You are on page 1of 14

1, kiến trúc bền vững

1.1.Sức khoẻ con người và môi trường xây dựng


Biến đổi khí hậu là tiềm năng để thay đổi cách chúng ta sống. Biến đổi khí hậu tác động đến
hoạt động của con người trong môi trường chúng ta xây dựng như thế nào? Bác sĩ Tristan
Kershaw xem xét/ nhìn biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến phong cảnh đô thị quen thuộc
của chúng ta ra sao. Mức độ nghiêm trọng của những đảo nhiệt đô thị tăng lên như thế nào
để tạo thành 1 mối đe doạ đáng kể đối với sức khoẻ con người trong suốt sự kiện sóng nhiệt?
Và tên của tôi là Tristan Kershaw. Tôi làm việc tại trường đại học Exeter tại Trung tâm Năng
Lượng và Môi Trường. Nghiên cứu của tôi tập trung vào việc làm thế nào chúng ta có thể đáp
ứng với những môi trường xây dựng trong cuộc sống hằng ngày, tại cả nơi làm việc và ở nhà, đối
với biến đổi khí hậu. Cùng bắt đầu với một vài sự thật. Bao nhiêu CO2 trên thế giới mà bạn cho
rằng nó đến từ những toà nhà/ kiến trúc này?

Tại nước Anh ngành công nghiệp xây dựng chịu trách nhiệm cho hơn 50% lượng khí thải CO2. Và
tại một vài nước phát triển kinh tế, con số này có thể còn cao hơn. Trong video này, chúng ta
xem xét làm thế nào mà biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng/tác động đến môi trường xây dựng
và chúng ta sẽ tìm hiểu/khám phá về những thách thức mà chúng ta phải đối mặt khi tiếp
cận/thích ứng/ đáp ứng với môi trường xây dựng để làm tăng nhiệt độ toàn cầu. Đầu tiên chúng
ta cần hiểu/làm quen với 3 khái niệm quan trọng.

Cùng bắt đầu với những đảo nhiệt đô thị. Khái niệm về đảo nhiệt độ thị được minh chứng bằng
tài liệu (tốt) một cách cụ thể. Cách đây 200 năm trước, một nhà khoa học, Luke Howard, đã đo
lường về sự thay đổi về nhiệt độ giữa những vùng nông thôn xung quanh London và nhiệt độ ở
những môi trường xây dựng của thành phố. Ông ta đã ghi nhận/ghi chép lại về sự chênh lệch
nhiệt độ là 2*C. Những nghiên cứu tại và xung quanh London những năm 1960s đã chú ý đến sự
chênh lệch nhiệt độ là khoảng 4*. Năm 2003, một mùa hè nóng đặc biệt với tình trạng sóng
nhiệt. Sự chênh lệch giữa đô thị và nông thôn đã đạt đến 9 độ đáng kinh ngạc. Và điều gì tạo
đảo nhiệt ở đô thị này? Nguồn gốc gây ra liên quan đến kích thước và vùng lân cận của những
toà nhà/ công trình.

Về cơ bản là sự lan rộng của những công trình ở vùng đô thị của chúng ta thì rất hiệu quả trong
việc hấp thu nhiệt và phản xạ nhiệt. Những công trình càng lớn và cao, thì càng nhiều nhiệt mà
chúng có khả năng giữ lại tại cấp độ đường phố, và dội ngược lại giữa các toà nhà. Có nhiều tác
nhân khác có thể làm tăng độ lớn của đảo nhiệt đô thị. Một là công trình đó chặn gió, cái mà
ngăn việc làm mát bằng đối lưu. Tác nhân khác là tăng hệ thống thoát nước/sự tiêu nước của
vùng đô thị. Cống rãnh đem/tiêu nước làm ngăn chặn việc bốc hơi. Những nguyên nhân khác
bao gồm nhiệt dư thừa từ công nghiệp/nhà máy, phương tiện, và hệ thống máy lạnh.

Nếu bạn sống tại quốc gia với điều kiện khí hậu giống như Anh Quốc, bạn có thể đã quen với
khái niệm về đảo nhiệt. Một đảo nhiệt là một giai đoạn của khí hậu nóng kéo dài trong suốt
nhiều ngày. Đảo nhiệt cái mà tác động đến Anh Quốc và đa số Châu Âu vào năm 2003 đại diện
cho ví dụ đáng chú ý về sự ảnh hưởng của hiện tượng này. Xuyên suốt C.Âu, đã được ước tính
có thể lên đến 70,000 người chết mà nguyên nhân là thời tiết nóng. Nguyên nhân củ cái chết,
mất nước, hạ thân nhiệt, và shock nhiệt. Những thống kê này đủ làm phiền não. Nhưng lại có 1
sự thay đổi được thêm vào trong toàn bộ câu chuyện này. Phần lớn của những cái chết xảy ra tại
công trình/toà nhà, đặc biệt là ở những tầng cao và đặc biệt là vào buổi tối.
Cái gì ẩn đằng sau nó? Chà, điều cuối cùng của 3 khái niệm mà tôi cần nắm bắt, mong là có thể
cung cấp cho bạn lời giải nghĩa.

Trong khi bạn đang ngồi xem video này, cơ thể của bạn đang tạo ra/ sản xuất khoảng 100W
nhiệt. Và lượng này tăng khi bạn trở nên năng động hơn. Khi cơ thể của bạn nóng lên và nhiệt
độ cốt lõi tăng lên, thì bạn sẽ cư xử theo nhiều cách khác nhau để làm giảm nhiệt độ cơ thể và
duy trì mức độ thoải mái tối ưu. Bạn sẽ quen với việc nó xảy ra như thế nào. Và điều gì sẽ xảy ra
khi bạn không mất nhiệt? Chà, theo đúng nghĩa đen, bạn có thể nấu chín. Mức độ thoát nhiệt
phụ thuộc vào điều kiện môi trường, nhiệt độ, ẩm độ và sự chuyển động không khí. Quá nhiều
nhiệt được dự trữ trong cơ thể chúng ta qua nhiều ngày có thể điển hình bị mất vào buổi tối khi
mà nhiệt độ thấp hơn.

Tuy nhiên nếu chúng ta không thể thoát nhiệt bởi vì toà nhà chúng ta đang ở quá nóng để cho
phép chúng ta làm (thoát nhiệt) thì sau đó những ảnh hưởng có thể đe doạ sự sống. Điều này
giải thích tại sao cái chết trong những toàn nhà thường xảy ra vào ban đêm trong khoảng sóng
nhiệt. Chúng ta che đậy, hạn chế sự thoát nhiệt đối lưu. Và chúng ta đóng cửa sổ bởi vì nỗi sợ an
ninh. Vào năm 2003 sóng nhiệt cái mà đã ảnh hưởng đến Châu Âu, đại đa số những cái chết
là/có nạn nhân sống ở trên những tầng cao của toà nhà. Trong trường hợp cửa sổ mở, phương
pháp làm mát phòng thông thường của chúng ta không hiệu quả. Sóng nhiệt thường là khí hậu
ôn hoà và đảo nhiệt đô thị càng làm trầm trọng hơn tình trạng nhiệt độ ngày càng tăng với việc
giảm tốc độ gió.

Dĩ nhiên là có một câu trả lời kỹ thuật đơn giản để giữ mát, bật máy lạnh lên. Dĩ nhiên, nó sẽ làm
bạn mát. Nhưng nó có phải là một sự lựa chọn thực tế/ thiết thực? Điều gì sẽ xảy ra nếu mọi tòa
nhà và mọi gia đình đều lắp đặt điều hòa không khí trong tình huống số lượng các đợt nắng
nóng sẽ tăng lên trong tương lai? Sự tác động/ ảnh hưởng lên nhu cầu năng lượng của một sự
gia tăng lớn về số lượng đơn vị máy điều hoà có thể dẫn tới những vấn đề cung cập năng lượng
cực kì nghiêm trọng. Một vòng luẩn quẩn trong vận hành. Nhiều máy điều hoà thì tương đương
với nhiều nhu cầu năng lượng cái mà cũng tương đương với nhiều khí thải CO2 hơn, điều này có
nghĩa là bầu khí quyển nóng lên.

Những quốc gia ở vĩ độ cao, có thể thích nghi với việc môi trường đô thị ấm lên trong tương lai.
Thách thức cho chúng ta là làm thế nào để có thể điều chính lối sống của mình để giảm thiểu sự
tác động của sự ấm lên môi trường đô thị.

1.2. Công trình Passihaus


Bác sĩ Tristan Kershaw quay trở lại để nói về giải pháp về xây dựng bền vững. Trường tiểu học
Montogomery tại Exeter là một ví dụ của công trình Passvhaus.
Công trình Passivhaus- một tiêu chuẩn ngành về thiết kế xây dựng thứ mà chứa đựng/ bao gồm thiết
kế năng lượng thấp, hiệu quả năng lượng và có một tác động thấp đến môi trường lên vùng lân cận.
Chúng yêu cầu/cần rất ít năng lượng để làm nóng hoặc làm mát.

Chúng ta biết rằng việc chúng ta thải khí carbon là 1 yếu tố quan trọng trong sự biến đổi khí hậu. Và
câu hỏi là, làm sao chúng ta có thể giảm thiểu chúng? Ngày nay, tôi có thể nhìn thấy sự liên quan đặc
biệt của đô thị và môi trường xây dựng. Bạn có thể quen với những bản chất của những hoạt động
của con người cái mà chịu trách nhiệm cho lượng khí thải carbon. Câu hỏi là làm thế nào chúng ta có
thể giảm thiểu sự thải ra từ những nguồn ấy? Có 2 cách để giảm thiểu lượng carbon của chúng ta
thải ra. Thứ nhất là sử dụng ít năng lượng đi. Thứ hai là khử carbon cho lưới năng lượng, cái mà có
thể dừng việc đốt những nhiên liệu hoá và để sử dụng những nhiên liệu có thể tái chế được thay vào
đó. Hãy nhìn vào cách đầu tiên. Đây là một thống kê đáng kinh ngạc.

Nếu chúng ta lấy mức tiêu thụ năng lượng sơ cấp của thế giới là 470 exajoules, trung bình mỗi người
trong số các bạn đang sử dụng hơn 2 kiloWatt, điện cả ngày, mỗi ngày. Tất cả chúng ta đều có thể nỗ
lực để giảm lượng khí thải carbon đơn giản bằng cách tắt đèn, hạ thấp bộ điều nhiệt, cách nhiệt gác
xép và tránh lãng phí. Con đường khác chúng ta có thể làm là thay đổi cách mà chúng ta tạo ra điện.
Điều đó có nghĩa là sự chuyển đổi từ đốt cháy nhiên liệu hoá thạch, đặc biệt là than đá, và thay thế
chúng bằng nhiên liệu có thể tái tạo được. Ở Anh Quốc, nhiên liệu tái chế chiếm khoảng 11% công
suất phát điện. Năng lượng gió, mặt trời và sóng là một vài nguồn năng lượng lớn mà chúng ta có
thể khai thác. Vì vậy chúng ta có 2 con đường để thực hiện. Nhưng có 1 vấn đề.

Một vài biến đổi khí hậu thì không thể tránh khỏi. Đó là những gì chúng ta gọi là biến đổi khí hậu
locked-in. Kể cả khi chúng ta ngừng thải ra ngày nay, thì chúng vẫn thải ra đủ lượng carbon vào khí
quyển của chúng ta kể từ Cuộc CM Công Nghệ để biến đổi khí hậu. Vì thế chúng ta có thể phải thích
nghi với tương lai có nhiều sự kiện khí hậu nghiêm trọng, sóng nhiệt, tăng nhiệt độ toàn cầu và tăng
mực nước biển. Thách thức của chúng ta là làm thế nào chúng ta có thể thay đổi lối sống hằng ngày
để thích nghi với tương lai biến đổi khí hậu. Tại Anh, điều đó có nghĩa là thiết kế của những công
trình của ta có thể phải thay đổi. Đây là 1 ví dụ về thiết kế của 1 công trình cái mà không những đã
đáp ứng với việc thay đổi khí hậu, mà còn giúp chúng ta làm giảm thiểu lượng CO2 mà các toà nhà
thải ra. Chào mừng đến với trường Tiểu học Montgomery.

Ngôi trường này được xây dựng vào năm 2011 sử dụng hướng dẫn hiệu quả nghiêm ngặt về năng
lượng của Passivhaus. Đây là ngôi trường đầu tiên không carbon tại Anh. Không chỉ có hiệu quả năng
lượng cao, mà nó còn tạo ra tất cả yêu cầu năng lượng mà nó cần. Sự xây dựng toà nhà này bao gồm
rất nhiều sự cách nhiệt để giảm thiểu tối đa sự mất nhiệt. Sự rò rỉ không khí thì được giảm thiểu
đếm mức thấp nhất, và chiến lược thông gió thông minh di chuyển nhiệt từ các phòng học ở đây
đến khu vực làm mát, ví dụ như những hành lang ở đây, để giảm tối thiểu nhu cầu năng lượng sưởi
ấm. Ngôi trường không chỉ 0 carbon, mà thiết kế của nó còn được thay đổi để đáp ứng với việc nhiệt
độ tăng. Cấu trúc nặng giúp giảm bớt việc tăng nhiệt độ.

Nó giảm thiểu nhiệt độ đỉnh trong suốt 1 ngày và thiết kế thông minh cùng với sự thông gió cho
phép nhiệt độ mất đi vào buổi tối thông qua những cái giếng trên trần.

Những đặc điểm thiết kế của trường Montgomery hoạt động rất tốt đối với những toà nhà mới. Vấn
đề là, chúng tôi không phá bỏ các tòa nhà của mình và các tòa nhà tồn tại hàng trăm năm. Và vì thế
thách thức xuất hiện, làm thế nào chúng ta có thể điều chỉnh các toà nhà hiện tại của mình?

1.3.điều chỉnh môi trường xây dựng


Trong video của Tristan, anh ấy đã giới thiệu một loạt kỹ thuật giúp các tòa nhà trở nên bền vững
hơn trước biến đổi khí hậu. Hãy khám phá thêm một số cách mà môi trường xây dựng có thể được
điều chỉnh, đầu tiên là với các công trình mới và sau đó bằng cách nâng cấp kho công trình hiện có.

Sự thi công
Thiết kế tòa nhà tốt bắt đầu từ giai đoạn xây dựng. Để giảm thiểu biến đổi khí hậu và giảm tác động môi
trường của việc xây dựng, nhiều công ty đang tìm nguồn cung ứng vật liệu của họ một cách có trách
nhiệm hơn, giảm chi phí vận chuyển và trồng cây bên cạnh môi trường xây dựng mới. Nhưng các tòa nhà
cần phải kiên cường trước những thay đổi xảy ra xung quanh chúng - bao gồm cả bên dưới chúng.
Khi lượng mưa và mô hình nhiệt độ bắt đầu thay đổi, mặt đất bên dưới tòa nhà có thể thay đổi
hàm lượng nước. Sau đợt nắng nóng năm 2002, yêu cầu bảo hiểm cho các tòa nhà bị sụt lún ở Anh đã
tăng 68% trong năm tới. Điều này có thể xảy ra nếu có quá nhiều nước trong lòng đất, dẫn đến mặt đất
bị sưng lên. Các tòa nhà cũ có nhiều rủi ro hơn vì các quy định xây dựng đối với nền móng tòa nhà chỉ
mới được ban hành gần đây. Do đó, rõ ràng cần phải xây dựng các tòa nhà có thể chịu được những thay
đổi này.
Thích ứng cũng là biết nó ở đâu và không hợp lý để xây dựng. Theo truyền thống, các khu vực
dốc có thể được phép xây dựng, nhưng chúng ta có thể cần phải trở nên thông minh hơn khi xây dựng
trên các khu vực có thể gây mất ổn định do tình trạng quá ẩm ướt và quá khô hạn lặp đi lặp lại theo
mùa, theo chu kỳ. Điều này tỏ ra khó khăn mặc dù với sự gia tăng dân số và mở rộng các thành phố. Ở
Vương quốc Anh, chúng tôi đang cạn kiệt quỹ đất tốt để xây dựng.

Tòa nhà tiện nghi, bền vững


Nhưng giả sử một tòa nhà đã được xây dựng và không có khả năng sụt giảm trong thời gian
ngắn, thì hiện tại có một thách thức là thiết kế chúng sao cho thoải mái nhất có thể với mùa hè nóng
hơn. Kính là vật liệu xây dựng phổ biến – nó cho ánh sáng tự nhiên và làm cho các tòa nhà trông đẹp
hơn. Nó cũng có tác dụng làm ấm tòa nhà một cách tự nhiên vì nó giữ nhiệt của mặt trời vào trong,
giống như một nhà kính. Nhưng những gì có vẻ như là một điều tuyệt vời nên được thiết kế cẩn thận.
Nếu sóng nhiệt trở nên phổ biến hơn, nơi cuối cùng bạn muốn ở là trong nhà kính! Các tòa nhà
nên được thiết kế để có thể thoải mái trong mọi điều kiện thời tiết, kể cả khả năng xảy ra sóng nhiệt.
Cung cấp các khu vực có bóng râm bên dưới các khu vực bằng kính cho phép duy trì nhiệt độ tốt. Tương
tự, đổi mới với thiết kế thông gió và kín khí có thể khiến tòa nhà 'thở' để duy trì nhiệt độ, thay vì sử
dụng hệ thống sưởi và điều hòa không khí.
Chọn nơi không xây dựng cũng quan trọng trong môi trường đô thị. Điều quan trọng là tăng
lượng không gian 'xanh lá cây' và 'xanh dương' (khu vực dành riêng cho thảm thực vật và mặt nước mở)
để giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị. Trong thời gian có sóng nhiệt, điều này có thể làm giảm nguy cơ bị
sốc nhiệt và thậm chí tử vong. Các tòa nhà hấp thụ nhiệt và giữ nhiệt trong đêm, nghĩa là các khu vực đô
thị không mát vào ban đêm. Không gian xanh và xanh lam giúp thành phố mát mẻ hơn vào ban đêm,
nghĩa là mọi người không bị mất nước.

Điều chỉnh cổ phiếu xây dựng hiện tại của chúng tôi
Cho đến nay, chúng ta mới chỉ nói về các thiết kế tòa nhà mới – nhưng các thành phố của chúng
ta đã có rất nhiều tòa nhà! Điều quan trọng là phải điều chỉnh nguồn cung cấp tòa nhà hiện có của chúng
tôi cùng với những phát triển mới, mặc dù hành động còn chậm. Một báo cáo của chính phủ Vương
quốc Anh - 'Trường hợp kinh doanh để thích ứng các tòa nhà với biến đổi khí hậu' - đã viết rằng nhiều
chủ sở hữu doanh nghiệp và tài sản không nhận thức được những rủi ro đối với môi trường xây dựng và
không có kế hoạch nâng cấp tài sản của họ để thích nghi.
Nhưng có những điều bạn có thể làm tại nhà riêng của mình để hành động. Có thể bạn đã biết
về các giải pháp như bóng đèn tiết kiệm năng lượng, cửa sổ lắp kính hai lớp và cách nhiệt gác xép có thể
giúp tiết kiệm đáng kể hóa đơn năng lượng của bạn. Ngoài ra, giá thành của các tấm pin mặt trời và xe
điện đang giảm ở các nước phát triển có nghĩa là chúng có thể trở nên hợp túi tiền và chúng ta sẽ thấy
nhiều hơn nữa.
Các ngôi nhà ở các nước đang phát triển cũng có thể được hưởng lợi từ sự đổi mới. Ô nhiễm
không khí là một trong những rủi ro môi trường lớn nhất đối với sức khỏe và theo UN SDGs, "ô nhiễm
không khí hộ gia đình do nấu ăn bằng nhiên liệu không sạch hoặc công nghệ không hiệu quả [dẫn đến]
ước tính 4,3 triệu ca tử vong mỗi năm". Bếp nấu tốt hơn, hệ thống thông gió và giáo dục về rủi ro có thể
giảm đáng kể con số này. Trong những ngôi nhà có mái nhà bằng kim loại mỏng, một chai chứa đầy
thuốc tẩy và nước được tẩm vào mái nhà có thể hoạt động như một bóng đèn và cung cấp ánh sáng
hiệu quả đáng ngạc nhiên cho ngôi nhà. Nó hoạt động thông qua sự khúc xạ ánh sáng và cung cấp một
giải pháp thay thế bền vững để cải thiện điều kiện sống ở những nơi vẫn còn hạn chế về khả năng tiếp
cận điện.

1.4 Thiết kế tòa nhà gần bạn!


Bây giờ bạn đã có nhận thức về cách các tòa nhà có thể được thiết kế để thích ứng với biến
đổi khí hậu, hãy quan sát xem có bao nhiêu tính năng trong số này tồn tại gần nơi bạn sống.
Bước 1. Chụp ảnh (hoặc tìm trên phần mềm chế độ xem phố như Google Maps) một tòa nhà
hoặc một phần của cảnh quan đô thị cho thấy thiết kế thích nghi với khí hậu thay đổi (ở Vương quốc
Anh, điều này có nghĩa là mùa đông ẩm ướt hơn, nhiệt độ mùa hè cao hơn, v.v. Thời tiết khác nghiệt).
Nếu bạn không thể tìm thấy bất cứ thứ gì, hãy hiển thị một tòa nhà hoặc một phần của cảnh quan đô thị
rõ ràng là KHÔNG được điều chỉnh.
Vì lý do riêng tư, vui lòng không chọn ngôi nhà của bạn làm tòa nhà mà bạn đang thảo luận và
định vị địa lý!
Bước 2. Chia sẻ phát hiện của bạn trên bản đồ tương tác của chúng tôi. Nhấp vào 'Tham gia' và
gắn thẻ địa lý cho vị trí.
Xin lưu ý rằng bất kỳ liên kết bên ngoài nào trong bước này sẽ đưa bạn đến các trang web của
bên thứ ba có thể yêu cầu bạn cung cấp thông tin cá nhân. Vui lòng đọc phần này trong Chính sách
quyền riêng tư của chúng tôi để biết thêm thông tin.
Bước 3. Viết một đoạn mô tả nhỏ về tòa nhà để cho chúng tôi biết tòa nhà đó thích ứng hay
không thích nghi với biến đổi khí hậu như thế nào. Nhấp vào 'Gửi' và quay lại FutureLearn.
Ngoài ra, hãy cho chúng tôi biết những phát hiện của bạn trong phần bình luận bên dưới bước
này.

2. CÁC THÀNH PHỐ BỀN VỮNG


2.1 'Thành phố bền vững' trông như thế nào?
Trong vài bước tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cách chúng ta có thể thiết kế các thành phố của
mình trở nên bền vững hơn. Một số thành phố đã đạt được tiến bộ lớn để giảm tác động môi trường
của họ.
Tại Luân Đôn, phí tắc nghẽn có nghĩa là các phương tiện gây ô nhiễm bị đánh thuế nặng khi vào
thành phố. Với những cải tiến lớn đối với mạng lưới xe buýt, tàu điện ngầm và xe điện khắp London,
nhiều người dân và hành khách đã chuyển từ phương tiện cá nhân sang phương tiện giao thông công
cộng.
Copenhagen cũng đã khuyến khích không sử dụng ô tô bằng cách phát triển một mạng lưới xe
đạp tuyệt vời trên toàn thành phố. 36% người dân bây giờ đạp xe như là phương thức đi lại của họ. Điều
này giúp giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính từ giao thông vận tải, cũng như thúc đẩy cuộc sống và tập
thể dục lành mạnh, dẫn đến một dân số bền vững hơn toàn diện.
Đây chỉ là hai ví dụ về việc các thành phố đã thay đổi mạng lưới giao thông công cộng để giảm
lượng khí thải, nhưng còn các thành phố khác và các khía cạnh khác của thành phố thì sao? Nhà ở? Việc
kinh doanh? Sân bay? Quản lý chất thải? Điện?
Đối với bạn, thành phố bền vững lý tưởng trông như thế nào? Có thành phố nào trên thế giới
hiện đang sử dụng các kỹ thuật này không? Hãy nhớ áp dụng suy nghĩ của bạn cho tất cả các quốc gia -
một thành phố bền vững có thể hoạt động ở cả thế giới đang phát triển và đã phát triển không?
2.2 Thành phố tương lai
Giáo sư Dragan Savic giải thích cách các thành phố tương lai - và đặc biệt là hệ thống nước của
chúng - có thể trở nên bền vững hơn.
Xin chào, tên tôi là Dragan Savic, và tôi là giáo sư về Tin học Thủy văn tại Đại học Exeter. Hôm
nay, tôi sẽ nói về các thành phố trong tương lai và cách chúng có thể bền vững hơn bằng cách quản lý
tốt hơn hệ thống nước của chúng. Vào năm 1900, khoảng 15% dân số sống ở các thành phố và con số
này đang tăng đều đặn theo thời gian. Vì vậy, dự kiến vào năm 2030 sẽ có hơn 60% dân số thế giới sống
ở các thành phố. Bạn có thể tưởng tượng điều đó gây áp lực khá lớn lên tài nguyên và cả cơ sở hạ tầng ở
các thành phố. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi các hệ thống cấp nước và hệ thống nước thải đang
chịu áp lực ngày càng tăng từ quá trình đô thị hóa.
Và các thành phố sẽ cần tìm cách đối phó với sự gia tăng dân số này và áp lực đối với các dịch
vụ, cơ sở hạ tầng, những thứ sẽ cung cấp các cách thức cung cấp các dịch vụ này một cách bền vững
trong tương lai. Bạn có thể đã nghe nói về thuật ngữ thành phố thông minh. Đó là những thành phố có
công nghệ nhúng để giúp họ quản lý các dịch vụ trong thành phố hiệu quả hơn và tốt hơn. Ví dụ, ở thành
phố Exeter, có những thiết bị theo dõi GPS được đặt trên xe buýt để chúng tôi biết xe buýt đang ở đâu
vào bất kỳ thời điểm nào. Barcelona là thành phố có nhiều dây nhất trên thế giới.
Họ có cảm biến chỗ đậu xe để cho mọi người biết thông qua các ứng dụng nơi có chỗ đậu xe
miễn phí và có khá nhiều điều này hiện đang được triển khai trên khắp thế giới. Vì vậy, nước, cũng như
các cơ sở hạ tầng khác, sẽ được hưởng lợi từ việc thông minh hóa các thành phố của chúng ta. Tất cả các
thành phố thông minh này và việc triển khai công nghệ thông tin và truyền thông với các dịch vụ và cơ
sở hạ tầng khác nhau giúp nâng cao khả năng phục hồi của các thành phố này trước các rủi ro khác
nhau, đặc biệt là các rủi ro về môi trường, kinh tế và xã hội. Nghiên cứu của tôi tại Đại học Exeter liên
quan đến các hệ thống nước và cách chúng ta có thể làm cho chúng bền vững hơn, với quan điểm làm
cho các thành phố trong tương lai bền vững hơn.
Vì vậy, chúng tôi đã chứng minh rằng thứ trông giống như rất nhiều nước không thực sự dồi
dào. Và cũng đừng quên rằng chúng ta sẽ luôn có cùng một lượng nước, không hơn, không kém. Vì vậy,
thật thú vị khi xem xét, nước đó được sử dụng ở các thành phố để làm gì, đặc biệt là với sự gia tăng dân
số, sẽ có nhiều vòi hoa sen hơn, nhiều nhà vệ sinh xả nước hơn, điều này sẽ kéo dài hệ thống của chúng
ta. Ví dụ, Thames Water, cung cấp nước cho phần lớn London và các vùng lân cận, ước tính rằng đến
năm 2040, sẽ thiếu hụt 414 triệu lít nước nếu chúng ta không làm bất cứ điều gì để sử dụng nước tốt
hơn và hiệu quả hơn, và nếu chúng ta lãng phí ít nước hơn trong các hộ gia đình của chúng tôi.
Tuy nhiên, có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng từ khi mưa đến đỉnh đầu của bạn, không cần
phải làm gì với lượng nước đó. Tuy nhiên, nước là một sản phẩm được sản xuất. Bạn phải khai thác nước
đó từ nước ngầm sông. Bạn phải làm sạch nó, bơm nó, lưu trữ nó, giao nó đến nhà của chúng tôi bảy
ngày một tuần, 24 giờ một ngày. Vì vậy, ở Vương quốc Anh, chúng tôi thường sử dụng trung bình
khoảng 240 lít mỗi người mỗi ngày. Nhưng nếu chúng ta tính đến hàng hóa và dịch vụ mà chúng ta mua,
ví dụ như thực phẩm, quần áo, mỗi người ở Vương quốc Anh sử dụng hơn 4.000 lít mỗi ngày.
Nước thông thường giúp chúng ta nghĩ đến giá trị tiền tệ của các quyết định và xem xét dấu
chân nước của chúng ta. Ví dụ, cà chua này cần 13 lít nước để sản xuất. Quả táo này cần 70 lít nước. Một
túi khoai tây chiên là 185 lít, bằng với một chiếc bánh mì kẹp thịt là 2.400 lít. Một cách để giảm tiêu thụ
nước là sử dụng đồng hồ thông minh. Những đồng hồ thông minh này đã được giới thiệu hoặc đang
được giới thiệu ở Vương quốc Anh để cung cấp năng lượng, điện và khí đốt, và chúng giúp giảm mức
tiêu thụ vì mọi người đang nhận thức rõ hơn về lượng năng lượng mà họ đang sử dụng và mức độ mà
họ đang sử dụng. họ sẽ phải trả giá. Điều tương tự cũng áp dụng cho nước.
Nếu nguồn nước được cung cấp bằng đồng hồ thông minh, người dân sẽ ý thức hơn về việc sử
dụng nước và họ sẽ không lãng phí. Có nhiều lý do tại sao điều này xảy ra, không chỉ vì chi phí, bởi vì
trung bình, nước rẻ hơn nhiều so với năng lượng. Nhưng lượng năng lượng liên quan đến việc đun nóng
nước, không phải để sưởi ấm không gian, mà là cho vòi hoa sen, cho vòi bếp, cho các thiết bị, là rất lớn.
Vì vậy, kết hợp lại, nước và năng lượng được tiết kiệm thông qua đồng hồ thông minh có thể là một
khoản tiền khá lớn đối với một hộ gia đình và mọi người nhận thức rõ hơn về môi trường về những gì họ
đang sử dụng, về nước và năng lượng trong một hộ gia đình. Nhưng nó không chỉ là về nguồn cung cấp
nước.
Hệ thống thoát nước của chúng ta, một số có từ thời Victoria, cũng cần sự trợ giúp của các công
nghệ thông minh. Một số nghiên cứu của chúng tôi tại Đại học Exeter đã tìm ra cách dự đoán khi nào lũ
lụt sẽ xảy ra. Chúng tôi sử dụng thông tin về lượng mưa và cơ sở hạ tầng mạng trong lòng đất để dự
đoán trước vài giờ khi lũ lụt sẽ xảy ra. Điều đó cho phép các cơ quan chức năng can thiệp, cảnh báo
người dân, bật máy bơm để giảm nguy cơ lũ lụt ở các khu vực đô thị của chúng ta. Các thành phố trong
tương lai sẽ cần đầu tư vào những công nghệ mới này để giảm thiểu rủi ro do dân số gia tăng và biến đổi
khí hậu.
Ví dụ về việc Luân Đôn đầu tư vào đo lường thông minh cho thấy họ đang làm nhiều hơn để bảo
tồn các nguồn tài nguyên quý giá hoặc cho phép họ sử dụng nó trong thời gian dài hơn trong tương lai.
Các thành phố khác đang làm theo, hoặc sẽ phải làm theo, nếu họ muốn quản lý tài nguyên bền vững
cho tương lai.

2.3 100 thành phố có khả năng chống chịu


Không phải tất cả các hành động chống biến đổi khí hậu đều phải ở cấp quốc gia hoặc quốc tế.
Các thành phố đang bắt đầu nắm lấy tương lai trong tay của chính họ để trở nên kiên cường trước
những tác động của biến đổi khí hậu.
Năm 2017, Tổng thống Hoa Kỳ Trump đã bãi bỏ cam kết của quốc gia đối với thỏa thuận khí hậu
Paris 2015. Mặc dù vậy, hơn 300 thị trưởng thành phố của Hoa Kỳ (như một phần của Chương trình
hành động về khí hậu quốc gia của Thị trưởng) đã đồng ý tự nguyện cam kết thực hiện các hướng dẫn
của thỏa thuận. Điều này là do các thành phố sẽ phải chịu tác động của biến đổi khí hậu nếu không hành
động.
100 Thành phố có khả năng chống chịu là một dự án được thiết kế để tạo ra một mạng lưới các
thành phố có khả năng chống chịu tốt hơn với khả năng thích ứng cao hơn. Điều này sẽ cho phép họ đối
phó và đáp ứng nhu cầu của các mối đe dọa trong thế kỷ 21 - bao gồm nhưng không giới hạn ở biến đổi
khí hậu. Mỗi thành phố trong số 100 thành phố thành viên đã đưa ra kế hoạch phục hồi của riêng mình,
trong đó xác định các mối đe dọa chính và cách tốt nhất để họ đối phó với các mối đe dọa này.
Trong phần còn lại của bài viết này, chúng ta sẽ xem xét hai trong số 100 Thành phố có khả năng
chống chịu (New York, Hoa Kỳ và Bristol, Vương quốc Anh) đã cam kết chống lại mực nước biển dâng và
cường độ bão gia tăng như thế nào.
Newyork
Năm 2012, thành phố New York hứng chịu cơn bão Sandy - cơn bão gây thiệt hại lớn thứ hai
trong lịch sử Hoa Kỳ. Nó gây ra lũ lụt trên toàn thành phố và ngừng hoạt động các dịch vụ chính bao gồm
cả mạng lưới giao thông. Đối với New York, biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến mực nước biển dâng cao và
những cơn bão dữ dội và thường xuyên hơn, có thể gây ra những tác động thậm chí còn tồi tệ hơn cả
cơn bão Sandy. Do đó, thành phố bắt buộc phải đưa ra một kế hoạch để trở nên kiên cường hơn trước
những mối đe dọa này.
New York đang lên kế hoạch vừa giảm thiểu vừa thích nghi để tăng khả năng phục hồi. Nó sẽ
dẫn đường cho các thành phố của Hoa Kỳ giảm tác động đến môi trường bằng cách cắt giảm 80% lượng
khí thải nhà kính vào năm 2050 và trở thành "không rác thải" vào năm 2030. Ngoài ra, thành phố đang
tránh xa nhiên liệu hóa thạch dẫn đến sự phát triển của nó ủng hộ năng lượng tái tạo. Để thích ứng với
các mối đe dọa lũ lụt cụ thể, New York đang nâng cấp hệ thống phòng thủ ven biển và cải thiện thiết kế
tòa nhà. Phương pháp kỹ thuật cứng này để cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ đảm bảo rằng các hệ thống quan
trọng - chẳng hạn như mạng lưới tàu điện ngầm - không bị ngừng hoạt động trong nhiều ngày sau lũ lụt.
bristol
Ở Bristol, thành phố phải đối mặt với các mối đe dọa tương tự. Thành phố đã phải đối mặt với
một loạt các sự kiện lũ lụt gần đây - vào năm 2012 do mưa kéo dài, năm 2014 do triều cường và năm
2016 do giông bão. Do đó, thành phố cần cải thiện khả năng phục hồi của mình để tự bảo vệ mình trong
tương lai trước những mối đe dọa này.
Giống như New York, Bristol cũng đang đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và tăng cường
sử dụng năng lượng tái tạo để trở thành trung hòa carbon vào năm 2066. Để tạo khả năng phục hồi và
thích ứng, Bristol sẽ trao quyền cho các cá nhân và củng cố cộng đồng. Điều này tạo ra một mạng lưới
công dân bền vững, những người có khả năng thích ứng để tự giúp mình thay vì dựa vào sự quản lý và
hỗ trợ từ trên xuống trong thời kỳ khủng hoảng. Nó cũng sẽ tập hợp các cá nhân, doanh nghiệp và các
phòng ban để làm cho Bristol trở thành minh chứng cho tương lai, hợp tác về ý tưởng và chia sẻ các lĩnh
vực thực hành tốt nhất để đảm bảo hạn chế tác động của lũ lụt.
Tìm một Thành phố Kiên cường gần bạn!
Dự án 100 thành phố có khả năng chống chịu đến mọi nơi trên thế giới. Sử dụng liên kết này, tìm
"thành phố kiên cường" gần bạn nhất và xem xét một số giải pháp cho 'các mối đe dọa lớn' mà họ đang
phải đối mặt. Chia sẻ những phát hiện của bạn trong phần bình luận bên dưới.
Nếu bạn thích phiêu lưu, hãy xem một số thành phố khác để xem các phương pháp phục hồi
khác nhau như thế nào ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Có phải sự khác biệt của họ trong cách các
nước đang phát triển đối phó với các mối đe dọa của thế kỷ 21 so với các nước phát triển?

3. CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG


3.1 Kiến tạo cộng đồng bền vững
Giáo sư Stewart Barr và Tiến sĩ Ewan Woodley giới thiệu các vấn đề xung quanh việc tạo ra các
cộng đồng bền vững hơn.
Chào mừng bạn đến với phần cuối cùng này về cộng đồng bền vững, sẽ được dẫn dắt bởi Tiến sĩ
Ewan Woodley, một giảng viên cao cấp về địa lý, và tôi, Stewart Barr, và tôi là một giáo sư địa lý Bây giờ,
trong phần cuối cùng này, những gì chúng ta sẽ làm là xem xét một ví dụ thực tế về cách chúng ta có thể
thực hiện các cộng đồng bền vững trên mặt đất, và chúng ta sẽ sử dụng một nghiên cứu tình huống địa
phương từ đây trong Devon như một minh họa về các loại quy trình mà cộng đồng phải trải qua để trở
nên bền vững hơn. Bây giờ, như bạn đã biết, khi chúng ta nghĩ về khái niệm cộng đồng bền vững, nó
thực sự có thể khá rắc rối.
Điều đó trước hết là do ý tưởng về cộng đồng còn khá nhiều tranh cãi. Đó là về việc bạn ở trong
hay ngoài cộng đồng. Chúng ta đang nói về cộng đồng thực hành hay cộng đồng địa điểm dựa trên vị trí
địa lý? Và, thực sự, bản thân ý tưởng về tính bền vững đã thực sự gây tranh cãi. Chúng ta biết rằng đó là
về các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, nhưng bên cạnh đó, nó có thể là một khái niệm thực sự
trừu tượng, thực sự trơn trượt, khó nắm bắt. Và đó là lý do tại sao rất nhiều người trong môi trường
thực tế nói về ý tưởng về những nơi kiên cường hoặc cộng đồng kiên cường.
Và trong nghiên cứu tình huống hôm nay, điều chúng tôi sẽ làm là đưa bạn qua một ví dụ thực
tế về cách chúng tôi có thể thúc đẩy khả năng phục hồi– trong trường hợp này là trước các hiểm họa tự
nhiên. OK, Stewart đã vạch ra rất rõ ràng ở đó tầm quan trọng của khả năng phục hồi, nhưng ở đây
chúng ta cần phải thực sự phê phán khi nghĩ về ý nghĩa của thuật ngữ "khả năng phục hồi", bởi vì đó là
một khái niệm gây tranh cãi. Chúng tôi nghe các chính trị gia. Chúng ta nghe những người khác trong xã
hội nói về khả năng phục hồi và chúng ta cần trở nên kiên cường hơn. Nhưng nó thực sự có nghĩa là gì?
Vì vậy, những gì chúng ta sẽ xem xét trong phần còn lại của bài nói chuyện này là cách các học giả đã làm
việc với cộng đồng địa phương để khám phá khái niệm này.
Khi chúng ta nghĩ về biến đổi khí hậu do con người gây ra, có một nhu cầu rất, rất thực tế là
khám phá khái niệm này một cách chi tiết hơn. Nếu chúng ta nhìn vào khoa học mới nhất, rất nhiều
bằng chứng cho thấy rằng các hiện tượng thời tiết cực đoan có khả năng gia tăng về cường độ hoặc tần
suất của chúng– vì vậy mọi thứ từ gió lùa và sóng nhiệt, cho đến các hiện tượng mưa lớn, sẽ là trọng
tâm của công việc ở đây về lũ lụt. Vì vậy, có một nhu cầu thực sự là khám phá tiềm năng của khái niệm
về khả năng phục hồi này. Tuy nhiên, nếu chúng ta nghĩ về ý nghĩa của nó, thì cách truyền thống trong
đó khả năng phục hồi đã được nghiên cứu rất giống với ý nghĩa phục hồi sau một cú sốc đối với một hệ
thống.
Vì vậy, nếu chúng ta nghĩ về, ví dụ, một trận mưa lớn gây ra lũ lụt, nó sẽ gây ra thiệt hại và thiệt
hại đó có thể hữu hình trong tự nhiên. Chúng ta có thể bị tổn thất tài chính. Chúng ta có thể có, trong
những tình huống rất buồn, mất mạng. Về bản chất, nó cũng có thể là vô hình – rất nhiều tác động dài
hạn hơn nhiều và thường vô hình đối với một xã hội rộng lớn hơn, chẳng hạn như chấn thương tâm lý
khi bị lũ lụt. Vì vậy, nếu những sự kiện này, những cú sốc này có khả năng trở nên phổ biến hơn, thì
chúng ta cần suy nghĩ về cách chúng ta có thể huy động khả năng phục hồi như một khái niệm để hiểu
những điều này.
Nhưng tôi cho rằng chính khái niệm thoát khỏi những mối nguy hiểm này là một cách khá tiêu
cực để khám phá khái niệm này bởi vì nó không thực sự cho phép chúng ta suy nghĩ chín chắn về cách
chúng ta có thể thích ứng, cách chúng ta có thể chuyển đổi sang môi trường thay đổi mà chúng ta có thể
thấy dưới tác động của biến đổi khí hậu do con người gây ra. Vì vậy, những gì chúng ta sẽ khám phá ở
đây rất nhiều ở cấp độ nâng cao hơn, cái mà chúng ta có thể gọi là kết thúc tiến hóa của khả năng phục
hồi, không liên quan nhiều đến việc phục hồi sau khi có một cú sốc đối với hệ thống, mà là hiểu rõ hơn
về cách chúng ta có thể làm việc với các cộng đồng để thích ứng với môi trường thay đổi thông qua biến
đổi khí hậu do con người gây ra.
Ví dụ, nếu các trận mưa lớn có khả năng trở nên dữ dội hơn hoặc thường xuyên hơn và các cộng
đồng có thể phải hứng chịu những cú sốc này thường xuyên hơn hoặc ở mức độ cao hơn, chúng ta cần
suy nghĩ về cách chúng ta có thể thực sự huy động khái niệm về khả năng phục hồi để thực sự giúp
những cộng đồng đó thích nghi với một thế giới khí hậu đang thay đổi. Vì vậy, chúng tôi đã khám phá
khái niệm về khả năng phục hồi này rất ngắn gọn, nhưng một điều thực sự quan trọng khác mà chúng tôi
cần thực sự xem xét ở đây là cách chúng ta nhìn nhận và cách chúng ta quản lý rủi ro trong xã hội. Và ở
đây, chúng ta đang tập trung trở lại vào các nguy cơ tự nhiên, nhưng chúng ta cũng có thể áp dụng điều
này cho tất cả các loại rủi ro khác trong xã hội.
Nếu chúng ta nghĩ về cách chính phủ đã thay đổi về cách tiếp cận quản lý rủi ro, chúng ta có thể
thấy một sự thay đổi khá lớn trong 40, 50 năm qua hoặc lâu hơn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong
một khoảng thời gian khá dài, có một nhà nước lớn là chính phủ lớn, và chính phủ chịu trách nhiệm
quản lý nhiều rủi ro trong xã hội. Nhưng khi nhiều thập kỷ trôi qua, đặc biệt là sau kỷ nguyên Thatcherite
của Margaret Thatcher và những biến đổi đó, những gì chúng ta thấy ngày càng nhiều là trách nhiệm
quản lý rủi ro từ nhà nước sang cá nhân. Vì vậy, nhà nước thu hẹp lại, và trách nhiệm giải quyết các vấn
đề môi trường được đặt lên vai cá nhân.
Vì vậy, nếu chúng ta nghĩ về việc tái chế, nếu chúng ta nghĩ về việc lắp các tấm pin mặt trời trên
mái nhà của bạn, đó là về sự phân chia trách nhiệm từ chính phủ sang các cá nhân. Bạn có đang nỗ lực
với tư cách cá nhân để đối phó, giải quyết các mối quan tâm về môi trường không? Tuy nhiên, điều đó
thực sự, thực sự quan trọng, như một khuôn khổ khi chúng ta tìm hiểu cách rủi ro được truyền đạt trong
xã hội, bởi vì truyền thống, và cho đến nay, phương tiện phổ biến để truyền đạt rủi ro nguy hiểm là rất
một chiều về bản chất và rất chuyên nghiệp. dẫn đến. Đó là về những người có địa vị nhất định trong xã
hội– các nhà khoa học, chính trị gia– giao tiếp với– đó là một từ khủng khiếp, nhưng là khán giả "không
chuyên", những người không hiểu rõ về những rủi ro đó.
Và logic đằng sau điều này là bạn có một chuyên gia cung cấp thông tin cho ai đó. Họ lấy thông
tin đó trên tàu và họ thay đổi hành vi của mình cho phù hợp. Nếu đúng như vậy, chúng ta sẽ thực sự ở
trong một tình huống rất tốt. Tuy nhiên, vấn đề thực sự với cách tiếp cận này là không phải lúc nào mọi
người cũng chấp nhận điều đó. Có rất nhiều rào cản để mọi người thực sự thay đổi hành vi của họ về các
vấn đề môi trường. Vì vậy cái được gọi là mô hình thâm hụt giao tiếp giữa chuyên gia với giáo dân thực
sự rất có vấn đề.
Và vì vậy, những gì chúng tôi đang tìm cách khám phá ở đây là những cách mới để thực sự phát
triển kiến thức về các mối nguy hiểm tự nhiên, và chúng hoạt động không ở quy mô cá nhân mà ở quy
mô cộng đồng, bởi vì cuối cùng, nếu chúng ta giải quyết một số mối nguy hiểm lớn mà biến đổi khí hậu
có khả năng thực sự giáng xuống chúng ta và ngày càng gia tăng, chẳng hạn như mưa lớn và lũ lụt, thì
đây là những mối nguy hại mà có thể cộng đồng cần phải giải quyết chứ không chỉ cá nhân.

3.2 Ứng phó với Biến đổi Khí hậu tại các cộng đồng đang phát triển trên thế giới
Cho đến nay, phần lớn những gì chúng ta đã thảo luận tập trung vào thế giới phát triển. Trong
bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ một số cách ứng phó với biến đổi khí hậu trong các cộng đồng đang
phát triển trên thế giới và tìm hiểu cách tạo ra các cộng đồng bền vững ở mọi nơi trên thế giới.
Các tác động của biến đổi khí hậu được dự đoán sẽ được cảm nhận nghiêm trọng nhất ở các
nước đang phát triển. Điều này có thể khuếch đại các lỗ hổng hiện có và đe dọa khả năng phát triển bền
vững của các cộng đồng. IPCC (Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu) cho rằng các nước đang phát
triển sẽ chịu thiệt hại nhiều nhất từ biến đổi khí hậu do tầm quan trọng kinh tế mà họ đặt lên các lĩnh
vực nhạy cảm với khí hậu.
thích nghi
Thách thức chính đối với bất kỳ cộng đồng đang phát triển nào trên thế giới là cải thiện khả năng
phục hồi và khả năng thích ứng của họ để có thể đối phó với các tác động của biến đổi khí hậu. Các Mục
tiêu Phát triển Bền vững thừa nhận rằng, để đạt được điều này, bất kỳ biện pháp thích ứng nào cũng cần
nhất quán với việc đạt được các mục tiêu khác. Một cộng đồng không thể cải thiện khả năng phục hồi
của mình khi còn nghèo đói, không được tiếp cận giáo dục hoặc không giải quyết được bất bình đẳng
giới để đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
Ở các cộng đồng nông thôn châu Phi, việc tiếp cận với nước sẽ trở thành một thách thức ngày
càng lớn khi hạn hán trở nên phổ biến hơn. Một trong những cách mà các cộng đồng có thể thích nghi là
giảm nhu cầu ngay từ đầu quá trình bằng cách sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn. Nhưng hạn hán có
thể làm cạn kiệt nguồn cung cấp nước uống và cần có cơ sở hạ tầng tốt để có thể trợ giúp. Điều này sẽ
cho phép các chính phủ và tổ chức phi chính phủ tiếp cận đúng cách các cộng đồng nông thôn có nhu
cầu. Bạn có thể giúp thực hiện điều này bằng cách đóng góp cho dự án The Missing Maps.

Làm sao để phát triển bền vững


Trong các cuộc đàm phán về thỏa thuận Paris 2015, Ấn Độ ban đầu phản đối việc giảm sự phụ
thuộc vào than đá. Từ góc độ kinh tế thuần túy, điều này có ý nghĩa – phần lớn tăng trưởng kinh tế của
Ấn Độ dựa vào than đá giá rẻ và đó là yếu tố then chốt để đảm bảo sự phát triển của đất nước. Tuy
nhiên, Ấn Độ đang hướng tới năng lượng tái tạo, gần đây cam kết rằng năng lượng tái tạo sẽ chiếm 40%
sản lượng điện vào năm 2030. Điều này làm nổi bật một số tình huống khó xử về đạo đức. Làm thế nào
để các nước đang phát triển tiến bộ về kinh tế, đồng thời thay thế nhiên liệu cho tăng trưởng kinh tế của
họ? Có đúng không khi các nước phát triển mở rộng sử dụng nhiên liệu 'bẩn', từ chối các nước đang
phát triển đặc quyền tương tự? Các nước phát triển có nghĩa vụ đạo đức phải giúp đỡ và hỗ trợ các
nước đang phát triển vì điều này không?
Tất cả quay trở lại với các mục tiêu phát triển bền vững. Bằng cách cải thiện chất lượng cuộc
sống cho các cá nhân ở một quốc gia đang phát triển bằng cách xóa đói giảm nghèo, điều này cho phép
họ tự hành động. IPCC đã thành công trong ấn phẩm năm 2007 của họ:
Một mặt, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các điều kiện sống tự nhiên và con người quan trọng
và do đó cũng là cơ sở cho sự phát triển kinh tế và xã hội, mặt khác, các ưu tiên của xã hội về phát triển
bền vững ảnh hưởng đến cả lượng phát thải khí nhà kính đang gây ra biến đổi khí hậu và tình trạng dễ bị
tổn thương. IPCC, 2007, Nhóm công tác III: Giảm nhẹ biến đổi khí hậu, 2.1.3.
Do đó, biến đổi khí hậu có thể trở thành rào cản lớn nhất đối với phát triển bền vững. Nhưng
thỏa thuận Paris năm 2015 bao gồm các cam kết giúp các nước đang phát triển tạo ra một khuôn khổ
thích ứng, theo đó những người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới được giúp đỡ và hỗ trợ. Thỏa thuận
cũng quyết định rằng…
các nguồn tài chính cung cấp cho các nước đang phát triển cần tăng cường việc thực hiện các
chính sách, chiến lược, quy định và kế hoạch hành động cũng như các hành động ứng phó với biến đổi
khí hậu của họ đối với cả giảm nhẹ và thích ứng để góp phần đạt được mục đích của Thỏa thuận.

Chuyển đổi nhân khẩu học


Có một mối tương quan mạnh mẽ tồn tại giữa các khu vực trên thế giới có mức tăng dân số lớn
và các khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Cải thiện kế hoạch hóa gia đình và tiếp cận chăm
sóc sức khỏe tình dục có thể giúp góp phần giảm nhẹ biến đổi khí hậu, cũng như nâng cao năng lực thích
ứng của cộng đồng. Ít người hơn sẽ giảm áp lực lên các nguồn lực và cho phép các cá nhân có cơ hội
phát triển. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách giảm tỷ lệ sinh của một quốc gia, bao gồm khả
năng tiếp cận giáo dục tốt hơn (Mục tiêu Phát triển Bền vững 4) và tiếp cận chăm sóc sức khỏe tốt hơn
(Mục tiêu Phát triển Bền vững 3)

Chia sẻ câu chuyện của bạn


Nếu bạn đang học với chúng tôi từ một quốc gia đang phát triển, chúng tôi rất mong nhận được
phản hồi từ bạn! Chia sẻ câu chuyện của bạn về cách bạn và cộng đồng của bạn đang ứng phó với biến
đổi khí hậu trong phần thảo luận. Đối với học viên đến từ một quốc gia phát triển hơn, hãy xem qua các
nhận xét và xác định sự khác biệt giữa cách mọi người đang phản ứng ở thế giới đang phát triển và thế
giới đã phát triển.

3.3 Qua cho bạn!


Chúng tôi hy vọng bạn thích khóa học này và đã học được nhiều cách để bạn có thể hành động
trong cuộc sống và cộng đồng của chính mình. Sử dụng cuộc thảo luận này như một cơ hội để chia sẻ
những hành động bạn sẽ thực hiện để giảm lượng khí thải carbon (lượng khí carbon dioxide bạn thải ra
từ các hành động cá nhân của mình).
Sau đó, xem xét những gì khác cần phải được thực hiện. Điều này có thể ở quy mô địa phương
của các cá nhân hành động, quy mô thực thi chính sách quốc gia hoặc quy mô toàn cầu để cùng nhau
giải quyết vấn đề.

3.4 Nghiên cứu điển hình: Crediton đã tạo ra một cộng đồng kiên cường như thế nào?
Giáo sư Stewart Barr và Tiến sĩ Ewan Woodley đã trở lại để nói chuyện với chúng tôi thông
qua một nghiên cứu điển hình về cách một thị trấn ở Anh - Crediton - ứng phó với rủi ro lũ lụt và các
hiện tượng thời tiết khắc nghiệt sẽ xảy ra ngày càng nhiều cùng với biến đổi khí hậu.
Vì vậy, nếu chúng ta gặp vấn đề này với cái gọi là mô hình thâm hụt mà Ewan đã vạch ra, chúng
ta có thể làm gì với điều đó? Làm thế nào chúng ta có thể bắt đầu thách thức những thứ bậc kiến thức
khác nhau này? Làm thế nào chúng ta có thể khiến mọi người tham gia vào một cộng đồng cụ thể trong
việc xây dựng kiến thức về môi trường của chính họ? Chà, trong khoảng 15, 20 năm nhanh chóng, ngày
càng có nhiều mối quan tâm đến khoa học xã hội từ các nhà nghiên cứu làm việc trong lĩnh vực được gọi
là nghiên cứu xã hội công nghệ khoa học. Và những nhà nghiên cứu đó quan tâm đến việc cố gắng để
mọi người trong cộng đồng xây dựng kiến thức về môi trường ngay từ đầu.
Và đây là tất cả về sự thừa nhận rằng trong khi kiến thức khoa học do các trường đại học, viện
nghiên cứu và chính phủ tạo ra, v.v. thực sự quan trọng, thì còn có những loại kiến thức khác mà mọi
người biết được từ cuộc sống ở một nơi trong một số năm nhất định, điều này cũng thực sự quan trọng.
Hơn nữa, nếu bạn thực sự khiến mọi người chấp nhận một cách quản lý môi trường cụ thể, nếu họ có
vai trò trong việc xây dựng kiến thức đó, thì điều đó có thể tạo niềm tin vào quy trình. Và đây thực sự là
về việc đối phó với những tranh cãi về kiến thức. Nếu chúng ta nghĩ về biến đổi khí hậu do con người gây
ra, thì đó là một chủ đề khoa học gây nhiều tranh cãi.
Tất nhiên, không phải trong cộng đồng khoa học lâu đời, nhưng trên các phương tiện truyền
thông và giữa nhiều công chúng, khoa học được tranh luận về những thứ như mạng xã hội. Vì vậy, nếu
bạn có thể bắt đầu xây dựng kiến thức, bao gồm các loại kiến thức truyền thống của chuyên gia, nhưng
cũng như những gì Ewan đã đề cập, những loại kiến thức không chuyên, thì có thể xây dựng hiểu biết về
môi trường giúp mọi người có nhiều hơn tin tưởng vào cách nó được quản lý.
Bây giờ, trong nghiên cứu mà chúng tôi thực hiện ở Devon, đặc biệt là thị trấn Crediton, ngay
phía tây bắc Exeter, chúng tôi quan tâm đến việc giải quyết một vấn đề rất cụ thể, đó là làm thế nào mà
thị trấn đó, đó là nằm giữa một thung lũng có sườn rất dốc, rất dễ bị lũ lụt trên bề mặt, làm thế nào
cộng đồng đó có thể bắt đầu lập kế hoạch cho những thay đổi khí hậu có thể xảy ra trong tương lai? Ví
dụ, tăng lượng mưa dữ dội. Nhiều tài sản hơn, nhiều người hơn sẽ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt trên mặt
nước. Vậy làm thế nào chúng ta có thể xây dựng kiến thức để giúp cộng đồng đó lập kế hoạch cho tương
lai?
Thay vì một nhóm chuyên gia đến từ bên ngoài và đưa ra một mô hình hoặc giải pháp cụ thể cho
những người đó, làm thế nào họ có thể tự nghĩ ra những ý tưởng đó? Và để làm điều này, chúng tôi đã
phát triển ý tưởng về cái được gọi là nhóm năng lực. Và ý tưởng của nhóm năng lực là bạn mời mọi
người cùng tham gia một loạt hội thảo xây dựng kiến thức. Kiến thức của mọi người đều được coi là
ngang nhau. Mọi người đến để lắng nghe các loại kiến thức khác nhau được đưa ra bàn, và họ cùng
nhau đưa ra một khuôn khổ để tiếp cận vấn đề.
Bây giờ, những người đó có thể liên quan đến các cố vấn địa phương, các thành viên của công
chúng quan tâm đến lũ lụt hoặc quan tâm đến nó, dịch vụ cứu hỏa, cơ quan lập kế hoạch khẩn cấp, cơ
quan môi trường, nhà sử học địa phương. Và mọi người ở đó để tranh luận kiến thức về vấn đề đang
được đề cập. Vì vậy, trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tổ chức bốn hội thảo, mỗi hội thảo kéo dài hai
giờ trong hội trường Nhà thờ Giám lý, nơi chúng tôi bàn giao chủ yếu vấn đề về cách chúng tôi sẽ đối
phó với lũ lụt trong thị trấn trong tương lai cho cộng đồng đó. Vì vậy, vai trò của chúng tôi là các học giả
không phải để phán xét hay lãnh đạo. Nó chỉ đơn giản là để tạo điều kiện, đơn giản là bắt đầu một cuộc
trò chuyện và hướng dẫn một cuộc trò chuyện.
Và thông qua các cuộc hội thảo này, chúng tôi bắt đầu xây dựng một bức tranh thực sự phong
phú về tình trạng và lũ lụt trong quá khứ, nguyên nhân có thể gây ra lũ lụt hiện nay, chúng sẽ ra sao
trong tương lai và những gì có thể được thực hiện về nó. Và nền tảng cho cách tiếp cận của chúng tôi là
những gì bạn thấy ở đây trên tấm áp phích này, đó là bản đồ lũ lụt. Trong một bản đồ lũ lụt truyền
thống– và bạn có thể tự mình xem chi tiết bản đồ này trực tuyến– cho biết Cơ quan Môi trường cho rằng
lũ lụt từ sự kiện lũ lụt 1 trong 100 năm sẽ ảnh hưởng đến đâu.
Và những gì chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu của mình là mọi người có thể đi cùng cuộc họp
và trên thực tế, họ đã cho chúng tôi thấy kiến thức của họ về các loại địa điểm khác nhau sẽ bị ngập lụt,
nhiều nơi trong số đó đã hoàn toàn ngập lụt. bên ngoài khu vực mà Cơ quan Môi trường đã vạch ra. Vì
vậy, điều này thực sự chứng minh cho chúng ta thấy rằng kiến thức địa phương thực sự có thể được
hình thành khi thực sự bắt đầu phát triển một chiến lược quản lý lũ lụt cho tương lai. Và bây giờ Ewan sẽ
nói thêm một chút về các loại bằng chứng mà chúng tôi đã thu thập được.
OK, vì vậy Stewart đã vạch ra rất rõ ràng ở đó sức mạnh thực sự của một nhóm năng lực trong
việc cho phép chúng ta xây dựng dựa trên những dạng kiến thức khoa học truyền thống này bằng cách
khám phá những trải nghiệm và kiến thức ngầm của các thành viên trong cộng đồng , trong trường hợp
này là Crediton. Nhưng nếu chúng ta nghĩ về những gì thực sự đòi hỏi, đó là về việc lấy thông tin khoa
học này, vì vậy hãy xem xét các dự đoán về lượng mưa lớn trong tương lai, nghĩ về loại khoa học khí hậu
và khí tượng học, nhưng cũng nghĩ về trải nghiệm của con người về nước mặt, lũ lụt , và lũ lụt ven sông
trong và xung quanh Crediton. Và để làm được điều đó, chúng ta có thể khám phá một số nguồn thông
tin thực sự khá thú vị.
Ở đây chúng tôi có một ví dụ về các áp phích mà bạn có thể thấy trên bản PDF của thông tin lịch
sử. Vì vậy, đây là tài liệu lưu trữ, chủ yếu là các bài báo, là niên đại tuyệt vời này, ghi chép về các sự kiện
lũ lụt trên mặt nước và ven sông trong quá khứ. Và đây là một cửa sổ thực sự có giá trị để khám phá tác
động của các sự kiện lũ lụt trong quá khứ và thực sự xây dựng bức tranh này qua thời gian về việc cộng
đồng này đã bị ảnh hưởng như thế nào. Chúng ta cũng có thể khám phá, như bạn có thể thấy trên áp
phích này ở đây, hiểu biết của mọi người về nguyên nhân gây ra lũ lụt trong một khu vực. Vì vậy, chúng
tôi biết rằng lượng mưa lớn là loại nguyên nhân chính gây ra lũ lụt ở đây.
Nhưng có một số điều làm trầm trọng thêm lũ lụt, và những điều này sẽ khác nhau tùy thuộc
vào nơi bạn ở. Vì vậy, những hội thảo này đã cung cấp cho chúng tôi cái nhìn sâu sắc thực sự có giá trị về
những gì cộng đồng, nhóm người trong nhóm năng lực coi là tác nhân hỗ trợ lũ lụt đáng kể nhất. Vì vậy,
chúng ta có thể thấy, ví dụ, việc sử dụng đất, thực hành nông nghiệp, các khu vực đã được phát triển với
nhà ở, tất cả các loại vấn đề xung quanh đường xá và bảo trì đường cao tốc, tất cả đều là những vấn đề
mà mọi người nhấn mạnh là thực sự quan trọng về mặt nâng cao tác động của lũ lụt. Và vì vậy, chúng tôi
xây dựng bức tranh thực sự phong phú này về một cộng đồng và bản chất rủi ro mà cộng đồng đó gặp
phải.
Bây giờ tôi sẽ bàn giao cho Stewart, người sẽ cho chúng tôi biết thêm một chút về cách chúng
tôi thực sự sử dụng nghiên cứu này để giải quyết chương trình nghị sự về khả năng phục hồi. Vì vậy,
nghiên cứu này đã thực sự cung cấp cho chúng tôi hai yếu tố chính mà chúng tôi có thể bắt đầu nghĩ đến
để hiểu cách các cộng đồng có thể trở nên kiên cường hơn trước lũ lụt. Và điều đầu tiên trong số này là
nhận ra rằng trên thực tế, trong khi chúng ta phải vượt ra ngoài quy mô cá nhân, thường sẽ có những
điều rất thiết thực mà mọi người có thể làm ở quy mô khu phố.
Vì vậy, một trong những phát hiện chính của nhóm hiện đã trở thành Nhóm Phục hồi Lũ lụt
Crediton là trên thực tế, việc cung cấp thông tin, kiến thức và sự hiểu biết ở cấp độ đường phố, quy mô
đường phố cho mọi người thực sự quan trọng. Vì vậy, vấn đề mà Ewan nêu ra về cống bị tắc, thực ra
một trong những thành viên trong nhóm của chúng tôi đã nói, thật ra, sẽ không thực sự tốt nếu bạn có
một đường dây trợ giúp mà bạn có thể gọi để thông báo cho ai đó rằng cống bên ngoài nhà bạn bị tắc,
và rằng nếu nó vẫn bị chặn, sẽ có rủi ro đối với khá nhiều tài sản nếu có một trận mưa như trút nước bất
chợt? Vì vậy, có một cái gì đó có thể được thực hiện ở quy mô khu phố hoặc đường phố đó.
Nhưng yếu tố thứ hai mà Ewan đề cập đến là quy mô cộng đồng. Làm thế nào để toàn bộ cộng
đồng, cộng đồng tại địa phương của Crediton kiểm soát nhiều hơn cách quản lý lũ lụt và cách mọi người
đối phó với tác động của các sự kiện mưa lớn. Vì vậy, những gì Nhóm phục hồi lũ lụt Crediton đã làm là
trở thành thành viên liên kết của nhóm chuyển đổi địa phương, Crediton bền vững. Và điều đó đã làm
được là giúp họ có vai trò quan trọng hơn nhiều trong việc vận động hành lang, ví dụ, khi các dự án phát
triển nhà ở mới đang được đề xuất để suy nghĩ về tác động của lũ lụt. Vì vậy, có hai loại hiệu ứng mà các
nhà nghiên cứu này đã có.
Đầu tiên là khiến mọi người trong thị trấn suy nghĩ thực tế hơn về cách họ với tư cách là thành
viên của một cộng đồng, khu phố, đường phố, v.v., có thể hành động để tự giúp mình, nhưng cũng là
quy mô cộng đồng để có tiếng nói lớn hơn trong việc vận động hành lang chống lại sự phát triển hoặc
các tác động khác có thể làm tăng nguy cơ lũ lụt cho họ và tài sản của họ. Thách thức mà chúng tôi tìm
thấy trong nghiên cứu này– và điều này thực sự quan trọng– quay trở lại với những gì Ewan đã nói trước
đó, đó là bối cảnh về cách mọi người tương tác với nhà nước địa phương, với chính quyền địa phương,
v.v. .
Bởi vì ở Anh, chúng tôi thường nói, thực ra, tôi không thể làm điều đó, đường phố của tôi không
thể làm điều đó, cộng đồng của tôi không thể làm điều đó. Điều đó tùy thuộc vào cố vấn địa phương. Và
trên thực tế, những gì chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu này là mọi người thực sự khá sợ hãi trước
việc kiểm soát quá trình nghiên cứu và thực sự thúc đẩy một cách làm việc khác, cái mà Ewan gọi là khả
năng phục hồi tiến hóa. Vì vậy, thách thức mà chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu này là ý tưởng về
cách bạn không chỉ đồng sản xuất kiến thức với mọi người, mà trên thực tế, cách bạn đồng quản lý một
vấn đề như lũ lụt. Và đó là nơi nghiên cứu của chúng tôi cần phải đi trong tương lai.
Cuối cùng, để kết thúc tuần này, chúng ta hãy xem các Mục tiêu Phát triển Bền vững đang
thiết lập các mục tiêu như thế nào để giúp tạo ra 'Cộng đồng và Thành phố Bền vững':

• Giảm tác động bất lợi đến môi trường tính theo đầu người của các thành phố, bao gồm bằng
cách đặc biệt chú ý đến chất lượng không khí và quản lý rác thải đô thị và rác thải khác.
• Tăng đáng kể số lượng các thành phố và khu định cư của con người áp dụng và thực hiện các
chính sách và kế hoạch tích hợp hướng tới hòa nhập, sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm thiểu và thích
ứng với biến đổi khí hậu.
• Cung cấp khả năng tiếp cận hệ thống giao thông an toàn, giá cả phải chăng, dễ tiếp cận và bền
vững cho tất cả mọi người.

You might also like