Professional Documents
Culture Documents
5. Những Dấu Vết Của Hí Khúc Trung Quốc Ở Việt Nam
5. Những Dấu Vết Của Hí Khúc Trung Quốc Ở Việt Nam
Tạp Chí Hồn ViệtNhìn qua nội dung tuồng Việt Nam và hí khúc Trung Quốc
(honvietquochoc.com.vn)
Như vậy chúng ta thấy rõ rằng những vở tuồng lấy đề tài từ câu chuyện, hí khúc
Trung Quốc không phải là sao chép nguyên đơn giản và tính cách của những nhân vật
trong đó cũng không bị tính cách nhân vật vốn có ràng buộc. Nói chung, tuồng là mượn
câu chuyện Trung Quốc để phản ánh hiện thực của Việt Nam. Qua sự nghiên cứu sơ bộ,
chúng ta được biết tuồng Việt Nam và hí khúc Trung Quốc có quan hệ chặt chẽ, mối
quan hệ này bắt đầu từ sự ra đời của tuồng và thấu suốt quá trình phát triển của tuồng.
Cho nên, tuồng đã chịu ảnh hưởng của hí khúc Trung Quốc và văn hóa Trung Hoa rất
nặng về các mặt: chức năng, đề tài, phương thức biểu diễn lời nói… Trong bài Nhìn qua
nội dung tuồng Việt Nam và Hí khúc Trung Quốc, Vương Gia có viết: “Nói chung, tuồng
Việt Nam và hí khúc Trung Quốc đều có chức năng “giáo hóa”, đều có tác dụng giáo
dục nhân dân.”
Bài viết Quan hệ giữa chèo và tuồng Việt Nam với hí khúc Tống Nguyên Trung
Quốc của tác giả Bành Thế Đoàn đã triển khai những vấn đề này qua các mục: Nghệ
thuật diễn xướng Tống, Nguyên thịnh hành ở Việt Nam; Mối quan hệ giữa sự hình thành
chèo, tuồng với hý kịch Tống Nguyên; Những vết tích của yếu tố hý kịch Tống Nguyên
trong chèo, tuồng Việt Nam (nghệ thuật diễn xướng, hình thức tự sự và kết cấu tam đoạn
thức, sân khấu và biểu diễn). Sau cùng tác giả đi đến kết luận như sau:
“Thông qua nghiên cứu so sánh, chúng ta có thể rút ra được kết luận, sự
hình thành của chèo và tuồng Việt Nam có mối quan hệ vô cùng mật thiết với hý
kịch Tống Nguyên Trung Quốc. Vì Việt Nam có điều kiện riêng mà những dấu ấn
của hý kịch Tống Nguyên còn để lại trong hai loại hình này là rất rõ ràng, không
những ở trong hình thức, đề tài, tư tưởng, cũng còn ở trong hình thức biểu diễn,
phương pháp biểu diễn của nó.”
Viện nghiên cứu Hán nôm (hannom.org.vn)
Bên cạnh những dòng tin tức vắn tắt điểm sự kiện có một số bài viết đã bước đầu
đề cập đến lịch sử và đặc điểm của tuồng Việt Nam. Về thể loại này có bài Ghi chép về
Hý kịch Việt Nam của tác giả Bôn ( 奔) trong tạp chí Trung Quốc hý kịch đã chú trọng
giới thiệu về tuồng ở một số điểm như lịch sử hình thành và phát triển, sự phân bố, đặc
điểm của tuồng Việt Nam nhân chuyến lưu diễn giao lưu tại Việt Nam từ ngày 11 đến
ngày 22 tháng 12 năm 2000 sau khi tìm hiểu về 6 loại hình kịch ở Việt Nam. Điểm đáng
chú ý là bài viết đề cập đến hoạt động của các đoàn nghệ thuật hí kịch Hoa kiều tại miền
Nam, cũng như nguyện vọng của họ trong việc có được sự hỗ trợ về đạo diễn cũng như
kịch bản từ các đoàn hý kịch Trung Quốc - quê nhà của họ.
5.2 Hát Bội:
Xét về mốc thời gian thì ta có thể thấy rằng nếu Kinh kịch mới ra đời từ triều đại
nhà Thanh (kéo dài từ thế kỷ VII đến thế kỉ XX) thì Hát bội không thể nào bị ảnh hưởng
từ Kinh kịch được. Tuy nhiên, nói như vậy thì còn phiến diện và chưa thực thích đáng.
Đầu tiên, ta phải thừa nhận rằng, Hát bội có bị ảnh hưởng bởi những tiền thân của Kinh
kịch, cụ thể nhất là Hí kịch. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể nêu được những ví dụ khi
Kinh kịch hoặc nhạc kịch Trung Quốc nói chung ảnh hưởng trực tiếp vào Hát bội cận đại.
Hát bội và Kinh kịch: Những điểm giống và khác nhau – Trường Ca Kịch Viện
(truongcakichvien.com)
Dù được cho là có nguồn gốc từ kinh kịch Trung Quốc vì có một dữ kiện lịch sử
trong cuộc chống ngoại xâm liên quan đến hát bội, đó là vào đời vua Trần Nhân Tông
(1279 – 1293), trong lần thứ 2 chống quân Nguyên đã bắt được Lý Nguyên Cát. Ông vốn
là diễn viên hí kịch nên được vua tha chết và bắt ông truyền dạy lại nghề hát hí kịch. Lý
Nguyên Cát dạy vở đầu tiên cho các đệ tử là vở Tây Vương mẫu hiến bàn đào. Sau này
có một giai thoại về vợ của Dương Khương, cả 2 vợ chồng đều là diễn viên hát bội nổi
tiếng. Vợ Dương Khương đã vào vai Vương Mẫu trong vở Vương Mẫu hiến bàn đào làm
xôn xao khắp nơi bởi tài năng của mình. Nhưng sau này vì muốn phát triển riêng thành
một môn nghệ thuật của Việt Nam nên đã biến đổi nó rất nhiều. Cho đến bây giờ thì giữa
hát bội và kinh kịch đã khác xa nhau rất nhiều. Đặc biệt nhất là khác về âm nhạc và nó
hoàn toàn được xem là hai phong cách nghệ thuật riêng biệt của hai nước.
Hát bội và những điều cơ bản thú vị về nghệ thuật hát bội (adammuzic.vn)
Vào năm Bính Tuất 1826, niên hiệu Minh Mạng XV, triều đình nhà Nguyễn còn
mời một kép hát người Hoa là Càn Cương Hầu/Cang Cung Hầu tới kinh đô dạy điệu hát
khách. Điệu này được đưa vào tuồng vốn sẵn điệu hát nam và điệu niêu nồi, làm phong
phú thêm phần âm nhạc của nghệ thuật hát bội. Hay là theo giáo sư Huỳnh Ngọc Tráng:
“Lúc sau này, nhất ở miền Nam, Hát bội ta trang vận giống như Hát Quảng Đông (tàu),
nhất là mấy đoàn hát ở Sài Gòn có dịp mua lại những xiêm áo của các đoàn hát Quảng
Đông qua Việt Nam hát”. Vậy ta có thể thấy rằng, Hát bội có một phần nào đó bị ảnh
hưởng từ những bộ môn tiền thân của Kinh kịch và có thể là trực tiếp từ Kinh kịch trong
quá trình phát triển. Tuy nhiên, qua thời gian, nước ta cũng đã có những sáng tạo rất riêng
của mình giúp hoàn toàn phân biệt Hát bội và Kinh kịch là hai bộ môn khác nhau.
Hát bội và Kinh kịch: Những điểm giống và khác nhau – Trường Ca Kịch Viện
(truongcakichvien.com)
Không chỉ có học giả Trung Quốc, mà học giả Việt Nam trong lịch sử từ những
đặc điểm bề ngoài khá tương đồng của tuồng và hí kịch cũng nhiều lần khẳng định tuồng
là một “bản sao” của hý kịch Trung Hoa. Có thể kể đến một số quan điểm như sau: Thân
Văn Nguyễn Văn Quý trong Khảo cứu văn chương nghệ thuật hát Bội cho rằng: “Dù ta
chịu ảnh hưởng Tàu, nhưng có thể nói ta Việt Nam hóa Bình kịch và Triều kịch làm
thành Việt Nam kịch tức Hát bội”; Nguyễn Văn Xuân trong Tân văn nguyệt san, nghiên
cứu và phê bình văn học (số 4 tháng 8, 1968, Sài Gòn): “Hát Bội là một sản phẩm miền
Nam tập theo lối hát Tiều (Triều Châu) trong lối hát truyền thống thời nhà Minh”; Lê
Văn Chiêu trong Nghệ thuật sân khấu hát Bội (NXB Trẻ, TP.HCM): “Nguồn gốc là
Nguyên tạp kịch (Nguyên khúc) của nhà Nguyên (Mông Cổ) truyền sang miền Bắc nước
ta được pha trộn, chế biến, dung hòa với “cái có sẵn” cốt lõi thành ra Hát Bội Việt
Nam....”.
Viện nghiên cứu Hán nôm (hannom.org.vn)
Ngoài ra tôi không tìm được bài viết trên vì liên kết chỉ dẫn đến trang chứ không dẫn đến
bài
Thực tế khi tra cứu tài liệu, ta sẽ thấy Hồ Quảng vốn là một địa danh của Trung
Hoa. Vào thời nhà Nguyên, tên gọi này dùng để chỉ vùng đất rộng lớn bao gồm Hồ Nam,
Hồ Bắc, Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và gần hết tỉnh Quý Châu. Vào nhà Minh và
nhà Thanh thì Hồ Quảng chỉ còn bao gồm Bắc và Hồ Nam mà thôi. Tuy nhiên hẳn tên
này vẫn còn được phổ biến trong dân chúng để nói về vùng đất rộng lớn xưa kia. Đáng
chú ý rằng vùng này bao quanh mạn Đông Bắc của Việt Nam. Kết hợp với việc các điệu
cải lương tuồng cổ có ảnh hưởng từ nghệ thuật sân khấu Trung Hoa, ta có thể thấy Hồ
Quảng trong tên vùng đất này và tên những giai điệu kia là một. Tuy nhiên, cần phải ghi
nhận rằng, là khi các truyện, tích của Trung Quốc được các văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ Việt
Nam thuật lại hay diễn lại, nó mang tính chất nghệ thuật rất độc đáo của Việt Nam, mà
truyện, tích khi ấy chỉ là cái cơ hội để người nghệ sĩ Việt Nam diễn tả cái hay, cái đẹp,
cái tuyệt diệu của ngôn ngữ, ý tưởng, tâm tình Việt Nam.
Những năm đầu thập niên 60, phim Đài Loan du nhập thị trường Việt Nam, khởi
đầu là phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, một thiên tình sử đẫm nước mắt đã gây nên
một cơn địa chấn khi không ai là không biết tới. Từ đây, các đoàn hát cải lương Hồ
Quảng thu hút khán giả đến nghẹt rạp, các hãng dĩa cũng thu thanh và phát hành dĩa hát
Hồ Quảng, đài truyền hình Sài Gòn cũng có những Ban hát Hồ Quảng như Ban Khánh
Hồng, Ban Minh Tơ, Ban Huỳnh Long, Ban Vân Kiều, tất cả tạo thành một phong trào
hát cải lương Hồ Quảng ngày một phát triển và được khán giả vô cùng ưa thích.
Vở cải lương Kiếm hiệp thời hoàng kim - Anh Hùng Xạ Điêu ở Việt Nam mượn từ
nguyên tác truyện cùng tên của Kim Dung được thể hiện bởi nhiều nghệ sĩ khác nhau do
các đạo diễn khác nhau. Tuy nhiên, ở thời kỳ trước năm 1975 thì các tác phẩm cải lương
vẫn giữ nguyên bản gốc và chưa có sự chỉnh sửa thêm thắt. Nhưng không vì thế mà các
nghệ sĩ cải lương diễn không đạt, các tác phẩm ấy vẫn mang một vẻ huy hoàng của nghệ
thuật cải lương.
Tại Hội quán Nghĩa An (Quận 5) tối 27/02/2019, Trung tâm Văn hóa Quận 5 phối
hợp Hội quán Nghĩa An tổ chức chương trình giao lưu nghệ thuật Cải lương tuồng cổ
Việt Nam và Triều kịch Quảng Đông Trung Quốc. Tham gia biểu diễn giao lưu tại
chương trình là nhóm Cải lương Đồng Ấu Bạch Long và nhóm Cải lương Tuồng cổ
Thanh Sơn với các trích đoạn đặc trưng của nghệ thuật Cải lương tuồng cổ: Triệu Tử
Long đoạt ấu chúa, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo, Quan Công hiển thánh… Bên cạnh đó là các
nghệ sĩ của Đoàn 2 Viện Triều kịch Quảng Đông - Trung Quốc (thành lập năm 1958, đã
lưu diễn tại nhiều nơi trên thế giới như: Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Macau…) với
các trích đoạn: Ái Ca (trích Xuân Hương truyện), Chiêu thân (trích Mộc Quế Anh) và
tuồng Tần Anh treo ấn soái. Năm 1996, Đoàn lần đầu đến giao lưu biểu diễn tại TPHCM
và trong 22 năm qua đã trở lại biểu diễn 6 lần, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy hợp tác giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc.
Tóm lại, Cải lương Hồ Quảng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu Việt Nam có
một nguồn gốc khác phức tạp: cải lương, hát bội, sân khấu Bắc Kinh, sân khấu Quảng
Ðông, nhạc Việt Nam truyền thống, nhạc Ðài Loan, võ thuật Bắc Phái… Tuy nhiên, qua
cách trình diễn của các nghệ sĩ Việt Nam, tất cả các loại hình nghệ thuật này phối hợp
nhuần nhuyễn với nhau, tạo thành một sắc thái riêng. Khán giả thưởng thức một vở tuồng
diễn theo lối cải lương Hồ Quảng nhìn thấy rằng bản thân nó rất Việt Nam, không lẫn với
ca kịch Trung Hoa.
Có thể nói, mối quan hệ của sân khấu Trung Quốc với sân khấu kịch hát truyền
thống Việt Nam trước TK XX, là mối quan hệ có từ lâu đời, giúp dân tộc Việt Nam sáng
tạo nên nền nghệ thuật sân khấu truyền thống giàu bản sắc. Sân khấu Việt Nam đã và
đang tiếp thu tinh hoa của một nền văn hóa cổ kính, phong phú, một nền sân khấu đặc sắc
chứa nhiều điều kỳ diệu của Trung Quốc bằng nhiều cách và nhiều phương diện...