You are on page 1of 2

Thời kỳ Đền thờ Thứ hai[sửa 

| sửa mã nguồn]
Khái niệm về thiên thần sa ngã được tìm thấy chủ yếu trong các tác phẩm có niên đại vào thời kỳ
Đền thờ Thứ hai, tức là vào khoảng thời gian từ năm 540 TCN đến năm 70 CN. Những tác phẩm
này bao gồm Sách Hê-nóc, Sách Jubilee, Kinh Đại lực sĩ từ Qumran hay cũng có thể là Sáng thế
ký 6:1-4.[8] Sách Daniel 4 có 3 lần đề cập tới một thực thể đến từ thiên đàng gọi là "Canh thức", 2 lần
ở số ít (câu 13, 23) và một lần ở số nhiều (câu 17, "[…] các vị canh thức, […] các bậc thánh nhân").
Trong tiếng Hy Lạp cổ đại, từ dùng để chỉ các Canh thức là ἐγρήγοροι (egrḗgoroi, số nhiều
là egrḗgoros), có nghĩa đen là "tỉnh táo" hay "cảnh giác".[9] Một số học giả cho rằng truyền thuyết của
người Do Thái về những thiên thần sa ngã rất có thể đã xuất hiện và thậm chí ghi chép lại dưới
dạng văn bản trước khi Sáng thế ký 6:1–4 được viết nên.[10][11][b] Theo sách Hê-nóc, những vị Canh
thức này đã "sa ngã" sau khi "phải lòng" phụ nữ phàm trần. Sách Hê-nóc thứ hai (hay còn gọi
là Sách Hê-nóc Xla-vơ) cũng đề cập tới những sinh vật tương tự, gọi là Grigori theo phiên âm tiếng
Hy Lạp.[12] Đối chiếu với các Sách Hê-nóc khác thì thiên thần sa ngã đóng vai trò ít quan trọng hơn
trong Sách Hê-nóc thứ ba. Cuốn này chỉ đề cập tới 3 thiên thần sa ngã duy nhất là Azâzêl, Azza và
Uzza. Tương tự như những gì ghi chép trong sách Hê-nóc thứ nhất, những thiên thần này truyền
dạy pháp thuật phù thủy ở trần gian, dẫn đến sự tha hóa của con người.[13] Tuy nhiên, tác phẩm này
không hề đề cập tới nguyên do tại sao họ "sa ngã". Cũng theo 3 Hê-nóc 4:6, 3 thiên thần trên sau
đó đã xuất hiện trên thiên đàng để phản đối sự hiện diện của Hê-nóc.

Sách Hê-nóc thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]


Xem thêm: 1 Hê-nóc

Chester Beatty XII, Bản chép tay tiếng Hy Lạp của Sách Hê-nóc, thế kỷ 4.
Theo 1 Hê-nóc 7:2, những Canh thức đã "phải lòng" phụ nữ phàm trần[14] và có quan hệ tình ái với
họ.[15] Con cái sinh ra từ những mối tình này cũng như với kiến thức mà chúng được ban cho, làm
bại hoại trần gian và nhân loại (1 Hê-nóc 10:11-12).[16] Trong số những thiên thần này, thủ lĩnh
Shemyaza và Azâzêl là nổi bật hơn cả. Tương tự nhiều thiên thần sa ngã khác được đề cập trong 1
Hê-nóc 8:1-9, Azâzêl truyền dạy "cấm thuật" cho con người. Cũng chính Azâzêl bị Hê-nóc quở trách
vì đã dạy cho con người làm những điều bất chính (1 Hê-nóc 13:1).[17] Theo 1 Hê-nóc 10:6, Thiên
Chúa đã sai Tổng lãnh thiên thần Raphael xích và giam cầm Azâzêl trong sa mạc Dudael. Thêm
vào đó, Azâzêl bị buộc tội vì khiến trần gian tha hóa:
"Và toàn cõi trần gian vì những lời giáo huấn từ Azâzêl mà trở nên bại hoại. Hãy để cho y phải gánh
chịu tất cả tội ác."

— 1 Hê-nóc 10:12


Một cách diễn giải dựa trên thuyết nguyên nhân về 1 Hê-nóc có liên quan tới khởi nguyên của cái
ác. Bằng cách đùn đẩy ngọn nguồn tội lỗi của nhân loại sang những lời chỉ dẫn phi pháp của thiên
thần, cái ác được quy cho một thứ siêu nhiên đến từ bên ngoài. Mô-típ về cái ác trong 1 Hê-nóc
khác với thần học Do Thái và Thiên Chúa giáo sau này, khi mà cái ác là thứ gì đó xuất phát từ bên
trong.[18] Theo một cách giải thích mẫu hình, 1 Hê-nóc có lẽ đề cập đến những cuộc hôn nhân phi
pháp giữa thầy tế và phụ nữ. Cụ thể là trong sách Lêvi 21:1-15, thầy tế chỉ được phép lấy con gái
mình còn đồng trinh làm vợ. Theo đó, những thiên thần sa ngã được đề cập đến trong 1 Hê-nóc là
những thầy tế lễ đã khiến bản thân ô uế vì kết hôn với phụ nữ không còn trinh.[c] Giống như việc
thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng, những giáo sĩ này bị ngăn cấm cử hành lễ tại bàn thờ. Khác
với những tác phẩm về Khải huyền khác, 1 Hê-nóc phản ánh sự bất mãn ngày càng tăng đối với
những tổ chức tư tế ở Jerusalem vào thế kỷ thứ 3 TCN. Cách giải thích mẫu hình so sánh truyền
thuyết Adam và nguồn cội của cái ác: Trong cả hai trường hợp, việc vượt qua những giới hạn cố
hữu trong bản chất cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sa ngã. Điều này trái ngược cách giải
thích dựa trên thuyết nguyên nhân, ám chỉ trên thiên đàng còn có một thế lực khác ngoài Thiên
Chúa. Lời giải này thiếu phù hợp với tư tưởng độc thần.[19] Mặt khác, sự xuất hiện của những nguồn
tri thức trái phép có lẽ phản ánh sự khước từ văn hóa Hy Lạp ngoại lai của người Do Thái lúc bấy
giờ. Theo đó, thiên thần sa ngã tượng trưng cho những nhân vật trong thần thoại Hy Lạp đã truyền
dạy cấm thuật mà các vị vua và tướng lĩnh Hy Lạp sử dụng để đàn áp người Do Thái.[20]

Sách Hê-nóc thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]


Khái niệm về thiên thần sa ngã cũng xuất hiện trong Sách Hê-nóc thứ hai. Tác phẩm miêu tả Hê-
nóc thăng thiên qua các tầng trời. Trong chuyến hành trình của mình, ông đã chạm trán những thiên
thần sa ngã đang bị giam cầm ở tầng trời thứ hai. Ông vốn ban đầu định cầu nguyện cho họ, nhưng
sau đó đã từ bỏ ý định này khi bản thân ông chỉ là một con người, không xứng để cầu nguyện cho
các thiên thần. Ở tầng trời thứ năm, ông lại tiếp tục diện kiến những thiên thần nổi loạn khác được
gọi là Grigori, vì đang quá đau buồn mà không hòa chung tiếng hát cùng những vị thần khác trên
thiên đàng. Hê-nóc cố gắng làm cho họ vui lên khi kể lại những lời cầu nguyện mà ông đã dành cho
các thiên thần khác. Ngay sau khi Hê-nóc kể xong, họ đã quyết định tham gia nghi thức tế lễ trên
thiên đàng.[21]
Đáng chú ý, dựa theo tác phẩm này thì thủ lĩnh của Grigori là Satanail chứ không phải là Azâzêl hay
Semjâzâ như được ghi chép trong các Sách Hê-nóc khác.[22] Tuy vậy, các grigori này được xác định
là các Canh thức trong 1 Hê-nóc.[23][24]
Câu chuyện trong 2 Hê-nóc 18:1–7 về những Grigori xuống cõi trần gian, kết hôn với phàm nhân và
"làm nhơ bẩn trần gian bằng những việc làm của chúng", khiến họ bị đem nhốt dưới đất. Chi tiết này
cho thấy tác giả của 2 Hê-nóc biết về câu chuyện được ghi lại trong 1 Hê-nóc.[22] Trong dị bản 2 Hê-
nóc dài hơn, chương thứ 29 đề cập tới những thiên thần bị "đuổi khỏi đỉnh cao" khi thủ lĩnh của họ
cố gắng ngang hàng với quyền năng của Thiên Chúa (2 Hê-nóc 29:1–4). Đây vốn có lẽ là một ý
tưởng được vay mượn từ truyền thuyết về Attar, người cố gắng chiếm đoạt ngai vị của thần Baal
trong tôn giáo Canaan cổ đại. Việc miêu tả thiên thần Satanail như một vị thần đang cố gắng đoạt
lấy ngai vị từ một vị thần cao hơn cũng được Cơ đốc giáo sau này áp dụng khi miêu tả về thất bại
của Satan.[25]

You might also like