Professional Documents
Culture Documents
Mùa thu bước vào thơ ca thật tự nhiên, gần gũi, trở thành một thi đề quen thuộc. Các bài thơ
viết về đề tài này đều để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó phai. Nói đến mùa thu, ta
không thể không nhắc tới chùm thơ ba bài “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm” của cụ Tam
Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến; không thể không xao xuyến với “Tiếng thu” của Lưu
Trọng Lư, “Đây mùa xuân tới” của Xuân Diệu,… Là nhà thơ viết hay, viết nhiều về mùa thu
với những cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ
nhàng, Hữu Thỉnh cũng góp vào thơ thu đất nước một “Sang thu” tinh tế mà sâu sắc.
Nhà thơ Trần Hòa Bình đã viết: Thêm một chiếc lá rụng / Thế là thành mùa thu / Thêm một
tiếng chim gù / Thành ban mai tinh khiết. Thêm một vần thơ thu của Hữu Thỉnh, vườn thơ thu
của văn học dân tộc thêm phong phú và đậm đà hương vị. Thêm một bài thơ thu của Hữu
Thỉnh, người đọc thêm yêu hơn sắc thu thân thuộc của quê nhà, thêm yêu hơn quê hương, đất
nước. Hãy mở lòng mình để đón nhận thu sang...
Sang thu khúc giao mùa nhẹ nhàng thơ mộng bâng khuâng mà cùng thì thầm triết lý đã
tiếp nối hành trình thơ thu của dân tộc, góp một tiếng thu đằm thắm về quê hương đem
đến cho thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước qua nét thơ thu Việt Nam. Mở rộng:
Thơ thu Hữu Thỉnh không bắt đầu bằng sắc lá vàng quen thuộc - sắc vàng mê hoặc hút người
ta theo những lối mòn – tử lộ của văn chương:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
(Nguyễn Du)
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)
Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Xuân Diệu)
Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
(Bích Khê)
Thơ thu Hữu Thỉnh không bắt đầu bằng âm thanh mơ hồ của mùa thu:
Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc Con
nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
(Lưu Trọng Lư)
Cũng không bắt đầu bằng hương cốm thanh lịch của người Hà Nội:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
(Nguyễn Đình Thi)
NÓI VỚI CON
Y Phương
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Tác giả
- Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.
- Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công
tác tại Sở Văn hoá - Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông là Chủ tịch Hội Văn học nghệ
thuật Cao Bằng.
- Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu
hình ảnh của con người miền núi.
- Một số tác phẩm: Người núi Hoa (1982), Tiếng hát tháng giêng (1986), Lửa hồng một
góc, Lời chúc (1991), Đàn then (1996), Thơ Y Phương (2002)
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: năm 1980.
- Đất nước còn gặp vô vàn khó khăn trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
- Bài thơ ra đời trong niềm hạnh phúc được làm cha của Y Phương. b. Thể thơ:
Tự do
c. Mạch cảm xúc:
Với lời thơ tâm tình, người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng, sau đó, ông tự hào nói
với con về vẻ đẹp của người đồng mình và gửi gắm cho con những lời dặn dò tha thiết.
Như vậy, mạch cảm xúc của bài thơ đi từ tình cảm gia đình mở rộng ra là tình cảm quê hương,
từ những kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên lẽ sống.
d. Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
Nghệ thuật
- Giọng điệu thiết tha trìu mến .
- Xây dựng các hình ảnh cụ thể mà khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ. - Bố cục chặt chẽ
hợp lí, dẫn dắt tự nhiên.
Nội dung
- Thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương và dân tộc.
- Gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
II. PHÂN TÍCH
1. Nói với con về cội nguồn sinh dưỡng (khổ 1)
Mở đoạn Bằng giọng thơ tâm tình, giản dị, tự nhiên, người cha đã nói với con về hai
cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người: gia đình và quê hương.
Thân đoạn
Ý 1: Gia đình Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
- Nội dung
- Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh một gia đình hạnh phúc. Ở đó
- Nghệ bé thơ đang lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói. Mỗi bước đi, tiếng nói
thuật cười của bé đều được cha mẹ nâng niu đón nhận và yêu thương chăm
sóc.
- Nhà thơ có cách diễn đạt thật độc đáo: Hình ảnh thơ cụ thể, điệp ngữ
“bước tới”, điệp cấu trúc, kết cấu sóng đôi nhịp nhàng (nhịp thơ 2/3).
Cách dùng từ cụ thể mà gợi cảm: tới, chạm. Tiếng nói cười vốn vô hình,
- Dụng ý vậy mà qua những từ ngữ trên nó hữu hình, như cảm nhận được bằng xúc
của cha giác. Hạnh phúc gia đình trở nên hiện hữu, sống động, ngập tràn.
Qua những lời thơ ấy, cha muốn nói với con rằng: Con được sống trong
cái nôi ấm áp của hạnh phúc gia đình. Hãy biết trân trọng niềm hạnh
phúc giản dị và ngọt ngào đó.
Ý 2: Quê
hương
- Chuyển ý - Con không chỉ được sống trong tổ ấm nôi êm của gia đình mà còn
được bao bọc bởi những con người quê hương.
Trích thơ
- Con - Lời thơ xiết bao trìu mến khi cha nói về những người con quê
người quê hương: Người đồng mình yêu lắm con ơi!
hương + Người đồng mình là cách gọi độc đáo về những người cùng làng, cùng
bản, cùng nơi sinh sống. Cách gọi đó cũng thể hiện tình cộng đồng gần gũi,
ấm áp.
+ Những động từ: đan, cài, ken vừa miêu tả một cách cụ thể công việc lao
động của người đồng mình vừa nói lên tình đoàn kết, gắn bó của những
người quê hương.
+ Người đồng mình là những người cần cù, chăm chỉ, khéo léo, tài hoa
trong lao động, làm ăn: Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát.
+ Họ cũng là những người có tâm hồn lạc quan, yêu đời.
- Con thật hạnh phúc được sống trong không khí lao động cần cù và
vui tươi của người đồng mình.
- Xung quanh con còn là thiên nhiên quê hương thơ mộng, hữu tình:
- Thiên Rừng cho hoa
nhiên quê - Hơn thế, quê hương nuôi dưỡng con về tâm hồn và lẽ sống: Điệp
hương - Lẽ ngữ cho thể hiện sự hào phóng của quê hương. Con đường cho những
sống ân tấm lòng. Hình ảnh ẩn dụ con đường là biểu tượng cho tấm lòng bao
tình dung, tình nghĩa của quê hương. bồi đắp cho con về lẽ sống yêu
thương.
Kết đoạn Như vậy, qua những vần thơ giản dị, hình ảnh thơ cụ thể mang đậm tư duy
của người miền núi, cha truyền cho con những tình cảm cội nguồn, mong
con hãy trân trọng gia đình, quê hương, sống xứng đáng với những miền
yêu thương đó.
2. Nói với con về vẻ đẹp của người đồng mình
Mở đoạn
Thân đoạn - Cuộc sống của người đồng mình đầy vất vả gian lao: sống trên đá gập
Ý 1: Cuộc sống ghềnh, trong thung nghèo đói, lên thác xuống ghềnh…biết bao cực nhọc.
của người Thiên nhiên khắc nghiệt, sự sống cằn khô, chứa đựng nhiều thử thách, khó
đồng mình:
khăn. Cuộc sống nhọc nhằn dường như còn hằn in trên dáng hình của người
đồng mình Thô sơ da thịt: mộc mạc, thô ráp, chai sần.
- Viết về những gian nan ấy, Y Phương không khỏi ngậm ngùi, xót xa:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Ý 2: Vẻ đẹp
của người
đồng mình
- Chuyển Đáng quý thay, giữa cuộc sống khắc nghiệt ấy, những vẻ đẹp của người
ý: đồng mìnhvẫn bung nở và ngát hương như cây rừng.
Trích thơ
- Trước hết, họ đẹp ở tâm hồn rộng mở, phóng khoáng:
- Những Cao đo nỗi buồn
vẻ đẹp của Xa nuôi chí lớn
người đồng - Người đồng mình có sức sống bền bỉ, mãnh liệt:
mình (5) Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Điệp ngữ sống (3) tạo cho mạch thơ tuôn trào như thác đổ, thể hiện sức
sống trỗi dậy, sự vươn lên mạnh mẽ, nghị lực sống phi thường.
Những từ không lo, không chê, không lo thể hiện thái độ sống tích cực biết
chấp nhận khó khăn, chủ động cải tạo hoàn cảnh sống đầy bản lĩnh, kiên
cường, dũng cảm của người đồng mình.
Quê hương cọc cằn sỏi đá là thế nhưng những người con quê hương ấy
không quay lưng lại với quê hương. Đó cũng là lối sống ân nghĩa, thủy
chung với quê hương. Họ gắn bó và yêu quê hương tha thiết:
Sống như sông như suối.
- Không những vậy, người đồng mình còn là những người giàu ý chí
nghị lực, niềm tin: Người đồng mình thô sơ da thịt. Kết cấu tương
phản giữa thô sơ da thịt (mộc mạc, giản dị) với không nhỏ bé (giàu ý
chí, nghị lực) đã thể hiện rõ điều đó.
- Điều đáng tự hào nhất, người đồng mình là những người tự lực tự
cường xây dựng quê hương:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê
hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Bằng ý chí, nghị lực, họ đã khiến cho sự sống bật trồi lên trên đá, họ
trải màu xanh lên rừng đại ngàn, họ làm nên những ruộng bậc thang no ấm.
Họ miệt mài và cần mẫn làm thay da đổi thịt quê hương.
Và từ quá trình ấy, người đồng mình đã hun đúc nên bản sắc văn hóa độc
đáo của quê hương “còn quê hương thì làm phong tục”. Người đồng mình
sống trên đá, mang vóc hình của đá và mang cả ý chí mạnh mẽ kiên
cường của đá núi.
Kết đoạn Qua những vần thơ giản dị, hình ảnh thơ cụ thể mang đậm tư duy của
người miền núi, cha muốn truyền cho con niềm tự tôn, niềm tin về truyền
thống và sức sống bền bỉ của quê hương. Mong con phát huy những truyền
thống cao
đẹp đó. Và mong muốn thiết tha nhất của cha: con thủy chung, ân nghĩa với
quê hương.
3. Lời dặn dò tha thiết (khổ 3)
Mở đoạn Với giọng thơ tâm tình, những câu thơ cuối bài thơ Nói với con của Y
Phương đã gửi gắm biết bao tình cảm của cha dành cho con:
Trích dẫn thơ
Thân đoạn -
Giọng điệu - Giọng điệu thiết tha, trìu mến, chất chứa bao yêu thương: Con ơi,
thơ nghe con.
- Nội dung Cụm từ Tuy thô sơ da thịt một lần nữa được nhắc lại nhưng mang ý nghĩa
lời dặn dò khác, tượng trưng cho hoàn cảnh sống khó khăn, gian khổ, nghèo nàn.
Cụm từ lên đường nghĩa là trưởng thành, đi xa quê hương... Không bao giờ
nhỏ bé được nghĩa là không hèn kém mà phải kiêu hãnh ngẩng cao đầu, tự
tin và đường hoàng mà sống. Sống sao cho xứng đáng với quê hương, với
gia đình. Sống có bản lĩnh, khí phách như con người quê hương. Cha dặn
con hãy sống tự lập, đường hoàng, bản lĩnh, tự tin.
- Tác giả sử dụng kết cấu đối lập tương phản giữa thô sơ da thịt và
- Nghệ không bao giờ nhỏ bé (giữa hoàn cảnh và tầm vóc, ý chí). Kết cấu phủ
thuật định nhằm khẳng định Không bao giờ… được, khắc sâu lời dặn dò
của cha.
- Lời dặn dò mang ý nghĩa sâu sắc: Nó thể hiện niềm yêu thương, tin
- Ý nghĩa tưởng nơi con, mong muốn con trưởng thành của cha. Nó bộc lộ tình
yêu quê hương và niềm tự hào dân tộc. Là lời chuyển giao của thế hệ
trước cho thế hệ sau và cũng là lời tự dặn lòng của nhà thơ vững chí,
bền gan giữa lúc hoàn cảnh khó khăn.
Kết đoạn Qua những vần thơ giản dị, hình ảnh thơ cụ thể mang đậm tư duy của
người miền núi, người cha trong bài thơ đã gửi đến con những lời dặn dò
có ý nghĩa sâu sắc.