You are on page 1of 13

I.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


-------***-------

BÀI TẬP LỚN


Môn: Kinh tế Chính trị Mác Lê-nin

Họ và tên SV:
Lớp:
STT:
Mã SV:

1
MỤC LỤC

CÂU 1: LÀM RÕ MỐI QUAN HỆ GIỮA TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN. PHÂN
TÍCH Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN. 2

I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN 2


II. CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN 3
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN 4
IV. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN 5

CÂU 2: LÀM RÕ NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. ĐỂ HẠN CHẾ
NHỮNG KHUYẾT TẬT ĐÓ CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ GÌ? VÌ SAO? 7

I. KHÁI NIỆM NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 7


II. KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 7
III. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT KHUYẾT TẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 8
IV. Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC KHUYẾT TẬT CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 9

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

2
Câu 1: Làm rõ mối quan hệ giữa tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Phân tích ý
nghĩa của việc nghiên cứu chu chuyển của tư bản.

I. Tuần hoàn của tư bản

1. Khái niệm
 Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản qua ba giai đoạn với ba hình
thái, thực hiện ba chức năng, rồi quay trở về hình thái ban đầu cùng với giá trị thặng
dư.

 Sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng vì:
- Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn
khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp.
- Mặt khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất
định.

 Tuần hoàn tư bản phản ánh những mối quan hệ khách quan giữa các hoạt động cần kết
hợp nhịp nhàng, kịp thời, đúng lúc trong quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nói riêng.

2. Các giai đoạn của tuần hoàn tư bản


 Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất, để mua tư liệu sản xuất và
sức lao động.
Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng của giai đoạn này
là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản
xuất.

 Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất


Nhà tư bản tiêu dùng những hàng hóa đã mua, tức là tiến hành sản xuất. Trong quá
trình sản xuất, công nhân hao phí sức lao động, tạo ra giá trị mới, còn nguyên liệu
được chế biến, máy móc hao mòn thì giá trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch
vào sản phẩm mới.
Quá trình sản xuất kết thúc, lao động của công nhân làm thuê đã tạo ra những hàng
hóa mới mà giá trị của nó lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất mà nhà tư bản đã mua lúc
ban đầu, vì trong đó có giá trị thặng dư do công nhân tạo ra.
Kết thúc của giai đoạn thứ hai: tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.

3
 Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông
Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của nhà tư bản
được chuyển hóa thành tiền.
Kết thúc giai đoạn ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây mục
đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong tay
chủ của nó, nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Số tiền bán hàng hóa đó, nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua tư liệu sản xuất và sức
lao động cần thiết để tiếp tục sản xuất và toàn bộ quá trình trên được lặp lại.

Qua mô hình này càng thấy rõ hơn nguồn gốc của giá trị thặng dư được tạo ra trong sản
xuất và do hao phí sức lao động của người lao động chứ không phải do mua rẻ bán đắt mà
có.

II. Chu chuyển của tư bản

1. Khái niệm
 “Chu chuyển tư bản là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường xuyên
lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian.”

 Chu chuyển của tư bản phản ánh tốc độ vận động của tư bản cá biệt là nhanh hay
chậm.

 Chu chuyển của tư bản được đo lường bằng thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu
chuyển của tư bản.

a. Thời gian chu chuyển tư bản


Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra
dưới một hình thái nhất định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị
thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

 Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản
xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ
sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các nhân tố
sau:
+ Tính chất của ngành sản xuất, như ngành đóng tàu thời gian sản xuất nhất định
phải dài hơn ngành dệt vải; dệt thảm trơn thời gian ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa
văn.
+ Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm, như xây dựng một xí nghiệp mất thời
gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường.
+Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
4
+ Năng suất lao động.
+ Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
+ v.v..

 Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời
gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra
hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. 
Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian
lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau đây quy định: thị trường xa hay gần,
tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải... 
Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng
dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.

b. Tốc độ chu chuyển tư bản


Tốc độ chu chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất
định quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn vị thời
gian nhất định. Thông thường, tốc độ chu chuyển được tính bằng số vòng chu chuyển của
tư bản trong thời gian 1 năm.

Tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của
nó.

Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức sản xuất,
việc áp dụng những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất, phương tiện
vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch được cải tiến... cho phép rút ngắn thời
gian chu chuyển của tư bản, do đó, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.

III. Mối quan hệ giữa tuần hoàn và chu chuyển của tư bản

Tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản là hai mặt của một vấn đề vận động của tư bản.
Tuần hoàn tư bản nghiên cứu mặt chất của sự vận động tư bản và chu chuyển tư bản
nghiên cứu mặt lượng của sự vận động tư bản. Tuy có sự khác nhau nhưng cả hai đều
cùng nghiên cứu sự vận động của tư bản, do đó tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản có
mối quan hệ rất mật thiết.

Sau khi toàn bộ giá trị tư bản mà một nhà tư bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuất nào
đó, hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở về hình thái ban đầu của
nó và lại có thể tiếp tục diễn ra lại cùng một quá trình như thế. Muốn cho giá trị được bảo
tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với tư cách là giá trị tư bản thì nó phải lặp lại
5
tuần hoàn ấy. Tuần hoàn của tư bản khi được coi là một quá trình định kỳ chứ không phải
là một hành vi cá biệt thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển ấy
được quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại. Tổng số
thời gian ấy là thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển của tư bản bao quát
khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn của tổng giá trị tư bản đến định kỳ tuần hoàn
tiếp theo.

Chu chuyển tư bản chỉ có thể diễn ra khi tuần hoàn của tư bản được vận hành trôi chảy,
mặt khác quá trình tuần hoàn của tư bản là quá trình thống nhất giữa lưu thông và sản
xuất.

Quá trình chu chuyển của tư bản có nhanh thì mới giúp cho việc tuần hoàn được quay lại
quá trình tuần hoàn để trở về hình thái ban đầu của nó được nhanh chóng.

Vì vậy việc tăng tốc độ chu chuyển tư bản và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu
chuyển vốn là yêu cầu của mọi nền sản xuất. Nền kinh tế XHCN có khả năng thực hiện
tốt vấn đề ấy. Vận dụng tốt quy luật trên thì sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng có một nền
kinh tế phát triển lành mạnh, nhanh chóng tạo được cơ sở vật chất để xây dựng chủ nghĩa
xã hội thành công.

IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu chu chuyển của tư bản

* Khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản, ta cần nghiên cứu về việc chu chuyển hai bộ
phận giá trị của tư bản sản xuất là tư bản cố định và tư bản lưu động.

 Tư bản cố định:
- Là tư bản tham gia vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó được chuyển dần
dần vào sản phẩm.
- Được sử dụng lâu dài và hao mòn dần. Có hai loại hao mòn là hao mòn vô hình
và hao mòn hữu hình.
+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về giá trị sử dụng, do quá trình sử dụng và
do tác động tự nhiên mà bị hao mòn.
+ Hao mòn vô hình là hao mòn về giá trị do quá trình hiện đại hóa của khoa
học kỹ thuật, nhiều máy móc mới được sản xuất ra tốt hơn, rẻ hơn, làm cho máy
móc cũ đang được sử dụng bị giảm giá trị ban đầu.

 Tư bản lưu động là bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu, sức lao động,... được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản
xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm.

6
* Như vậy, nghiên cứu chu chuyển của tư bản đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra
các biện pháp phù hợp để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản. Tác dụng của việc nâng cao
tốc độ chu chuyển tư bản bao gồm:
 Nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí bảo quản,
sửa chữa tài sản cố định, giảm được hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, cho
phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị; có thể sử dụng quỹ khấu hao làm quỹ dự
trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.

 Nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản lưu động sẽ cho phép tiết kiệm tư bản ứng
trước khi quy mô sản xuất như cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà không cần có tư
bản phụ thêm.

 Đối với tư bản khả biến, việc nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc làm tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
hằng năm. Tỷ suất giá trị thặng dư hằng năm là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa khối
lượng giá trị thặng dư hằng năm với tổng tư bản khả biến ứng trước.

* Do đó, việc nghiên cứu chu chuyển của tư bản nhằm đưa ra các biện pháp tăng tốc độ
chu chuyển của tư bản có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Qua quá trình nghiên cứu, có thể
đưa ra các biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản như: nâng cao năng suất lao
động để rút ngắn thời gian lao động, áp dụng khoa học kỹ thuật để rút ngắn thời gian gián
đoạn lao động, giảm dự trữ sản xuất dẫn đến rút ngắn thời gian dự trữ sản xuất, hoàn thiện
hệ thống cơ sở hạ tầng dẫn đến rút ngắn thời gian chu chuyển, khấu hao nhanh tư bản cố
định dẫn đến rút ngắn thời gian chu chuyển,...

Đặc biệt đối với riêng Việt Nam, để nâng cao tốc độ chu chuyển cần: rút ngắn thời gian
sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động, nâng cao trình
độ tay nghề cho công nhân để họ sản xuất ra sản phẩm nhanh hơn với chất lượng tốt hơn,
có đãi ngộ xứng đáng với người lao động, khuyến khích lao động tích cực và có trách
nhiệm hơn trong lao động sản xuất. Đồng thời cần cải thiện bộ máy tổ chức và quản lý lao
động để làm việc có hiệu quả hơn tránh tình trạng cồng kềnh chồng chéo. Ngoài ra việc
rút ngắn thời gian lưu thông cũng vô cùng quan trọng, đặt ra yêu cầu tất yếu cho các
doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, bắt kịp thị hiếu người tiêu dùng
để từ đó quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất các mặt hàng của doanh nghiệp trên thị
trường để bảo đảm các mặt hàng được tiêu thụ nhanh, hạn chế hàng tồn kho. Việc thường
xuyên cải tiến mặt hàng làm phong phú các chủng loại, thỏa mãn tối đa lợi ích của người
tiêu dùng cũng quan trọng nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa. Đồng thời áp dụng các
phương thức thanh toán linh hoạt, xác định và phân loại thị trường chính xác để phân phối
hàng hóa thích hợp, từ đó giảm được việc lãng phí thời gian. Các doanh nghiệp của Việt
Nam cũng có thể mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, giúp sản phẩm lưu thông nhanh hơn và xây dựng các nhà máy sản xuất gần thị
trường tiêu thụ để rút ngắn thời gian lưu thông hàng hóa.
7
8
Câu 2: Làm rõ những khuyết tật của kinh tế thị trường. Để hạn chế những khuyết
tật đó cần phải giải quyết các vấn đề gì? Vì sao?

I. Khái niệm nền kinh tế thị trường

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền
kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua
thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.

Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự nhiên, tự túc,
kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ
khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn
minh nhân loại.

II. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường

Bên cạnh những ưu thế, kinh tế thị trường cũng những khuyết tật vốn có. Những khuyết
tật chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:

(1) Những rủi ro khủng hoảng tiềm ẩn.


Cơ chế của nền kinh tế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra sự cân đối về giá cả và
hàng hóa, do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoàng có thể diễn ra
cục bộ, có thể diễn ra trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra đối với mọi loại
hình thị trường, với mọi nền kinh tế thị trưởng. Thị trường vốn dĩ có sự biến động liên
tục, do vây việc xảy ra các vấn đề chẳng hạn như chiến tranh, dịch bệnh, thiện tai, cấm
vận… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Sự khó khăn đối với các
nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy
ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được những rủi ro tiềm ẩn
này.

Không chỉ vậy, bởi vì chạy theo lợi nhuận nên các công ty sẽ mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, dẫn đến nguồn cung cao hơn cầu. Tình trạng này kéo dài trong nhiều năm sẽ
dẫn đến hiện tượng khủng hoảng thừa và gây ra khủng hoảng kinh tế.

(2) Không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái
môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Kinh tế thị trường có mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận và tối ưu hoá việc sử dụng tài
nguyên. Vì vậy, trong một môi trường kinh tế thị trường, các chủ thể sản xuất kinh doanh
sẽ luôn tìm cách tận dụng các tài nguyên một cách tối đa và hiệu quả nhất để tạo ra lợi
9
nhuận cao nhất. Tuy nhiên, việc tận dụng tài nguyên một cách tối đa có thể dẫn đến cạn
kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường.

Ngoài ra, các chủ thể sản xuất kinh doanh trong môi trường kinh tế thị trường cũng có thể
có động cơ lợi nhuận cao hơn các giá trị khác như đạo đức, trách nhiệm xã hội và bảo vệ
môi trường. Điều này có thể dẫn đến việc các chủ thể sản xuất kinh doanh không quan
tâm đến các vấn đề liên quan đến môi trường và xã hội nếu không có quy định và sự giám
sát từ phía chính phủ.

Vì vậy, mặc dù kinh tế thị trường có thể tạo ra những động lực mạnh mẽ để tận dụng các
tài nguyên và tối ưu hoá sử dụng chúng, nhưng nó cũng có thể gặp phải các vấn đề môi
trường và xã hội nếu không có các quy định và giám sát phù hợp.

(3) Không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội.
Kinh tế thị trường có xu hướng tạo ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội do sự chênh
lệch về tài nguyên và khả năng tiếp cận tài nguyên giữa các cá nhân và tập đoàn. Các tập
đoàn giàu có thường có quyền lực và tài nguyên lớn hơn, có thể tạo ra sự ưu tiên cho
riêng mình và ảnh hưởng đến quyết định chính trị và chính sách. Ngược lại, những người
nghèo hơn thường không có tài nguyên và quyền lực này, do đó họ không được đưa vào
tầm nhìn của các tập đoàn và không được thể hiện trong quyết định chính trị.

Ngoài ra, kinh tế thị trường có xu hướng đẩy mạnh mối quan hệ cạnh tranh giữa các cá
nhân và tập đoàn, điều này dẫn đến tăng cường sự phân hóa và cách biệt giữa các tầng lớp
xã hội. Trong khi các tập đoàn giàu có có thể tập trung vào việc phát triển kinh tế của họ,
các nhóm người nghèo hơn có thể bị bỏ lại phía sau và không được hưởng lợi từ sự phát
triển kinh tế.

Bên cạnh đó, kinh tế thị trường không có cơ chế hoạt động để giải quyết sự phân hóa xã
hội, mà nó thậm chí có thể làm tăng sự phân hóa này. Trong kinh tế thị trường, sự phân
hóa là kết quả của sự khác biệt về năng lực và tài nguyên giữa các tập đoàn và cá nhân, và
những cá nhân và tập đoàn này sẽ không đưa ra quyết định để giảm bớt sự phân hóa này
mà họ thậm chí có thể muốn tăng cường nó để tăng cường sức mạnh và lợi nhuận của họ.

III. Các biện pháp giải quyết khuyết tật của kinh tế thị trường

* Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích của
các chủ thể kinh tế.
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi trường
càng thuận lợi thì hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở rộng. Môi trường
vĩ mô không tự hình thành, mà phải được nhà nước tạo lập. Tạo lập môi trường thuận lợi
10
cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng được môi trường pháp luật thông thoáng,
bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích
đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia phải tuân
thủ các thông lệ quốc tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu
phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho
các hoạt động kinh tế còn là tạo lập môi trường văn hóa phù hợp vớiyêu cầu phát triển
kinh tế thị trường.

* Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội


Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị trường,
sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một bộ phận
dân cư được thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, nhà nước cần có các chính sách, trước hết là
các chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Trong điều
kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các
tập thể, các cá nhân là khách quan; mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá
đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội.
Đó là những vấn đề mà chính sách phân phối thu nhập phải tính đến.

* Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã
hội.
Phân phối thu nhập công bằng góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Ở
mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống tối thiểu. Để làm được điều
này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo cơ hội
tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Tuyên truyền, giáo
dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã
hội là giải pháp cần thiết để loại bỏ những vấn đề về thu nhập. Bên cạnh đó, các hoạt
động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo… tồn tại khá phổ biến.
Các hoạt động này càng gia tăng, càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn
chân chính. Nhà nước nghiêm cấm các hình thức thu nhập bất hợp pháp, mọi vi phạm
phải được xét xử theo quy định của pháp luật.

IV. Ý nghĩa của việc giải quyết các khuyết tật của kinh tế thị trường

Đảm bảo công bằng và bền vững trong phát triển kinh tế: Nếu không giải quyết được các
khuyết tật của kinh tế thị trường, sẽ dẫn đến sự chênh lệch tài chính và xã hội, ảnh hưởng
đến sự công bằng và bền vững trong phát triển kinh tế.

Nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân: Các khuyết tật của kinh tế thị trường cũng
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là những người ở vị trí thấp
nhất của xã hội. Giải quyết các khuyết tật này sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân.
11
Tăng cường ổn định kinh tế: Kinh tế thị trường có thể gặp phải các rủi ro và biến động,
đặc biệt là trong thời kỳ khó khăn hoặc suy thoái kinh tế. Nếu không giải quyết được các
khuyết tật của kinh tế thị trường, rủi ro và biến động này có thể trở nên nguy hiểm và ảnh
hưởng đến sự ổn định của kinh tế.

Đảm bảo an toàn xã hội: Các khuyết tật của kinh tế thị trường có thể dẫn đến tình trạng
bất ổn và không an toàn trong xã hội, đặc biệt là khi sự chênh lệch quá lớn. Giải quyết các
khuyết tật này sẽ giúp đảm bảo an toàn xã hội và sự ổn định trong cộng đồng.

12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin

2. Tô Phán, “Khuyết tật kinh tế nhìn từ góc độ xã hội”,


http://hanoimoi.com.vn/ban-in/Suy-ngam/546821/khuyet-tat-kinh-te-nhin-tu-goc-do-xa-hoi-
#:~:text=C%C3%A1c%20nh%C3%A0%20nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u%2C%20c
%C3%A1c,nh%E1%BB%AFng%20m%C3%B4%20h%C3%ACnh%20kinh%20t%E1%BA%BF
%3B

13

You might also like