Professional Documents
Culture Documents
TỔNG QUAN
1.1 Tổng quan về trinh sát hiện đại
Chiến tranh hiện nay đang xảy ra tương đối nghiêm trọng tại mội số điểm nóng
trên thế giới đồng thời sự phổ biến và tính sẵn sàng của phương tiện trinh sát có nghĩa là
các đơn vị tác chiến trên chiến trường có thể được giám sát bởi nhiều cách khác nhau. Vì
các loại đạn dược vũ khí dẫn đường chính xác đã xuất hiện ngày càng phổ biến trong lịch
sử chiến tranh dẫn đến các thiết bị phục vụ việc trinh sát ngày càng phát triển. “Con mắt
không chớp” được phóng lên cùng các vệ tinh quay quanh trái đất và quan sát từng
centimeter trên mặt đất cho bất kì ai không chỉ cho lực lượng quân sự. Hệ thống giám sát
cũng có sẵn trong các cửa hàng dân sự như camera hay flycam. Chiến tranh trong thế kỷ
21 sẽ xảy ra với sự theo dõi của hàng tỷ khán giả. Sự cần thiết của việc tiến hành trinh sát
ngăn chăn quân địch của lực lượng quân đội sẽ không giảm. Trên thực tế khả năng của
các lực lượng để làm gián đoạn hay đánh lừa các biện pháp giám sát của địch hay giám
sát các hoạt động của đối phương sẽ trở nên quan trọng hơn.
Hoạt động nắm địch của quân báo – trinh sát trong khu cực tác triến không chỉ
nắm đối địch có ý đồ xâm lược từ bên ngoài mà còn phải nắm cả đối tượng nội địa, tình
hình địa bàn, hoạt động của đơn vị bạn, địa phương có liên quan; sẵn sàng tập kích phá
hủy, tiêu diệt các mục tiêu quan trọng của địch ở phía trước khu vực phòng thủ và thực
hiện các nhiệm vụ khác được giao. Đây là vấn đề rất quan trọng, góp phần quyết định tới
chất lượng, hiệu quả của tác chiến phòng thủ, nhất là đối với các tỉnh, thành phố biên
giới, bởi lẽ chỉ trên cơ sở nắm chắc đối tượng, ý đồ, âm mưu, thủ đoạn,... của địch, chúng
ta mới có cơ sở xây dựng, điều chỉnh, kế hoạch, quyết tâm tác chiến phù hợp để giành
thắng lợi. Đặc biệt trong thời kỳ đầu của chiến tranh ối tượng và âm mưu, thủ đoạn của
địch còn trong vòng bí mật, chưa xác định rõ ràng, thì hoạt động của lực lượng quân báo -
trinh sát càng có ý nghĩa quan trọng. Những phát triển của công nghệ dẫn đến những tiến
bộ trong chiến tranh điện tử và chiến tranh mạng có nghĩa là các đơn vị trên chiến trường
có thể bị phát hiện theo nhiều cách khác nhau cho nên cần phải chủ động và thụ động
trong việc chống lại sự trinh sát của đối phương. Việc sử dụng trinh sát để tìm và khai
thác kẻ thù trên mặt đất và tìm ra lỗ hổng để phản kích, ngăn chặn lực lượng đối phương
làm điều tương tự sẽ luôn được quan tâm. Trong chiến tranh hiện nay đòi hỏi khả năng
trinh sát và phản công hiệu quả cùng với các đơn vị phù hợp để chiến thắng trong các trận
chiến thông tin. Các sản phẩm của khoa học công nghệ cũng như các chiến thuật trinh sát
hiện đại cũng dần được áp dụng trong các cuộc chiến hiện nay
1.1.1 Máy bay không người lái và vệ tinh
Máy bay, phương tiện bay không người lái và vệ tinh hiện là những phương tiện
chủ đạo để trinh sát. Tuy nhiên, dù công nghệ tiên tiến như thế nào, các chỉ huy mặt đất
vẫn cần thông tin từ lính cung cấp cho mình . Giám sát trên không là một phương pháp
tuyệt vời, nhưng không đủ. Các hệ thống không người lái đang phát triển với tốc độ
nhanh chóng; trong bất kỳ cuộc xung đột nào trong hiện tại và tương lai, chúng sẽ được
sử dụng bởi các đối thủ của chúng ta cũng như chính chúng ta. Ngay cả các chủ thể phi
nhà nước giờ đây cũng sở hữu khả năng tinh vi của các hệ thống máy bay không người
lái. Vào tháng 10 năm 2016, tổ chức nhà nước Hồi giáo tự xưng IS đã sử dụng một máy
bay không người lái để tấn công giết chết hai chiến binh Kurd và làm bị thương hai binh
lính của Lực lượng đặc nhiệm Pháp ở Iraq 1. Trong chiến tranh tại Ukraina, lực lượng
quân đội của Nga cũng sử dụng các thiết bị bay không người lái để do thám cũng như tấn
công quân đội và các địa điểm hay các thiết bị quân sự của quân đội Ukraina.
Hình 1: Thiết bị bay không người lái của Nga chuẩn bị cất cánh
Vệ tinh trinh sát hoặc vệ tinh tình báo (thường, mặc dù không chính thức, được gọi
là vệ tinh do thám) là vệ tinh quan sát Trái đất hoặc vệ tinh thông tin liên lạc được triển
khai cho các ứng dụng quân sự hoặc tình báo.
Loại thế hệ đầu (Corona của Mỹ và Zenit của Liên Xô) chụp ảnh sau đó đẩy các
ống phim chụp ảnh xuống bầu khí quyển của Trái đất. Các viên nang Corona được thu
hồi giữa không trung khi chúng thả trôi trên dù. Sau đó, tàu vũ trụ có hệ thống hình ảnh
kỹ thuật số và tải hình ảnh xuống thông qua các liên kết vô tuyến được mã hóa. Một vài
hình ảnh vệ tinh trinh sát cập nhật đã được giải mật đôi khi hoặc bị rò rỉ, như trong
trường hợp các bức ảnh KH-11 được gửi cho Jane's Defense Weekly năm 1984 2
1.1.2 Kỹ thuật trinh sát không gian mạng
1.2 Ngụy trang và nghi trang và giải pháp ngụy trang, nghi trang trong trận địa
Ngụy trang trong khoa học quân sự là nghệ thuật và thực hành che giấu và đánh
lừa thị giác trong chiến tranh. Nó là phương tiện đánh bại sự quan sát của kẻ thù bằng
cách che giấu hoặc ngụy trang các cơ sở, nhân sự, thiết bị và hoạt động. Ngụy trang thông
thường bị hạn chế trong các biện pháp phòng thủ thụ động. Ví dụ, máy quay mặt nước
không cố gắng ngăn chặn sự giám sát trên không bằng cách gây nhiễu radar của đối
phương mà tìm cách đánh lừa đối phương bằng cách cung cấp thông tin hình ảnh gây
hiểu lầm. Cả sự che giấu và lừa dối đều ảnh hưởng xấu đến nỗ lực tình báo của đối
phương. Việc giữ lại thông tin buộc anh ta phải tăng cường nỗ lực giám sát, và do đó
chuyển hướng khỏi chiến đấu với số lượng lớn hơn binh lính và máy móc. Việc nhận
được các báo cáo không chính xác có thể khiến đối phương bối rối và do đó có thể góp
phần dẫn đến sự thiếu quyết đoán của chỉ huy đối phương, làm tiêu tốn thời gian và
nguồn lực quan trọng của anh ta và thậm chí khiến anh ta đưa ra những quyết định sai
lầm.
Ngụy trang thông thường không cố gắng làm suy yếu khả năng thu thập thông tin
của đối phương mà là tìm cách cung cấp thông tin sai cho đối phương mà không làm dấy
lên nghi ngờ của đối phương hay còn gọi là nghi trang. Mặt khác, các biện pháp đối phó
sẽ làm giảm khả năng “nhìn thấy” của thiết bị cảm biến và không quan tâm đến việc liệu
kẻ thù có biết về hành động này hay không miễn là khả năng phát hiện của anh ta bị phá
hủy. Ví dụ, việc thả thiếc từ máy bay đang bay và phóng tên lửa dẫn đường nghi binh
được thiết kế để gây nhầm lẫn, chuyển hướng và làm bão hòa các hệ thống phòng không;
chúng thường được coi là biện pháp đối phó hơn là ngụy trang.
Trong xu thế phát triển kỹ thuật ngụy trang hiện nay, người ta vẫn sử dụng 4
nguyên lý cơ bản để tạo ra giải pháp, phương án ngụy trang phù hợp trong điều kiện và
tình hình cụ thể, đó là: Nguyên lý giảm lộ; Nguyên lý che dấu;Nguyên lý tác động vào
môi trường truyền bức xạ; Nguyên lý nghi trang. Việc vận dụng linh hoạt và sáng tạo các
nguyên lý ngụy trang là cơ sở đảm bảo an toàn mục tiêu, nâng cao sức sống công trình,
con người và trang bị kỹ thuật.
1.2.1 Ngụy trang cơ bản
Kiểu ngụy trang cơ bản nhất là loại được các binh sĩ mặc trên chiến trường. Quần
áo rằn ri thông thường có hai yếu tố cơ bản giúp che khuyết điểm trên người: màu sắc và
họa tiết. Vật liệu ngụy trang có màu sắc nhạt phù hợp với màu chủ đạo của môi trường
xung quanh. Trong chiến tranh trong rừng, ngụy trang thường có màu xanh lá cây và nâu,
để phù hợp với tán lá rừng và bụi bẩn. Trên sa mạc, lực lượng quân đội sử dụng một loạt
các màu rám nắng. Ngụy trang cho vùng khí hậu có tuyết được tô bằng màu trắng và
xám. Để hoàn thành việc che giấu, những người lính sơn mặt bằng màu sắc phù hợp với
chất liệu ngụy trang. Vật liệu ngụy trang có thể có một màu duy nhất hoặc có thể có
nhiều mảng màu tương tự trộn lẫn với nhau. Lý do cho việc sử dụng kiểu mẫu này là nó
gây rối mắt về mặt thị giác. Các đường uốn khúc của họa tiết rằn ri giúp che giấu đường
viền - đường viền - của cơ thể. Khi bạn nhìn vào một mảnh ngụy trang có đốm trong một
môi trường phù hợp, não của bạn sẽ tự nhiên "kết nối" các đường kẻ của các đốm màu
với đường nét của cây cối, mặt đất, lá cây và bóng tối. Điều này ảnh hưởng đến cách bạn
nhận thức và nhận ra người hoặc vật mặc đồ ngụy trang đó.
Hình 3: Mô hình nghi trang do Nhà máy Z176 nghiên cứu, sản xuất
1.2.6.2 Mồi nhử nghi trang chống thiết bị quét nhiệt
Các mối đe dọa chính đối với máy bay quân sự hiện đại là tên lửa phòng không,
chúng di chuyển nhanh hơn và cơ động tốt hơn so với các máy bay chiến đấu phản lực tốt
nhất. Tên lửa tầm nhiệt được thiết kế để đi theo các nguồn nhiệt như ống xả phản lực của
máy bay hiện đại. Để tránh những tên lửa này, một máy bay phản lực có thể phóng ra mồi
nhử hoạt động được gọi là pháo sáng, là những ống chứa magiê bốc cháy với nhiệt độ
trắng dữ dội. Do ban đầu, pháo sáng nóng hơn khí thải phản lực, chúng có thể khiến tên
lửa nhầm lẫn bằng cách đưa ra một số mục tiêu nóng, tạo cơ hội cho máy bay chạy thoát.
1.2.6.3 Mồi ngử nghi trang chống radar3
Để làm mục tiêu giả chống ra đa, chỉ cần bảo đảm sao cho mục tiêu thật và mục
tiêu giả có cùng khả năng phát xạ thứ cấp sóng ra đa. Đồng thời, tạo ra trên màn hiện
sóng các điểm dấu mục tiêu như nhau. Kỹ thuật làm mục tiêu ra đa tuỳ thuộc vào đó là
mục tiêu điểm hay mục tiêu phân bố. Đối với các mục tiêu điểm, chỉ cần bảo đảm diện
tích phản xạ hiệu dụng của mục tiêu giả tương đương diện tích phản xạ hiệu dụng của
mục tiêu thật. Ngoài diện tích phản xạ hiệu dụng, các dấu hiệu khác như hình dáng, kích
thước, bóng râm... không phải là dấu lộ đối với ra đa nên không cần trình bày. Vì vậy,
mục tiêu điểm giả chống ra đa thường chỉ là các góc phản xạ.
Trường hợp mục tiêu có dạng tuyến, một kích thước mặt bằng của mục tiêu rất
nhỏ so với khả năng phân giải của ra đa, cạnh thứ hai có kích thước rất lớn so với khả
năng phân giải của ra đa. Mục tiêu tuyến không nhất thiết phải thẳng mà có thể lượn theo
một đường cong nào đó.
Tên lửa dẫn đường bằng radar, một dạng khác của tên lửa phòng không, sử dụng
radar để định vị mục tiêu của chúng. Mặc dù pháo sáng vô dụng trước công nghệ này,
nhưng radar lại dễ bị tấn công bởi một loại mồi nhử hoạt động được gọi là chaff, bao gồm
các dải nhôm hoặc kẽm nhỏ mà máy bay phóng ra thành từng chùm lớn. Những đám mây
kim loại này xuất hiện dưới dạng các mục tiêu riêng biệt đối với radar của tên lửa và lý
tưởng là làm cho tên lửa nhầm lẫn, do đó cho phép máy bay trốn thoát. Ngoài ra tên lửa
chống đạn đạo (ABM) được thiết kế để nhắm mục tiêu (ICBM) đang bay tới và tiêu diệt
nó trên bầu khí quyển trước khi đầu đạn của nó được chuyển đến. Để chống lại ABM,
hầu hết các ICBM đều mang nhiều đầu đạn giả hoặc giả làm mồi nhử. Các đầu đạn giả
tách khỏi ICBM cùng lúc với đầu đạn thật và được thiết kế để gây nhiễu radar của ABM
và gây nhầm lẫn bằng cách đưa ra một số mục tiêu.
1.4 Vật liệu ngụy trang, nghi trang
1.4.1 Vải ngụy trang
Vải ngụy trang được sử dụng để che giấu chiến sĩ hoặc thiết bị khỏi kẻ thù. Vải
ngụy trang mang lại hiệu ứng độc đáo cho chiến sĩ hoặc thiết bị bằng cách làm cho chúng
biến mất hoặc xuất hiện như một phần của môi trường tự nhiên khỏi kẻ thù. Để làm ra
điều này, vải hoặc quần áo được nhuộm thành nhiều mảng màu để khiến người dùng
không thể nhận biết được từ môi trường xung quanh. Vải ngụy trang được sử dụng để
may trang phục cho cán bộ, chiến sĩ cũng như làm lều, lán cho nhiều mục đích khác.
Ngoài ra còn để che các thiết bị như máy bay, súng và các thiết bị khác làm cho chúng
không bị chú ý. Ý tưởng sản xuất các loại vải có thể dễ dàng thay đổi màu sắc đã được
nghiên cứu từ rất lâu bởi các nhà tạo màu dệt may. Các nhà sản xuất chất tạo màu đã
dành nhiều năm cố gắng phát triển các vật liệu có màu nhanh chóng bằng cách tìm kiếm
các loại thuốc nhuộm và chất màu trơ về mặt hóa học khi được áp dụng cho chất nền.
1.4.1.1 Dựa trên sự thay đổi pH
Các chất có thể thay đổi màu sắc đáng kể khi có mặt acid hoặc base. Khi phân tử ở
môi trường có pH khác nhau cũng có để dẫn đến đổi màu của phân tử hay sự thay đổi
màu sắc khi ở trong các dung môi phân cực khác nhau. Tuy nhiên do chưa tìm ta thuốc
thử và dung môi thích hợp để vận chuyển chúng nên phương pháp này rất khó ứng dụng
trong thực tế.
1.4.1.2 Dựa trên trạng thái oxy hóa
Màu sắc của có thể vải thay đổi khi trạng thái oxy hóa thay đổi. Ví xét các trạng
thái oxy hóa của đồng, chẳng hạn như 0, +1 và +2, chúng ta có thể thấy các màu sắc khác
biệt. Cách tiếp cận này cũng khá hiệu quả, nhưng nó đòi hỏi sự di chuyển của ion. Trong
dung môi, thời gian phản hồi có thể nhanh chóng, nhưng điều này làm thiết bị rất phức
tạp. Các thiết bị dạng gel có khả năng xảy ra, mặc dù độ bền vật lý, độ ổn định khi bị oxy
hóa và thời gian đáp ứng đặt ra những vấn đề đáng kể. Một thiết bị được tạo ra dựa trên ý
tưởng này, giống như một đèn LED polymer.
1.4.1.4 Dựa trên việc hình thành hoặc phá vỡ các cấu trúc phân tử
Có một số chất có sẵn trải qua quá trình phá vỡ liên kết và hình thành liên kết có
thể đảo ngược, dẫn đến sự thay đổi màu sắc. Các quá trình này thường được bắt đầu bằng
ánh sáng. Ví dụ, enol không màu, nhưng khi các nguyên tử được sắp xếp lại, màu da cam
được quan sát đối với dạng cis, nhưng màu đỏ được quan sát đối với dạng trans.
1.4.1.4 Dựa trên điện từ và từng trường
Một số phân tử có tính phân cực cao đã được chứng minh là thay đổi màu sắc khi
có điện trường hoặc từ trường. Ví dụ: các nhà nghiên cứu của đại học California -
Riverside chế tạo vật liệu có tên là gỉ cầu vồng 4 này - một dung dịch gồm các hạt sắt-oxit
kích thước nano đổi màu khi nam châm tiến lại gần, khiến các hạt sắp xếp lại. Màu sắc
thay đổi từ đỏ sang xanh lam khi cường độ từ trường tăng lên.Chúng được điều chế bằng
phương pháp nhiệt độ cao để tổng hợp các hạt tinh thể, kích thước nano của magnetit,
một dạng oxit sắt. Mỗi hạt được tạo ra có đường kính khoảng 10 nanomet bởi vì khi
chúng lớn hơn nhiều, các hạt magnetit trở thành nam châm vĩnh cửu, và do đó sẽ tụ lại
với nhau và tách khỏi dung dịch. Các hạt 10 nanomet nhóm lại với nhau để tạo thành các
cụm hình cầu có kích thước đồng nhất, mỗi hạt có chiều ngang khoảng 120 nanomet;
trong các thử nghiệm, các cụm này đã bị treo trong dung dịch trong nhiều tháng.
(1) Gibbons-Neff, T. J. T. W. P. ISIS used an armed drone to kill two Kurdish fighters and
wound French troops, report says. 2016.
(2) Wright, M. H., Caroline Rand. The nation: Two years for morison. The New York Time8
December 1985.
(3) Thức, N. H. Kỹ thuật nghi trang trong chiến tranh công nghệ cao. Tạp chí Công Nghiệp
Quốc phòng và Kinh tế. 2017.
(4) California, U. o. A Simple Magnet Can Control The Color Of A Liquid, Making New
Technologies Possible. 2007.