You are on page 1of 13

1.

Cuộc cách mạng công nghiệp là gì:


Cách mạng công nghiệp hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cuộc
cách mạng trong lĩnh vực sản xuất.

- Là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ
nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới.

- Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay
được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn.

- Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó
diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.

- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng
hóa của ngành công nghiệp dệt.

- Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng cho công nghiệp dệt, các kỹ
thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sử dụng với khối lượng lớn.

- Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông và đường
sắt.

- Bên cạnh đó, đường giao thông được nâng cấp lớn cho hoạt động giao thương nhộn
nhịp.

- Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động bằng cơ khí đã đưa
đến gia tăng năng suất lao động đột biến.

- Sự phát triển các máy công cụ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho
lĩnh vực chế tạo máy, phục vụ những ngành sản xuất khác.

Các giai đoạn:


- Cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu vào khoảng thập kỷ 1860, khi các tiến bộ
kinh tế và kỹ thuật có được nhờ phát triển điện tín, điện thoại, đường sắt và việc áp
dụng dây chuyền sản xuất hàng loạt. Đến cuối thế kỷ 19, động lực của Cách mạng
công nghiệp lần 2 chủ yếu là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện. Năm 1914,
năm bắt đầu Thế chiến thứ nhất, giai đoạn thứ hai này kết thúc.

- Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1960, khi có các tiến bộ về hạ
tầng điện tử, máy tính và công nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của chất
bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980)
và Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này cơ bản hoàn thành
nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc.

- Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư bắt đầu vào đầu thế kỷ 21, tiếp sau những thành
tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách mạng
số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet of Things,
S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới,... Hiện tại cả thế giới đang ở trong
giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này và là chiến lược bản lề cho các nước đang phát
triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới và mở ra bước ngoặt mới cho sự phát
triển của con người.

2. Tiền đề phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp:


2.1. Những cuộc phát kiến địa lí (thế kỉ XV)
- Do nhu cầu mở rộng hoạt động thương mại.

- Nhờ vào những tiến bộ kĩ thuật của ngành hàng hải.

-> Từ cuối thế kỉ XV, nhiều nhà thám hiểm Âu châu đã tìm ra những con đường biển
đi sang phương Đông - nơi họ hi vọng sẽ kiếm được nhiều vàng bạc và của cải.

- 3 cuộc phát kiến địa lí lớn:

+ Năm 1497, cuộc hành trình của Vaxcô đơ Gama men theo bờ biển châu Phi đến
điểm cực nam (Mũi Hy Vọng) rồi vượt qua Ấn Độ Dương, cập bến Ấn Độ, ông được
phong làm Phó vương Ấn Độ. Những chuyến đi tiếp theo về phía Đông đã đến các
quần đảo Đông Nam Á rồi đi vào biển Đông, tới các cảng Trung Hoa và Nhật Bản.

+ Những chuyến vượt Đại Tây Dương của Crixtôp Côlông và Vêxpuxơ Amêrigô đã
phát hiện ra lục địa châu Mỹ, khi đó được gọi là Tân Thế giới.

+ Năm 1519–1522, Ferdinand Magellan đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần
đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại
Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần
cực nam châu Mỹ và sang được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá
trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magellan hầu như không gặp
một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương.
Magellan đã thiệt mạng ở Philippines do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm
của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người thiệt
mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân
khác nhau. Từ đây, đoàn thủy thủ trở về châu Âu theo đường đi của Vaxcô đơ Gama
khi trước. Những thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người
đã đi vòng quanh thế giới.

Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lý:

Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng
minh cho giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất
nhiều hiểu biết mới về địa lý, thiên văn, hàng hải, sinh vật học,...

Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn
ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những
người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...

2.2. Những cuộc di chuyển cư dân trên quy mô lớn:


- Thương nhân vội vã giành giật thị trường và các nguồn nguyên liệu ở các địa bàn
mới.

- Quân đội và quan chức được phái đi xâm chiếm thuộc địa và thiết lập chế độ cai trị
thực dân.

- Dân di thực kéo nhau đến những vùng mới chinh phục để khai phá, tìm vàng và lập
nghiệp.

- Người da đen bị đưa sang châu Mỹ, biến thành nô lệ trong các đồn điền và hầm mỏ.

- Các nhà truyền giáo mang Kinh Thánh tới mọi nẻo để mở rộng phạm vi truyền bá
của đạo Kitô.

-> Như vậy, những cuộc đi lại của các thương nhân, các nhà truyền giáo, dân di thực,
quân lính, nô lệ... đã tạo nên sự tiếp xúc giữa các nền văn minh của các châu lục.
Người châu Âu tiếp nhận văn minh truyền thống của phương Đông, người châu Á và
châu Phi tiếp cận với trình độ công nghệ cao hơn của người châu Âu. Ở Âu Mỹ dần
dần hình thành nền văn minh rất đa dạng do sự hòa hợp giữa các yếu tố văn hóa của
người Âu, người Phi và người bản địa. Đặc biệt là sự phát hiện ra nền văn minh vốn
có từ lâu đời ở châu Mỹ được gọi là văn minh tiền Côlông mà trước đây châu Âu chưa
biết đến. Ở đó có 3 tộc người chính là Maya, Aztếch và Inca.

-> Kết quả tất nhiên của những cuộc di dân là sự tăng cường giao lưu văn hóa giữa cư
dân các châu lục, giữa các dân tộc.
Dẫn chứng:

- Trao đổi về giống cây trồng (cacao, thuốc lá, cà phê, chè, khoai tây...), kĩ thuật sản
xuất (nông nghiệp, thủ công nghiệp), các hình thức sinh hoạt văn hóa (lễ hội, phong
tục, các điệu múa, nhạc...).

- Hoạt động thương mại nhộn nhịp, các thành thị trở nên sầm uất. Việc buôn bán được
mở rộng trên phạm vi thế giới.

- Thương nhân châu Âu chuyên chở hàng hóa công nghiệp (len dạ, vải lụa, rượu vang,
đồ mĩ phẩm...) sang bán ở các thị trương châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và mua từ
những nơi đó các loại sản phẩm địa phương (gạo, bông, thuốc lá, hồ tiêu, cacao, cà
phê, hương liệu...) chở về châu Âu.

-> Do những hoạt động trên, dần dần hình thành các tuyến đương thương mại nối liền
châu Âu - châu Phi - châu Á, và tạo nên tam giác mậu dịch Đại Tây Dương giữa châu
Âu, châu Phi và châu Mỹ.

- Nếu trước đây, hoạt động thương mại chỉ thu hẹp trong từng quốc gia hay từng khu
vực thì nay đã mở rộng thành thị trường thế giới.

- Những hoạt động giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, các khu vực được đẩy mạnh.

- Nhiều công ty thương mại lớn được thành lập (công ty Đông Ấn, công ty Tây Ấn
của Hà Lan, của Anh, của Pháp...) chẳng những được hưởng độc quyền buôn bán mà
còn được cử quân đội và viên chức để tổ chức bộ máy cai trị ở địa phương.

- Nhiều thành phố và trung tâm thương mại xuất hiện.

Do khai thác, buôn bán và cướp bóc, vàng chảy về châu Âu ngày càng nhiều đã gây
nên cuộc "cách mạng giá cả". Vàng bạc được tung ra để mua bán hàng hóa làm cho
giá cả tăng nhanh, đem lại nhiều lợi nhuận cho thương nhân và nhà sản xuất, kích
thích quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản. Nhờ đó, thủ công nghiệp, công nghiệp và
thương nghiệp phát triển rất nhanh, tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.

=> Nhìn chung, các nhà thám hiểm đường biển thế kỉ XV - XVI đã đóng góp rất lớn
vào sự phát triển của nền văn minh nhân loại, mở rộng sự giao lưu kinh tế và văn hóa
trên phạm vi thế giới, tạo tiền đề cho những biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế - xã
hội, đẩy nhanh sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
2.3. Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế kỉ
XVI - thế kỉ XVIII)
- Sự hình thành thị trường trên quy mô thế giới đã tác động sâu sắc đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, trước hết là các nước hai bên bờ Đại Tây Dương,
dẫn đến phong trào cách mạng tư sản ở châu Âu và Bắc Mỹ.

- Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước đi đầu trong công cuộc phát kiến địa lí,
đã có một thời thịnh vượng nhờ mối giao lưu thương mại với phương Đông, chiếm đất
khai phá thuộc địa và buôn bán nô lệ ở Trung Nam Mỹ, châu Mỹ và châu Phi. Nhưng
chỉ trong vài thế kỉ sau, cả hai nước dần dần phải lùi bước trước sự phát triển nhanh
chóng của Hà Lan, Anh và nhiều nước Âu Mỹ khác.

- Nhu cầu mở rộng hoạt động thương mại đã thúc đẩy tầng lớp thị dân tiến hành cuộc
đấu tranh chống ách thống trị của nền quân chủ Tây Ban Nha, thành lập nhà nước
cộng hòa độc lập mang tính chất tư sản đầu tiên trong lịch sử (1581).

=> Song sự chuyển biến sâu sắc đã thực sự diễn ra ở nước Anh với cuộc cách
mạng tư sản do Ôlivơ Crômoen lãnh đạo giữa thế kỉ XVII. Thiết lập nền thống
trị của giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc tư sản hóa, nước Anh bước vào thời kì
tích lũy nguyên thủy với sự hình thành chế độ trang trại với tầng lớp trại chủ sản
xuất nông phẩm nhằm cung cấp hàng hóa cho thị trường trong nước và thế giới.
Kinh tế trang trại phù hợp với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, có nhiệm vụ
bảo đảm nhu cầu về nguyên liệu cho công nghiệp, lương thực cho thành phố và
nhân công cho nhà máy.

- Cuộc cách mạng nông nghiệp ấy chẳng những làm tăng sản lượng mà còn làm thay
đổi tính chất của nền kinh tế tự nhiên ở nông thôn thành kinh tế hàng hóa, gắn liền với
sự biến động của thị trường bên ngoài. Nhưng nó cũng gây nên hậu quả tai hại là đẩy
ra khỏi ruộng đất một số đông nông dân, tạo nên một làn sóng di cư ra thành phố,
trong đó một bộ phận trở thành công nhân, còn nhiều người phải rời bỏ quê hương đi
sang Bắc Mỹ tìm kế sinh nhai.

- Việc di dân sang Bắc Mỹ cùng với cuộc chinh phục Ấn Độ và sự phát hiện châu Úc
đã mở ra cho nước Anh một địa bàn hoạt động rộng lớn, tạo nên một tiềm năng kinh
tế mạnh mẽ, dần dần vượt qua các đối thủ cạnh tranh để vươn lên hàng đầu. Làn sóng
nhập cư của người Anh (và nhiều người Âu khác) vào Bắc Mỹ đã biến vùng lãnh thổ
ven bờ Đại Tây Dương thành 13 xứ thuộc địa của nước Anh.

- Quá trình khai khẩn vùng đất mới của 3 cộng đồng cư dân đến từ châu Âu, châu Phi
và thổ dân (thường được gọi là người Inđian) trong gần 2 thế kỉ XVII - XVIII đã dần
dần tạo thành một dân tộc có lãnh thổ, ngôn ngữ, kinh tế, văn hóa và tâm lí chung,
muốn tách khỏi hệ thống cai trị của chính phủ Luân Đôn.

- Cuộc đấu tranh giải phóng khỏi chế độ thực dân Anh giữa thế kỉ XVIII do Oasinhtơn
lãnh đạo đã đem lại thắng lợi cho nhân dân Bắc Mỹ: Bản Tuyên ngôn độc lập (1776)
lần đầu tiên nêu lên những nguyên tắc cơ bản về quyền con người và quyền công dân.

- Sự thành lập nhà nước Liên bang Mỹ đã tạo nên một quốc gia tư sản, một thị trường
đầy sức hấp dẫn và cũng sẽ là một đối thủ đáng kể trên thương trường quốc tế.

- Cuộc cách mạng Pháp cuối thế kỉ XVIII đã gây nên một chuyển động mạnh mẽ và
căn bản chẳng những đối với nước Pháp mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều
nước châu Âu. Cuộc đấu tranh lật đổ nền quân chủ chuyên chế cùng những biện pháp
triệt để xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản Pháp
phát triển nhanh, vươn ra thị trường thế giới, mở rộng phạm vi thuộc địa và trở thành
kẻ kình địch hàng đầu của nước Anh.

=> Như vậy, sự ra đời các quốc gia tư bản chủ nghĩa và cuộc chạy đua giành giật thị
trường thế giới đã thúc đẩy việc sản xuất tăng nhanh về năng suất và nâng cao về chất
lượng. Thắng lợi của cách mạng tư sản và sự phát triển của công thương nghiệp tạo
nên tiền đề về cơ sở vật chất cũng như về môi trường chính trị cho bước chuyển sang
một thời kì mới trong lịch sử sản xuất, bước sang một nền văn minh mới của nhân
loại.

3. Những thành tựu khoa học công nghệ:


3.1. Thành tựu khoa học của nước Anh thế kỷ 18 – 19:
- Trong cuộc cạnh tranh trên thị trường, các nhà doanh nghiệp ngoài việc tăng cường
bóc lột công nhân, đều tìm cách cải tiến kĩ thuật vì đó là phương pháp tăng năng suất
lao động một cách cơ bản và có hiệu quả nhất. Quá trình cải tiến này diễn ra trước tiên
trong ngành dệt ở nước Anh.

- Năm 1733, một công nhân người Anh tên là Giôn Cây phát minh ra thoi bay. Trước
kia, người thợ dệt phải dùng tay đẩy con thoi chạy giữa các hàng sợi, thì nay họ chỉ
dùng sức chân là có thể đẩy con thoi chạy qua chạy lại. Thoi bay làm cho năng suất
lao động tăng lên gấp đôi, đòi hỏi phải tăng mức sản xuất sợi. Nhu cầu về sợi được gọi
là “nạn đói sợi” lại đòi hỏi phải cải tiến việc kéo sợi.

- Năm 1764, người thợ dệt Giêm Hacgrivơ phát minh ra máy kéo sợi mang tên con gái
ông là máy Jenny, có thể kéo cùng một lúc 16 – 18 cọc suốt do một công nhân điều
khiển, giúp tăng năng suất gấp 8 lần. Lượng sợi tăng lên rất nhanh thúc đẩy việc dệt.
Có thể coi việc phát minh máy kéo sợi Jenny là bước khởi đầu của sự phân công giữa
việc kéo sợi với việc dệt vải.

- Năm 1769, máy kéo sợi chạy bằng sức nước của Risơt Accraitơ làm giảm bớt sức
lao động của con người. Ông được coi như ông tổ của nền công nghiệp dệt vải bông
trong nhà máy.

- Năm 1779, nhờ kinh nghiệm của máy Jenny và máy Accraitơ, Xamuen Crơmtơn cải
tiến máy với kỹ thuật cao hơn, kéo được sợi nhỏ lại chắc, vải dệt ra vừa đẹp vừa bền.

- Năm 1785, kỹ sư Etmơn Cacraitơ sáng chế ra máy dệt đưa năng suất lên gấp 39 lần.
Đồng thời, các khâu tẩy trắng, nhuộm màu, in hoa cũng được cải tiến. Nhưng những
máy chạy bằng sức nước gặp nhiều trở ngại vì các công xưởng đều phải đưa ra gần
sông và về mùa đông nước đóng băng, nhà máy không hoạt động được.

- Năm 1769, một thực nghiệm viên của trường đại học ở Luân Đôn là Giêm Oát
(James Watt) đã sáng chế ra máy hơi nước, đến năm 1784 thì hoàn thiện trở thành
động cơ nhiệt vạn năng chạy bằng than và nước. Việc sử dụng máy hơi nước vào sản
xuất gây nên một chuyển biến lớn. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ
nơi nào. Không những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ
giới hóa. Để tưởng nhớ công lao của Giêm Oát, người ta đã dựng bức tượng kỉ niệm
tại Oetxmintơ khi ông qua đời năm 1891, thọ 83 tuổi, với dòng chữ: “Người đã nhân
lên gấp bội sức mạnh của con người.”

- Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra
cách luyện sắt "puddling". Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có
chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm
1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành
thép. Phát minh này đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép
hồi đó.

- Việc sử dụng lò Betxơme (Bessmer) và lò Mactanh (Martin) đánh dấu một bước
cách mạng trong ngành luyện kim. Trong những năm 80 của thế kỉ XIX, những sáng
chế ra máy tuốc bin phát điện chạy bằng sức nước và tuốc bin phát điện cùng việc
chuyển tải điện đi xa tạo những điều kiện rất quan trọng để nâng cao năng suất lao
động vượt bậc và mở rộng hơn nữa quy mô sản xuất.

- Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1814, Stephenson phát
minh ra chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước. Đến năm 1829, vận tốc xe
lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở châu
Âu và châu Mỹ.
- Cùng với quá trình công nghiệp hóa, khoa học và kĩ thuật thế kỉ XIX có nhiều bước
tiến vượt bậc. Nếu thế kỉ XVIII được đánh dấu bởi những lí thuyết vật lí học Niutơn
thì công trình nổi bật của thế kỉ XIX là học thuyết về sinh học của Đacuyn (Charles
Darwin 1809 - 1882). Cuốn sách của ông viết về Nguồn gốc các giống loài đã gây ra
một cuộc cách mạng trong ngành sinh học và có ảnh hưởng sang cả lĩnh vực khoa học
xã hội. Nội dung cơ bản của học thuyết Đacuyn là quy luật tự nhiên cạnh tranh để sinh
tồn và khả năng sinh tồn của mỗi giống loài, kể cả con người. Tất cả các giống loài
đều trải qua quá trình biến hóa để thích nghi với điều kiện tồn tại, nếu không sẽ chịu
sự đào thải của tự nhiên.

- Ngành y học, phương pháp vô trùng trong giải phẫu của Lixtơ (Joseph Lister – Anh)

- Nhà vật lí Farađây (Michael Faraday - Anh) nêu lên nguyên lí về cảm ứng điện.

- Isaac Newton là một nhà bác học người Anh, ông được coi là nhà vật lý vĩ đại nhất
của thế kỉ 18. Đóng góp vĩ đại nhất của Newton nằm trong 3 định luật mang tên ông
mà nổi bật là định luật Vạn vật hấp dẫn. Có thể coi Newton là hòn đá tảng của nền vật
lý cổ điển. Tác phẩm vĩ đại của Newton là Các nguyên lý toán học của triết học tự
nhiên.

- Về hóa học, Joseph Priestley là một luật sư người Anh đã khám phá ra oxy.

- William Harvey, một nhà sinh lý người Anh đã nghiên cứu rất nhiều về hệ tuần hoàn
của chim, cá, ếch. Ông đã mô tả về hệ tuần hoàn máu trong cơ thể người qua quyển
sách Tiến hành giải phẫu đối với sự chuyển động của tim và máu trong cơ thể loài vật.

- John Dalton, một giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các
nguyên tử. Nguyên tử của các chất khác thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử
hợp thành từng đơn vị (bây giờ ta gọi là phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những
công thức hóa học.

+ Năm 1860 James Clerk Maxwell, một nhà khoa học người Scotland, đã đưa ra lý
thuyết giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong
khoảng mắt người nhìn thấy được. Tới năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được
tốc độ khác nhau của các loại sóng điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz
để đặt cho đơn vị đo chu kỳ.

3.2. Những thành tựu khoa học công nghệ của Châu Âu
thế kỷ 18 – 19:
- Kế thừa những thành tựu đã đạt được từ sau thời Phục hưng, khoa học và triết học
thế kỉ XVIII có những bước tiến lớn:

+ Trong vật lí học:

● Vônta (Volta) và Ganvani (Galvani) – người Ý, nghiên cứu những hiện tượng
về điện, tìm ra điện dương và điện âm.
● Thuyết tương đối của Anhxtanh (Albert Einsetein – Đức) đánh dấu một bước
chuyển quan trọng trong ngành vật lí học hiện đại. Bản thân ông được coi như
một trong những nhà khoa học lớn nhất của thời đại.
● Đến đầu thế kỉ XX, phát minh của Becơren (Antoine Becquerel - Pháp) về tính
phóng xạ của uranium và sau đó là ông bà Quiri (Pierre Curie - Pháp, Marie
Curie - Ba Lan) tìm ra chất phóng xạ thiên nhiên, đặt cơ sở đầu tiên cho lí
thuyết về hạt nhân.

→ Do những phát minh trên, những giải thưởng Nôben đầu tiên về vật lí được tặng
cho Rơnghen (1901), Becơren và ông bà Quyri (1903). Sau đó, Anhxtanh được nhận
giải năm 1921.

+ Trong hóa học:

● Lavoadiê (Lavoisier) – Pháp, phân tích thành phần của không khí, của nước và
tìm ra phương pháp nghiên cứu tổng hợp.
● Một phát minh vĩ đại về mặt hóa học là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của
Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học Nga. Ông đã sắp xếp các chất hóa học
thành từng nhóm theo khối lượng riêng, tính chất riêng của chúng. Ông còn dự
đoán một số chất mà loài người sẽ phát hiện ra để lấp vào chỗ trống trong bảng
tuần hoàn của ông với một sự chính xác đáng kinh ngạc.

+ Trong sinh học:

● Linnê (Linné) – Thụy Điển, đưa ra cách phân loại thực vật, Buyphông
(Buffon) – Pháp, xây dựng vườn bách thảo thành trung tâm nghiên cứu thực vật
học và viết nhiều sách về ngành khoa học này.
● Menđen (Gregor Mendel 1822 - 1884) được coi là cha đẻ của môn di truyền
học. Gregor Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di truyền những
phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, mà sau
này được gọi là gene.

+ Ngành y học có nhiều tiến bộ:

● Phát hiện quan trọng về văcxin của Paxtơ (Louis Pasteur - Pháp), về vi trùng
lao của Kốc (Robert Koch - Đức).
● Andreas Vesalius, một nhà khoa học người Bỉ đã cho in cuốn sách về cấu trúc
cơ thể người. Để viết được cuốn sách này, ông đã phải nghiên cứu rất nhiều tử
thi. Ông phê phán những người chỉ biết vùi đầu vào những cuốn sách của các
nhà y học thời cổ đại.

+ Về mặt kĩ thuật:

● Anh em Môngônfie (Mongolfier) – Pháp, chế tạo khinh khí cầu.


● Năm 1895, một nhà khoa học người Đức khác là Wilhelm Röntgen đã tạo ra
một loại tia có thể đâm xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng không thể xuyên
qua được. Ông gọi đó là tia X, đã đưa nguồn năng lượng mới vào các lĩnh vực
của cuộc sống
● Galileo Galilei, một nhà thiên văn học người Ý đã chế tạo ra kính thiên văn để
quan sát bầu trời. Galilei cũng là người ủng hộ nhiệt tình học thuyết
Copernicus. Ông còn là người trực tiếp làm thực nghiệm về sự rơi tự do trên
tháp nghiêng Piza. Có thể nói Galilei là người tiến hành hàng loạt thí nghiệm
một cách có hệ thống. Vì vậy, sau này người ta coi Galilei là cha đẻ của
phương pháp thực nghiệm khoa học.
● Năm 1800, Alessandro Volta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động
hóa học. Năm 1831, Michael Faraday đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện
khi ta di chuyển ống dây qua một từ trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ
sở cho việc chế tạo ra máy phát điện sau này
● Đầu thế kỉ 19 khí đốt và gas đã được người Anh và Pháp đưa vào phục vụ cuộc
sống. 1897 một kĩ sư người Đức là Rudolf Diesel đã chế ra một loại động cơ
đốt trong không cần bugi, sử dụng dầu cặn nhẹ. Động cơ Diesel chính là mang
tên ông.

+ Về tâm lý học, cuối thế kỷ 19 có hai phát minh quan trọng là của Ivan Pavlov và
Sigmund Freud. Pavlov đã phát hiện ra phản xạ có điều kiện. Thử nghiệm của Pavlov
đã giải thích nhiều hành vi của con người không giải thích được bằng lý trí, thực tế chỉ
là sự phản ứng máy móc trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn học thuyết của
Freud thì giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ những nhu cầu, ước
muốn tiềm ẩn. Freud đã tạo ra ngành phân tâm học.

4. Hệ quả của các thành tựu khoa học công nghệ:


4.1: Ở nước Anh:
- Cuộc cách mạng công nghiệp này là bước khởi đầu cho quá trình công nghiệp hóa, là
sự nhảy vọt về kỹ thuật, tạo ra cơ sở vật chất thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
- Nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước Anh trong thời kỳ
chủ nghĩa tư bản trước độc quyền.

4.1.1. Tác động đến các ngành công nghiệp:

- Với sự ra đời của hàng loạt các phát minh sáng chế và việc ứng dụng vào sản xuất đã
thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp.

- Nhờ sản xuất bằng máy nên năng suất lao động tăng lên, khiến cho giá thành sản
phẩm công nghiệp và giá bán giảm xuống rõ rệt. Thủ công nghiệp và công trường thủ
công trở nên bất lực trước hệ thống công xưởng bởi chi phí sản xuất của nó thấp và
hàng hóa rẻ hơn nhiều.

4.1.2. Tác động đến sự phát triển nông nghiệp:

- Ruộng đất tập trung vào những địa chủ lớn, trong sản xuất nông nghiệp đã hình
thành những trang trại sử dụng lao động làm thuê.

- Thời gian này có khoảng 1 triệu công nhân trồng lúa mì. Chính quyền đảm bảo việc
tiêu thụ nông phẩm. Năm 1815, “Luật lúa mì” được ban hành quy định giá lúa mì cao.
Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ XIX, giá lúa mì giảm đi tới 4 lần. Lúc đó, các trại
chủ thu hẹp diện tích trồng lúa mì và phát triển chăn nuôi nhằm cung cấp thực phẩm
cho thành phố.

4.1.3. Thúc đẩy đô thị hoá diễn ra nhanh chóng:

- Xuất hiện thêm những khu công nghiệp, xây dựng các thành phố sôi động và phát
triển hơn.

- Các xí nghiệp mới phát triển gồm các cơ sở nguyên liệu, năng lượng.

- Thành phố Lancashire trở thành trung tâm của ngành công nghiệp vải bông.

- Tại Xcốtlen xuất hiện nhiều khu công nghiệp mới.

- Nhiều thành phố mới được xây dựng như: Liverpool, Manchester, Birmingham.

- Dân số thành thị tăng lên, trong khi đó dân cư nông thôn giảm xuống nhanh chóng,

=> Hệ quả:
- Thay đổi vị thế của nền kinh tế nước Anh khi so sánh với các nền kinh tế khác:

+ Với cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra sớm nhất đã đưa nước Anh trở thành nước
hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa đầu tiên trên thế giới.
+ Do ưu thế của hệ thống công xưởng nên nước Anh đã chiếm vị trí hàng đầu trong
nền kinh tế thế giới trong suốt thời kỳ trước độc quyền.

+ Nước Anh được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”, là nơi cung cấp máy móc
cho nhiều nước tiến hành cách mạng công nghiệp sau nó. Sản xuất công nghiệp của
Anh chiếm 45% sản xuất công nghiệp của thế giới vào năm 1848.

+ Năm 1870, mặc dù sản xuất công nghiệp ở một số nước đã phát triển mạnh như Mỹ,
Đức thì sản xuất công nghiệp của Anh vần còn chiếm 31,8%. Các trung tâm kinh tế
thế giới dần chuyển sang nước Anh.

+ Vào thế kỷ XIX, Anh trở thành “người bá chủ mặt biển”.

+ Gần cuối thế kỷ XIX, London trở thành thủ đô của thương mại thế giới.

4.2. Ở Châu Âu và trên toàn thế giới:


- Nhiều khu công nghiệp xuất hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn
tới quá trình đô thị hóa thời cận đại. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần
hình thành. Làm chuyển biến nền sản xuất nhỏ thủ công sang sản xuất lớn bằng máy
móc, nâng cao năng suất lao động, làm ra khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội.

- Giai cấp vô sản cũng ngày càng phát triển về số lượng. Với điều kiện sống cực khổ
lúc đó, mỗi ngày lại phải làm việc từ 14 đến 16 giờ, họ bị bóc lột nặng nề được trả
đồng lương chết đói, điều kiện ăn ở tồi tàn nên những cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân đã sớm nổ ra.

- Năm 1811–1812, ở Anh đã nổ ra phong trào đập phá máy móc. Đó là một biểu hiện
đấu tranh bộc phát.

- Bãi công là một hình thức đấu tranh phổ biến của giai cấp vô sản. Nhiều cuộc bãi
công cũng đã nổ ra. Ở Anh, 1836–1848 còn nổ ra phong trào Hiến chương.

- Ở Pháp, Đức còn nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Năm 1831–1834 tại Lyon (Pháp) và
Silesia (Đức) đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Những cuộc đấu tranh này chứng tỏ
giai cấp vô sản đang trở thành lực lượng chính trị độc lập, đòi hỏi thay đổi sự thống trị
của giai cấp tư sản.

- Tại các thuộc địa, người dân bản xứ cũng bị giới chủ tư bản tại các nước chính quốc
(Anh, Pháp) bóc lột nặng nề. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm cai trị của Anh tại Ấn Độ,
hầu như không có sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong nửa cuối thế kỷ
19, thu nhập bình quân của dân Ấn Độ đã giảm một nửa. Tuổi thọ trung bình của
người Ấn giảm 20% từ năm 1870 đến 1920. Hàng chục triệu người đã chết đói do
chính sách mà thực dân Anh gây ra.

5. Ý nghĩa và hậu quả về mặt xã hội kinh tế của cuộc cách


mạng công nghiệp:
- Đây là một cuộc cách mạng về kỹ thuật và nó còn là một sự thay đổi sâu sắc về mặt
xã hội. Đối với xã hội Anh thậm chí cả xã hội loài người, nó đều có một ảnh hưởng rất
to tát.

- Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho sức sản xuất của xã hội phát triển một cách
lớn lao.

- Cuộc cách mạng công nghiệp đã thúc đẩy sự phân bố lại lực lượng sản xuất và phân
công lại lao động xã hội. Cách mạng công nghiệp đã làm phá sản thợ thủ công và
nông dân, biến họ thành những người vô sản đi làm thuê trong các nhà máy.

- Giai cấp vô sản hình thành và ngày càng tăng lên, họ phải làm việc 12-14 tiếng một
ngày, trong khi tiền lương thực tế bị giảm xuống. So với năm 1800, tiền lương thực tế
của công nhân Anh năm 1809-1818 thấp hơn đến 28%; đời sống của công nhân ngày
càng bị bần cùng hóa.

- Đặc biệt đáng chú ý là các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra ngay sau khi cách mạng
công nghiệp căn bản hoàn thành.

=> Hệ quả tiêu cực: Bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, giai cấp tư sản bóc lột sức
lao động của giai cấp vô sản nên đã gây ra mâu thuẫn giữa hai giai cấp này.

=> Hệ quả tích cực: Sự thay đổi này đã mang lại cho nền kinh tế các nước sự đột phá
không ngừng, hạn chế được lao động, tăng năng suất sản xuất, tạo thuận lợi cho các
ngành chế tạo máy móc phục vụ cho các ngành sản xuất. Tạo tiền đề phát triển cho thế
giới và lịch sử nhân loại.

You might also like