đấng Tôn Kính, việc những hạt cải con đã hoàn thành. Nay xin chỉ cho con
một trú xứ tốt lành.” Lúc này, Đại Sư đọc cho nàng nghe đoạn thơ sau đây trong Pháp Cú:
Người đàn ông này yêu trẻ và súc vật
Người đàn ông này tha thiết với đời
Nhưng Thần Chết bỗng chụp lấy anh ta
và đi con đường của Ngài Như một trận
lụt lớn cuốn sạch cả một thôn làng đang
say ngủ.
(XX.
287)
Dù ai có thể sống tới trăm năm Cũng
không gặp Miền Bất Tử Tốt hơn là
hãy sống một ngày giản dị
Anh đang thấy nơi vĩnh cửu đó mà (VIII.114) Với
kết luận của những bài kệ, nàng đạt đến tính thánh linh.

Đọc thêm 2
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH ẤN ĐỘ
1. Vài nét về lịch sử chủ nghĩa hiện sinh Phương Tây
Chủ nghĩa hiện sinh (CNHS) ra đời ở Đan Mạch thế kỷ XIX. Người đề xướng là
Sorien Kierkegard, nhưng thật ra cội nguồn CNHS có từ xa xưa.Thời kỳ Hy Lap cổ đại,
CNHS đã nảy mầm với nhà triết học Socratte (469- 399 tr.CN) ông đã suy tư và thực hiện
lối sống hiện sinh chủ nghĩa. Ông đã bàn sâu về luân lí và đạo đức .
Theo ông, có đạo đức là phải biết thân phận mình. Ông tuyên bố "Hiểu biết là đạo
đức", cũng có nghĩa thiếu hiểu biết là thiếu đạo đức. Trong ngôi đền Denph ở Hilạp có ghi
câu "Hãy tự biết lấy chính mình". Còn trong bộ kinh Veda của Ấn Độ có câu "Hiểu
biết thực sự sẽ đưa ta đến tự do" .
Từ khi Kierkegard lập ra hệ thống chủ nghĩa hiện sinh, đã có triết gia phản đối các
nhà khoa học khác rằng chỉ chuyên nghiên cứu khách quan và vũ trụ mà quên nghiên cứu

13
5
ngay thân phận con người "Đừng bỏ quên thân phận con người". Bỏ qua ngoại cảnh để
chú trọng đến cái TA nội tâm đã trở thành khuynh hướng triết học duy tân trong lịch sử,
chủ yếu là của giai cấp bóc lột đã suy tàn. Foulquie -nhà hiện sinh Pháp đề xướng "phải
nhiên cứu, khám phá nội tâm con người", "khoa học sắp xếp vạn vật, tìm hiểu chúng, tìm ra
những mối tương quan giữa chúng, còn kỹ thuật- kỹ nghệ chú trọng tới cái hữu dụng. Trái
lại việc khám phá về sự hiện hữu và hữu thể con người thì bị đa số người đời bỏ qua (Lời
nói đầu cuốn "Chủ nghĩa hiện sinh") .
Nhiều nhà hiện sinh Pháp cho rằng sau Socratte, trong Thiên chúa giáo có thánh
Saint Augustin cũng có tư tưởng như Socratte, đã làm nền tảng cho chủ nghĩa hiện sinh
trong Kitô giáo. Ngay trong Cựu ước, Tân ước đã có chứa đựng yếu tố hiện sinh chủ nghĩa
(Existentialism).
Thánh Job Jesus Christ đưa ra lời kêu gọi "hãy cứu rỗi linh hồn!" (tức là giải thoát
linh hồn) .
S.Augustin nói "ở trong Chúa, cái đã được tạo dựng đó là sự sống", "xin cho tôi am
hiểu được chính tôi và hiểu được chính Ngài " (tập Thú nhận - Confession) . Ông đã xa rời
chúa Trời, sống đau khổ với tội lỗi và phóng đãng, vừa hoan lạc vừa bi đát . Cuộc sống đã
gây trong ông nỗi xao xuyến thầm kín và sự lo âu (Souci: Hoa xu xê : điển tích về sự lo
lắng), chẳng biết cuộc đời rồi đi về đâu !
Pascal, nhà vật lý người Pháp (định luật Pascal), đã viết cuốn "Tư tưởng" có đoạn:
"Đây là bản chất thực sự của ta, chính nó làm cho chúng ta không có khả năng biết một
cái gì đích xác, hoàn toàn. Ta bơi lội trên một khoảng không mênh mông và bất an, ta trôi
giạt vật vờ từ đầu này tới đầu kia " .
Thực ra, tư tưởng hiện sinh của Socratte nhằm bảo vệ giai cấp chủ nô. Còn S.
Augustin có mục đích bảo vệ tôn giáo. Vì vậy , Socratte kêu gọi "sống đạo đức là sống
biết mình, biết mình là sống đạo đức" .
Augustin: "Sống biết Chúa Trời mới là biết mình. Biết Chúa Trời là sống trong
Chúa Trời" .
Triết học hiện sinh ra đời nhằm hoàn chỉnh những quan điểm hiện sinh trong lịch
sử, để liên minh và bảo vệ giai cấp tư sản, giai cấp thống trị trong thời đại khủng hoảng
về tư tưởng và chính trị.
Sorien Kierkegard sinh 1813, chết 1855 ở Đan Mạch, được coi là ông tổ của
chủ nghĩa hiện sinh hiện đại. Sorien ra đời vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản chuyển qua
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Là con út trong một gia đình giàu có, có 7 người con. Cha
ông gọi ông là đứa con của tuổi già, ông bố có tới hai bà vợ. Họ đều ở Hội thánh Tin
lành (Kitô biến thể).
Năm 1838, cha chết, gia đình suy sụp. Hai bà vợ của cha và 6 chị em Sorien cũng
lần lượt chết. Chỉ còn Sorien Kierkegard. Ông phải chịu cuộc đời sóng gió, vật lộn
với thân phận cô đơn. Nghĩ về thân phận con người, ông day dứt hoài và tìm thấy sự tiếp
nối luồng tự tưởng hiện sinh cổ đại. Sau khi học thuyết CNHS của ông phổ biến và có
ảnh hưởng khá mạnh ở phương Tây, nổi lên những nhà văn nghệ sĩ tiêu biểu sau đây sáng tác
với cảm hứng hiện sinh chủ nghĩa :
+ Ở Đức, triết học hiện sinh chủ nghĩa của Heidegoer .
+ Ở Pháp: thơ, truyện, kịch của Jean Paul Sartre, tiểu thuyết của bà Francoise
Sagan .
+ Ở Tây ban nha: Thơ ca "nổi loạn" của Breton. Hội hoạ "nổi loạn" của Picasso
+ Ở Tiệp khắc : Tiểu thuyết "Vụ án" của Kafkaz

13
6
+ Ở Italia: Nhà văn Matisse . v. v...
+ Ở miền Nam Việt Nam trước 1975 cũng có một số hiện tượng văn học hiện
sinh chủ nghĩa.
Học giả Mounier (Pháp) viết : "Ngày nay, khi quan niệm về vũ trụ và kinh tế tỏ
ra lạc quan đã đánh dấu thời đại hoàng kim tuyệt đỉnh của phe trưởng giả giàu sang sung
túc về vật chất nhưng tư tưởng thì chật hẹp, đã xuất hiện một làn sóng ý thức về sự bất
hạnh: một căn bệnh mới của thời đại đang đẩy xô con người về với triết lý hiện sinh bi
thiết để biện minh lối cười ra nước mắt " ..."nó là thứ triết lý chống lại hạnh phúc và
chiến thắng của con người, là hậu quả của một Âu châu tan rã vì hai cuộc đại chiến (I và
II) và một cuộc khủng hoảng không trù liệu trước ".
Trong thực tế xã hội, cũng có những hành vi "nổi loạn" (sinh viên ăn mặc kỳ lạ :
khoét áo, vá quần lành, sống gấp, đập phá, vì lo rằng có chiến tranh thế giới thứ 3 khủng
khiếp tàn phá tương lai. Có những hội khoả thân sống ở vườn hoa hoặc mặc đồ thổ cẩm, thô
sơ. Ông già cô đơn sống với con chó. Li dị xảy ra phổ biến ở mọi lứa tuổi ...
Họ băn khoăn "con người là cái gì ?" Phấn đấu hi vọng vì cái gì ? Tại sao có con
người (ý nói con người xã hội), có cái tôi ? Họ thích suy tư cụ thể về con người và số
phận, không bằng lòng với những khái niệm và phạm trù triết học. Họ cho con người là cái
riêng lẻ, không liên quan gì đến xã hội .
Kierkegard nói "Tôi là tôi. Một cá nhân, không phải là một khái niệm. Không
một ý tưởng nào diễn tả được nhân cách của tôi, không thể thiết định một dĩ vãng, một hiện
tại và một tương lai. Cũng không có lập luận nào về chính tôi và cuộc đời cùng sự sinh tử
của tôi" .
Như thế, con người hiện sinh phương Tây là con người cá biệt (sống tách rời xã
hội) .
Muốn trở thành "con người hoàn thiện" thì phải "sa đoạ" - khi đó anh mới thấy rõ
mình. Qua sự sa đoạ và tội lỗi của trực giác và bằng linh cảm, kinh nghiệm sống của
mình, anh trở thành siêu việt...Nietzche, triết gia Đức nói "càng trải qua tội ác bao nhiêu
lại càng vĩ đại bấy nhiêu, đó là con người siêu việt - superman". Lý luận của Nietzche đã
có ít nhất một đệ tử cuồng tín là Adolf Hitler - tên trùm phát xít Đức .
J.P.Sartre nói "Con người hiện hữu trước đã. Con người tự thấy mình sinh ra ở đời
đã, sau đó anh mới định nghĩa mình là ai ?" (cuốn "Hiện sinh, một thuyết nhân bản" của Lê
Tôn Nghiêm- xuất bản ở Sài gòn).
Ban đầu con người không là gì cả, sau đó mới là thế này, thế kia, và sẽ là cái mình
tự tạo nên mình. "Hiện hữu" không phải là TOBE (est), không phải là sống (live,
livre) . Hiện hữu không có nghĩa là ở lỳ một chỗ mà phải là "vươn tới cái sẽ là, cái mình
sẽ là" , luôn luôn vượt ra ngoài khuôn khổ hôm nay, tự mình tha hoá mình - Mỗi
người sẽ là Would- be- man (Người phải là ) .
Kierkegard kêu gọi "hãy chọn lấy chính mình". Trong tác phẩm "Người khách
đàn bà " (chưa dịch) của nữ văn sĩ Pháp Simon De Beauvoir miêu tả một người đàn bà"
nàng đến làm cho sự vật thoát khỏi sự vô thức của chúng. Nàng đã cho chúng màu sắc,
hương vị của chúng... Cần phải có nàng ở đó để bất tử hoá sự hoang vắng của chúng - cái
căn phòng ...Nàng làm sống dậy các đồ vật và sự chờ đợi... " Người đàn bà là giống cái
trong cái mức độ nàng cảm thấy theo tha nhân (người khác) chứ không do cơ cấu thân thể
của nàng " .
Mounier nói "con người là một sự kiện trần trụi mù loà, ở đó chả có ý nghĩa gì cả,
như bị ném ra đó"

13
7
J.P.Sartre : "Người, một cái gì thừa"
"Người là một bí mật tuyệt đối, không ai hiểu được, cao hơn, là cái không hiểu được". Đời
người và con người rất phi lí, nó mù mịt, tối tăm. "cái vô lí" còn hiểu được ,
chứ "cái phi lí" thì không thể hiểu được và nói được gì". Chúng ta sinh ra thật là phi lí,
ta hãy chết đi".
Mỗi người là một bí mật tuyệt đối vì mỗi người là một sự trống rỗng tuyệt đối. Vì
thế, chả cần tìm hiểu làm gì ! Học giả Nguyễn văn Trung (cuốn Nhận định - Sài Gòn xuất
bản trước 1975) cũng thể hiện ảnh hưởng hiện sinh của ông "Tôi buồn vì ý thức của tôi
trống rỗng, trước khi thông cảm, chỉ có mình tôi buồn, nỗi cô đơn là tuyệt đối. Lối sống
hiện sinh tạo ra màng ngăn cách với xã hội. Jean Paul Sartre nhà văn Pháp, viết "chỉ trong sa
mạc, con người mới sống đích thực".
Keirkegard viết "Tự mình sắp đặt tất cả để cho mình cô đơn. Nỗi cô đơn càng
tăng khi có một bản ngã khác thường, một cá tính mãnh liệt. Con người quần chúng rất
ít khi cảm thấy cô đơn vì tâm hồn họ là một khối đồng tính. Con người quần chúng
hoà vào nhau dễ dàng và không có gì đặc biệt, và cũng không ai có gì độc nhất vô nhị.
Người đặc biệt là người cô đơn" . J.J. Rouseau viết "Nhà nước là sự vong thân của con
người"
Giữa người với người có một vực thẳm cô đơn bất khả thông cảm "sống để dạ,
chết mang đi". Mounier nói "Ta có thể có cuộc sống đích thực khi ta hoàn toàn tĩnh
tại hoặc khi điên rồ", "Con người sinh ra thường làm nô lệ cho tha nhân, ta thoát ách
nô lệ kẻ này thì lại mắc vào ách nô lệ kẻ khác, còn học hành chẳng qua chỉ là chuyện
người ta dạy cho ta những điều mà ta không muốn ' .
2 . Sơ lược chủ nghĩa hiện sinh phương Đông và hiện tượng Krisna Murti của
Ấn Độ
Tên thực là Murti, nhà văn, triết gia Ấn Độ, ông đã lấy bút danh Krisna vốn là tên
nhân vật nửa người nửa thần trong thần thoại .
Sinh năm 1900 tại thị trấn Madanapal ở miền nam Ấn Độ.Trong mười tám năm
liền, lập phái "Thông thiên học" và được phong là vua của đạo "thông thiên học". Có đồ
đệ là Rama Krisna, nhà đạo đức học chủ trương hoà hợp tôn giáo: "Hãy xoá bỏ sự khác
nhau về tôn giáo, đừng giành giật địa vị, quyền lợi, vô ích. Dù gọi là Jesus, Alla,
Thích ca... cũng vẫn chỉ là một chúa tể mà thôi. Mọi con đường của tôn giáo đều tốt cả.
(về sau
Tagore cũng chịu ảnh hưởng lí thuyết đó. Ông viết: sinh tồn của nhân loại là bản hoà âm
tuyệt mỹ. Á, Âu nên xoá bỏ ngăn cách).
Krisna Murti cùng một số người lập ra "Hội cứu tinh đông phương" (Gồm đủ tín đồ
các đạo Phật, Thiên Chúa, Hồi giáo thờ thánh Alla...), đến năm 1929 Hội này giải tán. Lời
tuyên bố giải tán của Murti như sau "chân lý là một xứ sở không có đường vào nên người ta
cũng không thể đặt chân vào đó bằng bất kỳ lối đi nào, Đạo giáo hay Phật giáo. Chân lý là
sự thật của nội tâm, không ai dạy ai được, nên không ai là thầy của ai cả. Mà tự mình phải
là thầy của chính mình". Từ đó ông không lập giáo hội, không nhận học trò nữa .
Ông viết cuốn "Giải thoát chính kiến", hoặc "Giải trừ kiến thức" (nguyên bản tiếng
Anh: Freedom from the Knowledge ) .
Vì sao cần phải giải trừ kiến thức ?
Người Ấn Độ vốn coi trọng hiểu biết. Bộ kinh Rig Veda quan trọng nhất của
Bàlamôn, sau này là Hindu giáo có nghĩa là "ca tụng sự hiểu biết" .
Thực ra, từ trước Công nguyên ở Trung quốc, Lão tử đã đưa ra học thuyết Vô vi,
Trang tử lại phát triển học thuyết Lão -Trang. Lão tử nói "Con người càng đi sâu tìm
hiểu ngoại giới thì càng xa đạo. Do hiểu biết, con người mất vẻ sống hồn nhiên. Do hiểu

13
biết nhiều, nảy sinh xung đột với nhau. Giữa những ý thức, quan niệm, tâm lý khác nhau
nảy sinh ra mâu thuẫn" .
Do đó con người cứ quẩn quanh với những tâm lý ấy chỉ muốn giải thoát mình
khỏi những tương lai viển vông, khát vọng và mục tiêu, con người cứ khổ sở đi tìm
những thiên đường hứa hẹn, những chủ nghĩa mơ hồ.
Tóm lại Murti kết luận "không cần hiểu biết gì hết, hãy phủ nhận quá khứ và tương
lai, cứ sống với hiện tại, tạo cho mình cuộc sống hiện tại, hiện hữu.
Trước hết, không thể mang theo kè kè bên mình những thành kiến, hiểu biết, kết
luận của loài người dồn lại cho mình sau hơn hai nghìn năm. Hãy khởi hành bằng con số
0 ! Hãy lên đường, bỏ lại tất cả những kỷ niệm, ký ức của bao tháng ngày qua, để " tự tại",
"tự ngộ", Không cần uy lực nào, không cần lãnh tụ, đạo sĩ hay nhà phân tâm học, không
cần triết gia nào. Hãy làm một con người "trống rỗng", "bất nhiễm", không là gì cả!
Sống thế nào là "trống rỗng" ? Murti vạch ra rằng: sống không cần có mục đích.
Sống không cần phấn son, mộc mạc mà huyền diệu, tĩnh mà động, một mà là tất cả. Chính
cuộc sống là Nhân và cũng là Quả. Cuộc sống vừa là phương tiện vừa là cứu cánh (mục
đích ).
Đạo là chân lý, chân lý là cuộc sống, còn tương lai chỉ là ảo ảnh. Chỉ có hiện tại
là thực. Nhưng hiện tại là gì ? Đừng nghĩ đến ! Nghĩ đến là mất nó, cuộc sống lại bị kéo
dài thêm một kỳ hạn thừa. Trong hình học, điểm là chỗ cắt đứt hai con đường. Điểm là hiện
tại, xuất hiện là do anh nghĩ đến. "Điểm" chính là cuộc sống, không có diện tích kích
thước. Vậy nó là "không" nhưng cũng là "có ", và Hiện tại là vô hạn.
Sự giải thoát không hẹn ở ngày mai và cũng chưa từng xảy ra ở quá khứ. Hiện tại
ngay lúc này mới là sự giải thoát, và chứa tất cả mọi sự vật.
Murti nói "Muốn sống cái hiện tại ấy, cái chân lí vĩnh cửu ấy, anh phải xa lìa
tất cả những gì cũ và mai sau...những lý thuyết hư nguỵ điêu tàn, những thần tượng
phải mất đi, và anh phải sống như đoá hoa toả khắp hương thơm cho thiên hạ. Chìa khoá
mở cửa cực lạc là ở ngay trong con người ta.
Sống là phi lý, làm gì cũng phi lý, chết cũng là phi lý.
Con đường giải thoát là con đường vô vi, để con người tự do, thả nổi theo dòng số
mệnh.
Mất tự do là phải lẽ, nếu đi tìm chân lý thì lại bị ràng buộc. Cái tự do hoàn toàn
không do ai đưa đến, không do sự đấu tranh mà là ở sẵn trong tâm hồn ta, cái tâm hồn cô
tịch, trống rỗng tuyệt đối, không suy tưởng, có chăng hãy hỏi mình "anh đã thật sự muốn có
tự do chưa ? Muốn là được ! »
Nếu anh chỉ muốn giải quyết một vấn đề gì để được tự do thì lai mắc vào cái mất tự
do khác. Như thế chẳng lợi gì.
Vậy chỉ có tự do - tự tại là hoàn toàn, không nên chịu ràng buộc, bó khuôn theo
tư tưởng nào, uy lực nào.
Khi đạt được tình trạng cô tịch, trống không, ta là người ngoài cuộc - người tự do,
không bao giờ mắc cạm bẫy.
Sống thực sự với chính con người mình (man- would- be) chứ không sống theo
quan niệm (would-be-man). Tình yêu cũng vô ích vì ở đó con người rõ ràng mất tự do.
Những điều nói trên là cơ sở lí luận của thuyết hiện sinh phương Tây và phương Đông.
Murti phát triển CNHS theo một hướng mới. Ôâng cho rằng, thế giới hiện có hai lối phản
kháng .
- Phản kháng bản năng

13
9
- Đấu tranh sau một sự áp bức cai trị lâu dài.
Murti cho rằng mọi sự xung đột trên thế giới đều do tâm lý nóng giận, bực tức mà
sinh ra, ví như một sĩ quan chỉ huy không nóng giận thì chiến tranh không xảy ra. Tự
mỗi con người gây ra chiến tranh, làm cách mạng bạo lực thì mỗi người cũng phải gánh
trách nhiệm đó. Nóng giận khiến con người thành tàn bạo. Muốn diệt nóng giận cần phải
giải trừ kiến thức, ký ức, khát khao. Đó mới là cách phản kháng, đó mới là đấu tranh,
bằng sự bình tâm.

Quan niệm về tình yêu và cái đẹp của chủ nghĩa hiện sinh Ấn Độ

Phải giải bỏ tất cả những khái niệm, qui ước, tư tưởng về tình yêu vốn được trang
bị từ trước. Bởi vì tình yêu đã bị phân loại là tình yêu giả dối nguỵ
biện. Đã yêu thì không có giới hạn, qui cách nào hết.
Cái đẹp vốn tự nó có. Do sự hiểu biết mà mất cái đẹp. Thành thị chen chúc ồn
ào xa rời thiên nhiên, thiếu cái đẹp trăng, hồ, bình minh, đàn chim bay về tổ buổi chiều.
Người thành thị chỉ đi tìm cái đẹp chết trong viện bảo tàng. Họ không biết cảm nhận cái
đẹp từ tâm mình đến thẳng với nó .
Tóm lại, nếu ở phương Tây, CNHS kêu gọi sống thác loạn bất cần xã hội và ngày
mai thì ở Ấn Độ Murti kêu gọi sống cô tịch, vắng lặng cô đơn quên đi tất cả, hãy thả mình
vào «dòng sông hiện sinh » không tội gì gánh nặng quá khứ trên vai.
Thuyết hiện sinh Murti là sự hỗn hợp nhiều tôn giáo pha trộn. Đó là thuyết sùng
đạo Bhakti cổ xưa dược khai triển. Nó gieo rắc tư tưởng phủ nhận cách mạng, thủ tiêu
đấu tranh. Hiện sinh Ấn Độ xuất hiện nhằm phủ định hiện sinh phương Tây, dùng tư duy bị
động để chống tư duy năng động, là sự "nổi loạn bên trong" của người Ấn hiện đại.

Đọc thêm 3
uân sao mà tôi nhớ
chiều thu cô đơn
2.
Tuyển Trên bình nguyên chim vân tước hát xa
chọn một mọi ưu phiền
số bài thơ 3. Từ trong rầm nhà Đáp lời chim sẻ Rúc
haiku của
Basho rích chuột con

Mùa xuân (trích) 4.


1 Em là bướm ư
. Ta là giấc mộng
N Trong hồn Trang Chu
g
à 5.Trên cành liễu nghiêng Con bướm đổi
y chỗ mỗi lần gió lên
6.
đ

u

x
Tiếng chuông chùa tan Hương hoa
đào buổi tối Như còn ngân vang
7. Đêm xuân phai tàn Và rạng
đông đến Trên cành hoa đào

8.
Mùa xuân ra đi Tiếng chim thổn
thức Mắt cá lệ đầy .

Mùa hạ
9
Một con ong từ lòng thược dược bay đi tần
ngần
10
Mưa tháng Năm Đứng dầm trong nước
Chân hạc ngắn dần
11
Nhu cảnh trong tranh Tôi trên mình ngựa
chầm chậm qua đồng
12
Trong ánh ngày Con đom đóm ấy cổ đỏ
gay
13
Tiếng ve mải mê Không hề để lộ Cái chết
gần kề
14.
Ôi huy hoàng
Lá xanh, lá xanh
Chói ngời trong nắng
15. Hoa mơ tưng bừng , bên lầu du nữ
mua sắm đai lưng

Mùa thu (trích)


16
Tiếng hạc vang trời

142
Và tàu lá chuối
trở thành tả tơi
17.
Con chuồn chuồn đậu mãi không được
Trên ngọn cỏ gió rung
18. Quán bên đường Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương
19.
Mong manh mong manh Một nhành hoa
cúc vừa đơm nụ vàng
20.
Con nhện kia ơi Bài hát nào ngươi có
Trong gió thu này ?
21.
Bên đường Đoá hoa dâm bụt Đưa mình cho
ngựa ăn
22.
Mùa thu ở Kiso Người tiễn đưa ta Ta tiễn
đưa người
23. Mưa mù sương, phù dung một đóa
làm mùa lên hương .

Mùa đông (trích)


24.
Lá thuỷ tiên dưới là tuyết mới nhè nhẹ
trĩu mình
25.
Con quạ ô
sớm mai trong tuyết đẹp không ngờ
26. Cời lửa đi nào
tôi có món quà kì diệu
Nắm tuyết trắng phau

143
27
Đi nữa bạn ơi Ngắm nhìn tuyết đổ Cho dù
ta rơi
28. Cưỡi ngựa mùa đông chiếc bóng của
mình dường như cóng lạnh
29.
Hoa cúc hết mùa Ngoài cây củ cải Còn
lại gì đâu !

Ghi chú : Trích theo tài liệu của Phan


Nhật Chiêu – Nhà xuất bản Văn học
1994. Số thứ tự trong phần trích do
người biên soạn ghi theo các chủ đề
khác nhau. Người soạn : P.H.N

Phỏng theo Dân ca Nhật


Nhạc sĩ Thanh Sơn

Hoa anh đào (sakura) Mùa xuân sang có


hoa anhh đào Màu hoa tôi chót yêu từ
lâu
Lòng bâng khuâng nhớ ai năm nào
Hẹn hò nhau dưới hoa anh đào mình
nói chuyện ngày sau

Còn tìm đâu phút vui ban đầu bụi thời


gian cuốn trôi về đâu để cho ai nhớ
thương ai nhiều vì đã xa cách nhau lâu
rồi
dù nói không nên lời

Chuyện đời như một giấc chiêm bao mà


thôi tìm về quá khứ thấy xao xuyến lòng
tôi Gió xuân đến bao giờ ngỡ như bước
chân ai qua thềm . . . Rồi xuân sang có
hoa anh đào
Màu hoa đây dáng xưa còn đâu ? Niềm
tâm tư khép kín trong lòng Và tôi yêu
bóng ai năm nào Như đã yêu hoa anh
đào .
(sáng tác: Thanh Sơn)
PHỤ LỤC

truyện cổ Lĩnh Nam chích quái


Nguyễn Hãng sưu tầm biên soạn

TRUYỆN DẠ XOA VƯƠNG

Thời thượng cổ, biên giới nứơc ta có nước Sa Nghiêm,


vương nứơc ấy là Dạ xoa, lại có tên là Trường Ô Vương.
Phía bắc nước ấy giáp nước Hồ Tôn Tinh. thái tử nước
Hồ Tôn Tinh tên là Trưng Tư, có người vợ đẹp, tên là
Bạch Tịnh nương. Nàng khéo biết trang điểm, lại có
nhan sắc, nên hoa nhìn phải thẹn, bướm lượn theo người,
thực là xinh đẹp đáng yêu.

Dạ Xoa vương nghe tin, muốn cướp nàng làm vợ, liền bí mật đem quân đánh lén
nước Hồ Tôn Tinh, cướp Bạch Tịnh nương đem về. Trưng Tư cả giận, liền đem
quân nước Di hầu rời núi lấp biển cho thành cả đất bằng, rồi dùng quân đánh phá
nước Sa Nghiêm, giết Dạ Xoa vương và đem Bạch Tịnh nương về nước.

Hồ Tôn Tinh là tinh khỉ vượn (di hầu), vương nứơc ấy là Thập Xa Sin, nay là nước
Chiêm
Thành.
..............

Theo GS.TSKH Phan Đăng Nhật, sách Lĩnh nam chích quái là tác phẩm ghi chép
sử thi cổ nhất ở Việt Nam, trong đó có truyện Dạ Thoa Vương (bản do GS.Đinh Gia
Khánh chủ biên NxbVăn học in lần thứ 2, Hà nội 1990).

Còn Truyện Dạ Thoa Vương (Nguyễn Hãng chép là Dạ Xoa Vương) chính là sự
tóm tắt sơ lược sử thi Ấn Độ Raymayana vốn dài 10 500 khổ thơ viết trên lá
cọ, in thành sách dày
6000 trang. Dạ Thoa Vương là vua quỉ, người Ấn Độ gọi là Dạ Xoa (Ravana)

TÀI LIỆU
THAM
KHẢO
VĂN HỌC ẤN ĐỘ
1. Phạm Thuỷ Ba dịch, Sử thi Mahabharata, Nhà xuất bản Văn Hoá, Hà Nội
1986
2. Phạm Hồng Dung và Phạm Bích Thuỷ dịch, Người làm vườn (Tagore)
NXB Đà Nẵng
1997
3. Phạm Hồng Dung và Phạm Bích Thuỷ dịch, Trăng non (Tagore ), NXB Đà
Nẵng 1997
4. Phạm Hồng Dung và Phạm Bích Thuỷ dịch, Tặng phẩm của người tình
(Tagore)
NXB Đà Nẵng 1997
5. Phan Thu Hiền, Tham khảo Văn Học Ấn Độ, Đại học quốc gia TP Hồ Chí
Minh 1997
6. Nguyễn Thừa Hỷ ,Tìm hiểu văn hoá Ấn Độ,Nhà xuất bản Văn Hoá, Hà
Nội1986
7. Nguyễn Hiến Lê dịch, Will Durant, Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb VH-
TT, 2000
8. Nguyễn Hiến Lê dịch, Three Ways of Asian Wisdom của Will Durant, Mac
Milan, 1932
9. Phan Ngọc dịch, Sử thi Ramayana, Nhà xuất bản Văn Hoá, Hà Nội 1976
10. Phùng Hoài Ngọc, Luận văn thạc sĩ văn học nước ngoài, ĐHSP Hà Nội, 1988
11. Nhiều người dịch,Truyện cổ Ấn Độ, Nhà xuất bản Văn Hoá, Hà Nội 1986
12. Đào Xuân Quí dịch, Thơ Dâng của Tagore, Nhà xuất bản Đà Nẵng 1996
13. Lương Duy Thứ, Đại cương văn hoá Phương Đông, Nhà xuất bản Giáo dục
1996
14. Lưu Đức Trung, Giáo trình Văn học Ấn Độ, Đại học Sư phạm Hà Nội,
1984
15. Lưu Đức Trung (chủ biên) Văn học các nước châu Á, Nhà xuất bản Giáo dục
1989

VĂN HỌC NHẬT


16. Nhật Chiêu, Câu chuyện văn chương phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội
2002
17. Nhật Chiêu dịch & giới thiệu, Basho và thơ Haiku, Nhà xuất bản Văn học
HN, 1994 .
18. Phan Nhật Chiêu, Chuyên đề Văn học Nhật bản, NXB Giáo dục, Hà Nội
2000
19. Ngô Quí Giang dịch, Tuyển tập Kawabata, Nhà xuất bản Hội nhà văn. Hà
Nội 2001
20. Lưu Đức Trung, Yasunari Kawabata cuộc đời và tác phẩm, Nxb GD Hà
Nội 1997
21. Nhiều người viết, Kỉ yếu hội thảo Văn học Nhật1999, Khoa Ngữ văn
ĐHKHXH NV tp
HCM 1999
22. Nhiều người viết, Văn học so sánh, Đại học Quốc gia Hà Nội -ĐHKHXH
NV tp HCM,
2
0
0
3
23.The Narrow Road to Oku /Oku no Hosomichi /おくのほそ道

VĂN HỌC ĐÔNG NAM Á


24.Lưu Đức Trung, Đinh Việt Anh, Văn học Ấn Độ Lào Cam pu chia, Nxb
Giáo Dục, HN
1989
25.Vũ Tuyết Loan, Nguyễn Tấn Đắc, Tuyển tập văn học Cam pu chia, Nxb Văn
Học HN
1986
26.Nhiều tác giả, Tìm hiểu lịch sử văn hóa Cam pu chia, Viện Đông Nam Á , Hà
Nội,1985

VĂN HỌC Ả RẬP


27. Nhiều tác giả, Từ điển Văn học tập II, Nxb Khoa học xã hội , HN, 1983
28. Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử thế giới tập I, Nxb VH thông tin, Hà Nội, 1998
29. Văn Hoà dịch, Nghìn lẻ một đêm (03 tập), Nhà xuất bản văn nghệ thành
phố Hồ Chí
Minh 2002 .

Đại học An Giang tháng 3


năm 2005
Phùng
Hoài
Ngọc

You might also like