You are on page 1of 196

Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 06/9/2014


TUẦN 1 ÔN TẬP
TÍNH THỐNG NHẤT VỀ CHỦ ĐỀ CỦA VĂN BẢN

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh: củng cố lại kiến thức về chủ đề của văn bản, tính thống nhất của chủ
đề văn bản.
- Xác định được chủ đề của văn bản và biết phân tích tính thống nhất của chủ đề văn
bản.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Chủ đề của văn bản là gì? Tính thống nhất của chủ đề văn bản được thể hiện như
thế nào?
2/ Xác định chủ đề và chỉ rõ biểu hiện tính thống nhất chủ đề của văn bản Sông núi
nước Nam.
3/ Trong mỗi phần văn bản sau đây, chủ đề đã thể hiện được tính thống nhất chưa? Vì
sao? Hãy chữa lại cho đúng?
a) Nghệ thuật của ca dao rất tinh vi và đặc sắc. Trước hết, điều đó thể hiện rõ qua cách
dùng từ ngữ, hình ảnh vừa dung dị, mộc mạc, lại vừa có sức gợi tả phong phú vô cùng.
Bên cạnh đó, ta còn phải kể đến những lối biến thể trong thơ ca lục bát; hay cách nói
vừa hình tượng vừa cụ thể càng nghe càng thấm thía vô cùng. Ca dao là tiếng lòng của
người lao động, ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, tình yêu đôi
lứa. Cuộc sống của họ dù thiếu thốn, khổ cực trăm bề nhưng điều kì diệu là ngọn lửa
tình yêu và khát vọng hướng tới ước mơ hạnh phúc của họ không bao giờ bị dập tắt.
b) Hình ảnh con trâu thường được nói đến trong ca dao Việt Nam. Không phải chỉ vì
“con trâu là đầu cơ nghiệp” mà còn bởi đối với người lao động, đây là con vật gần gũi,
thân thiết. Trâu xuất hiện trong các bức tranh lao động của gia đình: “Chồng cày vợ
cấy con trâu đi bừa”. Trâu trở thành người bạn tâm tình của người lao động: “Trâu ơi
ta bảo trâu này”. Hình như con trâu không mấy lúc thảnh thơi cho nên nghĩ đến cuộc
đời cực nhọc của mình, người nông dân thường nghĩ đến nó. Đến với ca dao Việt
Nam, ta bắt gặp nhiều bài nói về con trâu, con cò, con vạc. Đó là các con vật quen
thuộc, gần gũi, mang đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của người lao động chân
lấm tay bùn. Khi cần bộc bạch nỗi niềm, người nông dân thường đem con trâu ra để
tâm sự, để giãi bày nỗi lòng mình.
4/ Hãy phân tích tính thống nhất về chủ đề trong đoạn văn sau:
“ Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình treo trên tường tôi cũng thấy lạ
và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên lạm nhận là vật
riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi, một người bạn tôi chưa hề
quen biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy sự xa lạ chút nào. Sự quyến luyến tự
nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin là có thật.
5/ Những câu văn dưới đây thể hiện được sự thống nhất về chủ đề chưa? Vì sao?
Sáng nay mẹ đã đi công tác. Hoa Quỳnh nở đêm qua. Lớp tổ chức đi tham quan.
Cô giáo đã trả bài tập làm văn. Con mèo vằn đã trở về nhà sau mấy ngày bị lạc.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 1 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
6/ Trong đoạn văn sau đây, nếu được rút bỏ một câu thì em sẽ rút bỏ câu nào? Vì
sao?
“Kĩ thuật tranh làng Hồ đã đạt tới sự trang trí tinh tế.(1) Những bộ tranh tố nữ áo
màu, quần hoa chanh nền đen lĩnh một thứ màu đen rất Việt Nam.(2) Màu đen không
pha bằng màu thuốc mà luyện bằng bột than của những chất liệu gợi nhắc tha thiết đến
đồng quê đất nước: than của rơm nếp, than của cói chiếu và than của lá tre mùa thu
rụng lá.(3) Cái màu trắng điệp cũng là một sự sáng tạo góp vào kho tàng màu sắc của
dân tộc trong hội họa. (4)Màu trắng ấy càng ngắm càng ưa nhìn.(5) Những hạt cát của
điệp trắng nhấp nhánh muôn ngàn hạt phấn làm tăng thêm vẻ đẹp thâm thúy cho
khuôn mặt, tăng thêm sức sống cho dáng người trong tranh.(6)
(Nguyễn Tuân)
7/ Nếu được viết thêm một câu cho đoạn văn sau đây em sẽ viết như thế nào?
Nhiều tuyến đường bộ như quốc lộ 1,3,5,6 đã đi qua Hà Nội tạo nên mối liên hệ
chặt chẽ giữa Hà Nội và các địa phương khác. Hội tụ về Hà Nội còn có các tuyến
đường sắt quan trọng: Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Hà Nội – Hải Phòng.
Mạng lưới đường sông của Hà Nội chủ yếu là sông Hồng. Với cảng Hà Nội, thành phố
có thể trao đổi hàng hóa với sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Gia Lâm, đã tạo thành
chiếc cầu nối giữa nước ta với thế giới.
8/ Cho văn bản sau:
Mấy năm trước, tự nhiên tôi có cái thú nuôi chim. Tôi lọ mọ tìm một cửa hàng bán
chim để mua hai con chim với hai cái lồng: một con khướu và một con sáo. Việc nuôi
chim ở thành phố kể cũng dễ, chỉ cần mua ngay tại cửa hàng bán chim một gói bột
chim là cho chúng ăn cả tháng. Một hôm đến cửa hàng mua bột chim, tôi gặp mấy
đứa trẻ đem bán những bao ni lông đựng châu chấu còn sống. Chúng gạ tôi mua, bảo
cho chim ăn sẽ béo hơn, hót hay hơn. Mua xong, về nhà, tôi hí hửng bắt một con châu
chấu còn sống, bẻ cánh, bẻ chân, đút cho chim ăn. Thấy tôi làm như vậy, thằng con
nhỏ của tôi đứng bên, hỏi:
- Sao ba lại bẻ chân, bẻ cánh con châu chấu, tôi nghiệp nó quá!
Tôi giải thích:
- Làm như vậy chim mới ăn được. Nếu để cả cánh và chân châu chấu thì chim sẽ
mắc cổ, nó chết mất.
- Nhưng làm như vậy thì con châu chấu lại chết. Châu chấu cần chân để đi, cần
cánh để bay chứ.
Nhìn vào đôi mắt rưng rưng thương cảm của con, không thể giải thích gì cho con
được nữa, tôi đành mở bao ni lông thả những con châu chấu còn lại cho chúng tự do
bay nhảy. Nghĩ thế nào, một lát sau, tôi lại mở lồng, thả hai con chim cho chúng bay
luôn. Chim cũng có cánh bay như châu chấu mà! Từ đó, tôi lại có cái thú mới: cái thú
hay nhìn theo những con vật có cánh bay.
a) Đặt nhan đề cho văn bản trên? Vì sao em chọn nhan đề đó?

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 2 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
b) Người viết văn bản trên, vì không chú ý đã viết liền một mạch từ đầu đến cuối văn
bản. Hãy phân chia các phần của văn bản một cách hợp lí và đặt tiêu đề cho từng
phần.
c) Chọn ở mỗi phần 1 hoặc 2 câu văn thể hiện chủ để của văn bản.
d) Viết một đoạn văn ngắn từ 6 -8 câu nêu cảm nghĩ của em về văn bản trên.
9/ Viết bài văn ngắn ghi lại ấn tượng của em trong buổi khai giảng lần đầu tiên.
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
2/ Chủ đề: Bài thơ khẳng định quyền động lập tự chủ và tinh thần quyết tâm bảo vệ
đất nước của nhân dân Việt Nam.
- Tính thống nhất về chủ để được thể hiện:
+ Nhan đề: Nam quốc sơn hà đề cập đến vấn đề chính của văn bản: chủ quyền của
người Việt Nam đối với lãnh thổ VN.
+ Nội dung toàn bài đều hướng tới chủ đề trên: Hai câu đầu khẳng định quyền độc lập
tự chủ của dân tộc, câu 3 kết tội kẻ thù xâu lược, câu 4 khẳng định chân lí: kẻ nào xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam thì kẻ đó phải chuốc lấy thấy bại.
+ Các từ ngữ thể hiện chủ đề: Nam đế cư( Vua Nam ở) thể hiện lòng tự tôn dân tộc,
nâng vị trí của nước ta lên ngang hàng với các vua của Trung Quốc.. “Sách trời” là căn
cứ để xác định chân lí được nêu ở câu đầu là bất di bất dịch, hợp với ý trời, lòng dân.
“Nghịch lỗ” vạch trần bản chất ăn cướp trắng trợn của chúng. “Thủ bại hư” diến tả sự
thất bại thảm hại của chúng nếu đặt chân lên đất nước VN.
4/ Đoạn văn có 5 câu, mỗi câu nói về một nội dung riêng nhưng tất cả đều nói về một
chủ đề chung: Cảm xúc của cậu học trò nhr lần đầu tiên đến lớp học. Cảm xúc về mùi
hương, hình treo tường, bàn ghế, bạn mới
5/ Những câu văn đó chưa có sự thống nhất về chủ đề, Vì các câu đó không có nội
dung chung để hướng về. Đó chỉ là các câu rời rạc.
6/ Chủ đề của đoạn văn: Kĩ thuật tranh làng Hồ
Nếu cần rút bỏ một câu thì rút bỏ câu 2. Vì các câu đều nói lên chất liệu làm nên màu
đen, màu trắng thì câu 2 lại nói về đề tài của tranh. Bỏ câu 2 thì tính thống nhất về
chủ của văn bản sẽ cao hơn.
7/ Các câu trong đoạn văn đều hướng tới vị trí thuận lợi cho giao thông của thành phố
Hà Nội. Vì vậy, nên thêm một câu vào đầu hoặc cuối đoạn: Hà Nội là đầu mối giao
thông quan trọng của cả nước.
8/ a) Nhan đề: Con châu chấu(nhan đề ẩn)
b) Phần 1: Từ đâu…ăn cả tháng => Cái thú nuôi chim của tôi
Phần 2: Tiếp theo…như châu chấu mà => Việc cho chim ăn châu chấu, niềm thương
cảm của con và kết thúc việc nuôi chim.
Phần 3: còn lại => Cái thú mới của tôi
Căn cứ để phân chia: trình tự trước sau của một sự việc
c) Câu văn thể hiện chủ đề:
- Mấy năm trước, tự nhiên tôi có cái thú nuôi chim.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 3 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
- Sao ba lại bẻ chân …nó quá. Châu chấu cần cánh để bay chứ
- Câu cuối.

d) Văn bản kể về những con vật có cánh bay. Người bố có thú nuôi chim, mua về
một con khưới và một con sáo. Bố mua cả châu chấu về cho chim ăn để nó hót hay
hơn. Thấy bố vặt cánh và chân châu chấu đi thì người con vô cùng thương cảm cho
những con châu chấu, đã bảo với bố là nếu bố vặt cánh và chân châu chấu đi thì nó sẽ
chết mất. Lời nói ngây thơ và đầy tình cảm ấy của người con đã tác động rất lớn đến
nhận thức và tình cảm của bố khiến người bố đã thả châu chấu ra và cuối cùng thả cả
hai con chim ra để cho chúng tự do được bay nhảy trong thế giới của chúng. Nhân vật
người con trong văn bản trên là một cậu bé giàu tình yêu thương loài vật. Văn bản đã
đánh thức tình yêu loài vật trong em, giúp em nhận ra rằng mỗi con vật chúng cũng có
một sinh mạng, cũng cần được sống tự do trong thế giới của chúng như những con
người, chúng ta cần nâng niu, trân trọng và bảo vệ chúng.
9/ Bây giờ em đã học lớp 8, đã trải qua 7 lần khai giảng năm học mới, nhưng ấn
tượng sâu đậm nhất trong em vẫn là ngày khai giảng đầu tiên khi em vào lớp một.
- Cảm xúc trong đêm trước ngày khai giảng.
- Cảm xúc khi đến trường.
- Quang cảnh trường, thầy cô, bạn bè…
- Khi được cô giáo đón vào lớp…

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 4 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 12/9/2014


Buổi 2 - 3
CHUYÊN ĐỀ 1
ÔN TẬP TRUYỆN KÍ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Văn bản: Tôi đi học – Thanh Tịnh
Trong lòng mẹ - Nguyên Hồng
I/ MỤC ĐÍCH CẦN ĐẠT
- Giúp học sinh củng cố lại kiến thức về văn bản và biết cách viết đoạn văn tóm tắt
văn bản, đoạn văn, bài văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm., chứng minh một nhận
định văn học.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Nêu chủ đề của văn bản Tôi đi học
2/ Tóm tắt văn bản theo dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”?
3/ Trong bài văn tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh đặc sắc để làm nổi bật tâm
trạng nhân vật, hãy chỉ ra các hình ảnh so sánh đó và nêu hiệu quả của nó?
4/ Phân tích tâm trạng của nhân vật “tôi” qua các giai đoạn: trên đường đến trường,
nghe gọi vào lớp, ngồi trong lớp nghe lời giảng đầu tiên.
5/ Từ văn bản Cổng trường mở ra của Lí Lan ở lớp 7 và văn bản Tôi đi học của Thanh
Tịnh, em có suy nghĩ gì về ý nghĩa của buổi tựu trường đầu tiên đối với mỗi con
người?
6/ Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về dòng cảm xúc của nhân vật tôi trong truyện
ngắn “Tôi đi học”
7. Nêu xuất xứ và tóm tắt văn bản Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng?
8/ Đọc văn bản em hiểu gì về hoàn cảnh đau khổ và trớ trêu của cậu bé Hồng?
9/ Nhân vật bà cô trong đoạn trích là người như thế nào? Hãy phân tích thái độ, lời
nói, cử chỉ của bà cô đối với cậu bé? Tại sao bà cô lại nói với cháu mình như thế?
10/ Phân tích thái độ của cậu bé khi phải nghe những lời gièm pha, xúc xiểm của bà cô
về mẹ mình?
11/ Kể về cuộc đối thoại của người cô và bé Hồng trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng
nghệ thuật tương phản. Em hãy chỉ ra phép tương phản đó và cho biết ý nghĩa.
12/ Viết đoạn văn tổng - phân hợp nêu suy nghĩ của em về niềm hạnh phúc, cảm giác
sung sướng đến cực điểm của chú bé Hồng khi được ở trong lòng mẹ.
13. Chứng minh Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng qua đoạn trích
“Trong lòng mẹ”
III/ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Chủ đề: Văn bản Tôi đi học đã ghi lại những dòng cảm xúc sâu đậm, hồn nhiên,
trong sáng, những rung động tinh tế của một cậu học trò lần đầu tiên đến trường.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 5 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
2/ Văn bản Tôi đi học đã ghi lại những dòng cảm xúc sâu đậm, hồn nhiên, trong
sáng, những rung động tinh tế của một cậu học trò lần đầu tiên đến trường. Cảm xúc,
tâm trạng của nhân vật tôi được ghi lại theo ba thời điểm: trên đường đến trường,
trước khi vào lớp và khi vào lớp nghe bài giảng đầu tiên. Trên đường đến trường trên
con đường làng quen thuộc tôi cảm thấy lạ, cảnh vật đều thay đổi vì hôm nay tôi đi
học, thấy mình trang trọng và đứng đắn. Trước khi vào lớp “tôi” rụt rè, bỡ ngỡ nép
bên mẹ, khi thầy gọi đến tên thì giật mình, lúng túng, thấy sợ khi phải xa mẹ. Vào ngồi
trong lớp nhìn xung quanh, nhìn những bạn mới nhưng không hề thấy xa lạ, nhìn cánh
chim bay ngoài cửa sổ nhớ lại lỉ niệm cũ và vòng tay lên bàn chăm chỉ học tập.
3/ Những hình ảnh so sánh:
- Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy
cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
- Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn
núi.
- Họ như con chim đứng bên bờ tổ…khỏi rụt rè trong cảnh lạ.
- Ba hình ảnh so sánh này xuất hiện trong 3 thời điểm khác nhau, diễn tả rất rõ nét sự
vận động tâm trạng của nhân vật tôi. Những hình ảnh so sánh đó giúp ta hiểu rõ hơn
tâm lí của các em nhỏ lần đầu tiên đến trường.
4/ Phân tích tâm trạng của nhân vật tôi” ở 3 giai đoạn”
- Trên đường đến trường:
+ Con đường quen thuộc hôm nay thấy lạ vì trong tôi đang có sự thay đổi lớn – Hôm
nay tôi đi học.
+ Thấy mình trang trọng và đứng đắn, thấy thèm như các bạn, cầm sách thấy nặng
nhưng vẫn cố gắng và muốn thử sức mình còn xin mẹ cầm cả bút thước nữa.
- Nghe gọi tên vào lớp: hàng loạt cảm xúc được miêu tả tinh tế.
+ Tiêng trống vang rội cả lòng, thấy mình chơ vơ.
+ Gọi đến tên cậu giật mình, lúng túng, thấy sợ phải xa mẹ.
- Vào trong lớp:
+ Nhìn vật xung quanh, nhìn các bạn mới nhưng không hề thấy xa lạ.
+ Chợt nghĩ về kỉ niệm cũ khi thấy cánh chim bay.
+ Vòng tay lên bàn chăm chỉ học tập.
5/ Cả hai văn bản Cổng trường mở ra và Tôi đi học đề giàu chất trữ tình, đều làm toát
lên ý nghĩa thiêng liêng của buổi tựu trường đầu tiên và cho thấy vai trò to lớn của nhà
trường đối với mỗi con người.
6/ Văn bản “Tôi đi học” đã ghi lại những cảm xúc trong sáng, hồn nhiên, những
rung động tinh tế của nhân vật “tôi” trong ngày khai trường đầu tiên. Khi được mẹ dắt
tay đến trường trên con đường làng quen thuộc nhân vật tôi thấy lạ, thấy cảnh vật
xung quanh tôi đều thay đổi vì trong tôi đang có sự thay đổi lớn, hôm nay tôi đi học.
Tôi thấy mình trang trọng và đứng đắn trong bộ quần áo mới, thấy lúng túng với mấy
quyển vở trên tay. Tôi cảm thấy bỡ ngỡ, hồi hộp và cảm giác mới lạ khi đứng trước
ngôi trường. Khi được gọi đến tên vào lớp, phải rời tay mẹ tôi giật mình lúng túng rồi
bất rác quay đầu vào lòng mẹ khóc nức nở. Đặc biệt là tâm trạng của nhân vật tôi khi
ngồi vào lớp học bài giảng đầu tiên, cậu nhìn xung quanh, nhìn những người bạn mới
nhưng không cảm thấy xa lạ chút nào mà thấy quyến luyến tự nhiên, thấy bàn ghế chỗ
ngồi như là vật của riêng mình và đón nhận bài học mới bằng thái độ tự tin, trang

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 6 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
nghiêm. Những dòng cảm xúc hồn nhiên trong sáng của nhân vật tôi khiến em nhớ về
ngày khai trường đầu tiên của mình.
7. Văn bản Trong lòng mẹ trích hồi kì “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng sáng
tác 1938.
Tóm tắt:
8/ Cậu bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không hạnh phúc, cha mất sớm, người
mẹ vì túng quẫn quá phải bỏ đi tha phương cầu thực.
- Hồng sống xa mẹ với họ hàng bên nội nhưng không được ai yêu thương mà luôn
sống trong sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của người họ hàng.
- Sống xa mẹ, luôn thương yêu, nhớ mẹ, khao khát được gặp mẹ.
9/ Nhân vật bà cô là người nham hiểm, độc ác, giả dối, tàn nhẫn, không có tình yêu
thương cả đối người cháu ruột của mình. Bà đã gọi bé Hồng đến cười hỏi: Mày có
muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không? Câu hỏi đó không phải thể hiện sự
quan tâm, yêu thương cháu, mong cháu được gặp mẹ mà muốn gieo vào đầu chú bé
những hoài nghi đề Hồng ruồng rẫy và khinh miệt mẹ. Hồng không đáp bà cô tiếp tục
xoáy sâu vào nỗi đau trong lòng Hồng bằng những lời nói xúc xiểm: Mày dạy quá…
em bé nữa chữ. Bà cô tươi cười, giọng vẫn ngọt trong khi chú bé Hồng đau đớn, nước
mắt ròng ròng. Đó là sự ngọt ngào giả dối, nham hiểm làm tổn thương đứa cháu tội
nghiệp.
10/ Cậu bé Hồng là người mang trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương, đặc biệt
là tình yêu thương mẹ, tin tưởng vào người mẹ của mình. Nhận ra ý nghĩ cay độc
của bà cô Hồng đã im lặng không đáp. Rồi cậu đáp lại lời bà cô một cách thông minh:
Không, cháu…cũng về. Mặc dù vậy nhưng trong lòng cậu rất đau đớn, nỗi đau đớn
ngày một tăng lên khi bà cô tiếp tục xoáy sâu và nỗi đau trong lòng em: nước mắt ròng
ròng, thương mẹ, căm tức mẹ vì sợ những cổ tục mà xa lìa anh em Hồng, cười dài
trong tiếng khóc. Nỗi đau càng ngày càng tăng lên trở thành sự phẫn uất các những cổ
tục đày đọa mẹ muốn chúng là những đầu mẩu gỗ, cục thủy tinh thì vồ ngay lấy mà
cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi.
11/ Nghệ thuật tương phản thể hiện ở việc xây dựng hai nhân vật có tính cách trái
ngược nhau:
Bà cô nham hiểm độc ác còn chú bé Hồng thì trong sáng, giàu tình yêu thương.
- Nghệ thuật tương phản đó đã làm nổi bật bản chất xấu xa của bà cô và phẩm chất tốt
đẹp của chú bé Hồng.
12/ Chú bé Hồng đã có niềm vui sướng, hạnh phúc đến cực điểm khi được ở trong
lòng mẹ. Em luôn nhớ mong và khát khao được gặp mẹ nên vừa nhìn thấy mẹ em đã
vội vàng đuổi theo, gọi bối rối, thở hộc hộc, trán đẫm mồ hôi, khi trèo lên xe ríu cả
chân lại. Khi ngồi trong lòng mẹ cậu bé đã òa khóc nức nở. Đó là những giọt nước
mắt hạnh phúc của một đứa con xa mẹ lâu ngày nay được gặp lại. Ngồi trong lòng mẹ
em thấy mẹ vẫn tươi đẹp như hồi còn sung túc. Những cảm giác bao lâu nay mất đi
bỗng mơn man khắp da thịt. Em ước muốn mình bé lại, để lăn vào lòng mẹ được mẹ
gãi lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng. Đó chính là những cảm giác
ngây ngất, sung sướng, rạo rực của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ. Mỗi điều
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 7 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
sai lệch mà bà cô gieo vào lòng bé Hồng đều tan biết hết chỉ còn lại niềm hạnh phúc
giản dị mà thiêng liêng của lòng mẹ yêu còn và tình con cháy bỏng. Đoạn văn là bài
ca cảm động về mẫu tử thiêng liêng và bất diệt.
13/
Nguyên Hồng là nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam.Văn của
ông giàu chất trữ tình, thường viết về những người cùng khổ, gần gũi mà ông yêu
thương. Phải chăng vì lẽ đó mà có ý kiến đã cho rằng “Nguyên Hồng là nhà văn của
phụ nhữ và nhi đồng”. Lời nhận định trên đã khái quát gần trọn sự nghiệp sáng tác
của Nguyên Hồng và đặc biệt đúng với đoạn trích Trong lòng mẹ.
Nguyên Hồng được đánh giá là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng không chỉ vì
ông viết nhiều, viết thành công về đề tài này mà điều quan trọng là ông viết về họ
bằng tất cả tấm lòng tài năng và tâm huyết của mình. Mỗi trang viết của ông là sự
đồng cảm mãnh liệt của người nghệ sỹ, dường như ông đã hoà nhập vào nhân vật mà
thương cảm mà xót xa đau đớn, hay sung sướng, hả hê. Đoạn trích Trong lòng mẹ là
bài ca cảm động về lòng mẹ êm dịu, tình con cháy bỏng, bài ca về tình mẫu tử thiêng
liêng và bất diệt.
Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng còn bởi vì ông đã thấu hiểu
và đồng cảm sâu sắc cho nỗi bất hạnh của họ, trân trọng, bênh vực, ca ngợi những
phẩm chất tốt đẹp của họ.
Trong lòng mẹ là một đoạn trích ngắn gọn gồm ba nhân vật: hai người phụ nữ và
một cậu bé trai. Ba nhân vật khác nhau về tính cách nhưng đều đã hiện lên sinh động
và đầy ấn tượng dưới ngòi bút của Nguyên Hồng. Đoạn trích chứng tỏ sự am hiểu sắc
của nhà văn về phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt là sự nắm bắt cá tính và tâm lý.
Nhân vật người cô được nhà văn xây dựng qua đối thoại. Nhân vật không được đặc
tả nhưng tính cách cứ lộ dần qua lời đối thoại. Đó là một con người độc ác, tàn nhẫn ,
cạn khô tình cảm ngay cả với đứa cháu ruột thịt của mình. Đó là hình mẫu điển hình
cho sự tàn nhẫn và lòng đố kỵ. Sự nhỏ nhoi của người cô làm bé Hồng đau nhói.
Những lời nói lạnh lùng, quái ác của người cô đã xoáy sâu vào nỗi đau của bé Hồng,
làm tổn thương trái tim non nớt của em.
Không chỉ hiểu sâu sắc về nhân vật phản diện như vậy mà nhà văn lại rất thông
cảm, thấu hiểu nỗi khổ về vật chất của người phụ nữ. Sau khi chồng chết vì nợ nần
cùng túng quá, mẹ Hồng phải bỏ đi tha hương cầu thực buôn bán ngược xuôi dể kiếm
sống. Sự vất vả, lam lũ đã khiến người phụ nữ xuân sắc một thời trở nên tiều tuỵ đáng
thương “Mẹ tôi ăn mặc rách rưới, gầy rạc đi ”
Thấu hiểu nỗi đau đớn về tinh thần của người phụ nữ : Hủ tục ép duyên đã khiến mẹ
Hồng phải chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu với người đàn ông gấp đôi tuổi
của mình. Vì sự yên ấm của gia đình, người phụ nữ này phải sống âm thầm như một
cái bóng bên người chồng nghiện ngập. Những thành kiến xã hội và gia đình khiến mẹ
Hồng phải bỏ con đi tha hương cầu thực, sinh nở vụng trộm dấu giếm.
Người phụ nữ ấy còn có tình yêu thương con sâu sắc. Gặp lại con sau bao ngày xa
cách, mẹ Hồng xúc động đến nghẹn ngào. Trong tiếng khóc sụt sùi của người mẹ,
người đọc như cảm nhận được nỗi xót xa ân hận cũng như niềm sung sướng vô hạn vì
được gặp con. Bằng cử chỉ dịu dàng âu yếm xoa đầu, vuốt ve, gãi rôm...mẹ bù đắp cho
Hồng những tình cảm thiếu vắng sau bao ngày xa cách.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 8 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Bên cạnh đó, nhà văn thấu hiểu nỗi thống khổ cả vật chất lẫn tinh thần mà chú bé
Hồng phải chịu đựng. Cả thời thơ ấu của Hồng được hưởng những dư vị ngọt ngào thì
ít mà đau khổ thì không sao kể xiết: Mồ côi cha, thiếu bàn tay chăm sóc của mẹ, phải
ăn nhờ ở đậu người thân. Gia đình và xã hội đã không cho em được sống thực sự cuộc
sống của trẻ thơ .....nghĩa là được ăn ngon, và sống trong tình yêu thương đùm bọc của
cha mẹ, người thân.
Nhà văn còn thấu hiểu cả những tâm sự đau đớn của chú bé khi bị bà cô xúc phạm,
thấu hiểu tình yêu thương mẹ sâu sắc mãnh liệt của bé Hồng. Em luôn nhớ nhung về
mẹ . Chỉ mới nghe bà cô hỏi “Hồng, mày có muốn vào Thanh Hoá chơi với mợ mày
không”, lập tức, trong ký ức của Hồng trỗi dậy hình ảnh người mẹ.
Hồng luôn tin tưởng khẳng định tình cảm của mẹ dành cho mình. Dẫu xa cách mẹ
cả về thời gian, không gian, dù bà cô có tinh ma độc địa đến đâu thì Hồng cũng quyết
bảo vệ đến cùng tình cảm của mình dành cho mẹ . Hồng luôn hiểu và cảm thông cho
tình cảnh cũng như nỗi đau của mẹ. Trong khi xã hội và người thân hùa nhau tìm cách
trừng phạt mẹ thì bé Hồng với trái tim bao dung và nhân hậu yêu thương mẹ sâu nặng
đã nhận thấy mẹ chỉ là nạn nhân đáng thương của những cổ tục phong kiến kia. Em đã
khóc cho nỗi đau của người phụ nữ khát khao yêu thương mà không được trọn vẹn.
Hồng căm thù những cổ tục đó: “Giá những cổ tục kia là một vật như .....thôi” 
Hồng luôn khao khát được gặp mẹ. Nỗi niềm thương nhớ mẹ nung nấu tích tụ qua
bao tháng ngày đã khiến tình cảm của đứa con dành cho mẹ như một niềm tín ngương
thiêng liêng thành kính. Trái tim của Hồng như đang rớm máu, rạn nứt vì nhớ mẹ .Vì
thế thoáng thấy người mẹ ngồi trên xe, em đã nhận ra mẹ, em vui mừng cất tiếng gọi
mẹ mà bấy lâu em đã cất giấu ở trong lòng.  Lòng vui sướng được toát lên từ những cử
chi vội vã bối rối từ giọt nước mắt giận hờn, hạnh phúc tức tưởi, mãn nguyện.
Nói tóm lại, bằng lời văn chân thực, giàu cảm xúc, đoạn trích Trong lòng mẹ đã kể
lại nỗi cay đắng tủi cực và tình yêu thương mẹ cháy bỏng của nhà văn đối với người
mẹ của mình trong thời thơ ấu. Qua đoạn trích ta càng hiểu nhận định “Nguyên Hồng
là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng” là hoàn toàn chính xác và tinh tế.Viết về phụ nữ,
nhi đồng, viết về những kỷ niệm tuổi thơ là Nguyên Hồng đã lấy nguồn cảm hứng từ
chính kỉ niệm của cuộc đời mình, từ người mẹ kính yêu của mình.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 9 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Ngày soạn: 16/9/2014
Buổi 4 – 5
Chuyên đề 1
ÔN TẬP TRUYỆN KÍ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Văn bản: TỨC NƯỚC VỠ BỜ - NGÔ TẤT TỐ
LÃO HẠC – NAM CAO

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh củng cố kiến thức bài học, biết cách tóm tắt văn bản, viết đoạn văn
cảm nhận về nhân vật, chứng minh một nhận định văn học.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Nêu xuất xứ và tóm tắt văn bản Tức nước vỡ bờ bằng một đoạn văn từ 10 -15 dòng.
2/ Đoạn văn có mấy tuyến nhân vật? Cách xây dựng tuyến nhân vật như trên có ý
nghĩa nghệ thuật gì?
3/Tinh thần phản khảng của chị Dậu được miêu tả qua mấy chặng? Theo em cách
miêu tả như vậy có hợp lí không?
4 Phân tích nhân vật tên cai lệ?
5/ Viết đoạn văn tổng phân hợp nêu cảm nhận của em về nhân vật chị Dậu trong đoạn
trích này?
6/ Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 15 câu để làm rõ câu chủ đề sau:
“Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu duối chỉ biết nhẫn nhịn van xin mà
còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt”.
7/ Nêu xuất xứ và tóm tắt truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao?
8/ Phân tích tình cảm của lão Hạc đối với con chó? Thái độ của lão sau khi bán cậu
Vàng cho ta hiểu gì về tính cách của lão?
9/ Nỗi khốn cùng của lão Hạc được miêu tả theo trình tự nào? Tại sao lão lại chọn cái
chết bi thảm là ăn bả chó?
10/ Phân tích suy nghĩ của nhân vật tôi về cái chết của lão Hạc?
11/ Nêu những phẩm chất tốt đẹp của lão Hạc.
12/ Viết đoạn văn tổng phân hợp nêu cảm nhận của em về nhân vật Lão Hạc?
13/ Qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” và truyện ngắn “Lão Hạc”, em hiểu như thế nào
về cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ?(TLV)
14/Trong tác phẩm “Lão Hạc”, Nam Cao viết:
“…Chao ôi ! Đối với những người sống quanh ta , nếu ta không cố mà tìm hiểu
họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để cho
ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta
thương…cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp
mất…”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Từ các nhân vật: Lão Hạc,ông giáo, vợ ông
giáo, Binh Tư trong tác phẩm “Lão Hạc”, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
15. Phân tích tinh thần nhân đạo trong ba văn bản đã học: Trong lòng mẹ, Tức nước
vỡ bờ, Lão Hạc.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 10 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Văn bản Tức nước vỡ bờ trích trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tổ(1939)
Đoạn trích Tức nước vỡ bờ kể về tình cảnh nhà chị Dậu trong những ngày sưu
thuế. Bọn cai lệ và người nhà lí trưởng xông vào nhà đòi bắt anh Dậu trong tình cảnh
vừa trải qua cơn thập tử nhất sinh. Chị Dậu tha thiết van xin chúng để chúng không
đánh trói chồng mình. Nhưng bọn tay sai không hề để ý đến lời van xin của chị mà cứ
sấn đến để trói anh Dậu. Chị Dậu liều mình cự lại. Qúa trình phản kháng của chị gồm
hai bước: lúc đầu chị phản kháng bằng lí lẽ nhưng chúng không nghe còn đánh chị
và vẫn xông vào trói chồng chị. Chị đã phản kháng bằng hành động, chị xông vào
đánh nhau với hai tên tay sai, chúng có đầy đủ vũ khí trong tay nhưng đã thất bại
thảm hại trước người đàn bàn lực điền.
2/ Đoạn trích có hai tuyến nhân vật: nhân vật thống trị ( cai lệ và người nhà lí trưởng),
nhân vật bị trị( gia đình nhà chị Dậu và bà lão hàng xóm)
Ýnghĩa:
- Làm nổi bật mâu thuẫn gia cấp hết sức gay gắt ở nông thôn VN trước cách mạng.
- Vừa tố cáo bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị vừa nêu lên vẻ đẹp của những người
nông dân lương thiện và tinh thần phản kháng của họ.

3/ Tinh thần phản kháng của chị Dậu thể hiện qua các chặng như sau:
- Lúc đầu, chị tha thiết van xin với hi vọng là bọn sai nha sẽ thương tình. Đó là tư
thế của kẻ dưới.
- Sau đó, trước sự tàn bạo của bọn cai lệ chị liều mạng cự lại: Chị đấu lí với chúng:
“Chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô ông – tôi
cho thấy chị không còn là kẻ dưới nữa mà ngang hàng với chúng.
- Đỉnh cao của tinh thần phản kháng là màn đấu lực: Chị thách thức chúng “Mày trói
ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Cách xưng hô cho thấy chị ở tư thế khác, tư
thế của bề trên. Trong cuộc đấu lực đó phần thắng đã thuộc về người đàn bà lực
điền.
=> Đó là quá trình phát triển tâm lí rất lô gic của chị Dậu cho ta thấy cảnh Con giun
xéo lắm cũng quằn. Hành động phản kháng của chị tuy còn tự phát nhưng cho thấy
sức mạnh tiềm tàng của người nông dân.

4/ Cai lệ là một tên tay sai chuyên nghiệp, chuyên đi đánh trói, đàn áp nhân dân.
Hắn xuất hiện ở nhà chị Dậu với hành động hung dữ, thái độ hách dịch: gõ đầu roi
xuống đất, quát mắng, thét, hầm hè, chạy sầm sập, giật phắt cái dây thừng, bịch vào
ngực chị Dậu, tát chị…Tất cả những hành động, lời nói đó cho thấy hắn là một tên tay
sai tàn bạo, không một chút nhân tính. Hắn chỉ là một con người - công cụ của bộ
máy xã hội đương thời bất nhân.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 11 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
5/ Chị Dậu là một người phụ nữ nông dân thương chồng, thương con, giàu lòng
vị tha, giàu đức hi sinh và có tinh thần phản kháng quyết liệt. Thương chồng nên
chị đã hết sức nhẫn nhịn với hai tên tay sai, hạ mình van xin chúng để chúng
không đánh đập, hành hạ chồng mình. Xót chồng đau ốm mà lại bị đánh đập, chị
đã lấy thân mình ra che chở cho chồng. Cũng vì chồng mà chị đã sẵn sàng chống
trả lại hai tên tay sai có đầy đủ vũ khí trong tay. Chị đã nghiến hai hàm răng vào
thách thức bọn cai lệ: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Cùng với lời
thách thức ấy chi đã xông vào đấu lực với hai tên tay sai có đầy đủ vũ khí trong tay.
Chúng đã bị chị túm lấy cổ ấn dúi ra cửa, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, ngã
nhào ra thêm. Cuối cùng chị đã chiến thắng. Sức mạnh mà chị có được là sức
mạnh của lòng căm hờn và uất hận đến không chịu được nó thể hiện quy luậ “ tức
nước vỡ bờ. Nhưng đó cũng là sức mạnh của tình yêu thương mà chị dành cho
chồng. Chính tình yêu thương, tấm lòng vị tha, đức hi sinh và nghị lực đã giúp
người phụ nữ ấy vững vàng trước mọi bão tố.
6/ Nhập vai bé Hồng để kể lại đoạn trích Trong lòng mẹ
Mở bài: Giới thiệu về hoàn cảnh của mình:
Tôi sinh ra trong một gia đình không hạnh phúc. Bố tôi mất sớm, mẹ vì túng
quẫn quá đành bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Tôi ở với người cô ruột nhưng
không thương yêu mà luôn ghẻ lạnh đối với tôi.
Thân bài: Một hôm, cô tôi gọi tôi đến bảo:…..
- Diễn biến tâm trạng của mình khi trò chuyện với bà cô cay nghiệt (nỗi đau đớn vì
bị bà cô giày v , nỗi uất ức, căm ghét những cổ tục, thành kiến tàn ác, và niềm
thương mẹ vô cùng )
- Ngồi trong lòng mẹ : sung sướng, hạnh phúc đến cực điểm khi được đón nhận sự
vuốt ve, che chở của mẹ, cảm thấy mẹ êm dịu đến vô cùng
- Đó là niềm hạnh phúc vô bờ của một đứa con xa mẹ, khát khao tình mẫu tử nay
được thoả nguyện .
Kết bài: Nêu mong muốn của chú bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ ( không có
trong văn bản )
Ngồi trong lòng mẹ, tôi mong con đường từ trường về nhà cứ dài mãi ra, để tôi
được ngồi mãi trong lòng mẹ, tận hưởng cảm giác êm dịu khi được ở bên mẹ. Tôi
mong các bạn, ai đã và đang được sống trong tình mẹ thì hãy biết trân trọng và nâng
niu tình cảm thiêng liêng ấy. Đó chính là niềm hạnh phúc nhất của mỗi con người.
“Ai còn mẹ đừng làm mẹ khóc/ Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con”.
6. (b)

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 12 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Nhưng chị Dậu không thuộc loại người yếu đuối chỉ biết nhẫn nhục van xin
mà còn tiềm tàng một khả năng phản kháng mãnh liệt. Thật vậy, khi bị đẩy tới
đường cùng, chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt, thể hiện một thái độ thật bất khuất.
Khi tên cai lệ dã thú ấy vẫn không thèm trả lời, còn “tát vào mặt chị một cái đánh
bốp” rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, thì chị đã vụt đứng dậy với niềm căm giận ngùn
ngụt: chị Dậu nghiến hai hàm răng thách thức “mày trói ngay chồng bà đi, bà cho
mày xem!” . Chị chẳng những không còn xưng hô “cháu - ông”, mà cũng không phải
“tôi – ông” như kẻ ngang hàng, mà lần này, chị xưng “bà”, gọi tên cai lệ bằng
“mày”! Đó là cách xưng hô hết sức đanh đá của phụ nữ bình dân, thể hiện sự căm
giận và khinh bỉ cao độ, đồng thời khẳng định tư thế “đứng trên đầu kẻ thù”, sẵn sàng
đè bẹp đối phương. Lần này chị Dậu đã không đấu lí mà quyết ra tay đấu lực với
chúng. Cảnh tượng chị Dậu quật ngã hai tên tay sai đã cho ta thấy sức mạnh ghê gớm
và tư thế ngang hàng của chị Dậu, đối lập với hình ảnh, bộ dạng thảm hại hết sức hài
hước của hai tên tay sai bị chị “ra đòn”. Tên cai lệ “lẻo khoẻo” vì nghiện ngập, chị
chỉ cần một động tác “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa”, hắn đã “ngã chỏng quèo trên
mặt đất! Đến tên người nhà lí trưởng, cuộc đọ sức có dai dẳng hơn một chút (hai
người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đền buông gậy ra, áp vào vật nhau),
nhưng cũng không lâu, kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con
mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm! Vừa ra tay, chị Dậu
đã nhanh chóng biến hai tên tay sai hung hãn vũ khí đầy mình thành những kẻ thảm
bại xấu xí, tơi tả. Lúc mới xông vào, chúng hùng hổ, dữ tợn bao nhiêu thì giờ đây,
chúng hài hước, thảm hại bấy nhiêu.

7/ Sáng tác: 1943


Lão Hạc là một người nông dân nghèo, lão có một người con trai, một mảnh vườn
và một con chó . Con trai lão đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại cậu Vàng làm
bạn. Vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, nên lão đành phải bán cậu Vàng – người
bạn thân thiết nhất của lão. Lão đem tất cả chỗ tiền dành dụm được sang gửi ông
giáo và nhờ trông coi hộ mảnh vườn . Cuộc sống ngày một khó khăn lão kiếm được gì
ăn nấy và từ chối sự giúp đỡ của ông giáo. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói là
để bẫy chó làm thịt. Nghe Binh Tư kể chuyện ấy ông giáo rất buồn. Rồi lão Hạc bỗng
nhiên chết, cái chết thật dữ dội. Cả làng không ai hiểu vì sao lão chết chỉ có Binh Tư
và ông giáo hiểu.

8/ Lão Hạc rất yêu quý con chó: Gọi là cậu Vàng, chăm sóc chu đáo, trò chuyện với
cậu Vàng, mắng yêu… cậu Vàng làm lão bớt cô đơn.
- Lão bán cậu Vàng vì không còn sự lựa chọn nào khác.
- Sau khi bán cậu Vàng, lão ân hận, day dứt, lão tự kết tội mình là đánh lừa con
chó(cười như mếu, khóc hu hu…) Trong cuộc đời đầy đen bạc, người ta có thể lừa
nhau vì tiền, vì tình, vì các ham muốn khác nhưng lão Hạc lại ăn năn vì đã lừa một con
chó. Điều này cho thấy sự ngay thẳng và cao đẹp trong nhân cách của lão Hạc.

9/ Nỗi khốn cùng của lão Hạc được miêu tả theo chiều tăng tiến:
- Nghèo đến mức không đủ tiền cưới vợ cho con khiến nó phẫn chí bỏ nhà đi kiếm ăn
nơi khác.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 13 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
- Thu vén được ít tiền hoa màu định dành dụm cho con . Ai ngờ vì một trận ốm tiêu
hết sạch.
- Vắng con có cậu Vàng làm bạn, nhưng cậu Vàng làm lão tốn kém quá nên phải bán
cậu Vàng đi.
- Không làm ra tiền, không dám tiêu và tiền của con, lão quyết định chỉ ăn khoai, ăn
củ chuối, sung luộc…
- Quyết định tử tử.
=> Trình tự miêu tả này cho thấy nét đẹp trong nhân cách lão Hạc: lão sẵn sàng chấp
nhận cái chết vì con.
- Lão Hạc chết bằng cách ăn bả chó: thể hiện sự trừng phạt ghê gớm. Cả đời lão trung
thực, chưa lừa ai bao giờ nay lại lừa cậu Vàng, người bạn thân thiết nhất của lão nên
bây giờ lão cũng chết theo kiểu một con chó bị lừa.
=> Cái chết đó thể hiện đức tính trung thực, lòng tự trọng đáng quý ở lão Hạc. Tố cáo
xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng, phải
tìm đến cái chết để giải thoát cho cuộc đời của mình.

10/ Suy nghĩ của nhân vật Tôi về cái chết của lão Hạc:
- Lúc đầu, rất ngạc nhiên vì lão Hạc cũng theo gót Binh Tư để có ăn, ông giáo chán
nản nghĩ: “Cuộc đời quả thật cứ ngày thêm đáng buồn”
- Khi hiểu ra, ông giáo lại nghĩ: “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì vẫn
còn có những con người lương thiện, trong sạch như lão Hạc.
- “Hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo nghĩa khác”. Buồn vì những người
tốt như lão Hạc lại phải sống một cuộc sống khốn khổ như thế, phải chế một cách
thê thảm như thế.
- Từ đó, ông suy ngẫm về cuộc đời, tự nhận ra con đường nhận thức: Phải nhìn sâu
vào bản chất con người, phải đặt họ trong tình huống cụ thể để hiểu họ chứ không
nên dừng lại ở bên ngoài.

11. Vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc:


- Là người hiền lành, chất phát và vô cùng nhân hậu.( đối xử với con chó)
- Là một người cha có tình yêu thương con âm thầm mà sâu lắng.
- Người nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng

12/ Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ, nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và
đặc biệt là có tình yêu thương con sâu sắc.Vợ lão mất sớm, con bỏ đi làm ăn xa, lão
chỉ có mỗi cậu Vàng làm bạn. Lão rất yêu quý cậu Vàng, lão ăn gì cũng cho cậu
Vàng ăn thứ đó, chăm sóc cậu Vàng chu đáo, thường xuyên trò chuyện với cậu.
Nhưng vì nghèo túng quá không muốn tiêu vào số tiền của con lão đã quyết định bán
cậu Vàng – người bạn thân thiết nhất của mình đi sau bao ngày đắn đo suy nghĩ. Bán
chó xong, lão đã sang nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, gửi tiền lo hậu sự cho
mình, Về nhà, lão kiếm được cái gì thì ăn cái đó, lão ăn khoai, ăn sung luộc, của
chuối cho qua ngày và cuối cùng lão quyết định ăn bả chó tự tử, để không phải tiêu
vào số tiền dành dụm cho con, để kết thúc cuộc đời khốn khổ của lão. Đó là cái chết
dữ dội, đau đớn thể hiện sự trừng phạt ghê gớm, thể hiện đức tính trung thực và lòng
tự trọng đáng quý ở lão Hạc. Lão chết để giữ được bản chất trong sạch sạch của
mình, lão chết để bảo toàn vốn liếng cho con. Đó là sự hi sinh thầm lặng của một
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 14 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
người cha giàu tình yêu thương con. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách thanh cao của lão
Hạc đã làm rung động bao trái tim bạn đọc, làm thức tỉnh những người làm con,
phải sống sao cho xứng đáng với sự quan tâm, hi sinh của cha mẹ dành cho mình.

13a/ Sau khi học xong văn bản “Tức nước vỡ bờ” và truyện ngắn “Lão Hạc’ của
Nam Cao cho ta hiểu được cuộc đời người nông dân trong xã hội cũ thực sự tối tăm,
thảm hại và không có lối thoát. Một đất nước không có độc lập thì người dân không có
quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc. Họ phải đối diện với đủ thứ thuế vô lí của
một xã hội bất công, họ phải đối diện với nạn đói khủng khiếp khiến người ta gầy gò,
ốm yếu. Cái nghèo đã khiến con trai lão Hạc bỏ nhà ra đi. Để cứu chồng, chị Dậu đã
phải bán con, bán chó…Nhưng chính trong hoàn cảnh khốn khổ ấy, người nông dân
vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp của mình: Chị Dậu tha thiết yêu thương chồng
con, chi có thể làm tất cả vì chồng, sẵn sàng chống trả lại bọn tay sai để bảo vệ
chồng. Lão Hạc thì yêu thương con tha thiết, hi sinh một cách lạ thường, chọn cái chết
để kết thúc cuộc đời mình, để giữ lại tiền bạc và mảnh vườn cho con. Người nông dẫn
trong xã hội cũ chỉ có một con đường hi sinh bản thân mình để giữ gìn phẩm chất tốt
đẹp. Đó là kết cục bi kịch, đầy đau khổ của những người nông dân trong xã hội cũ.

13b Bài tập làm văn:


Hình ảnh người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là một đề tài trở đi
trở lại trong các tác phẩm truyện kí hiện đại Việt Nam. Viết thành công về đề tài này
ta không thể không kể đến Nam Cao với truyện ngắn Lão Hạc và Ngô Tất Tố với tiểu
thuyết “Tắt đèn” mà chúng em được học một đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” Học hai
đoạn trích này giúp em hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời và tính cách của người nông dân
VN trước cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố và truyện ngắn Lão Hạc, của Nam Cao đều viết
về nông thôn. Nhưng không phải là một vùng nông thôn yên bình, hạnh phúc ấm no
mà là không khí ngột ngạt căng thẳng của mùa sưu thuế. Rồi cái đói nghèo sơ xác đẩy
người nông dân đến bước đường cùng. Cuộc đời người nông dân thực sự tối tăm,
thảm hại, không có lối thoát. Khi một đất nước không có quyền độc lập thì người nông
dân không có quyền sống, không có hi vọng về tương lai hạnh phúc. Văn học thời kì
đó đã tái hiện một cách đau đớn về cuộc đời của người nông dân với tất cả niềm xót
xa, bất lực trước bi kịch của con người. Người nông dân phải đối diện với nạn đói thê
thảm. Cái nhu cầu tối thiểu là ăn no mặc ấm đã trở thành nỗi ám ảnh khủng khiếp của
con người. Cái đói khiến cho con người gầy gò thảm hại, nó còn khiến cho những tình
cảm tốt đẹp, những giá trị thiêng liêng bị băng hoại, làm cho con người bần tiện, ê chề,
mất nhân cách: như nhân vật Binh Tư trong truyện ngắn Lão Hạc. Cái nghèo khiến
con trai lão Hạc phải bỏ nhà ra đi để lại câu nói dằn vặt: “Ở cái làng này, không có
tiền thì nhục lắm”. Còn để cứu chồng chị Dậu phải bán con, bán chó và phải đứng
trước sự lựa chọn về nhân phẩm của mình.
Không chỉ có cái đói hoành hành mà họ chịu sự áp bức bóc lột thậm tệ của chế độ
thực dân nửa phong kiến. Gia đình chị Dậu phải đóng cả suất sưu cho người em chồng
chết từ năm ngoái. Bán con bán chó vẫn không đủ tiền nộp sưu nên chồng chị bị lôi ra
đình đánh đập hết sức dã man. Chúng quẳng anh về nhà như một cái xác không hồn.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 15 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Chưa kịp tỉnh thì bọn cai lệ lại sấn đến để đánh trói anh tiếp. Xã hội đó đã đẩy người
nông dân đến bước đường cùng, không có lối thoát.
Nhưng chính trong những hoàn cảnh khốn cùng đó người nông dân không chỉ đấu
tranh để sinh tồn mà điều quan trọng hơn là giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp của một
con người. Đó cũng chính là tư tưởng mà các nhà văn gửi đến thông qua hình tượng
các nhân vật điển hình. Chị Dậu là một người phụ nữ nông dân thương chồng, thương
con, giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh và có tinh thần phản kháng quyết liệt. Thương
chồng nên chị đã hết sức nhẫn nhịn với hai tên tay sai, hạ mình van xin chúng để
chúng không đánh đập, hành hạ chồng mình. Xót chồng đau ốm mà lại bị đánh đập,
chị đã lấy thân mình ra che chở cho chồng. Cũng vì chồng mà chị đã sẵn sàng chống
trả lại hai tên tay sai có đầy đủ vũ khí trong tay. Chị đã nghiến hai hàm răng vào
thách thức bọn cai lệ: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Cùng với lời
thách thức ấy chi đã ông vào đấu lực với hai tên tay sai có đầy đủ vũ khí trong tay.
Chúng đã bị chị túm lấy cổ ấn dúi ra cửa, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, ngã nhào
ra thêm. Cuối cùng chị đã chiến thắng. Sức mạnh mà chị có được là sức mạnh của
lòng căm hờn và uất hận đến không chịu được nó thể hiện quy luậ “ tức nước vỡ bờ.
Nhưng đó cũng là sức mạnh của tình yêu thương mà chị dành cho chồng. Chính tình
yêu thương, tấm lòng vị tha, đức hi sinh và nghị lực đã giúp người phụ nữ ấy vững
vàng trước mọi bão tố.
Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ, nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và
đặc biệt là có tình yêu thương con sâu sắc.Vợ lão mất sớm, con bỏ đi làm ăn xa, lão
chỉ có mỗi cậu Vàng làm bạn. Lão rất yêu quý cậu Vàng, lão ăn gì cũng cho cậu
Vàng ăn thứ đó, chăm sóc cậu Vàng chu đáo, thường xuyên trò chuyện với cậu. Nhưng
vì nghèo túng quá không muốn tiêu vào số tiền của con lão đã quyết định bán cậu
Vàng – người bạn thân thiết nhất của mình đi sau bao ngày đắn đo suy nghĩ. Bán chó
xong, lão đã sang nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, gửi tiền lo hậu sự cho mình,
Về nhà, lão kiếm được cái gì thì ăn cái đó, lão ăn khoai, ăn sung luộc, của chuối cho
qua ngày và cuối cùng lão quyết định ăn bả chó tự tử, để không phải tiêu vào số tiền
dành dụm cho con, để kết thúc cuộc đời khốn khổ của lão. Đó là cái chết dữ dội, đau
đớn thể hiện sự trừng phạt ghê gớm, thể hiện đức tính trung thực và lòng tự trọng
đáng quý ở lão Hạc. Lão chết để giữ được bản chất trong sạch sạch của mình, lão
chết để bảo toàn vốn liếng cho con. Đó là sự hi sinh thầm lặng của một người cha
giàu tình yêu thương con. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách thanh cao của lão Hạc đã làm
rung động bao trái tim bạn đọc, làm thức tỉnh những người làm con, phải sống sao
cho xứng đáng với sự quan tâm, hi sinh của cha mẹ dành cho mình.
Tóm lại truyện ngắn Lão Hạc và đoạn trích Tức nước vỡ bờ đã thể hiện một cách
chân thực , cảm động, số phận đau thương và phẩm chất cao quý của người nông dân
cùng khổ trong xã hội cũ. Hai văn bản đã giúp em hiểu sâu sắc cuộc đời và tính cách
của người nông dân trong xã hội cũ. Từ đó, em cũng thấy được rằng mình thật may
mắn và hạnh phúc khi được sống trong xã hội tiến bộ, văn minh….

14 Thể loại: Giải thích kết hợp chứng minh.


Nội dung:Cách nhìn, đánh giá con người cần có sự cảm thông, trân trọng con
người.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 16 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
1.Mở bài:
Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về người nông dân và
người trí thức nghèo sống mòn mỏi. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm thành
công của ông viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám. Trong truyện có một đoạn văn thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá con người của
nhà văn Nam Cao: “ …Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta….che lấp mất.”…
2.Thân bài(4 điểm)
a. Giải thích nội dung của đoạn văn:
Câu nói trên là lời độc thoại của nhân vật “Ông giáo”, thông qua nhân vật này, tác
giả Nam Cao thể hiện cách nhìn, đánh giá đầy sự cảm thông, trân trọng đới với con
người: Phải đem hết tấm lòng của mình, đặt mình vào hoàn cảnh của họ để cố mà tìm
hiểu, xem xét con người ở mọi khía cạnh thì mới có được cái nhìn đầy đủ, thấy được
những nét phẩm chất đáng quý của họ, nếu chỉ nhìn phiến diện thì sẽ có ác cảm hoặc
những kết luận sai lầm về bản chất của con người.
b. Chứng minh ý kiến trên qua các nhân vật:
Nhân vật chính trong truyện là lão Hạc, một người nông dân nghèo khổ, nhân hậu,
tình nghĩa, tự trọng và có tính yêu thương con sâu sắc. Nhưng những bản tính tốt đẹp
đó của lão Hạc lại ẩn sau cái vẻ bề ngoài nghèo khổ, gàn dở, lẩm cẩm nên không phải
ai cũng nhìn ra, ai cũng hiểu đúng về lão.
+Trước hết là qua cái nhìn của ông giáo, lão hiện lên với những việc làm, hành
động bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm cẩm:
- Bán một con chó mà cứ đắn đo, suy nghĩ mãi. Lão Hạc sang nhà ông giáo nói
chuyện nhiều lần về điều này làm cho ông giáo có lúc cảm thấy “nhàm rồi”.
- Bán chó rồi thì đau đớn, xót xa, dằn vặt như mình vừa phạm tội ác gì lớn lắm.
- Gửi tiền, giao vườn cho ông giáo giữ hộ, chấp nhận sống cùng cực, đói khổ: ăn
sung, rau má, khoai, củ chuối…
- Từ chối gần như hách dịch mọi sự giúp đỡ.
+ Còn qua cái nhìn của vợ ông giáo thì lão là một người có tính cách gàn dở “Cho
lão chết ! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ ! Lão làm lão khổ chứ ai…”, vô cùng bực
tức khi nhìn thấy sự rỗi hơi của ông giáo khi ông đề nghị giúp đỡ lão Hạc “Thị gạt
phắt đi”.
+ Với Binh Tư, một kẻ vì nghèo túng mà bị tha hóa, từ bản tính của mình, khi nghe
lão Hạc xin bả chó, hắn vội kết luận ngay “Lão…cũng ra phết chứ chả vừa đâu”.
+ Ngày cả ông giáo cũng có những lúc không hiểu lão Hạc: “Làm quái gì một con
chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế ?”, thậm chí ông cũng chua chát thốt lên khi nghe
Binh Tư kể chuyện lão Hạc xin bả chó về để “cho nó xơi một bữa…lão với tôi uống
rượu”: “Cuộc đời cứ mỗi ngày càng thêm đáng buồn…” Nhưng ông giáo là người
có tri thức, có kinh nghiệm sống, có cái nhìn đầy cảm thông với con người, lại chịu
quan sát, tìm hiểu, suy ngẫm nên phát hiện ra được chiều sâu của con người qua những
biểu hiện bề ngoài:
- Ông cảm thông và hiểu vì sao lão Hạc lại không muốn bán chó: Nó là một người
bạn của lão, một kỉ vật của con trai lão; ông hiểu và an ủi, sẻ chia với nỗi đau đớn, dằn
vặt của lão Hạc khi lão khóc thương con chó và tự xỉ vả mình. Quan trọng hơn, ông
phát hiện ra nguyên nhân sâu xa của việc gửi tiền, gửi vườn, xin bả chó, cái chết tức
tưởi của lão Hạc: Tất cả là vì con, vì lòng tự trọng cao quý. Ông giáo nhìn thấy vẻ đẹp
tâm hồn của lão Hạc ẩn giấu đằng sau những biểu hiện bề ngoài có vẻ gàn dở, lập dị.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 17 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Ông hiểu và cảm thông được với thái độ, hành động của vợ mình: Vì quá khổ mà
trở nên lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau đồng loại “…Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ
quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ
đến một cái gì khác đâu ? cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn
đau, ích kỉ che lấp mất…” . ông biết vậy nên “Chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Ông giáo là nhân vật trung tâm dẫn dắt câu chuyện, từ việc miêu tả các nhân vật mà
quan sát, suy ngẫm để rồi rút ra những kết luận có tính chiêm nghiệm hết sức đúng đắn
và nhân bản về con người. Có thể nói tác giả đã hóa thân vào nhân vật này để đưa ra
những nhận xét, đánh giá chứa chan tinh thần nhân đạo về cuộc đời, con người. Đây là
một quan niệm hết sức tiến bộ định hướng cho những sáng tác của nhà văn sau này.
3.Kết bài:
Đoạn trích trên là những lời triết lí sâu sắc của nhà văn Nam cao về con người và
cuộc đời, khẳng định một thái độ, một cách ứng xử mang tính nhân đạo sâu sắc. Từ
nhận định đó em cũng rút ra được bài học cho mình trong cuộc sống. Đó là khi đánh
giá, nhận xét về một con người chúng ta cần quan sát, suy nghĩ đầy đủ về họ, phải biết
nhìn nhận họ bằng lòng đồng cảm, bằng đôi mắt của tình thương thì mới nhận ra và
trân trọng những phẩm chất đáng quý ở họ.

13. Truyện, kí Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 có nhiều tác phẩm
đặc sắc của những tác giả tiêu biểu như Nguyên Hồng với “Những ngày thơ ấu”, Ngô
Tất Tố với tiểu thuyết “Tắt đèn”, Nam Cao với truyện ngắn “ Lão Hạc”. Cả ba tác
phẩm này đều viết về con người và cuộc sống đương thời với một tinh thần nhân đạo
sâu sắc.
Trước hết ta cần hiểu thế nào là tinh thần nhân đạo? Đó chính là tình yêu thương
con người, sự thông cảm và chia sẻ với những lỗi đau của con người, ca ngợi những
phẩm chất tốt đẹp của con người và lên án, tố cáo những cái xấu xa chà đạp lên quyền
sống của con người.
Cả ba văn bản trên đều chan chứa tinh thần nhân đạo sâu sắc. Trước hết, các tác
phẩm đó đã diễn tả một cách chân thực và cảm động những nỗi đau, những bất hạnh
của con người. Đó là tình cảnh nguy khốn của gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế.
Thứ thuế thân – loại thuế đánh vào thân thể, mạng sống của con người, thể hiện sự vô
nhân đạo, chỉ con con người như súc vật, như hàng hóa của chế độ thực dân phong
kiến. Anh Dậu đang ốm rề rề tưởng đã chết thì bọn cai lệ lại xông tới để đánh trói, kìm
kẹp lôi anh ra đình đánh tiếp vì còn thiếu xuất sưu của người em đã chết từ năm ngoái.
Mặc cho chị Dậu tha thiết van xin, chúng vẫn sấn tới để trói anh Dậu, tát vào mặt chị
Dậu.
Còn nhà văn Nam Cao lại thông cảm với nỗi khổ của Lão Hạc trong cảnh nghèo
đói xơ xác. Vì nghèo không đủ tiền cưới vợ cho con nên con đã bỏ đi làm ăn nơi khác.
Ngheo đến nỗi không nuôi nổi một con chó mà phải bán nó đi trong nỗi day dứt ân
hận vì trót lừa một con chó. Và cái nghèo đã đẩy lão đến bước đường cùng là phải ăn
bả chó tự tử để giải thoát cho cuộc đời khốn khổ của mình.
Nguyên Hồng lại thông cảm xót xa cho tình cảnh của mẹ con bé Hồng. Vì những
hủ tục lạc hậu, những thành kiến tàn ác của xã hội mà mẹ bé Hồng phải xa lìa anh em
Hồng đi tha hương cầu thực, kiếm ăn nơi khác để cho Hồng phải sống trong sự ghẻ

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 18 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
lạnh của họ hàng, thiếu thốn tình mẫu tử. Hỗi đã phải chịu bao nỗi cay đắng , tủi nhục
trước những lời nói độc địa của bà cô.
Thông cảm với nỗi đau, nỗi bất hạnh của con người bao nhiêu thì các nhà văn lại
lên án, tố cáo chế độ thực dân nửa phong kiến bấy nhiêu. Xã hội đó đã đặt ra bao thứ
thuế vô nhân đạo để bóc lột sức lao động của con người, chà đạp lên quyền sống,
quyền được hưởng hạnh phúc của con người. Đại diện cho xã hội tàn bào đó là tên tay
sai hung hãn, mất hết nhân tính. Hắn sầm sập tiến vào nhà chị Dậu với những roi song,
tay thước, dây thừng… Hắn chỉ biết quát, mắng, hầm hè, đánh đập mà không có một
chút rung cảm nào trước tình cảnh khốn cùng của gia đình chị Dậu, trước những lời
van xin tha thiết của chị. Xã hội thực dân nửa phong kiến ấy còn sản sinh ra những
con người vô cảm, độc ác, tàn nhẫn, cạn khô tình máu mủ ruột rà ngay cả với đứa
cháu ruột thịt của mình.( Nhân vật bà cô trong đoạn trích trong lòng mẹ)
Nhưng có lẽ, tinh thần nhân đạo thể hiện rõ nhất trong ba tác phẩm này đó chính
là các nhà văn đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, những tình cảm, những mối quan
hệ tốt đẹp của con người. Chính trong những hoàn cảnh khốn khó, thử thách ghê gớm
thì những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân lại luôn tỏa sáng.
Chị Dậu là người phụ nữ thương chồng thương con sâu sắc. Chị có thể làm tất cả
vì chồng. Thấy chồng được tha về nhà như một cái xác không hồn, chị đã nấu cháo,
quạt cho nguội, bưng đến cho chồng ăn. Khi bọn cai lệ đến thúc sưu, chi tha thiết van
xin, nhẫn nhục chịu đựng để bảo vệ chồng. Nhưng bọn cai lệ mất hết nhân tính ấy
không nghe những lời van xin của chị mà cứ sấn tới trói anh Dậu rồi tát vào mặt chị
thì chị đã vùng lên chống trả quyết liệt. Chị đã nghiến hai hàm răng vào mà thách thức
chúng: “Máy trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Cùng với lời thách thức đó chi
đã xông tới để đánh nhau với chúng và cuối cùng chị đã chiến thắng hai tên tay sai có
đầy đủ vũ khí trong tay. Sức mạnh của chị là sức mạnh của lòng căm hờn và uất hận
nhưng đó còn là sức mạnh của tình yêu thương mà chị dành cho chồng.
Còn dưới ngòi bút của Nam Cao, Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ nhưng
có tình yêu thương con sâu nặng và lòng tự trọng cao quý. Nhà nghèo, vợ mất sớm,
con lại bỏ đi làm ăn xa, lão chỉ có mỗi cậu Vàng làm bạn nhưng vì túng quẫn quá lão
quyết định bán cậu Vàng. Bán chó xong lão lại đi đến một quyết định mới: lão gửi ông
giáo tiền để lo hậu sự cho mình, nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn cho con trai lão, về
nhà lão kiếm được cái gì thì ăn cái đó, lão từ chối hoàn toàn sự giúp đỡ của ông giáo.
Khi không kiếm được gì ăn nữa thì lão xin Binh Tư ít bả chó về để kết thúc cuộc đời
của mình. Lão chết để giải thoát cho cuộc đời khốn khổ của mình, để bảo toàn căn nhà
và mảnh vườn cho con. Như thế, cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con
âm thầm mà sâu lắng, lòng tự trọng cao quý đáng kính của lão.
Đến với văn bản “Trong lòng mẹ” ta lại thấy được nõi cay đắng của chú bé Hồng
trong cảnh ngộ éo le: cha chết chưa đoạn tang, mẹ đi tha hương cầu thực, em sống
trong sự ghẻ lạnh của họ nội. Hồng luôn nhớ mẹ, khát khao được gặp mẹ nên vừa nhìn
thấy người ngồi trên xe giống mẹ em đã chạy theo gọi bối rối. Đuổi theo mẹ, chán
đẫm mồ hồi, em ríu cả chân lại rồi òa khóc nức nở. Đó không phải là giọt nước mắt
chứa chất sự căm ghét, đau khổ mà là giọt nước mắt hạnh phúc, mãn nguyện của một
đứa con xa mẹ lâu ngày nay được gặp lại. Ngồi trong lòng mẹ, cảm giác ấm áp bao lâu
nay mất đi bỗng mơn man khắp da thịt. Em đã quên hết những lời nói sai lệch của bà
cô về mẹ, trong em chỉ còn lại tình mẹ yêu con, tình con cháy bỏng mà thôi.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 19 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Tóm lại, với phương thức tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm cả ba văn bản trên
đều thể hiện được tình yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của các nhà văn đối với
những mảnh đời bất hạnh. Bên cạnh đó các nhà văn còn ca ngợi, đề cao, trân trọng
nâng niu những phẩm chất tốt đẹp ợ họ.Đó cũng là giá trị chu yếu của tác phẩm: giá trị
nhân đạo sâu sắc.

Ngày soạn: 6/10/2014


Buổi 6 ÔN TẬP BỐ CỤC VĂN BẢN,
CÁCH XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp hs xác định được bố cục trong một văn bản, biết xây dựng bố cục của một văn
bản.
- Nhận diện đoạn văn, cách trình bày đoạn văn và biết cách xây dựng đoạn văn trong
văn bản.
II/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1/ Bố cục là gì?
2/ Cách bố trí, sắp xếp bố cục các đoạn văn trong phần thân bài.
3/ Khái niệm đoạn văn.
4/ Các cách trình bày đoạn văn: diễn dịch, quy nạp, song hành, tổng – phân – hợp.
III/ BÀI TẬP CỦNG CỐ, NÂNG CAO
1/Dựa vào những hiểu biết về về bố cục, hãy chia văn bản sau thành các đoạn văn sao
cho phù hợp với nội dung chủ đề của văn bản.
Cây và hoa bên lăng Bác
Trên quảng trường Ba Đình lịch sử, Lăng Bác uy nghi mà gần gũi. Cây và hoa
khắp miền đất nước về đây tụ hội, đâm chồi phô sắc và tỏa ngát hương thơm. Ngay
thềm lăng, mười tám cây vạn tuế tượng trưng cho một hàng quân danh dự đứng trang
nghiêm. Những cây chò nâu của đất Tổ từ Vĩnh Phú về sóng đôi suốt dọc đường Hùng
Vương. Hướng chính lăng, cạnh hàng dầu nước thẳng tắp, những đóa hoa ban đã nở
lứa đầu. Sau lăng, những cành đào Tô Hiệu của Sơn La khỏe khoắn vượt lên, reo vui
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 20 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
với nhành sứ đỏ của đồng bằng Nam Bộ. Và mai tứ quý, mai vàng miền Nam, song
mai Đông Mĩ của thủ đô Hà Nội điểm xuyết những nụ tươi. Trên bậc tam cấp, hoa dạ
hương chưa đơm bông nhưng hoa nhài trắng mịn, hoa mộc, hoa ngâu kết chùm đang
tỏa hương ngào ngạt. Cây và hoa của non sông gấm vóc đang dâng niềm tôn kính
thiêng liêng theo đoàn người vào lăng viếng Bác.
2/ Đoạn văn sau đây có trình tự sắp xếp lộn xộn:
Phải bán con, chị Dậu như đứt từng khúc ruột.(1) Gia cảnh đã đến bước đường
cùng buộc chị phải làm cái việc đau lòng ấy.(2) Xót chồng đau ốm mà bị đánh đập,
cùm kẹp, chi đã lấy thân mình che chở cho chồng.(3) Thậm chí, chị còn sẵn sàng
chống trả lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng để bảo vệ anh Dậu.(4) Chị Dậu là hình
ảnh của người phụ nữ thương chồng, thương con, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.(5)
Đến khi bị giải lên huyện, ngồi trong quán cơm mà nhịn đói, chị vẫn nghĩ đến chồng,
đến cái Tửu, thằng Dần, cái Tí.
a) Xác định câu chủ đề của đoạn văn?
b) Sắp xếp lại thứ tự các câu văn sao cho hợp lí và nói rõ cách trình bày nội dung của
đoạn văn sau khi đã sắp xếp.
3/ Viết câu chủ đề thích hợp cho đoạn văn sau( chỉ rõ vị trí của nó trong đoạn văn, cho
biết cách trình bày nội dung đoạn văn)
Cũng như các thi sĩ của mọi thời đại, Bác viết nhiều bài thơ về đề tài trăng. Và
trăng đến với thơ Bác trong nhiều hoàn cảnh thật khác nhau. Bác ngắm trăng qua
song sắt nhà tù. Bác thưởng thức ánh trăng trên đường đi, khi bị kẻ thù giải từ nhà lao
này sang nhà lao khác. Bác cảm nhận vẻ đẹp của trăng giữa không gian mênh mông
của núi rừng Việt Bắc. Bác trò chuyện cùng trăng khi đang chờ tin thắng trận. Với
Bác, trăng là ánh sáng, là thanh bình, là hạnh phúc, là ước mơ, là niềm an ủi, là
người bạn tâm tình. Với Bác, trăng làm cho cảnh vật trở nên êm đềm; làm cho tâm
hồn người trở nên trong trẻo.
4/ Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Người ta nói “đấy là bàn chân vất vả”. Những ngón chân của bố khum khum, lúc
nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ
rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu
bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm
nước nóng hòa muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi ngủ bố rên, rên vì
đau mình, nhưng cũng rên vì nhức chân.
a) Nội dung của đoạn văn là gì? Hãy thử đặt tiêu đề cho đoạn văn?
b) Tìm những từ ngữ chủ đề của đoạn văn?
c) Đoạn văn có câu chủ đề không? Nếu có hãy chỉ ra câu đó?
d) Các câu trong đoạn văn được trình bày theo cách nào? Có thay đổi được vị trí của
các câu đó không?
5/ Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời câu hỏi bên dưới:

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 21 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Cũng như đồi mồi ở nơi khác, đồi mồi Hà Tiên giá trị nhất ở cái mai. Ở đây, có
những con nặng tới bảy tám chục ki –lô –gam, đường kính của cái mai lên gần một
mét và có thể bóc lên một ki –lô – gam vảy. Vảy đồi mồi được dùng vào nhiều việc,
nhất là làm những đồ mĩ nghệ: từ cán dao, gọng kính, hộp thuốc lá cho đến các bình
cắm hoa, trâm, lược, quạt, giá gương soi…Tất cả đều là những mặt hàng xuất khẩu có
giá trị. Đồi mồi đã làm cho Hà Tiên trở thành một trong những mảnh đất quý của tổ
quốc ta.
a) Chỉ ra câu chủ đề của đoạn văn?
b) Đoạn văn trên được trình bày theo cách nào?
6/ Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho
mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm
dài nhìn ra của sổ thấy những vệt xanh tươi hiện trên nền trời, mình cảm thấy rạo rực
một niềm vui sáng sủa. Trên giàn thiên lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị
hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng
rung động như cánh con ve mới lột.
a) Nội dung của đoạn văn là gì?
b) Các câu trong đoạn văn được liên kết theo mô hình nào? Vì sao?
7/ Cho câu chủ đề sau( câu mở đoạn):
“ Em quên thế nào được những kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học lớp Một”
a) Viết tiếp câu chủ đề trên để có một đoạn văn diễn dịch từ 10 đến 12 câu.
b) Sau đó chuyển đổi đoạn văn đó thành đoạn văn quy nạp. Nêu cách chuyển đổi.
8/ Cho câu chủ đề sau:
“ Ca dao và tục ngữ Việt Nam đã diễn tả sâu sắc tình cảm yêu thương cộng đồng”
Hãy việt tiếp câu chủ đề trên để có một đoạn văn nghị luận chứng minh theo kiểu tổng
– phân – hợp.
III/ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Mở bài: Từ đầu …..tỏa ngát hương thơm.
Thân bài: tiếp….ngào ngạt.
Kết bài: còn lại
2/a) Câu chủ đề: Chị Dậu là hình ảnh của người phụ nữ thương chồng, thương con,
giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
b) Sắp xếp đoạn văn theo cách diễn dịch:câu 5=>3=>4=>1=>2=>6.
3/ Câu chủ đề: Trong thơ Bác, ánh trăng luôn tràn đầy.( đặt ở cuối đoạn văn=> quy
nạp)
4/a) Đoạn văn vừa miêu tả bàn chân bố vừa bày tỏ tình cảm thương xót, biết ơn trước
những hi sinh thầm lặng của bố.
Nhan đề: Bàn chân của bố
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 22 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
b) Từ ngữ chủ đề: bàn chân, ngón chân, gan bàn chân, mu bàn chân, nhức chân…
c) Câu chủ đề: Người ta nói “đấy là bàn chân vất vả”
d) Trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch. Không thể thay đổi được vị trí của các câu
văn, câu chủ đề không thể đưa vào giữa đoạn văn.
5/ a) Câu chủ đề: Đồi mồi đã làm cho Hà Tiên… tổ quốc ta
b) Đoạn văn được trình bày theo cách quy nạp.
6/a) Đoạn văn không có câu chủ đề, các câu trong đoạn văn cùng hướng tới một nội
dung: miêu tả cảnh mùa xuân ở miền Bắc.
b) Đoạn văn trình bày theo cách song hành.

TỪ VỰNG, TỪ TƯỢNG THANH, TỪ TƯỢNG HÌNH


Ngày 16/10/2014
TUẦN 6 ÔN TẬP
TRƯỜNG
I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
- Giúp học sinh củng cố kiến thức về trường từ vựng và từ tượng thanh, từ tượng
hình.
- Làm bài tập thực hành.
II/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1/ Khái niệm trường từ vựng.
2. Thế nào là từ tượng thanh, từ tượng hình.
III/ BÀI TẬP CỦNG CỐ NÂNG CAO
1/ Lập các trường từ vựng với mỗi từ sau: cây, cá, mưa.
2/ Đọc các đoạn văn sau và tìm các từ ngữ cùng trường từ vựng:
a) Nắng gửi thêm màu đẹp trên hoa. Màu hoa vàng càng xốp như những giọt nắng kết
tinh. Chân bướm tím dính đầy những hạt phấn hoa hay là những giọt nắng?… Hoa
biến đi để những chùm quả nõn chung màu với cây và lá.( Ngô Văn Phú)
b) Biển đã gửi lên trưng bày một số sản vật, hé cho nom thấy một phần dù là rất nhỏ,
sự phong phú vô vận của mình: những con thèn, lườn phơn phớt hồng kẻ hai sọc vàng
óng ánh; con lượng, to bằng bàn tay, thắm đỏ; con thửng, mình tròn, thịt ngọt và mềm,
ngoài Bắc quen gọi là con cá mối vì nó giống hình con mối; con trác, mắt rất to viền
một vành tròn đỏ màu phẩm như mắt tướng tuồng; con cá bò, mắt viền vàng, một cái

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 23 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
gai dựng chóc ngóc trên lưng; con chuồn đầu phình to mum múp, vốn là cá đi nổi.
( Bùi Hiển)
c) Mưa đến rồi, lẹt đẹt…, lẹt đẹt…mưa giáo đầu. Những giọt nước to lăn xuống
mái phên nứa: mưa thực rồi. Mưa ù xuống khiến cho mọi người không tưởng được là
mưa lại kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ bao nhiêu nước
tuôn rào rào. Mưa rào trên sân gạch. Mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào
lòng lá chuối. Tiếng giọt tranh đổ ồ ồ…
Nước chảy đỏ ngòm bốn bề sân cuồn cuộn dồn vào các rãnh cống đổ xuống ao
chuôm. Mưa xối nước được một lúc lâu thì bỗng trong vòm trời tối thẫm vang lên một
hồi ục ục ì ầm. Tiếng sấm, tiếng sấm của mưa mới đầu mùa.
Mưa đã ngớt. Trời rạng dần. Mấy con chim chào mào từ hốc cây nào đó bay ra
hót râm ran. Mưa tạnh, phía đông một mảng trời trong vắt. Mặt trời ló ra, chói lọi trên
những vòm lá bưởi lấp lánh.( Tô Hoài)
3/ Cho đoạn các văn sau:
a) Sau giây phút hoàn hồn, con chim quay đầu lại, giương đôi mắt đen tròn, trong
veo như hai hạt cườm nhỏ lặng nhìn Vinh tha thiết. Những âm thanh trầm bổng, ríu
ran hòa quyện trong nhau vừa thân quen, vừa kì lạ. Con chim gật đầu chào Vinh rồi
như một tia chớp, tung cánh vụt về phía rừng xanh thẳm.
b) Thiên nga thật là một loài chim biết tự khoe vì vẻ đẹp và các động tác múa của
mình. Nếu như bầy chim công múa rất dẻo, uyển chuyển, nhịp nhàng, xứng đáng là
nghệ sĩ của rừng xanh, thì thiên nga còn được gọi là những giọng nữ cao tuyệt diệu,
ngoài các động tác múa khỏe khoắn của nó.
Chúng vừa múa vừa hát. Cặp chân vàng run rẩy tạo nên những đường nét khỏe
khoắn. Đôi cánh xòe trên mặt cỏ xanh xoay tròn, nom giống như một bông hoa ê-puy
đẹp tuyệt vời, đến chim anh vũ bay qua cũng phải nghiêng đầu tìm chỗ đậu để thưởng
thức.( Thiên Lương)
Tìm các từ thuộc trường từ vựng chỉ Người.
Các từ được dùng như vậy thuộc phép tu từ nào?
4/ Có bao nhiêu trường từ vựng trong các từ được in đậm ở đoạn văn sau:
Vào đêm trước ngày khai trường của con, mẹ không ngủ được. Một ngày kia,
còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Còn bây giờ, giấc ngủ đến
với con dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của con
tựa nghiêng trên gối mề, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.
( Lí Lan)
5/ Từ nghe trong câu sau đây thuộc trường từ vựng nào?
Nhà ai vừa chín quả đầu
Đã nghe xóm trước vườn sau thơm lừng.
6/ Tìm các từ thuộc trường từ vựng sau: chỉ hoạt động dùng lửa của con người; trạng
thái tâm lí của người, trạng thái chưa quyết đinh dứt khoát, tính tình của con người.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 24 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
7/ Trong các từ sau đây, từ nào là từ tượng thanh, từ nào là từ tượng hình: réo rắt, dềnh
dàng, dìu dặt, thập thò, mấp mô, sầm sập, gập ghềnh, đờ đẫn, ú ớ, rộn ràng, thườn
thượt, lụ khụ.
8/ Tìm các từ tượng hình trong đoạn thơ sau và cho biết giá trị gợi cảm của mỗi từ:
Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán mênh mông thanh thản một vùng trời.
Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi giả, tươi mãi tuổi đôi mươi!
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.( Tố Hữu)
9/ Phân tích nghệ thuật sử dụng từ tượng thanh, từ tượng hình trong bài thơ Qua Đèo
Ngang của Bà huyện Thanh Quan.
10/ Trong đoạn văn sau đây, những từ nào là từ tượng hình? Sử dụng các từ tượng
hình đó tác giả muốn gợi tả đặc điểm nào của nhân vật?
Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong thả bởi vì người khí to béo
quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở bên dưới nách
kềnh ra và trông tủn ngủn như ngắn quá. Cái dáng điệu nặng nề ấy, hồi còn ở Hà Nội
anh mặc quần áo tây cả bộ, trông chỉ thấy chững chạc và hơi bệ vệ.
(Nam Cao)
11/Viết một đoạn văn ngăn có sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh.(gạch chân các
từ đó)
IV/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Trường từ vựng chỉ “Cây”:
Các loại cây: cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây lương thực.
Các bộ phận của cây: thân, lá,hoa, cảnh rễ…
Tính chất của cây: cao, thấp, to, bé, khẳng khiu…
2 a) Trường từ vựng chỉ cây: hoa, màu hoa, hạt phấn hoa, chùm quả, lá
b) Trường tự vựng cá: con thèn, con lượng, con thửng, cá mối, con trác, con cá bò, con
chuồn.
c) Trường từ vựng mưa: lẹt đẹp, mưa giáo đầu, nước to, lách tách, rào rào, đồm độp,
bùng bùng, ồ ồ, cuồn cuộn, mưa xối, mưa ngớt, tạnh.
3) a) hoàn hồn, quya đầu lại, giương đôi mắt đen tròn, lặng nhìn tha thiết, gật đầu
chào.
b) khoe, múa, dẻo, uyển chuyển, nhịp nhàng, nghệ sĩ, giọng nữ cao tuyệt diệu, múa
khỏe khoắn, thưởng thức.
- Các từ được dùng như vậy thuộc phép tu từ nhân hóa.
4/ Trường từ vựng chỉ quan hệ ruột thịt: mẹ, con.
Trường từ vựng hoạt động của người: ngủ, uống, ăn

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 25 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Trường từ vựng chỉ hoạt động của môi người : mút, chúm, hé mở.
5/ Từ “nghe” thuộc trường từ vựng khứu giác.( ẩn dụ chuyển đổi cảm giác)
6) Trường từ vựng chỉ hoạt động dùng lửa của con người: Châm, đốt, nhen nhóm, bật,
quẹt, thổi, dụi, vùi…
Trường tự vựng trạng thái tâm lí của người: vui, buồn, mừng, giận. hờn, dỗi…
Trạng thái chưa quyết đinh dứt khoát: Do dự, lưỡng lự, chần chừ
Tính tình của con người: Hiền, dữ, vui vẻ, lạnh lùng.
7/ Từ tượng thanh: réo rắt, dìu dặt, ú ớ, rộn ràng.
8/Từ tượng hình: mênh mông, thanh thản, chập choạng, hốt hoảng dùng để miêu tả
hành động, trạng thái của con người và sự vật làm cho hành động trở nên cụ thể hơn,
tác động mạnh mẽ vào nhận thức của con người,
10/ Từ tượng hình: khệnh khạng, kềnh kệnh, tủn ngủn, nặng nề, bệ vệ
Các từ tượng hình này có tác dụng lột tả cái béo trong dáng điệu của nhân vật Hoàng.

Ngày 22/10/2014
TUẦN 7 ÔN TẬP TRỢ TỪ, THÁN TỪ,
CÁCH XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN.

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Củng cố cho học sinh kiến thức về từ loại trợ từ, thán từ, cách xây dựng đoạn văn
trong văn bản.
- Ứng dụng làm bài tập.
II/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1/ Trợ từ là gì?
2/ Thán từ là gì?
3/ Có những cách xây dựng đoạn văn như thế nào?
III/ BÀI TẬP CỦNG CỐ, NÂNG CAO
1/ Tìm trợ từ trong các câu sau:
a) Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn:
hôm nay tôi đi học.
b) Mấy cậu học trò đi trước ôm sách vở nhiều lại kèm cả bút thước nữa.
c) Đột nhiên lão bảo tôi:
- Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy ông giáo ạ!
d) Tôi quên cả mẹ tôi đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng
túng.
2/ Tìm các thán từ trong các câu sau và cho biết chúng dùng làm gì?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 26 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Này, bác bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn.
b) Gõ đầu roi xuống đât, cai lệ thét bằng cái giọng khàn khàn của người hút nhiều xái
cũ:
- Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
c) Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng thế thôi. Xin ông trông
lại!
d) Chao ôi, có biết đâu rằng: hung hăng, hống hách láo chỉ tổ đem thân mà trả lợ cho
những cử chỉ ngu dại của mình thôi.
e) Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì diệu làm
sao!
g) Ha ha! Một lưỡi gươm.
h) Vâng! Ông giáo dạy phải!
i) À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão.
k) Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy.
3/ Cho các đoạn văn sau đây, phân tích và chỉ ra cách trình bày nội dung đoạn
văn:
a) Dạy văn ở trường phổ thông có nhiều mục đích. Trước hết, nó tạo điều kiện cho
học sinh tiếp xúc với một loại sản phẩm đặc biệt của con người, kết quả của một thứ
lao động đặc thù- lao động nghệ thuật. Đồng thời, dạy văn chính là hình thức quan
trọng giúp các em hiểu biết, nắm vững và sử dụng tiếng mẹ đẻ cho đúng, cho hay. Dạy
văn chương cũng là một trong những con đường của giáo dục thẩm mĩ.
b) Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm cá cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.
( HCM)
c) Những cách chống nạn đói chia la làm mấy hạng: như cấm nấu rượi bằng gạo hay
bắp, cấm các thứ bánh ngọt…để cho đỡ tốn ngũ cốc. Như vùng này san sẻ thức ăn cho
vùng khác, đỡ đần cho các vùng khác. Như ra sức tăng gia, trồng các thứ rau, khoai…
Nói tóm lại, bất cứ cái gì, hễ làm cho dân đỡ đói lúc này và ngăn ngừa nạn đói mùa
sau, chúng ta đều phải làm cả.(HCM)
d) Chẳng có nơi nào đẹp như sông Thao quê tôi, rừng cọ trập trùng. Thân cọ cao vút.
Búp cọ dài như thanh kiếm sắc. Lá cọ tròn xòe ra nhiều phiến nhọn dài.
e) Kể cũng lạ, con người sinh ra từ lúc chào đời là khóc, chứ không phải là cười. Rồi
từ khi sinh ra cho tới lúc từ giã cõi trần gian còn có bao nhiêu điều cần khóc, phải
khóc. Khóc vì đau khổ, khóc vì oan ức, buồn tủi, giận hờn, thương cảm, trái ngang và
lại cả vì vui sướng, hạnh phúc. Vậy thì xem ra tiếng khóc không phải ít cung bậc và
càng không ít ý nghĩa so với tiếng cười. Nhưng tại sao dân gian chỉ toàn sáng tạo ra
truyện tiếu lâm để gây cười mà không tạo ra truyện để gây khóc?
4/ Cho đoạn văn sau:
Xưa nay người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì
biến mất thành còn, hóa nhỏ thành lớn; mất thời không thế, thì trở mạnh ra yếu, đổi
yên làm nguy, chỉ ở trong khoảng trở bàn tay thôi. Nay các ngươi không rõ thời thế,
chỉ giả dối quen thân há chẳng phải là dạng thất phu đớn hèn, sao đủ nói chuyện việc
binh được.(Nguyễn Trãi)
Có bạn cho rằng đoạn văn trên được viết theo kiểu diễn dich, có bạn cho rằng
đó là đoạn văn quy nạp, cũng có bạn cho rằng đó là đoạn văn tổng – phân – hợp.
Ý kiến của em thế nào? Hãy lí giải để các bạn cùng hiểu và thống nhất.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 27 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
5/ Cho văn bản sau:
Khi những trận mưa rào mùa hạ còn chưa dứt hẳn, nếu nhìn lên bầu trời, rất có
thể bạn sẽ bắt gặp một chiếc cầu vồng rực rỡ. Bạn có biết ai đã tạo nên chiếc cầu đó
không?
Trước hết, người có công đầu trong việc làm nên cầu vồng là ông Mặt Trời.
Ngày ngày, Mặt Trời mang ánh nắng sưởi ấm cho Trái Đất. Thoạt nhìn, có thể bạn
tưởng ánh sáng Mặt Trời chỉ có mỗi một màu sáng trắng. Nhưng thực ra, mặt trời gồm
nhiều màu lắm.
Bên cạnh Mặt Trời, không thể quên vai trò của chị Mưa trong việc làm nên cầu
vồng. Vô vàn hạt nước mưa là vô vàn lăng kính bé xíu, giúp cho những màu sắc khác
nhau vốn cùng trốn trong ánh sáng Mặt Trời giờ đứng riêng ra. Vậy là cầu vồng bảy
sắc dần dần hiện ra, rực rỡ giữa bầu trời.
Lạ hơn nữa, đôi lúc bạn có thể thấy ngay bên chiếc cầu vồng chính, còn có một
chiếc cầu vồng khác, mờ hơn một chút. Thậm chí, lúc đi trên máy bay, nếu may mắn,
bạn cũng có thể thấy ngay phía dưới mình một chiếc cầu vồng hình tròn.
Cuối cùng bạn đã hiểu sơ qua nhờ phép màu nào, mà xuất hiện chiếc cầu vồng
tuyệt đẹp rồi chứ? Từ giờ, mỗi khi thấy cầu vồng xuất hiện, bạn hãy ngắm thật kĩ và
nhớ lại câu chuyện này nhó!
a) Văn bản trên gồm mấy đoạn văn nối tiếp nhau? Người viết đã dùng phương tiện nào
để chuyện đoạn văn? Gọi tên phương tiện chuyển đoạn đó?
b) Đặt nhan đề cho văn bản?
c) Để văn bản hấp dẫn người viết đã chọn biện pháp nghệ thuật nào? Chỉ ra và nêu tác
dụng của biện pháp nghệ thuật đó?

IV/ TRẢ LỜI CÂU HỎI


1/Các trợ từ:
a) chính, b) lại; c) đến; d) cả.
2/ Các thán từ:
a) Này => dùng để gọi.
b) Thằng kia => dùng để gọi.
c) Khốn nạn => dùng để bộc lộ cảm xúc.
d) Chao ôi => dùng để bộc lộ cảm xúc
e) Chà => dùng để bộc lộ cảm xúc
g) Ha ha=> dùng để bộc lộ cảm xúc.
h) Này=> dùng để gọi.
i) À => gây sự chú ý.
3/
a) Đoạn văn diễn dịch.
b) Song hành
c) Quy nạp
d) Diễn dịch
e) Quy nạp.
4/ Đoạn văn trình bày theo kiểu tổng phân hợp vì: câu 1 là câu chủ đề và câu cuối
cũng là câu chủ đề ở vị trí kết đoạn.
5/

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 28 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
a) Văn bản có 5 đoạn văn. Phương tiện chuyển đoạn là dùng các từ ngữ chỉ trình tự:
Trước hết- bên cạnh- lạ hơn- cuối cùng.
b) Nhan đề: Cầu vồng
c) Văn bản sử dụng nghệ thuật nhân hóa: ông Mặt Trời, chị Mưa làm lời văn thêm
sinh động, các sự vật trở thành những con người làm nên những điều kì diệu cho thiên
nhiên tươi đẹp, rực rỡ.

Ngày 26/10/2014
TUẦN 8
ÔN TẬP VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
Cô bé bán diêm, Chiếc lá cuối cùng, Đánh nhau với cối xay gió
I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm? Tóm tắt tác phẩm và
phân tích cảm nhận được các nhận vật trong tác phẩm
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tóm tắt văn bản Cô bé bán diêm bằng một đoạn văn từ 10 -15 dòng?
2.Tìm những chi tiết nói về hoàn cảnh bất hạnh của cô bé bán diêm. Để tô đậm nỗi
khổ cực của em bé tác giả đã sử dụng BPNT nào? Tác dụng của BPNT đó?
3. Trong truyện cô bé quẹt diêm mấy lần? Những mộng tưởng của cô được sắp xếp
theo trình tự nào? Vì sao thế giới mộng tưởng của em bé bán diêm lại được bắt đầu
bằng hình ảnh lò sưởi và kết thúc bằng hình ảnh người bà nhân từ?
4. Tại sao trong câu chuyện, hình ảnh người bà được nhắc đến nhiều nhất trong suy
nghĩ của cô bé?
5. Theo em, kết thúc truyện có phải là kết thúc có hậu không? Vì sao?
6. Viết đoạn văn tổng phân hợp nêu cảm nhận của em về nhân vật em bé bán diêm?
7. Tóm tắt văn bản Đánh nhau với cối xay gió bằng một đoạn văn khoảng 10 dòng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 29 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
8. Phân tích cặp nhân vật Đôn Ki hô tê và Xan- chô Pan xa để thấy được mặt tốt và
mặt xấu của từng nhân vật? Xây dựng cặp nhân vật này tác giả đã sử dụng BPNT nào?
Tác dụng?
9. Tóm tắt nội dung truyện Chiếc lá cuối cùng.
10. Mô tả tâm trạng của Gi ôn – xi trước và sau khi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng? Sự
chuyển biến trong tâm trạng của cô như thế nào?
11. Nhân vật Xiu được O Hen – ri khắc họa như thế nào?
12. Hãy cho biết kết cấu độc đáo của truyện Chiếc lá cuối cùng.
13. Tại sao khi nói chuyện với Giôn – xi, Xiu lại khẳng định bức tranh của cụ Bơ –
men là một kiệt tác?
14. Hãy viết một đoạn văn tự sự ghi lại lời độc thoại của cụ Bơ –men khi cùng Xiu sợ
sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân đang rụng dần những chiếc lá cuối
cùng?(phần đầu đoạn trích đã học)
15. Hãy tưởng tượng ra sự phản ứng của Giôn xi khi nghe Xiu kể về chiếc lá cuối
cùng và cái chết của cụ Bơ men rồi viết lại phần kết của câu chuyện.
16. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em sau khi học xong văn bản Chiếc lá cuối cùng?
17. Nhập vai cụ Bơ – men để kể lại câu chuyện theo ngôi kể thứ nhất trong đó có sử
dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm?
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1. Em bé gái nhà nghèo, sớm mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất đi bán diêm trong đêm
giao thừa. Cả ngày cuối năm em không bán được bao diêm nào, không ai bố thí cho
em một đồng nào nên em không dám về nhà vì sợ cha đánh mắng. Em quẹt một que
diêm để sưởi ấm, thấy một lò sưởi hiện ra trước mắt em. Khi diêm tắt lò sưởi biến mất.
Em quẹt que diêm thứ 2 thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện ra, có con ngỗng quay tiến về
phía em. Quẹt que diêm thứ 3 thấy hiện ra cây thông No- en được trang trí lộng lẫy.
Quẹt que diêm thứ 4, bà nội hiền hậu hiện ra trước mắt em, và em cầu xin bà cho em
đi cùng với bà. Để líu giữ bà ở lại, em đã quẹt tất cả các que diêm còn lại. Sáng hôm
sau người ta thấy em bé đã chết bên một bao diêm đã quẹt hết.
2.
Hoàn cảnh:
+ Mẹ mất sớm, bà yêu thương em cũng mất từ lâu, sống với bố nhưng bố luôn mắng
nhiếc, chửi rủa em, đi bán diêm trong trời lạnh mà không dám về nhà vì sợ bị bố
mắng.
+ Sống trong ngôi nhà rách rưới, tồi tàn.
+ Phải đi bán diêm trong thời tiết khắc nghiệt để kiếm sống.
Nghệ thuật: tương phản đối lập.
+ Trời rét – em bé đầu trần, chân đất.
+ Phố sực nức mùi ngỗng quay – em bé bụng đói.
+ Bà còn sống, ngôi nhà của em xinh xắn – hiện tại em sống trong một xó tối tăm.
+ Bà còn sống, em được yêu thương – nay suốt ngày em bị mắng chửi.
Tác dụng: giúp người đọc hình rõ nỗi bất hạnh của em bé, không chỉ khốn khổ về mặt
vật chất mà còn sống trong cảnh hờ hững của mọi người kể cả bố em.
3. Trong truyện em bé 5 lần quẹt diêm, các lần quẹt diêm diễn ra theo một trình tự hợp
lí.
- Lần 1: trời rét, mộng tưởng về chiếc lò sưởi.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 30 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
- Lần 2: Đang đói nên em mộng tưởng thấy bàn ăn thịnh soạn, sau khi đã được sưởi
ấm.
- Lần 3: mộng tưởng thấy cây thông Nô – en vì em đi bán diêm trong đêm giao thừa.
- Lần 4: mộng tưởng thấy bà nội, điểm tựa tinh thần duy nhất của em.
- Lần 5: quẹt tất cả diêm để níu bà ở lại va bà là người duy nhất yêu thương em.
- Thế giới mộng tưởng của em bé bắt đầu bằng hình ảnh lò sưởi vì em đang phải chịu
cái rét khủng khiếp với gió và tuyết trong đêm giao thừa.
- Nhưng em không chỉ phải chịu cái lạnh của thiên nhiên mà còn chịu cái lạnh của sự
thiếu vắng tình thương. Thiếu vắng hơi ấm của tình thương nên em trở nên côi cút.
Chính vì vậy mà hình ảnh bà hiện hậu đã hiện ra trong thế giới mộng tưởng của em.
Thế giới mộng tưởng này vừa là sự bù đắp nhưng cũng vừa tô đậm những bất hạnh
của em trong thế giới hiện thực.
4.
Hình ảnh người bà được được nhắc đến nhiều nhất trong tâm trí của cô bé vì bà
là người hiền hậu, thực sự yêu thương em.Bà to lớn và đẹp lão, bà cầm tay em, hai bà
cháu vụt bay cao mãi mà chẳng đói ré, buồn đau nào đe dọa họ nữa.
5.
Kết thúc truyện không phải là một kết thúc có hậu mà ta thường thấy trong
truyện cổ tích. Trong truyện cổ tích, các nhân vật thường tìm thấy hạnh phúc ngay
trong thế giới hiện tại chứ không phải trong thế giới thiên đường kì ảo. Hạnh phúc của
họ được mọi người chứng kiến còn hạnh phúc của em bé bán diêm thì chẳng ai biết,
cô đơn như chính cái chết giá lạnh của em vậy. Vì vậy, điều đọng lại khi đọc câu
chuyện không phải là niềm vui nhẹ nhõm mà là nỗi xót xa làm day dứt người đọc.
6.
Đọc văn bản Cô bé bán bán diêm, em vô cùng thương cảm và xót xa cho nỗi
bất hạnh của em bé bán diêm. Em phải sống trong sự thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh
thần. Trong đêm giao thừa, khi mọi người hạnh phúc trong những căn nhà ấm cúng thì
em đầu trần, chân đất đi bán diêm, vừa đói vừa rét mà không dám về nhà vì sợ cha
đánh mắng. Trong hoàn cảnh đói, rét và cô đơn ấy, em đã nhớ về những ngày đẹp đẽ,
hạnh phúc trong quá khứ khi bà nội em còn sống. Em đã quẹt diêm để sưởi ấm và tất
cả những điều em mong ước đều lần lượt hiện ra trong những lần quẹt diêm: từ lò
sưởi đến bàn ăn, cây thông Nô – en và bà nội nhân từ đều hiện ta trước mắt em. Và
điều em vui sướng nhất là bà nội hiền từ đã đến với em, em đã quẹt tất cả các que
diêm còn lại để níu giữ bà em ở lại. Những điều em bé mộng tưởng là ước mơ giản dị,
ngây thơ hồn nhiên của tuổi thơ trong sáng. Em khát khao có một cuộc sống vật chất
đầy đủ, được sống trong một gia đình hạnh phúc, được người thân yêu chiều chuộng,
chăm sóc. Đó là mong ước của tất cả những em bé nói riêng và của mọi người nói
chung. Thể hiện khát vọng và ước mơ của một em bé trong câu chuyện này, nhà văn
muốn gửi đến tất cả mọi người ở mọi thời đại một bức thông điệp: “Hãy yêu thương
con trẻ! Hãy dành cho con trẻ một cuộc sống bình yên và hạnh phúc! Hãy cho trẻ
một mái ấm gia đình! Hãy biến những mộng tưởng đằng sau ánh lửa diêm thành
hiện thực cho trẻ thơ”.
7.
Gặp ba bốn chục cái cối xay gió Đôn ki hô tên cho đó là những tên khổng lồ và
quyết xông vào tiêu diệt giống xấu xa mặc cho bác giám mã can ngăn. Kết quả của
cuộc giao đấu đó là Đôn ki hô tê đã thất bại thảm hại. Nhưng Đôn không hề nản lòng,
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 31 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
sửa lại kiếm, không ăn không ngủ mơ về tình nương cho giống các hiệp sĩ, tiếp tục đi
tìm chuyện phiêu lưu .
8.
Đôn Ki – hô – tê Xan – chô Pan xa
Nguồn gốc và - Dòng dõi quý tộc - Nông dân
dung mạo - Gầy gò, cao lênh khênh, cưỡi - Béo lùn, cưỡi trên con lừa
trên con ngựa cọm thấp lè tè.
Bản chất - Có khát vọng cao cả, đánh - Mong ước bình thường
nhau với cối xay gió vì nhầm - Chỉ lo cho bản thân
tưởng là kẻ ác. - Tỉnh táo và luôn chú ý đến
- Luôn muốn giúp ích cho đời quyền lợi của chính mình.
không quản ngại hi sinh.
- Đầu óc mê muội, hoang
tưởng vì đọc quá nhiều sách
vở.
Kết luận - Mỗi nhân vật đều có mặt tốt và mặt xấu, hai nhân vật này bổ
sung cho nhau thì sẽ trở thành một con người tốt, hoàn thiện.
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI( Chiếc lá cuối cùng)
1. Xiu, Gi ôn – xi và cụ Bơ men đều là những họa sĩ nghèo cùng thuê nhà ở gần
công viên Oa- sinh -tơn. Giôn – xi ốm nặng và nằm đợi chiếc lá cuối cùng của cây
thường xuân bên cửa sổ rụng xuống thì cô cũng sẽ lìa đời. Nhưng qua một buổi sáng
và một đêm mưa gió phũ phàng, chiếc lá cuối cùng vẫn không rụng. Điều đó khiến
Giôn – xi thoát khỏi ý nghĩ về cái chết. Người bạn gái của Giôn – xin đã cho cô biết
chiếc lá cuối cùng đó chính là kiệt tác của cụ Bơ –men. Cụ đã bí mật vẽ chiếc lá trong
một đêm mưa gió, khi mà chiếc lá cuối cùng rụng xuống để cứu sống Giôn -xi và cụ
đã chết vì bệnh sưng phổi.
2.
- Trước khi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng, Giôn xi rất tuyệt vọng, cô đồng nhất số mệnh
của mình với những chiếc lá của cây thường xuân. Do đó bệnh tình của cô ngày càng
nặng hơn, tưởng như không còn hi vọng nào nữa.
- Sau khi nhìn thấy chiếc lá cuồi cùng vẫn còn ở trên cành, giôn xi thực sự bất ngờ.
Một niềm hi vọng mới được nhen nhóm trong cô. Cô nhận ra “có một cái gì đấy đã
làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó và muốn chết là một tội”. Cô bắt đầu muốn ăn,
muốn ngồi dậy xem Xiu làm việc và hơn hết cô mơ ước một ngày nào đó lại được vẽ
vịnh Na – plơ. Dường như trước kia, Giôn xi tuyệt vọng khi nghĩ đến những chiếc lá
bao nhiêu thì giờ đây, một chiếc lá cuối cùng nhỏ nhoi lại thắp sáng lên niềm tin mãnh
liệt ở cô họa sĩ trẻ bấy nhiêu. Cô bắt đầu tìm thấy niềm lạc quan vui sống. Chiếc lá
cuối cùng còn sót lại kia là một phép màu có thật khiến cô hồi sinh trở về với cuộc
sống.

3. Xiu cũng là một họa sĩ nghèo cùng sống với giôn xi. Trong những ngày giôn xi
bị bệnh cô hết lòng yêu thương, chăm sóc, lo lắng cho người bạn gái của mình. Tình
yêu thương của cô thể hiện rõ khi những chiếc lá thường xuân cứ ít dần, mỗi lần Giôn
xi nhờ kéo tấm mành lên, cô đều làm theo một cách chán nản, cô không muốn bạn
mình thêm bi quan, chán nản. Vì thế mà Xiu cũng hết sức ngạc nhiên khi thấy chiếc lá

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 32 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
vẫn ở trên tường, qua ngày, qua đêm, qua cả những vùi dập của thời tiết. Tình yêu
thương mà cô dành cho Giôn xi không ồn ào nhưng chứa chất bao cung bậc và lúc
nào cũng chân thành thiết tha . Chính bàn tay chăm sóc của cô cùng với tấp lòng của
cụ Bơ men đã dành lại được sự sống cho Giôn xi từ bàn tay lạnh giá của Thần Chết.
4
- Kết cấu độc đáo của truyện là kết cấu đảo ngược tình huống 2 lần:
- Lần 1: Từ đầu truyện Giôn xi cứ như ngày một tiến gần đến cái chết khiến người đọc
lo lắng thương cảm thì đến cuối tình huống truyện được đảo ngược Giôn xi sống trở
lại với lòng yêu đời và hi vọng khiến cho không chỉ chúng ta hết sức bất ngờ mà cả
nhân vật trong truyện cũng hết sức bất ngờ (Xiu)
- Lần 2 : Cụ Bơ men đang khoẻ mạnh chẳng ai ngờ cụ sẽ chết thì cuối truyện cụ lại
chết vì bị sưng phổi.
- Hai lần đảo ngược tình huống trái chiều nhau (người tưởng không tránh khỏi cái chết
thì lại sống, người đang khoẻ mạnh thì lại chết) và đều liên quan đến chiếc lá cuối
cùng và bện sưng phổi (Giôn xi bị bệnh sung phổi gắn cuộc sống của mình với chiếc
lá cuối cùng, cụ Bơ men vẽ chiếc lá cuối cùng trong đêm mưa tuyết do đó chết vì bị
sưng phổi. Nghệ thuật đảo ngược tình huống này gây hướng thú cho người đọc.
5
Bức tranh Chiếc lá cuối cùng của cụ Bơ – men được Xiu gọi đó là một kiệt tác
vì bức tranh đó đã cứu sống một con người, bức tranh đó đã gieo vào lòng con người
niềm tin và hi vọng để vượt qua lưỡi hái của tử thần.
Cái quyết định của một kiệt tác nghệ thuật không chỉ tạo nên bởi tài nghệ mà
còn bởi mục đích mà nó hướng tới, bởi giá trị mà nó đem lại cho cuộc sống con người.
6. Khi cùng Xiu lên thăm Giôn – xi, cụ Bơ men sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây
thường xuân rụng gần hết lá và không nói năng chi. Chính trong giấy phút im lặng ấy,
có lẽ cụ đã nghĩ: “Làm thế nào để đem lại niềm tin và sự sống cho Giôn xi, làm thế
nào để lấy lại niềm hi vọng cho cô gái trẻ này. Mà những chiếc lá thường xuân vàng
úa kia thì chúng làm sao chịu được qua những cơn mưa gió bão tuyết đêm nay. Có lẽ,
mình phải làm một điều gì đó để giúp cô gái trẻ này lấy lại niềm tin và sự sống….
Đúng mình phải vẽ chiếc lá thường xuân cuối cùng để cho nó không bao giờ rụng
xuống thì Giôn xi sẽ thay đổi suy nghĩ của mình.”
7
Khi nghe Xin nói: Em thân yêu, em hãy nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn chiếc lá
thường xuân cuối cùng trên tường. Em có lấy làm lạ tại sao chẳng bao giờ nó rung rinh
hoặc lay động khi có gió thổi thông? Ồ, em thân yêu đó chính là kiệt tác của cụ Bơ
men vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”. Giôn xi kéo tấm mành lên nhìn đăm
đăm vào chiếc lá trên bức tường, cô kêu lên: “Trời ơi! Đó là bức vẽ của cụ Bơ men ư?
Không phải là chiếc là thường xuân thật ư? Vì muốn cứu sống em mà cụ Bơ men đã
vẽ chiếc lá đó trong đêm mưa gió bão tuyết để rồi mắc bệnh sưng phổi và chết ư? Cụ
Bơ men ơi cháu thật là một con bé hư, cháu đã không biết trân trọng tính mệnh của
mình, cháu đã có những suy nghĩ dại dột để cụ phải hi sinh vì cháu…Cháu ân hận
quá.”
8
Chiếc lá cuối cùng là bài ca cảm động, giàu tính nhân văn ca ngợi tình yêu
thương của những con người nghèo khổ dành cho nhau. Ca ba nhân vật Giôn xi, Xiu
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 33 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
và cụ Bơ men đều là những họa sĩ nghèo, chính cuộc sống cơm áo nghèo khổ đã làm
vơi cạn dần khát vọng dâng hiến cho nghệ thuật. Nhưng ở họ vẫn chan chứa tình yêu
thương chân thành và giản dị. Khi Giôn xi lâm bệnh hiểm nghèo, Xiu hết sức chăm
sóc, động viên an ủi bạn. Cô lo sợ khi nhìn những chiếc lá thường xuân cứ thưa thớt
dần. Còn cụ Bơ men, người họa sĩ già sống ở tầng dưới lại có biểu hiện tình cảm với
Giôn xi theo cách riêng của mình. Cụ cùng Xiu sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ nhìn cây
thường xuân rụng lá. Và bất ngờ là ở hành động cao đẹp của cụ: bất chấp thời tiết
khắc nghiệt, mặc cho đêm đông giá rét, mặc cho bão tuyết tuôn rơi, cụ đã âm thầm
vẽ chiếc lá vào đêm chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Bức vẽ của cụ Bơ – men đã trở
thành một kiệt tác vì nó đã cứu sống Giôn xi, nó tạo nên bởi tài năng và tấm lòng của
người nghệ sĩ, nó được cụ vẽ bằng cả tình yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả.
Cụ đã lặng lẽ hi sinh sự sống của mình để cứu sống Giôn xi. Đọc văn bản này ta còn
cảm nhận được tình yêu thương bao la của nhà văn dành cho những con người nghèo
khổ.

Ngày 01/11/2014
TUẦN 8
ÔN TẬP VĂN TỰ SỰ KẾT HỢP VỚI MIÊU TẢ VÀ BIỂU CẢM

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh nhận ra yếu tố miêu tả và biểu cảm trong đoạn văn tự sự.
- Nắm được tác dụng của yếu tố miêu tả và biểu cảm.
- Viết được đoạn văn tự sự có kết hợp với miêu tả, biểu cảm.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Xác định yếu tố miêu tả, biểu cảm trong đoạn văn tự sự sau:
a) Hòn Đất nổi lên trên Hòn Me và Hòn Sóc sang tháng chạp, gối đầu lên xóm, về
tháng này trông xanh tốt quá. Bây giờ vừa ta, người đất Hòn đã nghe gió Tết hây hây
lùa trong nắng. Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực, tràn trề nhựa
sống. Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây trái: mít, dừa, cau, mãng cầu, lê
ki ma, măng cụt sum sê nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ
chen nhau, coi đông đúc như thị trấn. Nhà còn cất leo lên triền Hòn thoai thoải, ở xa
ngó cứ như chuồng chim câu, cái thì nhà trệt, cái thì nhà sàn. Xa quá khỏi Hòn một đỗi
là bãi tre. Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre lâu
ngày vẫn đứng đấy bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiều năm tháng qua, mặc
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 34 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
cho bao nhiêu gió mưa đã thổi tới. Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang
giỡn sóng, mang một màu xanh lục.( Anh Đức)
b) Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó vàng của
lão. Lão chỉ có một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão bằn bặt. Già rồi
mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả buồn? Những lúc buồn,
có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà mẹ
hiếm con gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng, không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho
nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó ăn trong một cái bát như nhà giàu. Lão ăn gì
cũng chia cho nó cùng ăn. Những buổi tối, khi lão uống rượu thì nói ngồi ở dưới chân.
Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con
trẻ.( Nam Cao)
2. Cho đoạn văn sau:
Một buổi chiều, như thường lệ, tôi xách cần câu ra bờ sông. Bỗng nhiên tôi nhìn
thấy một cậu bé trạc tuổi mình đã ngồi câu ở đó tự bao giờ. Tôi định lên tiếng chào
làm quen, nhưng vì ngại nên lại thôi. Thế là tôi lặng lẽ lùi xa một quãng, buông câu,
nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt nhìn trộm cậu ta. Lóng ngóng thế nào, tôi để tuột cả
hộp mồi câu rơi xuống sông. Ngán ngẩm, tôi cuốn cần câu, định ra về. Chưa kịp đứng
dậy, tôi đã nhìn thấy cậu bé đứng sừng sững ngay trước mặt. Trên tay cậu ta là một
hộp mồi câu đầy. Cậu ta lẳng lặng san nửa số mồi câu cho tôi. Thế là chúng tôi làm
quen với nhau.
Hãy thêm các yếu tố miêu tả và biểu cảm để viết lại đoạn văn tự sự trên cho
sinh động và hấp dẫn.
3/ Mời các bạn lắng nghe Dế Mèn kể về giây phút cuối cùng của Dế Choắt (mà cái
chết của Dế Choắt là do Dế Mèn gây ra)
“…Choắt không dậy được nữa….nghĩ về bài học đường đời đầu tiên”
(Sgk Ngữ văn 8 tập 1. Tr 84)
a) Đây là đoạn văn tự sự. Theo em nhờ yếu tố nghệ thuật nào mà đoạn văn lại hấp
dẫn người đọc? Hãy nêu cụ thể?
b) Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Dế Mèn hoặc Dế Choắt.
4.
Sau đây là đoạn trích trong truyện Bức tranh của em gái tôi:
“Trong gian phòng lớn…..lòng nhân hậu của em con đấy!”
(SGK Ngữ văn 8 tập 1 trang 85.)
a) Chọn ra những từ ngữ biểu lộ cảm xúc của nhân vật “tôi” trong đoạn trích trên.
Hãy diễn xuôi bằng lời văn của em về tình cảm của nhân vật “tôi”
b) Yếu tố miêu tả đã được sử dụng trong đoạn văn tự sự trên như thế nào? Nêu tác
dụng của yếu tố miêu tả trong đoạn văn trên?
5. Viết một đoạn văn diễn dịch về chủ đề bảo vệ môi trường trong đó có sử dụng
một trợ từ và một thán từ?(Chỉ rõ trợ từ và thán từ em đã sử dụng)
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ a)
- Yếu tố miêu tả:
Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây trái: mít, dừa, cau, mãng cầu,
lê ki ma, măng cụt sum sê nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói
đỏ chen nhau, coi đông đúc như thị trấn. Nhà còn cất leo lên triền Hòn thoai thoải,
ở xa ngó cứ như chuồng chim câu, cái thì nhà trệt, cái thì nhà sàn
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 35 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Yếu tố biểu cảm:
Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực, tràn trề nhựa sống.
Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre lâu ngày vẫn
đứng đấy bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiều năm tháng qua, mặc cho bao
nhiêu gió mưa đã thổi tới. Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang giỡn
sóng, mang một màu xanh lục.
b) Yếu tố biểu cảm:
Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con chó vàng của lão.
Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả buồn?
2.
Một buổi chiều, trời nắng nhẹ, gió đông nam mơn man thổi nhẹ, như thường lệ, tôi
xách cần câu ra bờ sông. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy một cậu bé trạc tuổi mình với nước
da trắng, quần ngố, áo phông xanh, mái tóc cắt cao, gương mặt sáng sủa trông rất
bảnh trai đã ngồi câu ở đó tự bao giờ. Tôi định lên tiếng chào làm quen, nhưng vì ngại
nên lại thôi. Thế là tôi lặng lẽ lùi xa một quãng, buông câu, nhưng thỉnh thoảng vẫn
liếc mắt nhìn trộm cậu ta. Lóng ngóng thế nào, tôi để tuột cả hộp mồi câu rơi xuống
sông. Ngán ngẩm, tôi cuốn cần câu, định ra về. Thật bất ngờ, chưa kịp đứng dậy, tôi
đã nhìn thấy cậu bé đứng sừng sững ngay trước mặt. Trên tay cậu ta là một hộp mồi
câu đầy. Càng ngạc nhiên hơn là cậu ta lẳng lặng san nửa số mồi câu cho tôi. Thế là
chúng tôi làm quen với nhau.
3.
a) Đoạn văn tự sự hấp dẫn bởi có sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm.
b) Đoạn văn trên đã diễn tả được niềm ăn lăn hối hận của Dế Mèn khi gây ra cái
chết của Dế Choắt. Mèn hung hăng, hống hách thường cho mình là nhất đã rủ Dế
Choắt trêu chị Cốc. Dế Choắt không dám trêu, Mèn cất tiếng véo von cạnh khóe chị
Cốc. Trêu xong hắn lại chiu tọt vào hang để Dế Choắt ốm yếu phải gánh hậu quả, phải
chịu những cái mỏ sắt như trời dáng của chị Cốc, Choắt ốm yếu nằm thoi thóp. Trong
giây hấp hối ấy Dế Choắt đã nói những lời trăng trối cuối cùng với Dế Mèn. Chính lời
trăng trối của Dế Choắt đã làm cho Dế Mèn tỉnh ngộ, nhận ra lỗi lầm của mình. Bài
học của Dế Mèn cũng là bài học cho tất cả chúng ta về cách sống: Hãy nhẫn nhịn,
khiêm tốn, không nên kiêu căng hống hách sẽ mang vạ cho bản thân.
4.
a) Những từ ngữ biểu lộ cảm xúc của nhân vật tôi: giật sững người, ngạc nhiên, ngỡ
ngàng, xấu hổ.
b) Yếu tố miêu tả: “Trong tranh…..mơ mộng nữa”
- Yếu tố miêu tả đó đã giúp nhân vật tôi cũng như người đọc hình dung được hỉnh ảnh
người anh trong bức tranh rất đẹp. Từ đó có tác động rất lớn đến nhận thức của người
anh, khiến anh đi từ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng và xấu hỏ vì thấy mình không xứng
đáng với người trong tranh. Bên cạnh đó còn thấy được tấm lòng nhân hậu, bao dung
của cô em gái.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 36 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 9 ÔN TẬP TÌNH THÁI TỪ,


VIẾT VĂN TỰ SỰ KẾT HỢP VỚI MIÊU TẢ BIỂU CẢM

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Củng cố kiến thức về tình thái từ và rèn kĩ năng viết văn tự sự kết hợp với miêu tả,
biểu cảm.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Chỉ ra các tình thái từ trong các câu sau:
a) Mày dạy quá cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa
và thăm em bé nữa chứ.
b) Con nín đi! Mợ đã về với con rồi mà.
c) Bác trai đã khá rồi chứ?
d) Cai lệ vẫn hầm hè:
- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chởi mắng
thôi à!
e. Những tên khổng lồ nào cơ? (Đánh nhau với cối xay gió).
g. Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. (Cô bé bán diêm).
h. Giá quẹt 1 que diêm mà sưởi cho đỡ rét 1 chút nhỉ.
i. Em bé reo lên: Cho cháu đi với!
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 37 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
k. Có lẽ tôi bán con chó đấy ông giáo ạ.
l.Sự đời lại cứ thường như vậy đấy.
m.Vẫy đuôi à?

2. Dùng các tình thái từ để biến đổi các câu trần thuật sau thành câu nghi vấn?
a) Mẹ về rồi.
b) Nam đi bơi.
c)Ngày mai là chủ nhật.
d) Đây là quyển sách của Nam?

3)Tìm các tình thái từ trong các câu dưới đây và cho biết ý nghĩa của chúng:
a) Đến lượt bố tôi ngây người ra không tin vào mắt mình:
- Con gái tôi vẽ đây ư?
b) Mèo rất hay lục lõi các đồ vật với một sự thích thú đến khó chịu.
- Này, em không để chúng nó yên được à?
c) Trên mái nhà trường, chi bồ câu gật gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ:
Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
d) Thưa cô, cái gì mà mình biết nó ở đâu rổi thì có thể gọi là mất được không cô nhỉ?

4) Điền tình thái từ thích hợp vào chỗ trống trong mỗi câu dưới đây:
a) - Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ….!
- Thế nó cho bắt …..?
b) - Anh xem chúng đang cười ….!
- Sao bố mãi không về…?
c) Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín
con để nộp cho vưa? Giống đực thì làm sao mà đẻ được….!
Vua cười bảo:

- Ta thử đấy thôi….! Thế làng chúng bay không biết đem trâu ấy ra mà ăn với
nhau…?
5) Cho đoạn văn tự sự sau:
Sáng nay, gió mùa đông bắc tràn về. Vậy mà khi đi học, tôi lại quên mang theo
áo ấm. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy mẹ xuất hiện với cái áo len trên tay. Mẹ xin phép cô
giáo cho tôi ra khỏi lớp rồi giục tôi mặc áo. Đây là cái cáo len mẹ đã đan tặng tôi từ
mùa đông năm ngoái. Khoác chiếc áo vào, tôi thấy ấm áp. Tôi muốn nói thành lời:
“Con cảm ơn mẹ!”
Hãy bổ sung thêm phương thức mieu tả và biểu cảm để viết lại đoạn văn trên.

6/ Dựa vào đoạn thơ sau, viết đoạn văn tự sự có yếu tố miêu tả và biểu cảm:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp

Cứ hàng năm hàng năm


GV: Nguyễn Thị Nguyệt 38 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới.
( Xuân Quỳnh)
7/ Viết đoạn văn tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm với đề tài sau:
a) Kỉ niệm với một con vật nuôi mà em yêu thích.
b) Một bạn học sinh bị mắc lỗi.
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Các tình thái từ là:
a) đi, chứ
b) đi, mà
c) chứ
d) đi, à
g) thôi
5) Sáng nay, gió mùa đông bắc tràn về. Những cơn gió ào ào thổi tới, lạnh thấu
xương. Vậy mà khi đi học, tôi lại quên mang theo áo ấm. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy mẹ
xuất hiện với cái áo len trên tay. Mẹ xin phép cô giáo cho tôi ra khỏi lớp rồi giục tôi
mặc áo. Đây là cái cáo len màu đỏ pha vàng ở cổ và ở tay mà mẹ đã đan tặng tôi từ
mùa đông năm ngoái. Khoác chiếc áo vào, tôi thấy ấm áp. Lòng tôi rưng rưng xúc
động, tôi muốn nói thành lời: “Con cảm ơn mẹ!” mà không cất lên được.

6/ Trên đường hành quân, bất chợt nghe thấy tiếng gà cục tác ở một xóm nhỏ. Âm
thanh quen thuộc ấy đã gợi cho tôi nhớ về người bà thân yêu của mình ở quê nhà. Tôi
nhớ đến bà với cử chỉ soi trứng gà, bà đưa quả trứng lên trước mặt, khum tay xuống
quả trứng để soi xem trứng có trống không. Bà chắt chiu nhặt nhạnh từng quả trứng
hồng ấy để cho gà ấp. Khi gà nở, bà chăm sóc, nâng niu mong cho gà khỏe mạnh,
nhanh lớn. Cuối năm, gió mùa đông bắc tràn về lại thêm cả sương muối trút xuống bà
lo lắng cho đàn gà không chịu được gió rét thì sẽ chết mất. Bà đi che chắn lại chuồng
gà cho gió khỏi lùa vào, bà cầu xin trời đừng rét, đừng có nhiều sương muối để đàn gà
khỏe mạnh, cuối năm bán gà để lấy tiền mua quần áo mới cho cháu. Chao ôi! Nỗi lo
lắng của bà thật giản dị, bình thường mà sâu lắng. Tất cả nỗi vất vả, lo toan của bà
đều hướng vào cháu, mong cho cháu có được niềm vui trong ngày Tết. Bà ơi! Cháu
nhớ bà, biết ơn bà nhiều lắm!

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 39 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 20/11/2014


TUẦN 13 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh củng cố, nắm vững được khái niệm, đặc điểm của văn thuyết minh.
- Nhận diện văn bản thuyết minh, biết phân tích đặc điểm của văn bản thuyết minh.
II/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1/ Khái niệm: là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội nhằm
cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của các hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.
2/ Đặc điểm:
- Tri thức trong văn thuyết minh đỏi hỏi khách quan, chính xác, hữu dụng.
- Văn bản thuyết minh cần được trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn.
III/ BÀI TẬP ỨNG DỤNG
1/Bài tập 1,2,3 sách ôn tập Ngữ văn 8 trang 75 -76
Tìm hiểu văn bản Con rồng Việt, đoạn văn thuyết minh và trả lời câu hỏi.
Bài tập 4
Viết một bài văn thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích?
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Bài tập 1:

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 40 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
a) Văn bản trình bày về đặc điểm và nguồn gốc của hình tượng con rồng trong văn
hóa Việt Nam.
b) Những tri thức trình bày trong văn bản thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như:
thần thoại, khảo cổ, mĩ thuật, địa lí.
Đây đều là những tri thức khoa học. Chúng có tính khách quan, không phải do
người viết hư cấu tưởng tượng.
Muốn có tri thức này người viết phải tra cứu, tìm tòi và phải tôn trọng tính chân
thực của tri thức, không được tự tiện thêm bớt.
c) Câu văn 6,7,8 là các câu miêu tả nhưng có chức năng khác với các câu trong
văn miêu tả ở lớp 6. Nếu các câu văn trong văn miêu tả mục đích là giúp người
đọc nhận biết và rung cảm với những đặc điểm của đối tượng thì câu miêu tả
trong văn thuyết minh nhằm giải thích, cắt nghĩa cho nguồn gốc của con rồng
Việt: thuộc giống thủy tộc chứ không phải là loài thú trên cạn như rồng Trung
Quốc. Các câu văn miêu tả ở đây thuộc kiểu tư duy khoa học rất khác với văn
bản miêu tả thuộc kiểu tư duy trừu tượng.
d) Câu 12,13 tác giả sử dụng phương pháp liệt kê. Qua việc chỉ ra sự hiện diện của
con rồng Việt ở các không gian khác nhau: núi, sông, vịnh, biển, đảo, vùng đất,
kinh đô… để thuyết giải về vai trò quan trọng của hình ảnh con rồng trong văn
hóa người Việt.
Bài tập 2
a) Đặt tên cho văn bản bằng các nhan đề khác nhau? Nhận xét về các nhan đề này?
- Vì sao chúng ta có thể là được quần áo?
- Một đặc tính cơ bản của sợi.
- Tác động của nước đến các loại sợi.
Các nhan đề trên đều nhằm nêu lên và giải thích về một sự vật (sợi) hay một hiện
tượng(là quần áo) trong tự nhiên và đời sống sinh hoạt. Những sự vật, hiện tượng trên
thường gặp hàng ngày nhưng để lí giải và cắt nghĩa về nó không hề đơn giản. Nó đòi
hỏi phải có tri thức khoa học tự nhiên, phải nghiên cứu, tìm hiểu tường tận.
b) Thí nghiệm ở câu 8,9 là thí nghiệm rất đơn giản, có thể ngay lập tức tự mình tiến
hành và kiểm tra kết quả. Chính vì thế mà những lí giải của văn bản rất có sức thuyết
phục.
Bài tập 3
a) Giới thiệu về cách chơi cờ tướng rất phức tạp vì đây là loại cờ có nhiều hình thức
chơi.
Cách giới thiệu của tác giả rất rõ vì tác giả đã chia cờ tướng ra nhiều khía cạnh để
trình bày lần lượt:
+ Số lượng: câu 3,4
+ Chiến thuật: câu 5,6,7
+ Cách chơi: câu 8-17.
ở mỗi khía cạnh tác giả cũng tách ra từng ý nhỏ để trình bày riêng: Bàn về cách chơi
cờ tướng, tác giả chia làm 3 ý: bàn cờ(câu 9), cờ bỏi( câu 10 -14), cờ tưởng( câu 15 -
17)
b) Cách giời thiệu về cờ tướng của tác giả hấp dẫn vì tác giả luôn so sánh với cách
điều binh khiển tướng trong các cuộc chiến tranh(câu 3), các quân cờ được giới thiệu
như các lực lượng tham gia vào cuộc chiến(câu 4), hai người chơi cờ được ví như hai

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 41 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
vị tướng(câu 7) , chiến thuật cờ giống như chiến thuật của một trận đánh(câu 5 -6). Vì
thế người đọc hình dung về cách chơi cờ rất sinh động, thú vị.
Khi trình bày cách chơi cờ (câu 9-18) tác giả trình bày theo nguyên tắc từ cách chơi
đơn giản đến phức tạp. Chính vì thế người đọc càng ngày càng thấy thú vị.
c) Đặc điểm chung của hai văn bản:
- Cung cấp tri thức về một hiện tượng, một vấn đề nào đó trong tự nhiên hoặc xã hội.
- Các tri thức này đòi hỏi tác giả phải tìm tòi, nghiên cứu. Không thể tạo ra tri thức
bằng tưởng tượng.
- Mục đích: giúp người đọc hiểu và lĩnh hội được các tri thức. Sử dụng các phương
pháp nhất định: So sánh, phân loại, nêu ví dụ bằng thực nghiệm đơn giỏi.
- Lời văn thuyết minh trong sáng, khách quan, dùng nhiều câu định nghĩa hoặc giải
thích.
Bài tập 4(con mèo)
- Giới thiệu về con mèo
- Đặc điểm tiêu biểu của mèo
- Tập tính thói quen của mèo.
Bên cạnh ta có biết bao con vật quen thuộc nhưng con vật nuôi mà em yêu thích
nhất là con mèo.
Mèo là động vật bốn chân thuộc lớp thú, trên mình nó khoác một bộ lông dày,
mượt, màu đen, màu trắng, màu vàng hay mau tro. Thân mèo dài như quả bí nhỏ, bộ
ria mép trắng như cước là trợ thủ đắc lực của mèo trong việc bắt chuột. Ban đêm, khi
mọi vật đều ngủ yên thì mèo sục sạo khắp nơi trong nhà để tìm chuột. Nhiều con chuột
tinh ranh chui vào hang mèo ta cũng chui đầu vào, nếu ria không đụng vào cửa hang
thì cửa hang rộng nó sẽ chui vào còn nếu ria động vào cửa hang thì có nghĩa là hang
hẹp nó sẽ không chui vào mà rình ở cửa hang vì chiều dài của bộ ria rộng đúng bằng
thân của mèo.
Ngoài bộ ria sắc bén, tai và mũi mèo cũng góp phần quan trọng trong việc bắt
mồi. Đặc biệt đôi tai của mèo rất nhạy cảm giúp mèo nghe ngóng mọi động tĩnh của
chuột. Vì vậy mèo rất quý đôi tai của mình, mỗi khi ngủ nó thường cài tai vào chân
trước để bảo vệ tai.
Còn mắt mèo thì thật kì diệu, nó thay đổi ba lần trong một ngày. Ban ngày, ánh
sáng mạnh , con ngươi mèo thu nhỏ như sợi chỉ. Ban đêm ánh sáng yếu, mắt mèo mở
to như trăng rằm. Còn sáng sớm hay nhá nhem tối mắt mèo có hình hạt táo nên nó có
thể nhìn rõ mọi vật.
Dù hình dáng bên ngài như thế nào thì mèo vẫn có những nét chung về tập tính
thói quen. Chúng thích ngủ ở nơi ấm áp. Mùa đông mèo thường nhảy lên giường chui
vào chăn ngủ ngon lành. Chúng thích ngủ với người, thích được vuốt ve bộ lông nhất
là ở bụng, ở cổ. Khi ngủ mèo thường cuộn tròn người lại cho ấm. Mùa hè mèo thích
ngủ trên mái bếp, nóc nhà, những chỗ có nắng để sưởi ấm.
Những lúc an nhàn, mèo thường hay liếm bộ lông mượt mà của mình, không
phải là mèo đang tự tắm rửa cho mình đâu mà chúng đang ăn chất dinh dưỡng đấy. Bộ
lông của mèo khi được nắng chiếu vào sẽ chuyển hóa thành chất vi ta min D. Mèo
liếm lông chính là đang ăn chất vi ta min này. Nếu thiếu chất này, mèo sẽ ốm yếu.
Lông mèo thật đặc biệt, chúng giúp mèo thật nhiều phải không các bạn?
Ban ngày người đi làm, còn mèo thì chơi và ngủ. Ban đêm khi con người nghỉ
ngơi là lúc mèo hoạt động bắt chuột. Lúc này mèo di chuyển rất nhẹ nhàng, dù nhảy từ
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 42 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
trên cao xuống cũng khôn phát ra tiếng động gì. Đó là nhờ đệm thịt dày mềm dưới đế
chân, móng vuốt có thể đàn hồi: lúc bắt chuột hay tự vệ thì duỗi ra , lúc nghỉ ngơi thì
co vào. Nhờ đó mà mèo di chuyển nhẹ nhàng.
Còn về sinh sản, mèo sinh con, nuôi và bảo vệ con rất tài. Nó tìm nơi kín đáo
để dấu con, khi bị phát hiện, nó tha con đi chỗ khác để đảm bảo an toàn cho con. Nó
rất chăm con, dọn sạch chất thải của con, mèo còn bắt chuột về dạy con. Mèo đúng là
người mẹ mẫu mực.
Mèo là loài động vật có ích đối với con người, nó tìm bắt chuột phá hoại mùa
màng, nó là dũng sĩ diệt chuột tài ba. Nó là người bạn biết nói chuyện bằng mắt chứ
không phải bằng lời nói. Khi gần người nó thường biểu lộ tình cảm bằng cách dụi đầu
vào chân người, âu yếm nhìn chủ, nó thích được chủ vuốt ve bộ lông mượt mà của
mình.

Ngày soạn: 20/11/2014


TUẦN 13
LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN, BÀI VĂN THUYẾT MINH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn thuyết minh cho học sinh.
- Biết ứng dụng các phương pháp thuyết minh phù hợp để viết bài.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
Bài tập 1.
Viết đoạn văn thuyết minh về một phong tục tập quán ở quê em?
Bài tập 2
Viết đoạn văn thuyết minh giới thiệu về một thứ đồ dùng của học sinh?
Bài tập 3
Viết bài văn thuyết minh về một loài cây thân thuộc của quê em?
III/ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
Bài tập 1
- Phong tục trong dịp Tết, cưới hỏi( gói bánh chưng bánh giầy, tả mộ cuối năm, mừng
tuổi, tiễn ông công ông táo về trời)

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 43 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Mỗi dịp Tết đến xuân về, ở quê em thường có phong tục đi tả mộ. Tả mộ gia
tiên là đi chăm sóc phần mộ của các cụ trong gia đình, dòng họ. và mời các cụ về nhà
ăn Tết. Vào 29, 30 Tết, con cháu trong gia đình thường ra nghĩa trang dãy cỏ, đắp mộ
cho các cụ trong gia đình và thắp hương mời các cụ về nhà mình đón Tết. Cùng với
việc ra nghĩa trang thắp hương thì ở nhà sẽ làm một mâm cơm Tất niên cúng gia tiên
để đón các cụ về ăn Tết. Cả ba ngày Tết, ban thờ gia tiên lúc nào cũng đèn hương ấm
cúng, không khí xom họp tràn ngập trong gia đình. Đến ngày mùng 3 Tết, nhà nào
cũng làm cơm để tiễn các cụ trở về âm giới, cầu xin các cụ lưu phúc lưu ân cho con
cháu. Đó là một phong tục, nét đẹp văn hóa, thể hiện tấm lòng hiếu thảo, sự tôn kính
của con cháu với tổ tiên.
Bài tập 2
Bút bi là đồ dùng, là người bạn thân thiết nhất của học sinh. Bút bi gồm ba bộ
phận: vỏ bút, ruột bút và viên bi ở đầu bút. Vỏ bút được làm bằng nhựa cứng, nhỏ
bằng chiếc đũa ăn cơm, dài khoảng 18 -20 cm. Trên đầu búp có một cái tai để gài bút
vào vở, vào túi áo vào có một nút bấm để điều khiển ruột bút. Ruột bút bi là một ông
nhựa nhỏ đựng mực bên trong, dưới đầu ruột bút gắn một viên bi. Mỗi khi viết, viên bi
chuyển động để mực chảy ra. Muốn viết ta chỉ cần bấm vào nút bấm trên đầu bút bi
ngòi bút bi nhô ra và khi không viết nữa thì bấm vào nút đó thì ngòi bút sẽ thụt vào
để tránh nguệch vào vở, vào quần áo. Bút bi rất dễ sử dụng, giá thành lại rẻ nên rất
được các bạn học sinh sử dụng nhiều, và rất ưa chuộng.
Bài tập 3
*Dàn ý:
- Giới thiệu về tre
- Thuyết minhh về đặc điểm chung của từng bộ phận của tre
- Công dụng của tre.
* Bài viết:

Tre là một loài cây rất quen thuộc trên đất nước Việt Nam. Họ hàng nhà tre gồm
mấy chục loại khác nhau có mặt ở mọ miền đất nước, tre là vành đai kiên cố bảo vệ
làng quê Việt Nam.
Tre sống thành búi lớn, trở thành một quần thể rộng lớn, thống nhất, có ý thức
bảo vệ và nương tựa vào nhau. Tre không bao giờ sống riêng lẻ, mỗi khóm tre ít nhất
phải có từ 5 -7 cây nhiều là hàng trăm, hàng nghìn cây.
Tre cao khoảng từ 15 – 20m, thân tre tròn thẳng chia làm nhiều đoạn nhỏ. Trên
từng đốt tre mọc ra các tay tre, có gai, có lá, các tay tre vươn dài ra làm cho các cây
tre quấn quýt lại với nhau, gió bão khó mà quật ngã. Khi ta muốn chặt một cây tre, ta
phải chặt hết các tay rong của nó thì mới có thể rút nó ra khỏi búi tre.
Lá tre nhỏ, mảnh, hình mũi mác có màu xanh sẫm, khi lá mới ra cuộn tròn lại
như chiếc tăm, dần dần xòe ra, lá tre xếp lại xòe ra như bàn tay. Khi lá tre già chuyển
sang màu vàng úa rồi rụng xuống kết thúc cuộc đời của lá.
Tre thuộc loại cây rễ chùm. Tre có thể sống ở vùng đất cằn cỗi, không cần sự
chăm sóc của con người mà vẫn xanh tốt là nhờ bà mẹ rễ tre siêng năng, cần cù ăn sâu
vào trong lòng đất hút chất dinh dưỡng để nuôi cây.
Tre sinh trưởng quanh năm, dưới gốc tre nảy ra các cây tre non còn gọi là măng
tre. Chúng cứ từ trong lòng đất trỗi dậy như mũi tên trọc thẳng lên trời. Khi mới sinh

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 44 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
ra chúng được bao bọc bởi một áo ngoài gọi là mo tre. Tre lớn dần, mo tre rụng xuống
để lộ ra từng đốt tre xanh thẫm.
Tre cống hiến cả thân mình cho con người. Tre làm nhà,làm cửa để ở. Tre làm
giường, làm chõng để ngồi chơi hóng mát đêm trăng. Tre làm cuốc, làm cày để lao
động sản xuất. Tre là sáo diều, là que chuyền que chắt, là đồ chơi thân thiết của trẻ
thơ. Tay rong và lá tre dùng để đun nấu mỗi khi giáp hạt hết rơm.
Hơn thế nữa, khi đất nước có chiến tranh tre là vũ khí, tre là đồng chí, tre cùng
con người vào sinh ra tử để bảo vệ quê hương đất nước. Gậy tre, chông tre chống lại
sắt thép của quân thù, gậy tre trong tay Thánh Gióng đã làm cho giặc Ân bạt vía. Trên
phòng tuyến sông Như Nguyệt, Lí Thường Kiệt đã dùng cọc tre đâm thủng bao chiến
thuyền của quân Tống làm nên chiến công rực rỡ trong lịch sử dân tộc.
Với tất cả những đặc điểm, phẩm chất và công dụng như trên tre đã trở thành
người bạn thân thiết của người dân Việt Nam. Tre xứng đáng được phong tặng danh
hiệu cao quý “Anh hùng lao động! Anh hùng chiến đấu”. Giờ đây theo đà phát triển
của xã hội, cây tre đã ít có mặt trong những ngôi nhà Việt Nam nhưng hình ảnh của
cây tre, những tiếng sáo diều tre vẫn mãi bay bổng, tre mãi là biểu tượng của dân tộc
Việt Nam. Tre vẫn là tâm hồn, là khí phách của dân tộc Việt.

Ngày soạn: 24/11/2014


TUẦN 14
ÔN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN, BÀI VĂN THUYẾT MINH (Tiếp)

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn thuyết minh cho học sinh.
- Biết ứng dụng các phương pháp thuyết minh phù hợp để viết bài.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
Bài tập 1
Viết một bài văn thuyết minh về con vật nuôi mà em yêu thích?
Bài tập 1.a(con mèo)
- Giới thiệu về con mèo
- Đặc điểm tiêu biểu của mèo
- Tập tính thói quen của mèo.

Bên cạnh ta có biết bao con vật quen thuộc nhưng con vật nuôi mà em yêu thích
nhất là con mèo.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 45 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Mèo là động vật bốn chân thuộc lớp thú, trên mình nó khoác một bộ lông dày,
mượt, màu đen, màu trắng, màu vàng hay mau tro. Thân mèo dài như quả bí nhỏ, bộ
ria mép trắng như cước là trợ thủ đắc lực của mèo trong việc bắt chuột. Ban đêm, khi
mọi vật đều ngủ yên thì mèo sục sạo khắp nơi trong nhà để tìm chuột. Nhiều con chuột
tinh ranh chui vào hang mèo ta cũng chui đầu vào, nếu ria không đụng vào cửa hang
thì cửa hang rộng nó sẽ chui vào còn nếu ria động vào cửa hang thì có nghĩa là hang
hẹp nó sẽ không chui vào mà rình ở cửa hang vì chiều dài của bộ ria rộng đúng bằng
thân của mèo.
Ngoài bộ ria sắc bén, tai và mũi mèo cũng góp phần quan trọng trong việc bắt
mồi. Đặc biệt đôi tai của mèo rất nhạy cảm giúp mèo nghe ngóng mọi động tĩnh của
chuột. Vì vậy mèo rất quý đôi tai của mình, mỗi khi ngủ nó thường cài tai vào chân
trước để bảo vệ tai.
Còn mắt mèo thì thật kì diệu, nó thay đổi ba lần trong một ngày. Ban ngày, ánh
sáng mạnh , con ngươi mèo thu nhỏ như sợi chỉ. Ban đêm ánh sáng yếu, mắt mèo mở
to như trăng rằm. Còn sáng sớm hay nhá nhem tối mắt mèo có hình hạt táo nên nó có
thể nhìn rõ mọi vật.
Dù hình dáng bên ngài như thế nào thì mèo vẫn có những nét chung về tập tính
thói quen. Chúng thích ngủ ở nơi ấm áp. Mùa đông mèo thường nhảy lên giường chui
vào chăn ngủ ngon lành. Chúng thích ngủ với người, thích được vuốt ve bộ lông nhất
là ở bụng, ở cổ. Khi ngủ mèo thường cuộn tròn người lại cho ấm. Mùa hè mèo thích
ngủ trên mái bếp, nóc nhà, những chỗ có nắng để sưởi ấm.
Những lúc an nhàn, mèo thường hay liếm bộ lông mượt mà của mình, không
phải là mèo đang tự tắm rửa cho mình đâu mà chúng đang ăn chất dinh dưỡng đấy. Bộ
lông của mèo khi được nắng chiếu vào sẽ chuyển hóa thành chất vi ta min D. Mèo
liếm lông chính là đang ăn chất vi ta min này. Nếu thiếu chất này, mèo sẽ ốm yếu.
Lông mèo thật đặc biệt, chúng giúp mèo thật nhiều phải không các bạn?
Ban ngày người đi làm, còn mèo thì chơi và ngủ. Ban đêm khi con người nghỉ
ngơi là lúc mèo hoạt động bắt chuột. Lúc này mèo di chuyển rất nhẹ nhàng, dù nhảy từ
trên cao xuống cũng khôn phát ra tiếng động gì. Đó là nhờ đệm thịt dày mềm dưới đế
chân, móng vuốt có thể đàn hồi: lúc bắt chuột hay tự vệ thì duỗi ra , lúc nghỉ ngơi thì
co vào. Nhờ đó mà mèo di chuyển nhẹ nhàng.
Còn về sinh sản, mèo sinh con, nuôi và bảo vệ con rất tài. Nó tìm nơi kín đáo
để dấu con, khi bị phát hiện, nó tha con đi chỗ khác để đảm bảo an toàn cho con. Nó
rất chăm con, dọn sạch chất thải của con, mèo còn bắt chuột về dạy con. Mèo đúng là
người mẹ mẫu mực.
Mèo là loài động vật có ích đối với con người, nó tìm bắt chuột phá hoại mùa
màng, nó là dũng sĩ diệt chuột tài ba. Nó là người bạn biết nói chuyện bằng mắt chứ
không phải bằng lời nói. Khi gần người nó thường biểu lộ tình cảm bằng cách dụi đầu
vào chân người, âu yếm nhìn chủ, nó thích được chủ vuốt ve bộ lông mượt mà của
mình.
Bài tập 1.b(con chó)
Chó là loại động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là
người bạn của con người.
Chó có rất nhiều loại và là loại động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Chó là
loài động vật có 4 chân, mỗi bàn chân của nó đều có móng vuốt sắc nhọn, nhưng khi

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 46 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
đi thì cụp lại. Bộ lông của chó thì đủ màu: vàng, trắng, đen…Bộ não của chó rất phát
triển, xương quai hàm cứng, đặc biệt tai và mắt chó rất tinh và thính vào ban đêm.
Chó có bộ phận tiêu hóa rất tốt, nó thường ăn cơm thừa canh cặn của người, đặc
biệt là nhá xương rất giỏi. Chó chạy rất nhanh, tốc độ lao về phía trước của nó khoảng
từ 70 -80 km một giờ. Hơn nữa, nó còn có khả năng đánh hơi rất tài. Chính vì vậy,
ngoài những con chó được thuần dưỡng để nuôi trong nhà ra còn có những con chó
được huấn luyện để săn bắt tội phạm. Đó là những con chó nghiệp vụ, trinh thám được
các chú công an dắt theo để phối hợp phá án. Loại chó này thường rất to, cao, tai vểnh,
hoạt động nhanh nhẹn và rất thông minh. Chúng được huấn luyện và nuôi rất công
phu, không đơn giản như chó chúng ta nuôi trong nhà. Ngoài ra còn có cho săn, chó
cứu hộ cũng rất khôn ngoan. Chúng được dùng trong việc cứu người ở bên cảng hay
sân bay, những nơi xảy ra sự cố. Một số nước còn dùng chó để chuyên kéo xe.
Còn những con chó mà chúng ta nuôi trong nhà thì có nhiệm vụ trông giữ nhà
giúp chủ, chúng thường nặng từ 10 – 15 km, tuổi thọ trung bình từ 16 -18 năm.
Chúng cũng rất khôn ngoan và tình cảm. Chúng có thể phân biệt được tiếng bước chân
quen thuộc của chủ và tiếng bước chân lạ, phân biệt được cả tiếng xe máy của chủ.
Chỉ cần nghe tiếng xe máy là nó đã ra đón sẵn ở cửa ngõ và vẫy đuôi chào. Chó dùng
đuôi để biểu lộ tình cảm của mình. Khi thấy chủ về thì mừng quýnh lên, cái đuôi vẫy
ngoeo nguẩy. Khi có lỗi bị chủ mắng thì cúp đuôi lại lảng đi chỗ khác. Nó không chỉ
biết trông nhà mà còn biết bắt chuột nữa đấy. Nếu nhìn thấy một con chuột nào thì nó
sẽ săn bằng được không cho nó thoát. Dân gian có câu: “như chó với mèo” để nói đến
sự tranh giành, mất đoàn kết, khó chung sống với nhau nhưng thực ra chó và mèo nhà
em lại rất thân thiết với nhau, chung sống hòa bình cùng nhau dưới một mái nhà,
chúng đều là những con vật nuôi có ích.
Không hẳn chỉ là con vật có ích, chó cũng có có những thói quen xấu như vồ gà,
ăn gà. Bên cạnh đó, chó còn hay mắc bệnh, đó là bệnh dại. Thời gian đầu chó rất bình
thường nên người rất khó phát hiện. Khi bị chó dại cắn thì có thể nguy hiểm đến tính
mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho nó thường xuyên theo định kì để
tránh mắc bệnh.

Chó là loại động vật có ích trong mọi lĩnh vực. Cho còn là người bạn của con
người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó là loại
động vật rất quan trọng giúp việc đắc lực cho con người.
Bài tập 2
Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam.

“Trở lại Huế thương, bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ
sông”. Cùng với tà áo dài thướt tha trong gió chiều mùa thu, chiếc nón lá cũng góp
phần không nhỏ tạo nên sự duyên dáng, tinh tế thật đẹp, thật đặc biệt cho phụ nữ Việt
Nam.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên quanh năm nắng lắm mưa
nhiều. Chiếc nón lá khâu tỉ mỉ che nắng, che mưa đã trở thành người bạn không thể
thiếu của những người phụ nữ Việt Nam. Chiếc nón lá không đơn thuần là che nắng,
che mưa mà còn tôn lên vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của người con gái Việt.
Nón có nhiều loại: nón thúng quai thao, nón rộng vành, nón ba tầm, nón chóp
nhọn. Nón được làm bằng lá gồi nhỏ hay lá cọ. Những người thợ làm nón phải phơi
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 47 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
khô, là phẳng lá rồi mới đặt lên khung khâu tỉ mỉ. Lá gồi, lá cọ không phải ở đâu
cũng có mà chỉ có ở vùng núi cao, vùng trung du. Những người đi lấy lá phải đóng bè
chở về. Vậy là chỉ riêng việc đi lấy nguyên liệu thôi đã thấy sự nhọc nhằn của người
làm nón. Nón cân bằng hai bên và giữ được chắc là nhờ quai thao, đây là sợi dây dệt
bằng tơ ở hai đầu có tua thao mềm mại tôn lên vẻ đẹp, tính cách dịu dàng của người
con gái Việt.
Ngày nay, các bà các mẹ thường đội nón chóp nhọn. Nón có khung bằng 16
vành tre chuốt nhỏ, mỏng, dễ uốn. Khuôn nón làm như vậy tạo nên sự thanh thoát hài
hòa tôn lên vẻ đẹp của người đội nón. Nón đẹp tựa như một tác phẩm nghệ thuật từ
bàn tay kì diệu của con người. Vành tre cật chuốt nhỏ, lá cọ phẳng, phơi khô, trắng
muốt xếp đều tăm tắp và được khâu bằng những sợi cước mảnh, chắc. Người thợ làm
nón dùng kim và cước để khâu từng lớp lá vào 16 vành nón. Khâu nón bao giờ cũng
khâu từ đỉnh rồi xuống các vành nón, vết khâu phải thật đều thẳng hàng với nhau. Nón
của các cô gái trẻ thì được khâu bằng lá nõn, trắng ngà, mượt mà mỏng và nhẹ. Phía
bên trong chóp nón có đính gương, lòng nón được trang trí hoa văn, dùng chỉ hồng
lồng và buộc quai. Quai nón được làm bằng những dải lụa nõn nà đủ màu sắc: trắng
trinh bạch, đen gấm sang trọng đặc biệt là màu tím thủy chung.
Nón đẹp nổi tiếng của làng Chuông, làng Triều Khúc (Hà Nội), làng Chuông
còn nổi tiếng với chiếc nón bài thơ xứ Huế. Nhìn những cô gái Huế thướt tha trong bộ
áo dài tím mộng mơ, đội nón bài thơ đi dưới tia nắng ấm áp của mặt trời thì còn lời
nào tả xiết cho vẻ đẹp duyên dáng ấy. Chiếc nón lá trong tay các cô gái trở thành
những điệu múa thật đẹp. Nón làm cho người phụ nữ Việt Nam đẹp hơn, duyên dáng
hơn. Nón cũng là của là biểu tượng của Việt Nam cùng với tà áo dài.
Ngày nay cuộc sống hiện đại đã có những chiếc ô và bao loại mũ với kiểu dáng
đẹp , hợp thời trang cũng có công dụng như nón lá. Điều đó cũng làm cho nón lá mất
dần đi vị trí của mình. Mặc dù vậy, nón lá vẫn là một sản phẩm văn hóa mang nét đặc
trưng của người Việt. Nón lá vẫn là một niềm tự hào của dân tộc ta.

Ngày 05/12/2014
TUẦN 12 ÔN TẬP CÂU GHÉP

I/MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Củng cố lại kiến thức về câu ghép: đặc điểm, cách nối các vế câu.
- Thực hành làm bài tập mở rộng nâng cao.
II/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
- Đặc điểm: câu có từ 2 kết cấu C – V trở lên, chúng không bao chứa nhau, mỗi kết
cấu C – V làm thành một vế câu.
- Cách nối các vế câu ghép:
+ Nối bằng quan hệ từ, cặp quan hệ từ
+ Nối bằng các cặp từ hô ứng: cặp phó từ, đại từ.
+ Không dùng từ nối: ngăn cách bằng dấu phẩy, dấy hai chấm, dấu chấm phẩy.
III/ BÀI TẬP CỦNG CỐ NÂNG CAO.
1/ Dùng các câu đơn sau để tạo thành câu ghép(có sử dụng quan hệ từ cần thiết để
nối các vế câu)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 48 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Bố mẹ thương con nhiều lắm.
b) Con cần cố gắng hơn nữa
c) Trời hôm nay mưa to.
d) Hằng ngày con thường giúp đỡ mọi người
e) Em nên mặc áo mưa mà đi học
f) Gió thổi mạnh.
g) Nước sông lên to quá.
h) Những cây mới trồng khó mà sống được.
2/ Xác định kết cấu C –V trong các câu ghép dưới đây:
a) U đi ra khỏi nhà, cô ta cứ ra rả khóc không dứt miệng.
b) Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh
thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.
c) Bên đám lông mày cong rướn, mấy sợi tóc mai lả tả rủ xuống, hình như làn khói
thuốc lá phơn phớt bay trước khuôn gương và trên gò má đỏ bừng, vài ba giọt nước
mắt thánh thót đuổi nhau chẳng khác hạt sương buổi mai lánh đọng trong cánh hoa
hồng mới nở.
d) Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.
3/ Trong các câu sau đây câu nào là câu ghép, câu nào không phải là câu ghép? Vì
sao?
a) Thỉnh thoảng không có việc làm, lão bắt rận cho nó, hay đem nó ra ao tắm.
b) Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên, vừa ngỏng đầu lên.
c) Huế còn nổi tiếng với những món ăn mà chỉ riêng Huế mới có.
d) Giun đất dùng để chăn nuôi gia súc, người cũng có thể ăn giun đất vì nó có 70%
lượng đạm trong cơ thể.
e) Từ đèo Hải Vân mây mù, chúng ta nghe tiếng sóng biển rì rào.
g) Nơi chúng em đứng, mọi người đều trông thấy rất rõ.
h) Hắn làm nghề ăn trộm nên hắn không ưa gì lão Hạc vì lão lương thiện quá.
4/ Tìm câu ghép trong những đoạn trích dưới đây:
a) Chị Dậu vẫn thiết tha:
- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông
trông lại!
Cai lệ giọng vẫn hầm hè:
- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng
thôi à !
b) Kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này
túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống, vừa run
vừa kêu:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình
phải tù, phải tội.
c) Xe chạy chầm chậm…Mẹ tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau tôi đuổi kịp. Tôi thở
hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay
tôi, xoa đầu tôi hỏi, thì tôi òa khóc rồi cứ thế nức nở. Mẹ tôi cũng sụt sùi theo…

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 49 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
5/ Xác định kết cấu chủ vị và từ nối các về câu trong các câu ghép sau:
a) Nhưng vì Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường và gã cũng sợ tôi lắm!
b) Chúng ta nếu không làm cho lão Miệng có cái ăn thì chúng ta sẽ bị tê liệt cả.
c) Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi mỗi ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông
biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
d) Ông lão về đến nhà thì mụ vợ đã có một cái máng mới thật.
e) Lão Miệng không làm nhưng lão có công việc là nhai.
f) Bác Tai, hai anh em tôi làm việc mệt nhọc quanh năm còn lão Miệng chẳng làm
gì cả, chỉ ngồi ăn không.
6/ Những vế câu trong câu ghép sau được phân cách nhau như thế nào? Xác định
kết cấu chủ vị của các câu ghép đó?
a) Mụ vợ tôi phát khùng lên, nó chẳng để cho tôi yên chút nào.
b) Em chưa nói dứt lời, cụ già đã biến mất.
c) Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả
mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa.
d) Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn.
e) Anh cởi áo ra, em vá lại cho. Em vá khéo, mẹ không biết được đâu.
f) Chợt thấy động phía sau, tôi quay lại: em tôi đã theo ra từ lúc nào.

7/ Tìm cặp quan hệ từ nối các vế câu trong các câu ghép dưới đây.
a) Nếu bà con đi làm thì thật con tôi chết oan.
b) Vì Thủy Tinh đến sau nên Thủy Tinh không lấy được Mị Nương làm vợ.
c) Để môi trường được trong sạch thì chúng ta nên hạn chế sử dụng bao bì ni lông.
d) Tuy miêng cười nói như vậy mà bụng ông cứ rối bời lên.
8/ Có thể đảo các vế câu trong các câu ghép ở bài tập 3 không. Khi đổi trật tự các vế
câu cần lưu ý điều gì.
9/ Viết một đoạn văn giới thiệu một loài cây quý ở quê em(chú ý sử dụng câu ghép),
gạch chân dưới câu ghép đã sử dụng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 50 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 10/12/2014


Tuần 16 ÔN TẬP VĂN BẢN ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN
Phan Châu Trinh
I/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ và hiểu biết của em về địa danh Côn Lôn?
2. Bài thơ nói đến “chí làm trai”. Theo em chí làm trai mà Phan Châu Trinh nói đến là
gì?
3. Bốn câu thơ đầu có hai lớp nghĩa. Phân tích hai lớp nghĩa đó để thấy được tư thế
của người chí sĩ cách mạng?Tư thế ấy được miêu tả bằng bút pháp nghệ thuật gì là chủ
yếu?( Trình bày thành một đoạn văn)
3. Phân tích cách biểu hiện cảm xúc trong bốn câu thơ cuối. Trình bày thành một đoạn
văn?
4. Em hình dung như thế nào về hình tượng người chí sĩ cách mạng Phan Châu Trinh
qua bài thơ này?
5. Cả hai bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác và Đập đá ở Côn Lôn có nét gì
chung về cách thức biểu hiện và cảm xúc?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 51 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
6. Cho câu thơ sau:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non...
a)Chép tiếp những câu thơ tiếp theo để hoàn thiện bài thơ? Bài thơ được sáng tác theo
thể thơ nào? Em hiểu gì về thể thơ đó?
b) Những câu thơ đó được trích trong bài thơ nào? Ai là tác giả? Nêu hoàn cảnh sáng
tác bài thơ?
c) Em hiểu “Côn Lôn” là địa danh nào, vì sao tác giả lại nhắc tới địa danh ấy trong bài
thơ?
d) Qua bài thơ trên em hãy trình bài cảm nhận của mình về: vẻ đẹp hào hùng lãng mạn
của hình tượng chí sĩ yêu nước cách mạng đầu thế kỉ XX bằng một đoạn văn khoảng
12 -15 câu theo phép lập luận tổng – phân – hợp, trong đoạn văn có sử dụng một câu
ghép và một câu bị động.

II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI


1. Bài thơ được sáng tác năm 1908 khi tác giả bị khép tội xúi giục nhân dân nổi loạn
trong phong trào chống thế ở Trung Kì và bị đày ra Côn Đảo.
2. “Chí làm trai” là quan niệm nhân sinh truyền thống. Làm trai tức là làm anh hùng.
Chí làm trai là chí anh hùng. Đó là tinh thần vượt khó, ý chí tự khẳng định mình, có
khát vọng hành động mãnh liệt, đầu đội trời, chân đạp đất.
3.
Bốn câu thơ đầu của bài thơ có hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa hàm ẩn. Nghĩa
thực là nói về công việc đập đá – một công việc lao động khổ sai, nặng nhọc của tù
nhân ở Côn Đảo. Công việc và hành động của người tù được thể hiện rõ trong các
cụm từ: đất Côn Lôn, lở núi non, xách búa, ra tay, năm bảy đống, mấy trăm hòn.
Nhưng đằng sau nghĩa tả thực ấy là ý nghĩa tượng trưng, nói về tầm vóc lớn lao của
người anh hùng. Bút pháp khoa trương đã làm nổi bật lên hình ảnh người anh hùng
với tư thế hiên ngang, lừng lẫy, hành động mạnh mẽ, dứt khoát,và sức mạnh siêu
phàm: “ Xách búa đánh tan năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm hòn” .Với bốn
câu thơ tác giả đã dựng lên một tượng đài người chiến sĩ cách mạng đứng sừng sững
giữa đất trời Côn Lôn hiên ngang bất khuất, biến công việc lao động khổ sai thành
công cuộc trinh phục thiên nhiên dũng mãnh của con người với khẩu khí ngang tàn
ngạo nghễ.
4.
Bốn câu thơ cuối với giọng thơ trầm lắng trực tiếp bày tỏ cảm xúc của tác giả.
Phép đối trong câu thơ: “Tháng ngày bao quản thân sành sỏi/Mưa nắng càng bền dạ
sắc son” đã cho thấy những gian khổ mà người chiến sĩ cách mạng phải chịu đựng
không phải chỉ một sớm một chiều mà dài dặc qua nhiều năm tháng . Nhưng với sức
chịu đựng bền bỉ dẻo dai (thân sành sỏi ) và ý chí chiến đấu son sắc người chiến sĩ
cách mạng đã vượt qua tất cả. Nếu 4 câu thơ trên miêu tả người anh hùng với khí thế
hiên ngang, oai phong lẫm liệt thì hai câu này là cái giây phút suy tư trầm lắng của
người tù cách mạng . Người chiến sĩ cách mạng không chỉ đẹp ở tư thế oai phong mà
còn đẹp bởi một vẻ đẹp nội tâm rất chân thật, rất khiêm tốn đáng để người đời cảm
phục kính yêu . Hai câu cuối thể hiện được chí lớn của người cách mạng khi lỡ bước
và thái độ coi thường gian khổ của họ: “Những kẻ vá trời khi lỡ bước/ Gian nan chi
kể việc con con”. Nghệ thuật đối lập đã làm nổi bật lên chí lớn của người anh hùng.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 52 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Tác giả đã mượn truyền thuyết Nữ Oa vá trời để chỉ sự nghiệp cứu nước lớn lao của
những nhà cách mạng đầu thế kỉ XX. Đem cái nỗi gian nan của mình so sáng với trự
nghiệp “vá trời”, cứu nước cứu dân chỉ là việc con con. Câu thơ thể hiện niềm tự hào,
kiêu hãnh về công việc to lớn mà mình đang theo đuổi và xem thường việc tù đày . Đó
là khẩu khí ngang tàn của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem
thường mọi khó khăn thử thách luôn giữ vững niền tin và ý chí chiến đấu.
5.
Hai bài thơ có nét giống nhau:
- Đều là tâm trạng của bậc anh hùng khi lỡ bước.
- Giọng thơ hào hùng, thể hiện tư thế hiên ngang lẫm liệt
- Tư thế của con người cao đẹp, sánh ngang với trời đất, chí anh hùng của họ là chí
anh hùng của những người muốn dời non lấp biển, sẵn sàng chấp nhận mọi nguy hiểm.
6.
a)Côn Lôn là Côn Đảo, hòn đảo nằm ở phía đông nam nước ta.
Tác giả nhắc tới địa danh đó vì đây là nơi thực dân Pháp lập nhà tù giam cầm
những chiến sĩ cách mạng và khi đó tác giả cũng là một chí sĩ yêu nước bị bắt và
giam ở đó.
d.
Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã làm nổi bật lên vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của
người chí sĩ cách mạng đầu thế kỉ XX. Đó là một con người có tư thế hiên ngang,
ngạo nghễ của kẻ làm trai đứng giữa đất trời Côn Lôn. Là một người tù đang phải lao
động khổ sai nhưng lại có bản lĩnh của một người anh hùng đang thực hiện sứ mệnh
thiêng liêng: khai phá núi sông để tạo dựng càn khôn, thay đổi vũ trụ. Công việc lao
động khổ sai được người anh hùng biết thành việc chinh phục thiên nhiên lừng lẫy
vang động cả đất trời: “ Xách búa đánh tan năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm
hòn”. Bốn câu thơ cuối là những suy nghĩ sâu lắng, là lời tự nhủ bản thân phải bền
gan vững chí trước những khó khăn thử thách. Nhà tù của thực dân trở thành trường
học để tôi luyện ý chí, lòng trung thành với nước với dân của người anh hùng mà thôi.
Ở những câu thơ này, người chiến sĩ cách mạng không chỉ đẹp ở tư thế oai phong mà
còn đẹp bởi một vẻ đẹp nội tâm rất chân thật, rất khiêm tốn đáng để người đời cảm
phục kính yêu. Hai câu cuối thơ thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về công việc to lớn
mà mình đang theo đuổi và xem thường việc tù đày . Đó là khẩu khí ngang tàn của
những người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, họ xem thường mọi khó
khăn thử thách luôn giữ vững niền tin và ý chí chiến đấu . Bài thơ cho ta cảm nhận
được chân dung của một vị anh hùng oai phong lẫm liệt giữa biển trời, dù gặp bước
nguy nan nhưng vẫn luôn giữ vững lí tưởng cao đẹp của mình.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 53 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 08/12/2014


TUẦN 16 ÔN TẬP VĂN BẢN ÔNG ĐỒ - VŨ ĐÌNH LIÊN

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh nắm vững lại kiến thức về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Ông
đồ.
- Rèn kĩ năng viết văn cảm nhận về một tác phẩm thơ, đoạn thơ đặc sắc.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Em hiểu biết gì về tục viết câu đối trong ngày Tết xưa?

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 54 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
2/ Phân tích sự tương phản giữa khổ 1,2 và khổ 3,4 trong bài thơ Ông đồ. Sự đối lập
gay gắt giữa hai cảnh tượng ấy có ý nghĩa gì? Cho ta hiểu như thế nào về tâm trạng
của nhà thơ.
3/ Khi đánh giá về nhân vật ông đồ, chính tác giả Vũ Đình Liên đã nhận xét hình ảnh
ông đồ chỉ còn là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”.
Dựa vào nội dung bài thơ em hãy giải thích nhận định trên.
4/ Phân tích khổ thơ sau:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
5/ Cảm nhận của em về khổ thơ sau:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
6/ Sáng tác của Vũ Đình Liên là sự hòa quyện của hai nguồn cảm hứng: “lòng thương
người và tình hoài cổ” (Hoài Thanh) . Em hãy chứng minh nhận định trên bằng việc
phân tích bài thơ Ông đồ.
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Vào dịp Tết thời xưa, như đã trở thành công thức, nhà nào cũng lo sắm sửa cho đủ
bộ: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Chơi câu
đối Tết không chỉ là một thú chơi tao nhã mà còn là nơi gửi gắm những mong ước tốt
lành của người chơi.
Người viết câu đối thường là ông đồ(người có học chữ nho nhưng không đỗ đạt,
sống thanh đạm bằng nghề dạy học.) Tuy nhiên, vào đầu thế kỉ XX Hán học suy tàn,
người chơi câu đối vắng dần và ông đồ trở thành kẻ thất thế. Thời cuộc xoay chuyển,
ông đồ hoàn toàn biến mất trên hè phố khi Tết đến. Đó cũng là sự biến mất của một
lớp người và một mô hình văn hóa.
2/
*Ông đồ thời đắc ý:
- Mỗi dịp tết đến xuân về ông đồ lại xuất hiện trên phố để viết câu đối như một thành
phần không thể thiếu trong không khí náo nhiệt của ngày Tết.
- Khi đó ông rất đắt hàng, rất nhiều người đến thuê ông viết và ông có dịp trổ tài và
được khen tài: Hoa tay …bay.
- Màu đỏ của hoa đào cùng sự nhộn nhịp của người đời, cùng với mực tàu giấy đỏ đã
tạo nên không gian đắc ý của ông đồ. Khi đó ông đồ đã trở thành trung tâm của sự chú
ý, ông được mọi người ngưỡng mộ, mến phục.
* Ông đồ lúc thất thế:
- Cảnh tượng vắng vẻ thê lương, ông đồ ngồi bên hè phố trướng sự lạnh lẽo của cảnh
vật và “qua đường không ai hay”. Ông đồ rơi vào cảnh thất nghiệp, như một nghệ sĩ
hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc, ông thực sự đã bị lãng quên.
- Hai câu thơ: giấy đỏ…sầu vừa nói về một thực tế bẽ bàng, vừa diễn tả tâm trạng.
Phép nhân hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ này. Phép nhân hóa đã đem nỗi
buồn của ông đồ phú cho giấy và nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía. Màu
giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến nữa.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 55 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nghiên mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Nỗi buồn
tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa, thấm đẫm sang cả những hành trang mà ông mang
theo. Hay nói cách khác là giấy và nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm với nỗi buồn
của ông đồ.

3/ Ông đồ: biểu tượng cho lớp nhà nho hết thời, là “cái di tích tiều tụy đáng thương
của một thời tàn” vì: Ông đồ đang tồn tại hữu hiệu nhưng lại đang bị xã hội phủ nhận.
Sự hữu hiệu ấy chỉ là cái dấu tích rớt lại của một nền văn hóa vốn rất tốt đẹp nhưng đã
bị lụi tàn, tiều tụy và đáng thương.
- Khi chữ nho còn thịnh hành, ông đồ được mến mộ trọng vọng, nhưng khi Hán học
suy tàn, thú chơi câu đối không còn, ông đồ bị lãng quên và mất hẳn giữa dòng đời
tấp nập.
4/
Đoạn thơ trên đã sử dụng thành công hàng loạt các biện pháp tu từ: điệp ngữ,
câu hỏi tu từ, nhân hóa để diễn tả tình cảnh ông khi thất thế và gửi gắm tâm trạng của
nhà thơ. Điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng vẻ thê lương, người đến thuê ông đồ viết
ngày một ít dần. Ông đồ rơi vào tình thất nghiệp, hết thời như một nghệ sĩ hết công
chúng, một cô gái hết nhan sắc: “Còn duyên kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về
trưa một mình”. Một tâm trạng buồn tủi, xót xa, một nỗi tiếc nuối khắc khoải đến đau
lòng trào dâng trong câu hỏi: “Người thuê viết nay đâu?”. Ông đồ thực sự bị lãng
quên. Và hai câu “Giấy đỏ…sầu” là những câu thơ hay nhất trong bài thơ. Phép nhân
hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ này. Nỗi buồn của ông đồ phú cho giấy và
nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía. Màu giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn
đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến nữa. Nghiên mực không được bút lông
chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Nỗi buồn tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa,
thấm đẫm sang cả những hành trang mà ông mang theo. Hay nói cách khác là giấy và
nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm với nỗi buồn của ông đồ. Khổ thơ đã diễn tả niềm
tiếc nuối, xót xa của tác giả cho một lớp người đã bị lãng quên, một nền văn hóa bị
mai một.
5/
Khổ thơ thứ tư diễn tả sâu sắc nhất tình cảnh ông đồ khi thất thế. Có sự đối lập
đầy xót xa giữa cái không thay đổi và cái đã thay đổi. Ông đồ vẫn ngồi đấy như xưa
không có gì thay đổi nhưng cuộc đời đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua lại
nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông đồ. Nếu như trước thì “mỗi năm mỗi
vắng”, tức là dù ít ỏi nhưng vẫn còn người đến thuê ông đồ viết nhưng nay thì hết hẳn.
Ông đồ vẫn ngồi đấy, vẫn kiên trì cố bán lấy sự sống, vẫn muốn có mặt trong cuộc
đời nhưng người đời đã lãng quên hẳn ông. Đó là sự lãng quên tuyệt đối. Ông trở nên
lạc lõng giữa cuộc đời, lòng ông trống vắng sụp đổ đất trời cũng thê lương:
“Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Đây là hai câu thơ giàu tính tạo hình
đặc sắc nhất trong bài thơ này. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng khéo léo, tài
tình. Hai câu thơ tả cảnh nhưng chính là tả nỗi lòng của ông đồ. Ngoại cảnh nhưng
thực ra là tâm cảnh. Khổ thơ khiến ta hình dung ra hình ảnh ông đồ ngồi bó gối trên
vỉa hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ không buồn nhặt, mắt ngơ ngác nhìn ra màn mưa bịu
mịt mù. Cảnh ngày Tết nhưng không thấy hoa đào mà chỉ thấy “lá vàng, mưa bụi”
những hình ảnh mang nỗi niểm của lòng người. “ Lá vàng” rơi bao giờ cũng gợi cảm
giác buồn bã, tàn tạ, khiến ta liên tưởng đến sự tàn phai, rơi rụng, cũng giống như vận
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 56 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
ông đồ đã đến lúc tàn suy. “Mưa bụi” bay lất phất đầy trời gợi lên một không gian mịt
mờ ảm đạm – như chính số phận của ông đồ. Ông đồ thất thế thì nỗi buồn tủi của ông
của lan tỏa sang cảnh vật, dường như cả trời đất cũng buồn bã ảm đạm cùng với nỗi
buồi của ông. Và khổ thơ cũng là niềm thương cảm xót xa của nhà thơ dành cho
một lớp nhà nho đang bị tàn tạ, chôn vùi trong quên lãng trước sự thay đổi của cuộc
đời. Đó cũng là niềm tiếc nuối cho một nét đẹp văn hóa đã bị suy tàn. Đó chính là
niềm hoài cổ, tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của tác giả.
6/Dàn ý chi tiết:
“Ông đồ” là bài thơ thành công nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên và cũng là một
trong những tác phẩm hay nhất trong phong trào Thơ mới, làm nổi tiếng tên tuổi của
nhà thơ trên văn đàn. Nhận xét về tác phẩm này, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã
viết: “Ông đồ là nơi gặp gỡ của hai nguồn thi cảm: tình thương người và lòng hoài
cổ”. Đó là một nhận định hoàn toàn chính xác.
Bài thơ mở đầu vằng nhịp điệu thời gian lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành
quy luật quen thuộc. Cứ khi hoa đào nở lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu,
giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người sắm Tết:
Mỗi năm hoa đào nở….đông người qua
Ông đồ được mọi người tìm đến thuê viết câu đối để trang trí nhà cửa vào ngày Tết và
gửi gắm lời chúc tốt lành. Khi đó ông đồ rất đắt hàng:
Bao nhiêu người ….khen tài
Khách đến thuê ông đồ viết rất đông, khi ấy ông có dịp trổ tài và được khen tài: “Hoa
tay…rồng bay.”. Nghệ thuật so sánh đã nhấn mạnh tài năng của ông đồ trong việc viết
chữ. Người ta tìm đến ông không chỉ để thuê viết mà còn để thưởng thức tài viết chữ
đẹp của ông đồ với thái độ thán phục và ngưỡng mộ. Ông đồ trở thành trung tâm của
sự chú ý. Đó là thời kì “vàng son ’’nhất của ông đồ. Nhưng người xưa quan niệm, chữ
nho là chữ thánh hiền. Học chữ nho không phải để kiếm sống mà để làm người, để
phò vua giúp nước. Ngày Tết mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc
dĩ của giới nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi
thời. Vậy nên những lời khen của người mua cũng động viên an ủi ông đồ nhiều. Họ
xúm xít thuê ông đồ viết chữ, trầm trồ trước tài hoa của ông cũng có nghĩa là biết trân
trọng tài năng và cái đẹp.
Nhưng thời gian biến đổi, mọi hình ảnh trong quá khứ đã phai nhạt. Nếu như
trước đây mỗi năm hoa đào nở lại đưa đến cho ông đồ “bao nhiêu người thuê viết” thì
nay:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Nhịp thời gian bao hàm cả sự bài mòn suy thoái. Điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng
vẻ thê lương, người đến thuê ông đồ viết ngày một ít dần. Ông đồ rơi vào tình thất
nghiệp, hết thời như một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc: “Còn duyên
kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Một tâm trạng buồn tủi, xót
xa, một nỗi tiếc nuối khắc khoải đến đau lòng trào dâng trong câu hỏi: “Người thuê
viết nay đâu?”. Ông đồ thực sự bị lãng quên. Giấy và nghiên cũng buồn cũng sầu vì
không được dùng đến. Phép nhân hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ này. Nỗi
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 57 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
buồn của ông đồ phú cho giấy và nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía. Màu
giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến nữa.
Nghiên mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Nỗi buồn
tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa, thấm đẫm sang cả những hành trang mà ông mang
theo. Hay nói cách khác là giấy và nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm với nỗi buồn
của ông đồ.
Nếu trước kia, sự xuất hiện của ông đồ làm cho khôn gian và lòng người thêm
náo nức, người ta đón nhận ông bằng cả sự trân trọng, kính yêu thì giờ đây:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
. Có sự đối lập đầy xót xa giữa cái không thay đổi và cái đã thay đổi. Ông đồ vẫn ngồi
đấy như xưa không có gì thay đổi nhưng cuộc đời đã khác xưa. Đường phố vẫn đông
người qua lại nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông đồ. Nếu như trước thì “mỗi
năm mỗi vắng”, tức là dù ít ỏi nhưng vẫn còn người đến thuê ông đồ viết nhưng nay
thì hết hẳn. Ông đồ vẫn ngồi đấy, vẫn kiên trì cố bán lấy sự sống, vẫn muốn có mặt
trong cuộc đời nhưng người đời đã lãng quên hẳn ông. Đó là sự lãng quên tuyệt đối
Ông trở nên lạc lõng giữa cuộc đời, lòng ông trống vắng sụp đổ đất trời cũng thê
lương:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”.
Đây là hai câu thơ giàu tính tạo hình đặc sắc nhất trong bài thơ này. Nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình được sử dụng khéo léo, tài tình. Hai câu thơ tả cảnh nhưng chính là tả
nỗi lòng của ông đồ. Ngoại cảnh nhưng thực ra là tâm cảnh. Khổ thơ khiến ta hình
dung ra hình ảnh ông đồ ngồi bó gối trên vỉa hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ không buồn
nhặt, mắt ngơ ngác nhìn ra màn mưa bịu mịt mù. Cảnh ngày Tết nhưng không thấy
hoa đào mà chỉ thấy “lá vàng, mưa bụi” những hình ảnh mang nỗi niểm của lòng
người. “ Lá vàng” rơi bao giờ cũng gợi cảm giác buồn bã, tàn tạ, khiến ta liên tưởng
đến sự tàn phai, rơi rụng, cũng giống như vận ông đồ đã đến lúc tàn suy. “Mưa bụi”
bay lất phất đầy trời gợi lên một không gian mịt mờ ảm đạm – như chính số phận của
ông đồ. Ông đồ thất thế thì nỗi buồn tủi của ông của lan tỏa sang cảnh vật, dường như
cả trời đất cũng buồn bã ảm đạm cùng với nỗi buồi của ông.
Khổ thơ cuối là nỗi chơi vơi, cảm giác nuối tiếc mất mát của tác giả:
Năm nay đào lại nở
….Hồn ở đâu bây giờ?
Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến như không còn nguyên vẹn như xưa. Ngôn ngữ
có sự biến đổi tinh tế, từ “ông đồ già” thành “ông đồ xưa”, biến nhân vật thành “cái di
tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Bài thơ khép lại bằng tiếng “gọi hồn” tha
thiết của tác giả. “Những người muôn năm cũ” ấy là ai”? Là ông đồ, là những người
đến thuê ông đồ viết hay là một thời đã đi qua chỉ còn vang bóng. Dẫu là gọi ai thì
câu thơ vẫn kết đọng bao nỗi xót xa cho sự tàn tạ của những nét đẹp văn hóa của dân
tộc. Nhà thơ gọi tiếc nuối, gọi để thức tỉnh mọi người hãy giữ lấy giá trị truyền thống
ngàn đời mà cha ông ta đã bao công bồi đắp.
Nói tóm lại, bài thơ là niềm thương cảm của tác giả cho một lớp người đã bị
chôn vùi trong quên lãng. Niềm tiếc nuối cho một nét đẹp văn hóa truyền thống của
dân tộc đã bị mai một. Đó chính là sự hòa quyện giữa “tình thương người và niềm
hoài cổ” trong thơ Vũ Đình Liên. Bài thơ cũng giúp ta hiểu hơn về tác giả: một con
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 58 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
người giàu tình yêu thương, có một thái độ giàu chất nhân văn , thể hiện tinh thần dân
tộc đáng trân trọng.

Ngày soạn: 10/12/2014


TUẦN 17 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Gúp học sinh củng cố lại kiến thức về văn thuyết minh và luyện viết một bài văn
thuyết minh về một thể loại văn học.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
Bài tập 1
Viết bài văn thuyết minh giới thiệu về nhà văn Nam Cao và truyện ngắn Lão Hạc.

Trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 chúng em đã được học truyện ngắn Lão
Hạc của nhà văn Nam Cao. Sau đây là đôi nét nổi bật vể tác giả và tác phẩm.
Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở huyện
Lí Nhân tỉnh Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc, chuyên viết về người
nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã
hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 59 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Ông đã hi sinh trên đường công tác ở vùng sau lưng địch. Những tác phẩm nổi tiếng
của ông là: Truyện ngắn Chí Phèo, Giăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc, Đôi mắt, tiểu
thuyết Sống mòn…. Nam Cao được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật năm 1996.
Lão Hạc là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân được
nhà văn sáng tác năm 1943. Truyện kể về cuộc đời, số phận và phẩm chất của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám qua nhân vật lão Hạc. Lão Hạc có một người
con trai, một mảnh vườn và một con chó . Con trai lão vì nghèo túng, không lấy được
vợ, phẫn chí bỏ làm ăn xa, lão chỉ còn lại mỗi con chó làm bạn. Lão rất yêu quý con
con chó gọi nó là cậu Vang, lão ăn gì cũng cho nó ăn đấy. Nhưng vì cuộc sống túng
quẫn, lão già yếu không làm ra tiền, lại không muốn tiêu vào tiền dành dụm cho con,
muốn giữ lại mảnh vườn cho con, nên lão đành phải bán cậu Vàng – người bạn thân
thiết nhất của lão. Lão đem tất cả chỗ tiền dành dụm được sang gửi ông giáo và nhờ
trông coi hộ mảnh vườn. Từ hôm đó lão kiếm được gì ăn nấy và từ chối sự giúp đỡ
của ông giáo. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói là để bẫy chó làm thịt. Nghe
Binh Tư kể chuyện ấy ông giáo rất buồn vì một con người đáng kính như lão Hạc mà
cũng phải theo gót Binh Tư để kiếm ăn. Rồi lão Hạc bỗng nhiên chết, cái chết thật dữ
dội. Cả làng không ai hiểu vì sao lão chết chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu. Lão đã ăn
bả chó tử tử để kết thúc cuộc đời túng quẫn của mình và để bảo toàn vốn liếng cho
con.
Là một học sinh được học tác phẩm của ông, em vô cùng kính phục tài năng và
tấm lòng của ông dành cho người nông dân nghèo khổ. Ông luôn trận trọng, nâng niu,
tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của con người ẩn sau vẻ ngoài nghèo khổ. Đó
là cái nhìn chan chứa tinh thần nhân đạo của nhà văn đối với con người. Ông xứng
đáng được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Bài tập 2
Các em đã được học bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh trong chương
trình Ngữ văn lớp 8
1. Chép chính xác bài thơ ấy và cho biết bài thơ được viết theo thể thơ nào.
2. Trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Phan Bội Châu và thể thơ của bài thơ
trên trong một bài văn thuyết minh

1/ Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn


Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắc son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con!
Bài thơ được làm theo thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
2.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 7 em đã được làm quen với thể thơ Thất ngôn
bát cú Đường luật. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh cũng làm theo
thể thơ này. Sau đây là đôi nét nổi bật về tác giả và thể thơ Thất ngôn bát cú Đường
luật.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 60 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Phan Châu Trinh sinh năm 1872 mất năm 1926, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi
Mã, quê ở Quảng Nam. Ông đỗ phó bảng, làm quan trong một thời gian ngắn rồi bỏ
quan chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước. Ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất
ở Việt Nam. Hoạt động cứu nước của ông rất đa dạng, phong phú, sôi nổi ở trong
nước có khi ở cả nước ngoài. Ông là người giỏi biện luận, có tài văn chương. Văn
chính luận của ông rất hùng biện, đanh thép văn trữ tình thấm đẫm tinh thần nhân
đạo. Năm 1908 ông bị khép tội xúi giục đồng bào nổi loạn trong phong trào chống
thuế ở Trung Kì nên bị bắt và đầy ra Côn Đảo, chính trong thời gian này ông đã viết
bài thơ Đập đá ở Côn Lôn.
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ ra đời từ đời Đường ở Trung Quốc, là
thể thơ rất thông dụng trong các thể thơ Đường luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa
chuộng. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ai cũng có thể làm thể thơ này bằng chữ Hán
và chữ Nôm
Một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu mỗi câu 7 chữ, chia
làm 4 phần: đề, thực, luận, kết.
- Niêm, luật, vần, đối trong thơ Đường luật rất chặt chẽ. Niêm là quy luật phối thanh
theo chiều dọc làm cho các liên thơ dính lại với nhau. Hệ thống niêm này tính từ chữ
thứ 2 của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Câu 2 niêm với câu 3, câu
4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7, câu 8 niêm với câu 1 tạo cho bài thơ thành
một vòng tròn khép kín bền chặt.
- Luật là quy tắc phối thanh theo chiều ngang. Trong một câu 7 chữ thì chữ thứ 2-4- 6
phải tuyệt đối đúng thanh tạo thành đòn cân thanh điệu. Chữ thứ 4 là tâm đối xứng
phải khác thanh với chữ thứ hai và thứ 6. Cứ một câu 4 bằng 3 trắc lại đến một câu 4
trắc 3 bằng.
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
B B T T T B B
Lừng lẫy làm cho lở núi non
B T B B T T B
Thơ đường luật chỉ gieo một vần ,vần chân, và là vần bằng, gieo ở cuối câu
1,2,4,6,8. Bài thơ gieo vần ở từ Lôn, non, hòn, son, con.
Bài thơ Thất ngôn bát cú bắt buộc phải có đối ở câu 3 và 4 , 5 và 6 , đối phải chuẩn
chỉ cả về thanh về ý về lời.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Phép đối kết hợp với các động từ mạnh, giọng thơ dồn dập, gấp gáp diễn tả hành động
quả quyết mạnh mẽ của người anh hùng như đang bước và một trận chiến đấu mãnh
liệt.
Thơ Thất ngôn bát cú Đường luật ngắt nhịp chẵn trước lẻ sau không ngoại lệ.
Bài thơ được ngắt nhịp 2/2/3;4/3
Những kẻ vá trời/ khi lỡ bước
Gian nan chi kể/ việc con con!
Thơ thất ngôn bát cú là một thể thơ quan trọng, nhiều bài thơ hay đều làm theo
thể thơ này Ngày nay thơ thất ngôn bát cú vẫn còn được ưa chuộng.
Bài tập 3
Thuyết minh về một món ăn truyền thống của dân tộc mà em thích nhất?
(bún chả)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 61 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nhân dân ta có biết bao món ăn ngon, bổ dưỡng đã được lưu truyền từ đời này
sang đời khác, từ vùng này sang vùng khác nhưng món ăn mà em thích nhất là món
Bún chả.
Bún chả là một món ăn truyền thống mang đầy đủ tinh hoa và bản sắc dân tộc
Việt. Bún chả có chứa nhiều chất dinh dưỡng, không chỉ tốt cho sức khỏe mà con rất
ngon. Ta có thể ăn bún chả ở các gánh hàng rong, các cửa hàng nổi tiếng hoặc tự mình
làm, nhưng có lẽ tự mình làm là ăn cảm thấy ngon nhất.
Nguyên liệu làm bún chả được lựa chọn rất kĩ càng, thịt làm món bún chả phải
là thịt ba chỉ tươi ngon, nước chấm gồm: nước mắm, dấm, đường, tỏi, ớt, đu đủ, cà rốt.
Nguyên liệu không thể thiếu trong món bún chả là lá bún. Bún để ăn trong món này
phải thật trắng, hơi trong trong, khi ăn cắt thành từng miếng nhỏ.
Cách làm món này rất đơn giản. Đầu tiên ta nướng thịt, thịt có thể thái mỏng,
để nguyên lát hoặc băm nhỏ vê thành viên tròn, nướng trên than hồng cho tới khi thịt
chín vàng đều, hơi cháy sém và dậy mùi thơm. Khi nướng ta có thể tưới mỡ lên các
miếng thịt cho dậy mùi thơm. Việc pha nước chấm cũng không kém phần quan trọng
so với việc nướng thịt. Ta pha hỗn hợp nước sôi để nguội với nước mắm, dấm, đường
sao cho vừa khẩu vị và tiếp tục đập tỏi, ớt, hạt tiêu, trộn đu đủ, ca rốt vào hòa đều lên
ta được một bát nước chấm thật ngon.
Bún chả cũng cần thưởng thức và biết cách ăn. Ta có thể cảm nhận được vị
thơm và hơi ngậy của thịt nướng, vị ngọt của đường, vị chua của dấm, vị mặn của
nước mắm, vị thơm của hạt tiêu nhuần nhuyễn với vị cay của ớt. Tiếp đến, ta lại cảm
nhận được cái giòn giòn của đu đủ và cà rốt. Ta có thể thấy rõ vị ngon của bún ăn kèm
với một ít xà lách, rau thơm hơi mát dịu. Được ăn một lần ta sẽ nhớ mãi hương vị của
món ăn này.
Em tin rằng, dù đi đâu em cũng không bao giờ quên được hương vị của món
ăn này. Em mong cứ đến ngày chủ nhật, được nghỉ em cùng mẹ làm món ăn này để cải
thiện cho gia đình. Không khí gia đình sẽ vui hơn, hạnh phúc hơn khi cùng nhau quây
quần bên mâm cơm ăn món ăn cả nhà mình thích. Đó là món bún chả quê em.
Ngày 01/12/2012
Tuần 15
ÔN TẬP TRỢ TỪ, THÁN TỪ, TÌNH THÁI TỪ, CÂU GHÉP

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


Giúp học sinh củng cố lại kiến thức về từ loại và câu ghép để làm tốt bài kiểm tra tiếng
Việt.
II/ TRỌNG TÂM KIẾN THỨC
1/ Trợ từ: là những từ chuyên đi kèm với một số từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hay
biểu thị thái độ đánh giá về sự vât, sự việc.( có, chính, đích, ngay, cả…)
2/ Thán từ: là những từ bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con người hay để gọi đáp(a, ái,
ối, than ôi, vâng, dạ, ừ….)
3/ Tình thái từ là những từ thêm vào câu để tạo câu nghi vấn, cầu khiến, cảm thán(hả,
chứ, đi, thôi, nào….)
III/ BÀI TẬP ỨNG DỤNG
1/ Tìm các trợ từ trong các câu sau:
a) Nó hát những mấy bài liền.
b) Chính các bạn đã giúp Lan học tập tốt.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 62 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
c) Nó ăn mỗi bữa chỉ lưng bát cơm.
d) Ngay cả bạn thân, nó cũng ít tâm sự.
e) Anh tôi toàn những lo là lo.
2/ Phân tích cấu tạo ngữ pháp của các câu ghép sau và xác định ý nghĩa giữa các
vế của câu ghép.
a) Mã Lương không muốn đi, nhưng bọn họ tìm đủ mọi cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em
về hoàng cung.
Mã Lương được nghe rất nhiều điều tàn ác của nhà vua đối với dân nghèo, nên
em rất căm ghét vua, không muốn vẽ. Vua bắt em vẽ một con rồng, em liền vẽ một
con cóc ghẻ. Vua bắt em vẽ con phượng, em lại vẽ con gà trụi lông.
b) Mã Lương đưa thêm vài nét bút, gió thổi nhè nhẹ, mặt biển nổi sóng lăn tăn, thuyền
từ từ ra khơi.
c) Mã Lương đưa thêm vài nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng,
chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút.
d) Mã Lương lại tô thêm nhiều nét bút nữa, gió mạnh nổi lên, biển động, thuyền lắc lư
nghiêng ngả.
3/ Tìm câu ghép trong đoạn văn sau và phân tích cấu tạo ngữ pháp của chúng.
Lá cây có màu xanh lục vì các tế bào của lá chứa nhiều lục lạp. Mỗi mi –li –mét lá
chứa bốn mươi vạn lục lạp. Trong các lục lạp này chứa một chất gọi là diệp lục, tức là
chất xanh của lá. Ánh sáng mặt trời gồm bảy màu: tím, chàm, lam, lục, vàng, cam, đỏ.
Sở dĩ chất diệp lục có màu xanh lục vì nó hút các tia sáng có màu khác, nhất là màu đỏ
và màu lam, nhưng không thu nhận màu xanh lục và phản chiếu màu này, do đó mắt ta
mới nhìn thấy màu xanh lục. Nếu ta chiếu chất diệp lục của lá câu bằng một nguồn
sáng màu đỏ, chất này sẽ thu nhận tất cả các tia màu đỏ, nhưng vì không có tia màu
xanh lục để phản chiếu lại, nên kết quả ta nhìn vào lá cây chỉ thấy một màu đen sì…
Như vậy lá cây có màu xanh lục là do chất diệp lục trong lá cây.
b) Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những ao hồ quanh bãi trước mặt, nước dâng
trắng mênh mông. Nước đầy và mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược, thế là bao
nhiêu cò, vạc, sếu, cốc, le, vịt trời, bồ nông, mòng két ở các bãi sông xơ xác tận đâu
cũng bay cả về.
4/ Xác định cách các vế và cách nối các vế câu ghép trong các câu ghép sau:
a) Trống lại thúc, mõ lại khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ.
b) Tôi đã tính không chơi với Trinh nữa thì một hôm anh đến tìm tôi.
c) Kết cục anh chàng “hầu cận ông Lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm
tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.
d) Các em phải cố gắng học để thầy mẹ em được vui lòng và thầy dạy các em được
sung sướng.
5/ Cho biết các mối quan hệ giữa các vế câu ghép sau
a) Bác Tai, hai anh và tôi làm việc mệt nhọc quanh năm, còn lão Miệng chẳng làm gì
cả …
b) Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sơ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 63 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
c) Đến đấy, một mình một ngưa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người
và ngựa từ từ bay lên trời.
d) Tấm nghe lời em, hụp xuống thì Cám trút hết tôm tép của Tấm vào giỏi mình rồi
chạy về nhà trước.
e) Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội.
6/ Viết một đoạn văn thuyết minh có sử dụng câu ghép.

Tuần 18 ÔN TẬP MỞ RỘNG NÂNG CAO

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1 Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thuở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
( Quê hương – Tế Hanh ).
Câu 2.
Cái chậu nứt.
Một người có hai chiếc chậu lớn khuân nước. Một trong hai chiếc chậu có một vết
nứt, vì vậy khi khuân nước từ giếng về thì nước trong chậu chỉ còn một nửa. Chiếc
chậu còn nguyên tự hào về sự hoàn hảo cuả mình, còn chiếc chậu nứt luôn bị cắn rứt
vì không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Một ngày nọ, chiếc chậu nứt nói với người chủ :“ Tôi thật sự xấu hổ về mình. Tôi
muốn xin lỗi ông!”, “ Ngươi xấu hổ về chuyện gì?”. “Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 64 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông”! Không đâu, khi đi về
ngươi hãy chú ý đến những luống hoa bên vệ đường. Qủa thật, dọc theo bên đường là
những luống hoa thật rực rỡ. Cái chậu nứt thấy vui vẻ một lúc, nhưng rồi về đến nhà
nó vẫn chỉ còn một nửa nước. “Tôi xin lỗi ông”. “Ngươi không chú ý rằng hoa chỉ
mọc bên này đường phía của người thôi sao? Ta đã biết được vết nứt của ngươi và tận
dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi, ngươi đã tưới
cho chúng. Ta hái hoa đó để trang hoàng căn nhà. Nếu không có ngươi, nhà ta không
ấm cúng và duyên dáng thế này đâu.
Cuộc sống của mỗi chúng ta đều có thể như cái chậu nứt, hãy biết tận dụng vết nứt của
mình.
(Theo Qùa tặng cuộc sống- NXB Trẻ).
Trình bày suy nghĩ của em về câu chuyện trên.
Câu 3:
Có ý kiến cho rằng : Chị Dậu và Lão Hạc là những hình tượng tiêu biểu cho phẩm chất
và số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Qua văn bản “ Tức nước vỡ bờ ” ( Ngô Tất Tố ), “ Lão Hạc ” ( Nam Cao ), em
hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
II/ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1 :
Tế Hanh được mệnh danh là nhà thơ của quê hương vì ông viết nhiều và viết
thành công về đề tài này. “Quê hương” được sáng tác năm 1939 là bài thơ hay nhất
viết về quê hương miền biển của ông, trong bài thơ có một đoạn thơ rất đặc sắc tả cảnh
con người và con thuyền khi về bến:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thuở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Hai câu thơ "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng. Cả thân hình nồng thở vị xa xăm"
cho ta cảm nhận được vẻ đẹp khỏe khoắn của những chàng trai miền biển. Họ có thân
hình vạm vỡ, làn da nhuộm nắng nhuộm gió thấm đẫm vị mặn mòi của nước biển, của
rong rêu, nồng toả vị xa xăm của biển khơi. Hình ảnh người dân chài hiện lên với vẻ
đẹp vừa chân thực vừa lãn mạn mang tầm vóc phi thường. Phép nhân hóa trong câu
thơ “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm/Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
đã biến con thuyền, một sự vật vô tri trở thành một con người có tâm hồn rất tinh tế.
Con thuyền đang nằm im trên bến mỏi, nó cũng biết mệt mỏi, cũng cần được nghỉ
ngơi sau những ngày vật lộn với sóng gió trên biển khơi. Nó đang say sưa, đang lắng
nghe chất muối, vị mặn mỏi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ của nó. Cả thân
hình nó đang thấm đẫm vị mặn mòi của biển khơi, như dạn dày hơn, phong sương
hơn sau một chuyến ra khơi. Cụm từ "im bến mỏi" vừa nói được sự nghỉ ngơi thư
giãn của con thuyền sau chuyến đi vất vả trở về, vừa nói được vẻ yên lặng nơi bến đỗ.
Từ nghe được dùng thật hay và có hồn thông qua nghệ thuật ẩn dụ. Con thuyền như
"nghe" thấy vị muối của biển khơi đang râm ran chuyển động trong cơ thể mình. Phải

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 65 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
có một tâm hồn tinh tế tài hoa, một tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người và cuộc
sống người dân làng chài thì nhà thơ mới có được những câu thơ hayđến thế, mới
cảm nhận được cả sự mệt mỏi của con thuyền lúc trở về bến. Đó cũng chính là cảm
nhận của mỗi người dân làng chài sau mỗi chuyến ra khơi trở về.
Đoạn thơ cho ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống lao động
và tình yêu quê hương tha thiết của Tê Hanh. Chính tình yêu quê hương của tác giả đã
đánh thức tình yêu quê hương đất nước trong trái tim mỗi con người.

Câu 2:
a.Trình bày được cảm nhận về vấn đề câu chuyện nêu ra:
Từ câu chuyện cái chậu nứt,xấu hổ vì mình đã không làm tròn nhiệm vụ mà
không biết rằng:Chính vết nứt của mình đã làm tươi tốt những luống hoa bên vệ
đường,góp phần làm đẹp căn nhà của người chủ.Câu chuyện gợi lên những suy
ngẫm về triết lý cuộc sống:
*- Mỗi con người có thể có khiếm khuyết( như cái vết nứt của cái chậu) nhưng
không vì thế mà người ấy trở nên vô dụng,bỏ đi. Con người có thể có khiếm
khuyết ở mặt này, việc này nhưng lại hữu dụng ở việc khác, mặt khác. Hãy biết tự
tin và tận dụng “vết nứt” của mình.
* Câu chuyện cũng nêu lên bài học về nhìn nhận , đánh giá và sử dụng con
người. Cái chậu nứt cũng trở nên hữu dụng nhờ người chủ biết tận dụng vết nứt của
nó để tưới cho những luống hoa. Con người dù là có khiếm khuyết cũng có thể hữu
dụng nếu người quản lý biết dùng người đúng việc, đúng người. Ông cha ta đã dạy:
dụng nhân như dụng mộc chính là ở ý nghĩa này, một cái nhìn rất nhân văn về con
người.
b.Liên hệ bản thân, xác định quan điểm sống; tự tin, không mặc cảm dù
mình có khiếm khuyết; biết tận dụng nh ững “ vết nứt” của mình; luôn cống
hiến hết khả năng của mình.
Câu 3
1/ Mở bài :
Học sinh dẫn dắt và nêu được vấn đề nghị luận : Chị Dậu và Lão Hạc là những
hình tượng tiêu biểu cho phẩm chất và số phận của người nông dân Việt Nam trước
cách mạng tháng tám
2/ Thân bài:
a. Chị Dậu và Lão Hạc là những hình t ượng tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của ng-
ười nông dân Việt Nam trước cách mạng .
* Chị Dậu : Là một mẫu mực vừa gần gũi vừa cao đẹp của người phụ nữ nông thôn
Việt Nam thời kì trước cách mạng : Có phẩm chất của người phụ nữ truyền thống, có
vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại. Cụ thể :
- Là một người vợ giàu tình thương : Ân cần chăm sóc người chồng ốm yếu giữa vụ
sưu thuế.
- Là người phụ nữ cứng cỏi, dũng cảm để bảo vệ chồng .
* Lão Hạc :Tiêu biểu cho phẩm chất người nông dân thể hiện ở :
- Là một lão nông chất phát, hiền lành, nhân hậu ( dẫn chứng).

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 66 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
- Là một lão nông nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng(dẫn chứng) .
b. Họ là những hình tượng tiêu biểu cho số phận đau khổ, bi thảm của người nông dân
Việt Nam trước cách mạng :
* Chị Dậu
Số phận điêu đứng : Nghèo khổ, bị bóc lột sưu thuế, chồng ốm và có thể bị đánh, bị
bắt lại.
* Lão Hạc :
Số phận đau khổ, bi thảm : Nhà nghèo, vợ chết sớm, con trai bỏ làng đi làm phu
cao su, thui thủi sống cô đơn một mình; tai hoạ dồn dập, đau khổ vì bán cậu vàng; tạo
được món nào ăn món nấy, cuối cùng ăn bả chó để tự tử.
a. Bức chân dung Chị Dậu và Lão Hạc đã tô đậm giá trị hiện thực và tinh thần
nhân đạo của hai tác phẩm.
Nó bộc lộ cách nhìn về người nông dân của hai tác giả. Cả hai nhà văn đều có sự đồng
cảm, xót thương đối với số phận bi kịch của người nông dân ; đau đớn, phê phán xã hội
bất công, tàn nhẫn. Chính xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh bần cùng, bi
kịch; đều có chung một niềm tin mới về khả năng chuyển biến tốt đẹp của nhân cách
con người. Tuy vậy, mỗi nhà văn cũng có cách nhìn riêng : Ngô Tất Tố có thiên hướng
nhìn người nông dân trên góc độ đấu tranh giai cấp, còn Nam Cao chủ yếu đi sâu vào
phản ánh sự thức tỉnh trong nhận thức về nhân cách một con người… Nam Cao đi sâu
vào thế giới tâm lý của nhân vật, còn Ngô Tất Tố chủ yếu miêu tả nhân vật qua hành
động để bộc lộ phẩm chất…
3/ Kết bài : Khẳng định lại vấn đề.

Tuần 19 ÔN TẬP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO

Câu 1 (4 điểm):
Cho khổ thơ sau:
“ Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”.
( Ông Đồ - Vũ Đình Liên )
Chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ trên? Phân tích cái
hay của mỗi câu thơ.
Câu 2 ( 6 điểm):
Em có suy nghĩ như thế nào về thông điệp trong câu chuyện sau đây.
Khi người ta gửi đi một nụ cười.
Cô gái cười với một người xa lạ rầu rĩ, nụ cười làm cho anh ta cảm thấy phấn
chấn hơn. Anh mơ đến sự tử tế của một người bạn cũ và viết cho người ấy một lá thư
cảm ơn. Người bạn này vui sướng vì nhận được thư của người bạn cũ lâu ngày không
gặp đến nỗi sau bữa trưa anh boa một món tiền lớn cho chị hầu bàn. Chị hầu bàn
ngạc nhiên vì món tiền bo quá lớn, đã quyết định mang tất cả đi mua vé số. Và trúng
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 67 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
số. Ngày hôm sau chị đi nhận giải và cho người ăn mày trên phố một ít tiền lẻ. Người
ăn mày rất biết ơn vì đã hai ngày nay anh ta chẳng được ăn gì. Sau bữa tối anh ta trở
về ăn phòng tối tăm của mình. Trên đường về, anh ta thấy một chú chó con đang rét
run lập cập, anh mang nó về để sửa ấm cho nó. Chú chó rất vui mừng vì được cứu
khỏi cơn bão tuyết sắp đến gần. Đêm ấy, trong khi mọi người đang ngủ say thì ngôi
nhà bốc cháy, chú chó con sủa sóng siết. Chú chó sủa cho đến khi đánh thức tất cả
mọi người trong nhà dậy và cứu tất cả mọi người thoát chết. Một trong những chú bé
được cứu thoát đêm ấy sau này trở thành bác sĩ tìm ra một loại vắc – xin chữa khỏi
một căn bệnh vô cùng nguy hiểm cho loài người. Tất cả là nhờ một nụ cười.
(Góc tâm hồn)

Câu 3 ( 10 điểm)
“ Chiếc lá dũng cảm, tình người bao la” Bằng kiến thức đã được học qua văn bản
“ Chiếc lá cuối cùng” của OHen –ri em hãy làm sáng tỏ nội dung trên bằng một bài
văn nghị luận.
II/HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Câu 1
Dân gian có câu: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” để nói đến sức
mạnh kì diệu của nụ cười, nụ cười đã mang lại nhiều điều tốt đẹp cho con người. Câu
chuyện “Khi người ta gửi đi một nụ cười” càng khẳng định rõ giá trị của nụ cười trong
cuộc sống.
Yêu cầu về hình thức ( 1 điểm)
- Viết đúng thể loại, nội dung.
- Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, không mắc lỗi dùng từ, chính tả.
- Văn phong rõ ràng, giàu hình ảnh.
 Yêu cầu về nội dung ( 5 điểm)
- Nêu được vấn đề cần nghị luận ( 05 điểm)
- Giải thích tình huống ( 0,5 điểm)
+ Nụ cười mang lại nhiều cảm xúc khác nhau Niềm vui, phấn chấn
May mắn, sẻ chia
Cứu giúp, nó ấm
Thành công, sáng tạo
 Ý nghĩa: Nụ cười có sức mạnh kì diệu, mang lại nhiều điều tốt đẹp cho con
người.
 Nội dung câu chuyện ( 3 điểm)
+ Tiếng cười là trạng thái cảm xúc vui mừng, soảng khoái của con người trước đời
sống và trong mối quan hệ giữa con người với nhau.

+ Tiếng cười có sức mạnh kì diệu Tiếng cười tạo niềm vui nhân đôi
Tiếng cười giúp con người thắt chặt tình cảm.
Tiếng cười là sự động viên khích lệ.
+ Tiếng cười chỉ phát huy hết sức mạnh khi xuất phát từ tình cảm chân thành và phù
hợp với từng tình huống hoàn cảnh.
+ Người thiếu tinh thần lạc quan, nhìn đời bằng cái bi quan sẽ không thấy hết sự đời kì
diệu của tiếng cười.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 68 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
+ Sống lạc quan, yêu đời không chỉ mang lại nhiều niềm vui, hạnh phúc cho mọi
người xung quanh.
Thông điệp ( 1 điểm):
+ Câu chuyện là một thông điệp quý giúp chúng ta nhìn nhận khía cạnh khác của tiếng
cười, đó là sức mạnh kì diệu của nó.
+ Nhắc nhở mọi người hãy sống lạc quan, yêu đời, đem niềm vui, chia sẻ tiếng cười
cho mọi người xung quanh.
Câu 3:
 Yêu cầu về hình thức ( 1 điểm)
- Viết đúng thể loại, nội dung.
- Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, không mắc lỗi dùng từ, chính tả.
- Văn phong rõ ràng, giàu hình ảnh.
 Yêu cầu về nội dung (10 điểm)
- Mở bài ( 1 điểm): Dẫn dắt – đưa yêu cầu nội dung vào bài
- Thân bài ( 9 điểm): Làm rõ hai nội dung chính:
+ Chiến lá dũng cảm Tác phẩm hội họa đích thực ( 0,5 điểm)
Kiệt tác của họa sĩ già ( cụ Bơ – men) đã giúp Giôn – xi
chiến thắng cái chết, dần trở về với sự sống -> niềm tin và
nghị lực ( 4 điểm).

+ Tình người bao la Người hoạc sĩ già đã hiến dâng sự sống của mình để giành
lại sự sống và tuổi trẻ cho Giôn – xi ( 2 điểm).
Tình bạn bè, tấm lòng nhân ái, vị tha của Giôn – xi bao
la, sâu nặng vô bờ ( 2 điểm).
 OHen –Ri đã ngợi ca tình thương, tấm lòng vị tha cao cả của những con người
nghèo khổ trên đất Mĩ đầu thế kỉ XX nói riêng, trên trái đất này nói chung. ( 0,5
điểm).
- Kết bài (1 điểm) Ý nghĩa tác phẩm
Thông điệp gửi tới bạn đọc.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 69 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 70 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 19 ÔN TẬP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO


I/ CÂU HỎI ÔN TẬP
 Câu 1
Có một đoạn thơ rất hay, rất xúc động viết về Bác Hồ kính yêu như sau:
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi.
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre…
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương…
a) Đoạn thơ đã viết về sự kiện nào trong cuộc đời hoạt động của Bác Hồ kình yêu?
Lúc đó Bác có tên là gì?
b) Phân tích hiệu quả của dấu chấm câu giữa câu thơ thứ nhất và từ “Nhưng”.
c) Trong đoạn thơ có 3 từ đồng nghĩa. Hãy phát hiện ra 3 từ đó và lí giải vì sao tác
giả lại sử dụng như vậy? Có thể chỉ dùng một từ thôi, ở cả 3 vị trí này được
không?
d) Viết đoạn văn biểu cảm về đoạn thơ trên từ 10 -12 câu.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 71 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
CÂU 2: Phân tích giá trị biểu đạt của các từ : già, xưa, cũ trong những câu thơ sau :
– Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
– Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
(Trích Ông đồ - Vũ Đình Liên)
Câu 3
Bằng những hiểu biết về các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn lớp
8, em hãy chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi tình yêu thương giữa
người với người.

II/ HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


Bài tập 1.
a) Đoạn thơ viết về sự kiện Bác Hồ xuống một chiếc tàu của Pháp tại bến cảng
Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Lúc đó Bác có tên gọi là anh Ba.
b) Câu thơ có từ “Nhưng” và dấu chấm giữa dòng tách hai ý như là đối lập nhau:
Đất nước đẹp vô cùng nên Bác không bao giờ muốn xa đất nước.
Nhưng Bác phải ra đi tìm đường cứu nước, phải xa rời đất nước, vì Bác yêu quý
vô cùng tổ quốc mình.
Hai ý tưởng như đối lập nhau nhưng lại vô cùng thống nhất.
c) Trong đoạn thơ có 3 từ đồng nghĩa: nước, quê hương, xứ sở.
Không thể chỉ dùng một từ được vì 3 từ đồng nghĩa trên có những sắc thái khác
nhau:
- Nước: sắc thái tình cảm giản dị, bình thường.
- Quê hương: sắc thái tình cảm gần gũi, thân thiết.
- Xứ sở: sắc thái tình cảm với một mảnh đất đã cách xa lắm rồi
d) Đoạn văn biểu cảm
Đoạn thơ trên đã viết về sự kiện Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911,
tại bến cảng Nhà Rồng. Đoạn thơ đã thể hiện được nỗi lòng của Bác khi bước
chân lên tàu ra đi tìm đường cứu nước. Trong trái tim Người, đất nước đẹp vô
cùng, Bác không muốn xa đất nước. Nhưng càng yêu đất nước bao nhiêu Bác
càng khát khao giải phóng đất nước bấy nhiêu. Bởi thế cho nên Bác quyết tâm
ra đi tìm đường cứu nước. Ngồi trên chiếc tàu bôn ba hải ngoại, Người nhìn
mãi theo về phía quê hương, bờ bãi lui, làng xóm khuất, Người không ngủ
được. Càng nghĩ Bác càng nhớ quê hương, xứ sở, thương đất nước đau thương
đang chìm trong ách nô lệ. Đó là tấm lòng của người con yêu đất nước thiết
tha, tấm lòng của một vị lãnh tụ vĩ đại đã cống hiến cả cuộc đời mình cho non
sông, cho đất nước. Khi Bác ra đi là một chàng thanh niên trai tráng, giàu nhiệt
huyết.(21 tuổi). Khi Bác trở về đã là một ông già. (51 tuổi).Cả quãng đời sôi
nổi, nhiệt huyết nhất Bác bôn ba ở nước ngoài. Bác đã hi sinh cả cuộc đời cho
sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam. Đoạn thơ cho em thêm hiểu, thêm
yêu kính và biết ơn Bác. Nhờ có Bác mà chúng em mới có cuộc sống ấm no
ngày hôm nay.
Câu 2
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 72 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
_ Các từ già, xưa, cũ trong các câu thơ đã cho cùng một trường từ vựng, cùng chỉ
một đối tượng : ông đồ (0,25điểm).
_ Già – cao tuổi , vẫn sống – đang tồn tại.
Xưa- đã khuất - thời quá khứ trái nghĩa với nay.
Cũ - gần nghĩa với xưa, đối lập vối mới- hiện tại. (0,25điểm)
_ Ý nghĩa của các cách biểu đạt đó : Qua những từ này khiến cho người đọc cảm
nhận được sự vô thường, biến đổi, nỗi ngậm ngùi đầy thương cảm trước một lớp
người đang tàn tạ : ông đồ ( 0,5 điểm)
Câu 2
a. Thể loại : Sử dụng thao tác lập luận chứng minh.HS cần thực hiện tốt các kĩ
năng làm văn nghị luận đã được học ở lớp 7 và lớp 8 : dựng đoạn, nêu và phân tích
dẫn chứng,vận dụng kết hợp đưa các yếu tố miêu tả, tự sự và biểu cảm vào bài văn
nghị luận.
b. Nội dung : Văn học của dân tộc ta luôn đề cao tình yêu thương giữa người với
người.
_ HS cần nắm vững nội dung ý nghĩa và tìm dẫn chứng phù hợp với nội dung vấn đề
cần giải quyết.
_ Hệ thống các dẫn chứng tìm được sắp xếp theo từng phạm vi nội dung, tránh lan
man, trùng lặp.
_ Dẫn chứng lấy trong các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn 8,chủ yếu
là phần văn học hiện thực.
c. Về hình thức : Bài viết có bố cục chặt chẽ, đủ ba phần ; dẫn chứng chính xác ;
văn viết trong sáng, có cảm xúc ; không mắc lỗi chính tả và lỗi diễn đạt ; trình bày
sạch sẽ, chữ viết rõ ràng.

*Dàn ý tham khảo :


a) Mở bài :
_ Có thể nêu mục đích của văn chương ( văn chương hướng người đọc đến với sự
hiểu biết và tình yêu thương)
Giới thiệu vấn đề cần giải quyết.
b)Thân bài : Tình yêu thương giữa người với người thể hiện qua nhiều mối quan
hệ xã hội .
Tình cảm xóm giềng :
+ Bà lão láng giềng với vợ chồng chị Dậu ( Tức nước vỡ bờ- Ngô Tất Tố).
+ Ông giáo với lão Hạc( Lão Hạc – Nam Cao).
Tình cảm gia đình :
+ Tình cảm vợ chồng : Chị Dậu ân cần chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ
chồng (Tức nước vỡ bờ - Ngô Tất Tố).
+ Tình cảm cha mẹ và con cái :
• Người mẹ âu yếm đưa con đến trường ( Tôi đi học- Thanh Tịnh)  ; Lão Hạc
thương con (Lão Hạc- Nam Cao).
• Con trai lão Hạc thương cha ( Lão Hạc- Nam Cao) ; bé Hồng thông cảm, bênh
vực, bảo vệ mẹ (Trong lòng mẹ- Nguyên Hồng).
c)Kết bài : Nêu tác dụng của văn chương ( khơi dậy tình cảm nhân ái cho con
người để con người sống tốt đẹp hơn).

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 73 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày 26/12/2014
TUẦN 19 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH

Bài tập 1
Viết bài văn thuyết minh về các loài hoa trong ngày Tết cổ truyền của Việt Nam.
(hoa đào hoa mai)
Tết đến, xuân về trăm hoa đua nở. Hoa nào cũng đẹp, hoa nào cũng thơm nhưng
ai cũng phải khẳng định hoa đào, hoa mai là loài hoa đặc trưng của ngày Tết .
Hoa đào là loài hoa đặc trưng cho Hà Nội, biểu tượng cho mùa xuân và sức
sống bất diệt của Bắc Việt. Một đóa hoa đào mang lại bao nhiêu cảm xúc cho lòng
người, như báo hiệu một sự khởi đầu của năm mới. Mọi người chuộng chơi đào ngày
Tết vì có lẽ màu đỏ của hoa đào mang lại sự may mắn, phúc lộc đầu năm.
Cây đào chỉ trồng ở miền Bắc, là loại hoa nở vào mùa xuân, nhưng muốn cho
hoa nở đúng vụ thì lại là một vấn đề phức tạp. Nó đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của
người trồng hoa. Đào có nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch, đào thất tốn. Nhưng
giống đào đẹp nhất là đào bích, có màu hồng thẫm, sai quả, sai hoa, là giống đào dùng
để chơi vào ngày tết. giống đào phai có màu hồng nhạt cũng rất sai qua, sai hoa nhưng
thường trồng để lấy quả. Đào bạch thì ít hoa, có màu trắng và thuwong đối khó trồng.
Đào thất tốn có màu đỏ thẫm được trồng vào chậu, người trồng uốn các thế khác nhau.
Ở Hà Nội có hai vùng trồng đào đẹp nhất là Nhật Tân và Ngọc Hà.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 74 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nếu hoa đào là biểu trưng của miền Bắc thì hoa mai là biểu trưng của miền
Nam. Mai biểu trưng cho sự tinh khiết, thanh bạch, tấm lòng tri kỉ. Mai có nhiều loại:
chi mai, bạch mai, hoàng mai, mai tứ quý. Thú chơi mai thật cầu kì, công phu vì để
tôn được vẻ đẹp của mai thật không dễ. Cây mai vàng rụng lá vào mùa đông. Thân
cành mềm mại hơn đào. Hoa mai mọc thành chùm có cuống dài treo lơ lửng trên cành.
Mai có màu vàng , mùi thơm thoang thoảng kín đáo, e ấp như một người con gái e
thẹn. Mai ưa ánh sáng và đất ẩm. Mai tứ quý thì nở bốn mùa. Mai nhị độ thì nở hai lần
trong năm. Mai vàng bây giờ cũng được trồng ở miền Bắc nhưng cần tránh gió rét và
hoa nở chậm.
Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào nhưng cánh to hơn hoa đào. Nụ mai
không phô hồng như nụ đào chỉ khi sắp nở nụ mai mới phô vàng ra. Điểm khác biệt
lớn nhất giữa mai và đào là mai có hương thơm. Cành mai cũng có phần uyển chuyển
hơn cành đào. Thú chơi mai cũng giống như thú chơi đào, chỉ khác biệt là hoa mai chỉ
có ở miền Nam mà thôi.
Hoa đào dịu hiền, hoa mai tươi thắm, các loài hoa đua nhau khoe sắc với đất
trời. Mỗi loài hoa đều có màu sắc riêng, vẻ đẹp riêng nhưng chúng đều góp phần tô
điểm cho sắc xuân thêm vui tươi và đầm ấm. Chúng sẽ mãi đi vào ngày tết cổ truyền
của dân tộc Việt Nam.
Bài tập 2
Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở quê hương em?( Chùa Bối Khê)
Dàn ý chi tiết:
Em sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên bình. Quê hương em có nhiều danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa đã được nhà nước xếp hạng nhưng nổi tiếng
nhất phải kể đến chùa Bối Khê – Di tích lịch sử cấp quốc gia đã được nhà nước trùng
tu tôn tạo nhiều lần.
Chùa nằm trên đất thôn Bối Khê, trung tâm xã Tam Hưng huyện Thanh Oai
thành phố Hà Nội.Chùa được xây dựng theo cấu trúc “ngoại quốc nội công”. Ở phía
ngoài bao gồm Tiền đường, Tao bảo, hai bên hành lang dựng theo hình chữ quốc, bên
trong hậu đường là điện thờ thánh dựng theo hình chữ công.Toàn bộ cấu trúc được
sắp xếp hai bên theo đường trục chính.
Trước cổng chùa có sân đất rộng, có cây đa, cây đề cổ thụ, đường kính sát gốc
bằng ba vòng tay người lớn ôm không xuể. Muốn vào chùa ta phải qua ngũ quan. Đây
là cổng chùa cũng là cổng làng Bối Khê. Phía trên cổng chính có dòng chữ “Đại bi tự”
– đó chính là tên của chùa. Qua cổng chùa ta sẽ thấy ngay một chiếc cầu gạch bắc
ngang qua một hào nước hẹp – Đó chính là con sông Đỗ Động giang. Đi qua cầu là
Tam quan cao hai tầng tám mái, tầng trên treo hai quả chuông lớn đường kính 60 cm
và cao 1 m.
Qua khỏi tam quan là sân gạch khoảng 400m2 , trong sân trồng cây đại, cây
móng rồng, các cây cảnh khác và hai con voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một
bên trồng sen và một bên là giếng nước sinh hoạt gọi là Giếng Chùa.
Tòa Tam bảo còn gọi là thượng điện thờ Phật – Pháp – Tăng, cấu tạo theo bốn
hàng cột, mỗi hàng bốn chiếc, thềm điện có sáu cột đỡ chia thành bảy gian. Tam bảo
được trùng tu nhiều lần mới đẹp như hôm nay. Năm 2006 chùa được trùng tu toàn bộ.
Hai bên hành lang chạy dọc là 18 vị la hán ngồi trên bệ đá thể hiện đủ vác
gương mặt giống như các vị la hán ở chùa Tây Phương. Sau cuối dãy hành lang là thờ
Đức ông và Đức thánh hiền.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 75 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Sau Tam bảo là hậu cung thờ Đức thánh Bối: Nguyễn Đình An, là người có
thực, là một vị thiền sư đắc đạo thời Trần, ngài thuộc dòng họ Nguyễn sinh năm Tân
Tỵ(1281)- Đời vua Trần Nhân Tông, người đã có công đánh giặc. Năm 7 tuổi đã mồ
côi cha mẹ, ở nhà cô cậu ở thôn Bùi Xá, sớm có lòng từ bi ngài thường tới chùa nghe
giảng kinh, vào mùa hanh khô thường rủ bạn bè tát các vũng nước cạn, đem tôm cá bắt
được thả ra sông. Đến năm 15 tuổi, người đi tu lấy hiệu là Đức Minh đến tu ở chùa
Tràng An(Chùa Sở) thuộc làng Tiên Lữ - Hà Đông – Hà Nội. Năm 95 tuổi ngày cho
làm một cái khám son ở mép tả điện trong chùa và mời dân làng, học trò trong vùng
đến dặn rằng: “Nay thầy số trời đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm
thì thờ, tanh hôi thì cho an táng sau chùa. Nhưng mới được 30 ngày thì có hương
thơm và ánh hào quang tỏa ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các
làng xung quanh. Sau đó Bối Khê cùng 10 làng xung quanh mang kiệu đến rước bát
phù hương về thờ và nhận làm anh em kết nghĩa với làng Tiên Lữ.
Cuối đời Trần vua hiếm muộn nên cùng hoàng hậu về ngự giá cầu tự và đã sinh
được quý tử. Vua phong cho ngài là “Thượng đẳng tôn thần” và phong chùa lên hàng
“Quốc tế”. Năm 1979 chùa được bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn
hóa.
Chùa Bối Khê là niềm tự hào của nhân dân Bối Khê nói riêng và cả xã Tam
Hưng nói chung. Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng giêng âm lịch là ngày hội của chùa.
Du khách thập phương và người dân quê hương đi làm ăn xa thì đến ngày này cũng trở
về để lễ Phật lễ Thánh cầu cho gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Đó cũng
là một nét đẹp văn hóa , một truyền thống tốt đẹp ở quê hương em.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 76 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 20 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Gúp học sinh củng cố lại kiến thức về văn thuyết minh và luyện viết một bài văn
thuyết minh về một thể loại văn học.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Đọc các đoạn văn thuyết minh sau và cho biết người viết đã huy động kiến
thức gì và sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?
a) Dơi là động vật ngủ đông. Vì thế ta thường bắt gặp chúng vào mùa hè. “Nhà” của
dơi là nơi tối và ẩm như vách đá, hang động, đặc biệt là trong những thân cây lớn đã
chết. Ở nơi có dân cư, dơi thường trú trên mái nhà, vách tường ẩm và không có ánh
sáng…
b) Hiện nay, cứ 8 người Mĩ, có một người ở độ tuổi 65 hoặc cao hơn. Tới năm 2025
con số đó là 4 người. Nhóm người ở độ tuổi 75 trở nên ngày càng đông. Điều đó
chứng tỏ: người Mĩ ngày càng sống lâu hơn, có tuổi thọ cao hơn.
c) …Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả
năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống cống rãnh làm cho
muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật
khi nuối phải. Đặc biệt bao bì ni lông màu đựng thực phẩm làm ô nhiễm thực phẩm…
gây ra tác hại cho não và là nguyên nhân gây ra ung thư phổi.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 77 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
d) Huế là một trong những trung tâm văn hóa, nghệ thuật lớn của Việt Nam. Huế là
một thành phố đẹp. Huế đẹp của thiên nhiên Việt Nam. Huế đẹp của thơ, Huế đẹp của
những con người sáng tạo, anh dũng.
2/ Cho văn bản sau:
Cách đây hai năm, chàng thanh niên Ra - pha - en đơ Rốt - sin, người được thừa
hưởng một trong những gia tài kếch sù nhất thế giới, đã gục chết trên một vỉa hè ở Niu
- oóc vì “chơi bạch phiến” quá liều, năm đó Ra –pha-en mới 23 tuổi.
Cái chết của chàng tỉ phú trẻ này đã làm không ít các bậc cha mẹ tỉ phú khác lo
lắng: làm sao để con cái họ đừng hư vì số tài sản khổng lồ không do chính chúng tạo
dựng.
a) Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Vì sao?
b) Văn bản trên có ích gì cho bạn đọc?
3/ Cho đoạn văn sau:
Cha ông ta ngày xưa- những người đã thiết kế nên chiếc áo dài- mặc dù thời tiết
của nước ta rất nóng, vẫn tạo ra dáng vẻ của áo dài sao cho thanh tao, trang nhã, hợp
với người thiếu nữ. Chính vì điều đó mà các cụ đã thiết kế ra kiểu áo có cổ cao một
phân, hợp với kiểu tóc búi tó của người phụ nữ xưa, biểu lộ sự kín đáo của người con
gái…Từ thời xưa, các vua chúa đã để ý đến cách ăn mặc của nhân dân và có lẽ chính
vì điều ấy mà chiếc áo dài đã ra đời… Đầu thế kỉ XVII, ở Bắc Ninh, chiếc áo dài mớ
ba mớ bảy đã được ra đời để phù hợp với cách vấn khăn, bộc lộ những nét đẹp của
người Việt Nam. Mãi đến tận thế kỉ XX, chiếc áo dài mớ ba mớ bảy mới được cải tiến
thành chiếc áo năm thân…
a) Đây có phải là đoạn văn thuyết minh không? Vì sao?
b) Muốn viết được đoạn văn trên, người viết đã phải lấy kiến thức từ đâu?

c) Nếu đúng là đoạn văn thuyết minh thì đoạn văn đã sử dụng các phương pháp thuyết
minh nào?
4/ Đọc đoạn văn sau:
Vườn bách thú Hơ –rơ- bin ở Trung Quốc vừa làm lễ kỉ niệm ngày chào đời của
ba chú hổ trắng: hai cái, một đực. Trên thế giới hiện nay chỉ có khoảng 200 con hổ
trắng, nên sự ra đời của chúng là một tin mừng đối với kho tàng động vật quý hiếm
của thế giới. Duy nhất, từ xưa đến nay, chỉ có một con hổ trắng được phát hiện trong
thế giới hoang dã vào năm 1951 tại một khu rừng ở Ấn Độ. Còn lại, toàn bộ số hổ
trắng có hiện nay đều được sinh ra với sự giúp đỡ của con người.
a) Đoạn văn trên có mấy câu? Câu chủ đề là câu nào? Vì sao? Có thể đặt tên cho đoạn
văn không?
b) Vì sao gọi đây là đoạn văn thuyết minh? Những yếu tố nào khiến cho bạn đọc tin
cậy và thích thú?
5/ Cho câu đố sau:
Bốn chân trông giống cột đình
Vòi dài tai lớn, dáng hình oai phong
Lúc ra trận, khi xiếc rong
Thồ hàng kéo gỗ đều không quản gì?
a) Là con gì?
b) Dựa vào câu đố, viết một đoạn văn thuyết minh ngắn khoảng 3 -4 câu giới thiệu về
con vật vừa đoán.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 78 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
6/ Cho câu đố sau:
Cũng gọi là quả
Chẳng ở trên cây
Có vảy có vây
Suốt ngày bơi lội
a) Là con gì?
b) Viết một đoạn văn giới thiệu về con vật vừa đoán và những món ăn pha chế từ con
vật đó, mà em yêu thích.
7/ Viết bài thuyết minh về con trâu.

III/ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI


1/
a) Kiến thức về sinh học, phương pháp nêu định nghĩa.
b) Kiến thức về sức khỏe đời sống. Phương phép nêu ví dụ và dùng số liệu.
c) Kiến thức về môi trường, phương pháp liệt kê, phân tích, phân loại.
d) Kiến thức về danh lam thắng cảnh, phương pháp nêu định nghĩa.
2/
a) Văn bản trên là văn thuyết minh, có yếu tố tự sự. Vì nó cung cấp thông tin cho bạn
đọc. Đó là một bản tin của báo.
b) Văn bản đó đã nhắc nhở mọi người việc giáo dục thế hệ trẻ. Đó là tránh nhiệm của
gia đình và xã hội.
3/
a) Đây là đoạn văn thuyết minh vì nó cung cấp kiến thức về sự vật cho bạn đọc.
b) Kiến thức mà tác giả sử dụng là kiến thức có trong sách vở, báo chí, tài liệu tin cậy
đã được các nhà khoa học nghiên cứu, khẳng định.
c) Phương pháp phân tích, phân loại và nêu ví dụ.
4/
a) Câu chủ đề là câu 1. Vì nó nêu lên nội dung chính mà đoạn văn hướng tới.
Nhan đề: Sự ra đời của ba chú hổ trắng.
b) Đây là đoạn văn thuyết minh vì nó cung cấp kiến thức cho bạn đọc về động vật.
Yếu tố khiến cho bạn đọc tin cậy là những con số chính xác và ví dụ cụ thể.
5/
a) Con voi
b) Voi là động vật thuộc lớp thú, sống thành bầy đàn trong rừng sâu. Voi có bốn
chân to như cái cột đình, tai voi to như cái quạt nan, vòi dài dùng để cuốn thức ăn đưa
vào miệng. Khi đất nước có chiến tranh, người ta thường cưỡi voi ra trận đánh giặc.
Lúc hòa bình, người ta dùng voi để thồ hàng, kéo gỗ, có khi để làm xiếc mua vui cho
con người.
6/
a) Con cá quả.
b) Cá quả là loài cá sống ở nước ngọt, thân dài, đầu nhỏ, có vảy có vây. Cá quả là một
loại cá ngon, ăn không tanh mà có vị thơm. Người ta thường dùng cá quả để chế biến
thành các món ăn đặc sản của dân tộc như cá quả nước, hấp, chiên, xốt, ăn gỏi…
Nhưng em thích nhất là ăn món cá nướng. Muốn chế biến món cá quả nướng ta cần
thịt cá, mổ moi hết ruột ra, tẩm ướp gia vị rồi dùng xiên xâu vào nướng trên than

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 79 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
hồng. Cá chín thì cạo hết lớp vỏ bên ngoài ăn vừa có vị thơm và ngọt. Đó là một món
ăn ngon chế biến từ cá quả.
7/ Dàn ý chi tiết:
Từ lâu, con trâu đã là con vật bình dị gắn bó thân thiết với người nông dân Việt
Nam. Họ coi trâu là bạn, trâu giúp họ cày cấy, làm ra hạt lúa, hạt gạo. Và sau đây là
những đặc điểm tiêu biểu của con trâu Việt Nam.
Trâu là động vật thuộc lớp thú, da thường màu đen với lớp lông mao phủ toàn
thân. Đuôi trâu dài thường xuyên phe phẩy như cái quạt của con người để đuổi ruồi,
muỗi. Hai tai của trâu khá thính giúp trâu nghe ngóng mọi động tĩnh và cũng trợ giúp
nhiều cho trâu trong việc đuổi ruồi, muỗi. Trâu tự vệ, chống lại kẻ thù bằng cách húc
đôi sừng to, khỏe vào đối phương. Sừng trâu còn được dùng làm tù và thổi trong các lễ
hội.
Trâu chỉ có một hàm răng. Người ta kể rằng: Có một con hổ thấy trâu làm quần
quật cho con người bèn hỏi trâu: “Trâu ơi! Trâu to khỏe thế kia mà phải làm đầy tớ
cho người à!” Trâu bảo con người có trí khôn nên trâu phải khuất phục. Hổ nổi tính
tò mò muốn xem trí khôn của con người ra sao. Người đã dùng trí khôn lừa hổ, đốt
cho hổ cháy lông, trâu thấy thế cười như nắc nẻ và va phải hòn đá vỡ mất một hàm
răng. Nếu ta để ý thấy trâu ăn rất nhanh, thậm chí nuốt chứ không nhai, như thế làm
sao mà tiêu hóa được. Thì ra trâu thuộc động vật nhai lại. Khi ra đồng làm việc trâu
tranh thủ ăn, gặm cỏ và không cần nhai. Cỏ trôi xuống dạ dày nhưng chưa tiêu hóa
ngay mà để ở dạ dày.( dạ dày của trâu có bốn ngăn). Khi về nghỉ ngơi, trâu ợ cỏ từ dạ
dày lên nhai lại, lúc này cỏ mới thật sự được tiêu hóa. Đặc điểm này rất phù hợp với
đặc tính cần cù của trâu. Trâu có những đặc tính thật gần gũi với người nông dân Việt
Nam.
Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con. Trâu con gọi là nghé,
khi mới sinh ra khoảng vài giờ nghé đã đứng thẳng, vài hôm sau có thể mở mắt và đi
theo mẹ. Nghé lớn rất nhanh, nghé chưa có sừng, lớn lên sừng mới nhú dần ra.
Mỗi năm trâu thường mắc bệnh chướng khí vào mùa xuân, do mùa đông ăn
toàn cỏ khô nên mùa xuân được thả trên các đồng cỏ trâu ăn thật lực, cỏ non xanh
nhiều nhựa và sương đêm càng kích thích sự thèm ăn của trâu. Trâu ăn nhiều, nhựa cỏ
và sương vào dạ dày gây chướng khí khiến bụng trâu phình to ra, nêu không cấp cứu
kịp thời trâu sẽ chết. Vì vậy gần đến mùa xuân nên cho trâu ăn một ít cỏ tươi để trâu
quen dần.
Trâu là động vật có ích, là người bạn của nông dân Việt Nam trong lao động sản
xuất. Ngoài việc cày bừa trâu còn xuất hiện trong các lễ hội truyền thống như hội
“Chọi trâu” – một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta.
Tuy là con vật nhưng trâu rất gắn bó với con người. Qua hình ảnh con trâu ta
liên tưởng đến sự chăm chỉ cần cù , chịu thương chịu khó của người nông dân Việt
Nam. Chúng ta phải yêu quý, chăm sóc trâu vì là một con vật có ích, hơn nữa trâu còn
gợi cho mỗi người dân Việt Nam nhớ về những nét đẹp văn hóa của dân tộc.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 80 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 29/12/2013


TUẦN 20 RÈN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Rèn cho học sinh kĩ năng cảm thụ một đoạn văn đoạn thơ.
- Biết cách viết đoạn văn cảm thụ văn học về một đoạn văn, đoạn thơ.
II/ BÀI TẬP ỨNG DỤNG
Bài tập 1
Có một đoạn thơ rất hay, rất xúc động viết về Bác Hồ kính yêu như sau:
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi.
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre…
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ
Sóng dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương…
e) Đoạn thơ đã viết về sự kiện nào trong cuộc đời hoạt động của Bác Hồ kình yêu?
Lúc đó Bác có tên là gì?
f) Phân tích hiệu quả của dấu chấm câu giữa câu thơ thứ nhất và từ “Nhưng”.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 81 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
g) Trong đoạn thơ có 3 từ đồng nghĩa. Hãy phát hiện ra 3 từ đó và lí giải vì sao tác
giả lại sử dụng như vậy? Có thể chỉ dùng một từ thôi, ở cả 3 vị trí này được
không?
h) Viết đoạn văn biểu cảm về đoạn thơ trên từ 10 -12 câu.
Bài tập 2
.Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Bếp lửa
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Tám măm ròng cháu cùng bà nhóm lửa


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi


Làng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa


Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 82 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu


Có lửa trăm nhà và niềm vui trăm ngả
Nhưng vẵn không lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
(Bằng Việt)
a) Trong bài thơ trên, người cháu nhớ những kỉ niệm gì về bà? Trong hoàn cảnh nào?
Những chi tiết hình ảnh nào khiến em xúc động?
b) Tiếng chim tu hú được nhắc đến nhiều lần trong bài thơ này đã thể hiện tâm trạng
người cháu ra sao? Nó gợi lên trong em cảm nghĩ gì?
c) Tại sao khi nhắc tới bếp lửa người cháu nhớ đến bà và ngược lại? Hình ảnh ấy
mang ý nghĩa gì?
d) Viết một đoạn văn cảm nhận về ba câu thơ đầu của bài thơ?
e) Từ nhóm trong bài thơ mấy nghĩa? Đó là những nghĩa nào? Viết đoạn văn phân tích
tác dụng của điệp từ nhóm trong bài thơ trên?
g) Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà trong đoạn 2 (khổ 2,3,4,5 bài thơ Bếp lửa).
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Bài tập 1.
e) Đoạn thơ viết về sự kiện Bác Hồ xuống một chiếc tàu của Pháp tại bến cảng
Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Lúc đó Bác có tên gọi là anh Ba.
f) Câu thơ có từ “Nhưng” và dấu chấm giữa dòng tách hai ý như là đối lập nhau:
Đất nước đẹp vô cùng nên Bác không bao giờ muốn xa đất nước.
Nhưng Bác phải ra đi tìm đường cứu nước, phải xa rời đất nước, vì Bác yêu quý
vô cùng tổ quốc mình.
Hai ý tưởng như đối lập nhau nhưng lại vô cùng thống nhất.
g) Trong đoạn thơ có 3 từ đồng nghĩa: nước, quê hương, xứ sở.
Không thể chỉ dùng một từ được vì 3 từ đồng nghĩa trên có những sắc thái khác
nhau:
- Nước: sắc thái tình cảm giản dị, bình thường.
- Quê hương: sắc thái tình cảm gần gũi, thân thiết.
- Xứ sở: sắc thái tình cảm với một mảnh đất đã cách xa lắm rồi
h) Đoạn văn biểu cảm
Đoạn thơ trên đã viết về sự kiện Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911,
tại bến cảng Nhà Rồng. Đoạn thơ đã thể hiện được nỗi lòng của Bác khi bước
chân lên tàu ra đi tìm đường cứu nước. Trong trái tim Người, đất nước đẹp vô
cùng, Bác không muốn xa đất nước. Nhưng càng yêu đất nước bao nhiêu Bác
càng khát khao giải phóng đất nước bấy nhiêu. Bởi thế cho nên Bác quyết tâm
ra đi tìm đường cứu nước. Ngồi trên chiếc tàu bôn ba hải ngoại, Người nhìn
mãi theo về phía quê hương, bờ bãi lui, làng xóm khuất, Người không ngủ
được. Càng nghĩ Bác càng nhớ quê hương, xứ sở, thương đất nước đau thương
đang chìm trong ách nô lệ. Đó là tấm lòng của người con yêu đất nước thiết
tha, tấm lòng của một vị lãnh tụ vĩ đại đã cống hiến cả cuộc đời mình cho non
sông, cho đất nước. Khi Bác ra đi là một chàng thanh niên trai tráng, giàu nhiệt
huyết.(21 tuổi). Khi Bác trở về đã là một ông già. (51 tuổi).Cả quãng đời sôi
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 83 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
nổi, nhiệt huyết nhất Bác bôn ba ở nước ngoài. Bác đã hi sinh cả cuộc đời cho
sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam. Đoạn thơ cho em thêm hiểu, thêm
yêu kính và biết ơn Bác. Nhờ có Bác mà chúng em mới có cuộc sống ấm no
ngày hôm nay.
Bài tập 2
a) Trong bài thơ, người cháu đã nhớ đến bà với những kỉ niệm: cùng bà nhóm
bếp( Nhớ khói hun nhèm mắt cháu), bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà kể chuyện
cho cháu nghe, bà dặn cháu đinh ninh…
- Nhà thơ nhớ đến những kỉ niệm về bà khi nhà thơ đang đi du học ở xa đất nước.(Học
ở Liên Xô)
a) Tiếng chim tu hú được nhắc đến nhiều lần trong bài thơ này càng làm cho nỗi nhớ
của người cháu trở nên tha thiết. Tiếng chim tu hú là âm thanh quen thuộc nơi làng
quê còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút và nhớ mong của hai bà cháu khi mẹ cùng
cha công tác bận không về. Hai bà cháu đã nương tựa vào nhau, bà điểm tựa tinh thần
cho cháu.
c) Nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và ngược lại, khi nhớ đến bà là nhớ
ngay đến bếp lửa. Vì bếp lửa là hình ảnh quen thuộc nơi làng quê, suốt những năm
tháng tuổi thơ cháu sống bên bà, sớm sớm chiều chiều cháu cùng bà nhóm lửa nên
hình ảnh của bà luôn gắn liền với bếp lửa và ngược lại.
- Hình ảnh bếp lửa mang ý nghĩa biểu tượng: bếp lửa mà bàn tay bà nhóm lên mỗi
sớm mai là bếp lửa của tình yêu thương, của niềm tin vào ngày mai tươi sáng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 84 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn:01/01/2015
TUẦN 21 ÔN TẬP VĂN BẢN NHỚ RỪNG – THẾ LỮ

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật đặc sắc của bài thơ.
- Viết đoạn văn cảm nhận về một số đoạn thơ tiêu biểu trong bài thơ.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Hãy xác định hình tượng trung tâm của bài thơ. Để khắc họa chân dung của con hổ,
tác giả đã sử dụng thành công thủ pháp tương phản. Hãy chỉ ra các tương quan đối lập
ấy.
2. Nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
3. Bài thơ có 5 đoạn, hãy đặt tên cho từng đoạn theo suy nghĩ của em.
4/ Phân tích cảm nhận đoạn 2 của bài thơ.
5/ Bài thơ có rất nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Em hãy chỉ ra
những hình ảnh đó.
6/ Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng rất thành công nghệ thuật điệp ngữ kết hợp với
các câu hỏi tu từ. Hãy chọn phân tích một số dẫn chứng để làm nổi bật tác dụng của
các biện pháp nghệ thuật đó.

III/ TIẾN TRÌNH BÀI DẠY


GV: Nguyễn Thị Nguyệt 85 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
1/Hình tượng trung tâm của bài thơ là con hổ bị sa cơ thất thế đang bị nhốt trong vườn
bách thú.
- Để khắc họa hình tượng chúa sơn lâm tác giả đã sử dụng thành công thủ pháp
tương phản, đối lập. Có hai cảnh tượng đối lập chính trong bài thơ

Hiện tại(đoạn 1,4) Quá khứ(đoạn 2,3)


Vườn bách thú, bị giam cầm - Núi non hùng vĩ, tự do hùng vĩ.
Thực tại tầm thường giả dối. - Gắn với mộng tưởng về thế giới đẹp đẽ
=> Thái độ chán ghét của thiên nhiên.
=> Khát khao, mơ ước.

2/ Bài thơ đã mượn lời con hổ trong vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét
thực tại tầm thường giả dối và niềm khát khao tự do mãnh liệt bằng những vần thơ
tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân
mất nước thủa ấy.
3/
- Đoạn 1: Anh hùng thất thế.
- Đoạn 2: khúc trường ca dữ dội.
- Đoạn 3: sự tiếc nuối quá khứ huy hoàng.
- Đoạn 4: niềm uất hận trước thực tại tầm thường.
- Đoạn 5: khát vọng tự do cháy bỏng.
4/
Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một khúc trường ca dữ dội của chúa sơn lâm
trong quá khứ. Với búp pháp lãng mạn, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tác giả đã làm nổi
bật lên hình ảnh rừng già “ngàn năm cao cả âm u” đầy hoang vu, bí hiểm, dữ dội và
oai linh. Đó là cảnh “bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng
thét khúc trường ca dữ dội”. Biện pháp liệt kê kết hợp với điệp từ “với” đã mở ra vẻ
đẹp bất tận, hào hùng của chốn rừng thiêng. Trên cái phông nền của núi non hùng vĩ
ấy hiện ra bóng dáng đẹp đẽ oai hùng của chúa sơn lâm.:
“Ta bước chân lên ….không tuổi”.
Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm diễn tả từng bước chân oai vệ, chuyển động
vừa mạnh mẽ vừa mề mại của chúa sơn lâm. Khi rừng thiêng thét lên khúc trường ca
dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên trong tư thế dõng dạc, đường hoàng, rồi lượn
tấm thân, vờn bóng và quắc lên ánh mắt thần. Với nhiều động từ, tính từ, so sánh ẩn
dụ giàu chất tạo hình đoan thơ đã miêu tả thật chính xác từng động tác của bàn chân,
tấm thân và ánh mắt gợi lên vẻ đẹp vừa uy nghi dũng mãnh vừa mềm mại uyển
chuyển của chúa sơn lâm.

5/ Bài thơ có nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:


- Hình ảnh con trong bài thơ là biểu tượng cho một người anh hùng bị thất thế.
- Hình ảnh núi rừng trong dòng hồi ức là biểu tượng của cuộc sống tự do, hào hùng.
- Hình ảnh vườn bách thú là biểu tượng cho hiện tại tù túng, tầm thường, giả dối.
6/
Nhớ rừng là bài thơ thành công nhất của nhà thơ Thế Lữ. Bài thơ đã mượn lời
con hổ trong vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường giả
dối và niềm khát khao tự do mãnh liệt bằng những vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 86 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Đoạn thơ thứ 3 là đoạn thơ tuyệt bút của bài thơ với vẻ đẹp hài hoà lộng lẫy của bộ
tranh tứ bình.
Đoạn thơ đã sử dụng thành công nghệ thuật điệp ngữ kết hợp với câu hỏi tu từ để diễn
tả sâu sắc niềm tiếc nuối của khứ huy hoàng của chúa sơn lâm. Trong nỗi nhớ da diết
của con hổ hiện lên 4 cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ, dữ dội, tráng lệ và thơ
mộng và con hổ ở vị trí trung tâm với một tư thế uy nghi, dũng mãnh của chúa sơn
lâm. Đó là cảnh “những đêm vàng bên bờ suối” thơ mộng và lộng lẫy với hình ảnh
con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan” như một nghệ sĩ vừa kiêu hùng vừa hào
hoa. Đó là cảnh “ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” đẹp một cách hùng tráng với
hình ảnh vị chúa tể đang “lặng ngắm giang sơn đổi mới”. Trong tư thế này con hổ
giống như một nhà hiền triết trầm lặng ngắm đất trời thay đổi sau mưa bão. Đó là
“cảnh bình minh cây xanh nắng gội”, chan hòa ánh nắng, tưng bừng rộn rã tiếng chim
ca nâng giấc ngủ bình yên cho chúa sơn lâm. Khi đó hổ như một bậc đế vương hiền
lành có chim ca hầu quanh giấc ngủ. Và cuối cùng là cảnh “chiều lênh láng máu sau
rừng” đẹp dữ dội với con hổ đang đợi chết mảnh mặt trời gay gắt để chiếm lấy riêng
phần bí mật. Trong cảnh cuối cùng này, nó chính là nó, vị chúa tể rừng già tàn bạo, dữ
dội, làm chủ bóng tối, làm chủ vũ trụ. “Chết mảnh mặt trời” là cách nói mới mẻ giàu
sức biểu cảm. Sắc đỏ của ánh tà dương trở thảnh máu của mặt trời đang hấp hối,
nhuộm đỏ cả không gian sau rừng. Vầng thái dương vị đại của vũ trụ chỉ là một mảnh
bé nhỏ trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của chúa sơn lâm.
Bốn bức tranh cùng vẽ về một con hổ với những phông nền và tư thế khác nhau
đã khái khoát trọn vẹn một thời oanh liệt huy hoàng của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh
là 4 câu hỏi thể hiện niềm nuối tiếc uất hận thời quá khứ huy hoàng không bao giờ trở
lại cứ tăng dần. “Nào đâu” là tiếng than ngậm ngùi, nuối tiếc mở đầu cho dòng hoài
niệm. Đến những câu hỏi tiếp theo “Đâu…đâu” là niềm nuối tiếc đã nhuốm đầy đau
đớn. Và niềm nuối tiếc được đẩy lên đến đỉnh điểm trong câu thơ : “Than ôi ! Thời
oanh liệt nay còn đâu !”. Đó là tiếng than tràn đầy uất, đau đớn xót xa tiếc nuối cuộc
sống tự do của mình. Tiếng than ấy đã là nổi bật lên sự đối lập tương phản giữa hai thế
giới ở thực tại và quá khứ, niềm khao khát tự do mãnh liệt của con hổ bị giam cầm
trong cũi sắt chán ghét thực tại, da diết nhớ thời oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ.
Đây cũng là cảnh ngộ và tâm trạng của người dân Việt Nam mất nước lúc bấy
giờ. Con người phải sống trong cảnh nô lệ “bị nhục nhằn tù hãm ” cũng “ gậm một
khối căm hờn trong cũi sắt ” cũng tiếc nhớ khôn nguôi “thời oanh liệt” của lịch sử dân
tộc và cũng khao khát cuộc sống tự do, trở về với “nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày
xưa”. Cũng chính bởi có sự đồng điệu đó mà bài thơ của Thế Lữ mới được công
chúng say sưa đón nhận.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 87 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn:08/01/2015
TUẦN 21
ÔN TẬP VĂN BẢN QUÊ HƯƠNG – TẾ HANH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh nắm chắc nội dung chính của bài thơ.
- Viết đoạn văn phân tích cảm nhận về những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc và những đoạn thơ
hay trong bài thơ.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Hai câu đầu bài thơ có ý nghĩa gì?
2/ Chỉ ra và phân tích giá trị biểu cảm của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
'' Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồn giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió''
(Sách Ngữ văn 8, tập 2)
3/Viết một đoạn văn ngắn( theo cách qui nạp) trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp
độc đáo nghệ thuật của hai câu thơ sau:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 88 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng,
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
(Quê hương – Tế Hanh)
4/Trình bày cảm nhận của em về hai câu thơ sau :
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
( Quê hương - Tế Hanh )

5/Nhận xét về bài thơ "Quê hương" của nhà thơ Tế Hanh, có ý kiến cho rằng: "Dường
như trong kí ức của người đi xa đầy ắp những kỉ niệm về quê hương xứ sở và luôn
thường trực một nỗi nhớ không nguôi"
Em hãy chứng minh ý kiến trên qua hai khổ thơ sau (Trích trong bài thơ "Quê hương"
của Tế Hanh)
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
…..
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi,
Thoáng thấy con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI


1/ Hai câu thơ đầu là lời giới thiệu giản dị mộc mạc về “làng tôi”. Nếu thiếu lời giới
thiệu này thì quê hương sẽ trở nên trừu tượng và thiếu sức truyền cảm.
2.
Đoạn thơ trên đã sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa để
miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong một buối sáng đẹp trời. Đoàn thuyền
xuất phát giữa buổi bình minh trong sáng, dịu mát và rực rỡ nắng mai hồng. Những
chàng trai miền biển khỏe mạnh, vạm vỡ hăng hái phăng mái chèo ra khơi. Chiếc
thuyền hăng hái mạnh mẽ vượt trường giang được so sánh với con tuấn mã là một liên
tưởng đẹp và độc đáo. “Con tuấn mã” là một con ngựa khỏe đẹp, phi rất nhanh. Hình
ảnh so sánh chiếc thuyền với “con tuấn mã” kết hợp với các động từ mạnh “hăng,
phăng, vượt” cho ta thấy khí thế mạnh mẽ, dũng mãnh của con thuyền khi ra khơi. Và
đó cũng là sức mạnh, khi thế của những chàng trai miền biển. Nổi bật trên con thuyền
ấy là hình ảnh cảnh buồm no gió được so sánh với “mảnh hồn làng”.
“Mảnh hồn làng” là một khái niệm trừu tượng không hình sắc, không thanh âm, là nét
riêng biệt, là linh hồn của mỗi làng quê. Nhà thơ đã so sánh cái khái niệm trừu tượng
đó với một hình ảnh rất cụ thể, rất quen thuộc là cánh buồm no gió trên biển khơi làm
cho hình ảnh cánh buồm trở thành một hình ảnh lớn lao, kì vĩ, thiêng liêng và rất thơ
mộng. Nhà thơ chợt nhận ra cái linh hồn của làng chài quê hương trong hình ảnh cánh
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 89 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
buồm. Có lẽ không có hình ảnh nào diễn tả chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn là lấy
hình ảnh cánh buồm biểu tượng cho linh hồn làng chài. Bởi vì con thuyền là cuộc đời,
là số phận người dân chài, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người dân chài đều gửi
gắm vào hình ảnh cánh buồm căng gió giữa biển khơi mênh mông. Cánh buồm ấy
đang rướn cao thân mình thu hết gió của đại dương đẩy con thuyền đi nhanh hơn .
Đoạn thơ đã vẽ lên một bức tranh lao động khoẻ khoắn tràn đầy sức sống thể hiện
khát vọng chinh phục thiên nhiên của người dân làng chài.
3.
Trong hai câu thơ trên hình ảnh cảnh buồm no gió được so sánh với “mảnh hồn
làng”.“Mảnh hồn làng” là một khái niệm trừu tượng không hình sắc, không thanh âm,
là nét riêng biệt, là linh hồn của mỗi làng quê. Nhà thơ đã so sánh cái khái niệm trừu
tượng đó với một hình ảnh rất cụ thể, rất quen thuộc là cánh buồm no gió trên biển
khơi làm cho hình ảnh cánh buồm trở thành một hình ảnh lớn lao kì vĩ và rất thiêng
liêng, thơ mộng. Nhà thơ chợt nhận ra cái linh hồn của làng chài quê hương trong hình
ảnh cánh buồm. Có lẽ không có hình ảnh nào diễn tả chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp
hơn là lấy hình ảnh cánh buồm biểu tượng cho linh hồn làng chài. Bởi vì con thuyền là
cuộc đời, là số phận người dân chài, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người dân chài
đều gửi gắm vào hình ảnh cánh buồm căng gió giữa biển khơi mênh mông. Cánh
buồm ấy đang rướn cao thân mình thu hết gió của đại dương đẩy con thuyền đi nhanh
hơn. Đây là hai câu thơ hay nhất, đẹp nhất trong bài thơ quê hương của tác giả.
4.
Hai câu thơ trên đã sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa để miêu tả hình
ảnh con thuyền khi về bến. Phép nhân hoá đã biến con thuyền, một sự vật vô tri trở
thành một con người có tâm hồn rất tinh tế. Con thuyền đang nằm im trên bến mỏi, nó
cũng biết mệt mỏi, cũng cần được nghỉ ngơi sau những ngày vật lộn với sóng gió trên
biển khơi. Nó đang say sưa, đang lắng nghe chất muối, vị mặn mỏi của biển cả đang
thấm dần trong thớ vỏ của nó. Cả thân hình nó đang thấm đẫm vị mặn mòi của biển
khơi, như dạn dày hơn, phong sương hơn sau một chuyến ra khơi. Phải có một tâm
hồn tinh tế tài hoa, một tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người và cuộc sống người
dân làng chài thì nhà thơ mới có được những câu thơ hayđến thế, mới cảm nhận được
cả sự mệt mỏi của con thuyền lúc trở về bến. Đó cũng chính là cảm nhận của mỗi
người dân làng chài sau mỗi chuyến ra khơi trở về.
5.
Tình yêu quê hương là một tình cảm thiêng liêng trong trái tim mỗi con người
và cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca. Với nhà thơ Tế Hanh, nguồn cảm hứng
ấy đã chảy suốt trong cuộc đời thơ của ông mà “Quê hương” là bài thơ mở đầu cho
chùm thơ viết về quê hương. Nhận xét về bài thơ này, có ý kiến cho rằng: “Dường như
trong kí ức của người đi xa đầy ắp những kỉ niệm về quê hương xứ sở và luôn thường
trực một nỗi nhớ không nguôi". Điều đó được thể hiên rất rõ trong khổ thơ thứ hai và
khổ thơ cuối cùng của bài thơ.
Thật vậy, trong kí ức của nhà thơ Tế Hanh đầy ắp những kỉ niệm về quê hương.
Những hình ảnh đặc trưng nhất của làng chài quê hương luôn in đậm trong kí ức của
ông. Đó là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong một buổi sáng đẹp trời:
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 90 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Đoàn thuyền xuất phát giữa buổi bình minh trong sáng, dịu mát và rực rỡ nắng mai
hồng. Những chàng trai miền biển khỏe mạnh, vạm vỡ hăng hái phăng mái chèo ra
khơi. Chiếc thuyền hăng hái mạnh mẽ vượt trường giang được so sánh với con tuấn
mã là một liên tưởng đẹp và độc đáo. “Con tuấn mã” là một con ngựa khỏe đẹp, phi rất
nhanh. Hình ảnh so sánh chiếc thuyền với “con tuấn mã” kết hợp với các động từ
mạnh “hăng, phăng, vượt” cho ta thấy khí thế mạnh mẽ, dũng mãnh của con thuyền
khi ra khơi. Và đó cũng là sức mạnh, khi thế của những chàng trai miền biển. Nổi bật
trên con thuyền ấy là hình ảnh cảnh buồm no gió được so sánh với “mảnh hồn làng”.
“Mảnh hồn làng” là một khái niệm trừu tượng không hình sắc, không thanh âm, là nét
riêng biệt, là linh hồn của mỗi làng quê. Nhà thơ đã so sánh cái khái niệm trừu tượng
đó với một hình ảnh rất cụ thể, rất quen thuộc là cánh buồm no gió trên biển khơi làm
cho hình ảnh cánh buồm trở thành một hình ảnh lớn lao, kì vĩ, thiêng liêng và rất thơ
mộng. Nhà thơ chợt nhận ra cái linh hồn của làng chài quê hương trong hình ảnh cánh
buồm. Có lẽ không có hình ảnh nào diễn tả chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn là lấy
hình ảnh cánh buồm biểu tượng cho linh hồn làng chài. Bởi vì con thuyền là cuộc đời,
là số phận người dân chài, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người dân chài đều gửi
gắm vào hình ảnh cánh buồm căng gió giữa biển khơi mênh mông. Cánh buồm ấy
đang rướn cao thân mình thu hết gió của đại dương đẩy con thuyền đi nhanh hơn .
Đoạn thơ đã vẽ lên một bức tranh lao động khoẻ khoắn tràn đầy sức sống thể hiện
khát vọng chinh phục thiên nhiên của người dân làng chài.
Và những hình ảnh đặc trưng nhất của quê hương luôn thường trực trong nỗi
nhớ của nhà thơ:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi,
Thoáng thấy con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Hình ảnh quê hương làng chài luôn trong trái tim của nhà thơ với nét đặc trưng nhất:
màu nước xanh, cá bạc, buồm vôi, con thuyền rẽ sóng ra khơi, nhưng tác giả nhớ nhất
là “cái mùi nồng mặn quá”. Đó chính là cái hương vị riêng biệt đầy quyến rũ của quê
hương làng chài. Câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ cồn cào, da diết, khôn nguôi của
người con hiếu thảo với con người và cuộc sống ở quê hương.
Nói tóm lại, bài thơ đã thể hiện được tình yêu quê hương tha thiết bền chặt, thủy
chung của tác giả. Tình yêu ấy được thể hiện trong nỗi nhớ da diết khôn nguôi về quê
hương. Bài thơ đã đánh thức tình yêu quê hương đang ẩn sâu trong trái tim mỗi con
người. Bài thơ đã giúp em hiểu hơn về nhà thơ Tế Hanh – nhà thơ của quê hương.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 91 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày 10/01/2015
TUẦN 22
ÔN TẬP VĂN BẢN “KHI CON TU HÚ” – TỐ HỮU

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh nắm vững nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Rèn kĩ năng viết đoạn văn cảm nhận về một đoạn thơ, phân tích bài thơ.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nào? Hoàn cảnh ấy có tác động như thế nào
đến tâm hồn của nhà thơ?
2/ Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ?
3. Trong bài thơ, tiếng tu hú được nhắc đến mấy lần trong bài thơ? Chỉ ra sự thay đổi
tâm trạng của nhà thơ khi nghe tiếng chim tu hú?
4/ Phân tích vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống lúc vào hè trong 6 câu thơ đầu của bài
thơ?
5/ Phân tích tâm trạng của nhà thơ trong 4 câu thơ cuối?
6/ Trình bày cảm nhận của em về tình yêu cuộc sống, niềm khát khao tự do cháy
bỏng của người chiến sĩ cách mạng qua bài thơ " Khi con tu hú " bằng một bài viết
ngắn.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 92 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
7/ Nhận xét về hai bài thơ “ Nhớ rừng”(Thế Lữ) và “ Khi con tu hú” (Tố Hữu), có ý
kiến cho rằng :
“ Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khao khát tự do cháy bỏng
của tầng lớp thanh niên trí thức. Tuy nhiên thái độ đấu tranh cho tự do ở mỗi bài lại
hoàn toàn khác nhau”.
Bằng hiểu biết của mình về hai bài thơ, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ Huế. Đang hăm
hở, hăng say hoạt động cách mạng thì bị bắt. Bởi thế trong hoàn cảnh tù đầy người
thanh niên ấy luôn khát khao tự do, khát khao được “sổ lồng” để tiếp tục hoạt động
cách mạng. Những âm thanh bên ngoài vang vọng vào nhà tù đã đánh thức những
dòng cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ về chân trời tự do. Khi con tu hú gọi bầy cũng là
lúc mùa hè đến, người tù càng cảm thấy ngột ngạt trong cảnh giam cầm càng khát
khao tự do đến cháy bỏng.

2/ Nhan đề Khi con tu hú: chỉ là vế phụ của một câu, chưa trọn ý, nhưng chính chỗ
chưa trọn ý đó đã gợi ra bao liên tưởng cho người tù cách mạng. Căn cứ vào nội dung
bài thơ có thể hiểu là : Khi chim tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, nguời tù cách mạng
cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống
tự do ở bên ngoài. Tiếng chim tu hú là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng
bừng bên ngoài, của trời cao tự do lồng lộng. Tiếng chim ấy đã tác động mạnh mẽ đến
tâm hồn người tù

3. Trong bài thơ, tiếng chim tu hú được nhắc đến hai lần trong bài thơ:
Lần 1 ở câu thơ đầu: gợi ra cảnh mùa hè đẹp đẽ, tràn đầy nhựa sống khơi gợi niềm
khát khao tự do của người tù cách mạng.
Lần 2 ỏ câu thơ cuối: tiếng chim ấy khiến nhà thơ cảm thấy bực bội, đau khổ, day dứt.
Nhưng cả hai lần tiếng chim ấy đều vang lên như tiếng gọi của tự do.
4/
Sáu câu thơ đầu của bài thơ Khi con tu hú là bức tranh mùa hè tươi đẹp tràn
trề nhựa sống. Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức gọi trong lòng người tù khu cảnh
mùa hè tràn ngập âm thanh, rực rỡ sắc màu,và ngọt ngào hương vị. Người chiến sĩ
như nhìn thấy “lúa chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây, nghe được
“tiếng ve ngân” trong vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng tượng của
người tù luôn ở trạng thái căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy tiếng, đầy
sân, càng rộng, càng cao. Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả một bức
tranh mùa hè tràn trề nhựa sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không gian: có
màu vàng của lúa chiêm, màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào, màu xanh
của trời cao. Sinh động nhất là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Hình
ảnh đó là biểu hiện cao độ của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của tác giả. Đôi
con diều sáo đang thỏa sức “lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay chính tác giả
đang vượt qua song sắt nhà tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn bức tường của
phòng giam chật chội chỉ qua một âm thanh nghe được người tù như nhìn thấy, ngửi
thấy, nếm thấy và cảm thấy được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sống
bên ngoài. Đoạn thơ cho ta cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát khao tự do
cháy bỏng và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 93 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
5/
Đoạn thơ đã diễn tả cảm giác ngột ngạt, bực bội, đau khổ và niềm khát khao tự
do cháy bỏng của người tù cách mạng. Bốn câu thơ lục bát được ngắt làm hai câu cảm
thán, với nhịp thơ bất thường (6/ 2: 3/ 3), kết hợp với các động từ mạnh, từ cảm thán
làm cho đoạn thơ trở thành tiếng kêu phẫn uất của một người mất tự do. Mùa hè tươi
đẹp của cuộc sống bên ngoài thôi thúc người tù đạp tan cả bốn bức tường của phòng
giam. Tiếng chim tu hú ở câu mở đầu là một âm thanh quen thuộc báo hiệu mùa sôi
động, tưng bừng sự sống, đầy ắp tự do đang đến. Còn tiếng chim tu hú ở câu cuối
vẫn là tiếng gọi của tự do nhưng nó da diết, thúc giục càng làm cho người tù đau khổ
thấm thía(“Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”). Cảnh trong tưởng tượng càng đẹp bao
nhiêu thì người tù cách mạng càng đau đớn sôi sục ý chí căm thù vì mất tự do bấy
nhiêu. Cuối cùng để kết thúc cảnh tù đầy ngột ngạt đó, để trở về với cuộc sống hoạt
động sôi nổi tự do người tù cách mạng đã vượt ngục trở về với đồng chí, với quê
hương. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh bay cao.

5/
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, cuộc đời thơ của ông gắn liền với cuộc đời
cách mạng. Đang hăng say hoạt động cách mạng thì ông bị bắt giam trong bốn bức
tường chật chội nguời tù cảm thấy ngột ngạt, cô đơn, hướng tất cả cõi lòng ra cuộc
sống bên ngoài. Bài thơ khi con tu hú được sáng tác trong hoàn cảnh đó.
“ Khi con tu hú” là tiếng lòng của người thanh niên 19 tuổi say mê lí tưởng,
thiết tha yêu đời, hăng hái hoạt động nhưng lại bị giam cầm cách biệt với cuộc sống
bên ngoài. Bài thơ được làm theo thể thơ lục bát giản dị, thiết tha thể hiện sâu sắc tình
yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong
cảnh tù đày.
Mở đầu bài thơ là một bức tranh mùa hè tươi đẹp tràn trề nhựa sống hiện ra
trong tâm tưởng của người tù:
" Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng, càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không ...

Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức gọi trong lòng người tù khu cảnh mùa hè tràn ngập
âm thanh, rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vị. Người chiến sĩ như nhìn thấy “lúa
chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây, nghe được “tiếng ve ngân” trong
vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng tượng của người tù luôn ở trạng thái
căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy tiếng, đầy sân, càng rộng, càng cao.
Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả một bức tranh mùa hè tràn trề nhựa
sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không gian: có màu vàng của lúa chiêm,
màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào, màu xanh của trời cao. Sinh động nhất
là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Hình ảnh đó là biểu hiện cao độ
của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của tác giả. Đôi con diều sáo đang thỏa sức
“lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay chính tác giả đang vượt qua song sắt nhà
tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn bức tường của phòng giam chật chội chỉ
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 94 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
qua một âm thanh nghe được người tù như nhìn thấy, ngửi thấy, nếm thấy và cảm thấy
được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sống bên ngoài. Đoạn thơ cho ta
cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát khao tự do cháy bỏng và trí tưởng tượng
phong phú của nhà thơ.
Cảnh trong tưởng tượng càng đẹp bao nhiêu thì người tù càng cảm thấy đau khổ
vì mất tự do bấy nhiêu:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu ! "
Nếu ở khổ thơ trên, tâm trạng người tù ẩn trong cảnh, chan hòa với cảnh thì ở đoạn
này niềm khát khao bật thành lời, giãi bày trực tiếp với mùa hè. Bốn câu thơ lục bát
được ngắt làm hai câu cảm thán, với nhịp thơ bất thường (6/ 2: 3/3), kết hợp với các
động từ mạnh, từ cảm thán làm cho đoạn thơ trở thành tiếng kêu phẫn uất của một
người mất tự do. Mùa hè tươi đẹp của cuộc sống bên ngoài thôi thúc người tù đạp tan
cả bốn bức tường của phòng giam. Tiếng chim tu hú ở câu mở đầu là một âm thanh
quen thuộc báo hiệu mùa sôi động, tưng bừng sự sống, đầy ắp tự do đang đến. Còn
tiếng chim tu hú ở câu cuối vẫn là tiếng gọi của tự do nhưng nó da diết, thúc giục càng
làm cho người tù đau khổ thấm thía(Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu). Cảnh trong
tưởng tượng càng đẹp bao nhiêu thì người tù cách mạng càng đau đớn sôi sục ý chí
căm thù vì mất tự do bấy nhiêu. Cuối cùng để kết thúc cảnh tù đầy ngột ngạt đó, để trở
về với cuộc sống hoạt động sôi nổi tự do người tù cách mạng đã vượt ngục trở về với
đồng chí, với quê hương. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh bay cao.
Với mười câu lục bát giản dị, bài thơ “Khi con tu hú” thể hiện thật sâu sắc, thật
thiết tha lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người tù cộng sản
trong cảnh tù đầy. Những nỗi niềm riêng ấy cho thấy tâm hồn người chiến sĩ cách
mạng thật phong phú và cao đẹp. Đó cũng chính là điều mà khiến mỗi chúng ta khâm
phục và cần phải học tập.

7/ Thế Lữ và Tố Hữu là hai nhà thơ nổi tiếng của trong nền thơ hiện đại
Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ có một phong cách sáng tác khác nhau. Thế Lữ tiêu
biểu cho hồn thơ lãng mạn còn Tố Hữu lại tiêu biểu cho thơ cách mạng. Nhưng đến
với bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ và bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu lại có một điểm
chung: Đó là niềm khát khao tự do cháy bỏng của nhân vật trữ tình. Nhận xét về hai
bài thơ này, có ý kiến cho rằng: ““ Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm
khao khát tự do cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức. Tuy nhiên thái độ đấu
tranh cho tự do ở mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau”.
Thậy vậy, cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khát khao tự do
cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức lúc bấy giờ nhưng cách đấu tranh cho tự do
ở mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau.
Tình yêu nước và niềm khát khao tự do cháy bỏng trong bài thơ Nhớ rừng được
thể hiện gián tiếp qua lời của một con hổ trong vườn bách thú.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Con hổ từ chỗ là chúa tể của muôn loài, là oai linh nơi rừng thẳm nay nó bị nhốt trong
cũi sắt làm trò lạ mắt thứ đồ chơi nên nó vô cùng cay đắng căm uất. Nỗi cay đắng căm
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 95 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
hờn chứa chất lâu trong lòng con hổ đã trở thành hình thành khối có nghĩa là rất nhiều.
Nó đang nghiền ngẫm thấm thía sự đau khổ cay đắng của thân phận tù hãm và nung
nấu hờn căm, uất hận trong tư thế buông xuối, bất lực.
Và trong cảnh tù đày đó, nó nhớ tiếc quá khứ oai hùng khi ở chốn rừng thiêng,
“thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Với búp pháp lãng mạn, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tác giả đã làm nổi bật lên hình
ảnh rừng già “ngàn năm cao cả âm u” đầy hoang vu, bí hiểm, dữ dội và oai linh.Trên
cái phông nền của núi non hùng vĩ ấy hiện ra bóng dáng đẹp đẽ oai hùng của chúa sơn
lâm:
“Ta bước chân lên ….không tuổi”.
Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm diễn tả từng bước chân oai vệ, chuyển động
vừa mạnh mẽ vừa mề mại của chúa sơn lâm. Khi rừng thiêng thét lên khúc trường ca
dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên trong tư thế dõng dạc, đường hoàng, rồi lượn
tấm thân, vờn bóng và quắc lên ánh mắt thần. Với nhiều động từ, tính từ, so sánh ẩn
dụ giàu chất tạo hình đoan thơ đã miêu tả thật chính xác từng động tác của bàn chân,
tấm thân và ánh mắt gợi lên vẻ đẹp vừa uy nghi dũng mãnh vừa mềm mại uyển
chuyển của chúa sơn lâm.
Đoạn thơ thứ ba đã sử dụng thành công nghệ thuật điệp ngữ kết hợp với câu hỏi
tu từ để diễn tả sâu sắc niềm tiếc nuối của khứ huy hoàng của chúa sơn lâm:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
……. .
Than ôi! Thời oanh liệt nay con đâu?
Trong nỗi nhớ da diết của con hổ hiện lên 4 cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ,
dữ dội, tráng lệ và thơ mộng và con hổ ở vị trí trung tâm với một tư thế uy nghi, dũng
mãnh của chúa sơn lâm. Đó là cảnh “những đêm vàng bên bờ suối” thơ mộng và lộng
lẫy với hình ảnh con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan” như một nghệ sĩ vừa kiêu
hùng vừa hào hoa. Đó là cảnh “ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” đẹp một cách
hùng tráng với hình ảnh vị chúa tể đang “lặng ngắm giang sơn đổi mới”. Trong tư thế
này con hổ giống như một nhà hiền triết trầm lặng ngắm đất trời thay đổi sau mưa bão.
Đó là “cảnh bình minh cây xanh nắng gội”, chan hòa ánh nắng, tưng bừng rộn rã tiếng
chim ca nâng giấc ngủ bình yên cho chúa sơn lâm. Khi đó hổ như một bậc đế vương
hiền lành có chim ca hầu quanh giấc ngủ. Và cuối cùng là cảnh “chiều lênh láng máu
sau rừng” đẹp dữ dội với con hổ đang đợi chết mảnh mặt trời gay gắt để chiếm lấy
riêng phần bí mật. Trong cảnh cuối cùng này, nó chính là nó, vị chúa tể rừng già tàn
bạo, dữ dội, làm chủ bóng tối, làm chủ vũ trụ. “Chết mảnh mặt trời” là cách nói mới
mẻ giàu sức biểu cảm. Sắc đỏ của ánh tà dương trở thảnh máu của mặt trời đang hấp
hối, nhuộm đỏ cả không gian sau rừng. Vầng thái dương vị đại của vũ trụ chỉ là một
mảnh bé nhỏ trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của chúa sơn lâm.
Bốn bức tranh cùng vẽ về một con hổ với những phông nền và tư thế khác nhau
đã khái khoát trọn vẹn một thời oanh liệt huy hoàng của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh
là 4 câu hỏi thể hiện niềm nuối tiếc uất hận thời quá khứ huy hoàng không bao giờ trở
lại cứ tăng dần. Và niềm nuối tiếc được đẩy lên đến đỉnh điểm trong câu thơ : “Than ôi

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 96 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
! Thời oanh liệt nay còn đâu !”. Đó là tiếng than tràn đầy uất, đau đớn xót xa tiếc nuối
cuộc sống tự do của mình nhưng hoàn toàn bất lực.
Nếu như trong Nhớ rừng của Thế Lữ lòng yêu nước, niềm khát khao tự do được
biểu hiện kín đáo qua một hình ảnh ẩn dụ là con hổ trong vườn bách thú thì trong bài
thơ Khi con tu hú của Tố Hữu niềm khát khao tự do ấy được thể hiện trực tiếp qua tâm
tư của người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim tu hú gọi bầy báo hiệu mùa hè đến đã
thức gọi trong lòng người tù một khu cảnh mùa hè tràn trề nhựa sống:
" Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng, càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không ...
Người chiến sĩ như nhìn thấy “lúa chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây,
nghe được “tiếng ve ngân” trong vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng
tượng của người tù luôn ở trạng thái căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy
tiếng, đầy sân, càng rộng, càng cao. Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả
một bức tranh mùa hè tràn trề nhựa sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không
gian: có màu vàng của lúa chiêm, màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào,
màu xanh của trời cao. Sinh động nhất là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng
không”. Hình ảnh đó là biểu hiện cao độ của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của
tác giả. Đôi con diều sáo đang thỏa sức “lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay
chính tác giả đang vượt qua song sắt nhà tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn
bức tường của phòng giam chật chội chỉ qua một âm thanh nghe được người tù như
nhìn thấy, ngửi thấy, nếm thấy và cảm thấy được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp
dẫn của sự sống bên ngoài. Đoạn thơ cho ta cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát
khao tự do cháy bỏng và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ.
Và nếu như trong Nhớ rừng, nhân vật trữ tình khát khao tự do nhưng đành
buông xuôi trong thế bất lực thì trong bài thơ Khi con tu hú niềm khát khao tự do đã
thôi thúc người tù hành động để thoát khỏi cảnh tù đày
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu ! "
Bốn câu thơ lục bát được ngắt làm hai câu cảm thán, với nhịp thơ bất thường (6/ 2:
3/3), kết hợp với các động từ mạnh, từ cảm thán làm cho đoạn thơ trở thành tiếng kêu
phẫn uất của một người mất tự do. Mùa hè tươi đẹp của cuộc sống bên ngoài thôi thúc
người tù đạp tan cả bốn bức tường của phòng giam. Tiếng chim tu hú ở câu mở đầu là
một âm thanh quen thuộc báo hiệu mùa sôi động, tưng bừng sự sống, đầy ắp tự do
đang đến. Còn tiếng chim tu hú ở câu cuối vẫn là tiếng gọi của tự do nhưng nó da diết,
thúc giục càng làm cho người tù đau khổ thấm thía(Con chim tu hú ngoài trời cứ
kêu). Cảnh trong tưởng tượng càng đẹp bao nhiêu thì người tù cách mạng càng đau
đớn sôi sục ý chí căm thù vì mất tự do bấy nhiêu. Cuối cùng để kết thúc cảnh tù đầy
ngột ngạt đó, để trở về với cuộc sống hoạt động sôi nổi tự do người tù cách mạng đã
vượt ngục trở về với đồng chí, với quê hương. Đó cũng là sự trưởng thành trong nhận
thức của các nhà thơ.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 97 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nói tóm lại, cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khát khao cháy
bỏng của lớp thanh niên trí thức lúc bấy giờ nhưng lại có cách biểu hiện khác nhau.
Dù có cách biểu hiện khác nhau nhưng hai bài thơ đều là những bài thơ hay, nổi tiếng
thể hiện được tài năng và tâm hồn của các nhà thơ.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 98 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 16/01/2015


TUẦN 23 ÔN TẬP CÂU NGHI VẤN, CÂU CẦU KHIẾN

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Củng cố kiến thức về câu nghi vấn và câu cầu khiến.
- Thực hành luyện tập tìm câu nghi vấn và câu cầu khiến, nêu tác dụng của chúng
trong từng văn cảnh cụ thể.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/Tìm các câu nghi vấn trong các phần trích sau và cho biết chúng có những đặc
điểm hình thức nào của câu nghi vấn:
a) Tôi hỏi chuyện:
- Thế nó cho bắt à? ( Lão Hạc)
b) – Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về.
Cô tôi hỏi luôn, giọng vẫn ngọt:
- Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!
c)Vua hỏi: “Còn nàng út đâu?”. Nàng Út bẽn lẽn dâng lên vùa mâm bánh nhỏ.
d) Anh có biết con gái anh là một thiên tài hội họa không?
e) Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

2/ Tìm câu nghi vấn trong các câu dưới đây và chỉ ra đặc điểm hình thức, công
dụng của nó?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 99 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
b) Tôi quắc mắt:
- Sợ gì? Mày bảo tao còn biết sợ cái ai hơn tao nữa!
c) Nào đâu tôi biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm! Tôi hối hận lắm! Anh mà
chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?
d) Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng…
Lượm ơi, còn không?
e)
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
g) Cả đàn bò giao cho thằng bé người không ra người ngợm không ra ngợm ấy, chăn
dắt làm sao?

3/ Hãy đặt câu nghi vấn với mục đích sau:


a) Nhờ bạn đèo về nhà.
b) Mượn bạn một cái bút.
c) Bộc lộ cảm xúc trước một bức tranh.

4/ Tìm các câu cầu khiến trong các câu dưới đây và chỉ ra hình thức của các câu
cầu khiến đó:
a) Đừng cho gió thổi nữa ! Đừng cho gió thổi nữa!
b) Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó tất không khỏi bị tội chết. Thôi
bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Có chuyện gì để anh ở nhà lo liệu.
c) Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu con ạ!
d) Con Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu lên cao nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó
đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”
e) Bà buồn lắm, toan vứt đi thì đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
g) Vua rất thích thu, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.

5/ Hãy chỉ ra những từ biểu thị ý van xin trong cá câu cầu khiến sau:
a) Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như
thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông là phúc nói với ông lí
cho cháu khất…
b) Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông
trông lại!

6/ Tìm các câu cầu khiến trong các câu dưới đây và giải thích tại sao trong các câu
cầu khiến đó không có chủ ngữ.
a) Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
b) Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 100 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
c) Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!

7/ Đặt các câu cầu khiến để:


a) Nói với bác hàng xóm cho mượn một thang.
b) Nói với mẹ để xin tiền mua sách.
c) Nói với bạn để mượn quyển vở
8/ So sánh các câu sau và trả lời câu hỏi:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
- Chồng tôi đau ốm, ông đừng hành hạ!
- Chồng tôi đau ốm, xin ông chớ hành hạ!
a) Xác định sắc thái mệnh lệnh trong các câu trên.
b) Câu nào có tác dụng nhất? Vì sao?
9/ Hãy xác định sắc thái ý nghĩa trong các câu cầu khiến sau:
a) Hỡi anh chị em nhà nông tiến lên! ( HCM)
b) Anh cứ trả lời thế đi! (Nam Cao)
c) Đi đi, con!
d) Mày đi đi!
e) Con đi đi!
f) Đi đi, đồ khỉ!
10/ Viết một đoạn cảm nhận của em về đoạn thơ sau trong đó có sử dụng câu hỏi tu từ
để bộ lộ cảm xúc: Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu....
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/
a) à: tình thái từ
b) sao: đại từ nghi vấn
c) đâu: đại từ nghi vấn
d) có …không: cặp phụ từ
e) e) chăng: tình thái từ.
2/
a) Câu nghi vấn dùng để khẳng định anh Dậu vẫn còn sống với sắc thái mỉa mai.

b)Câu nghi vấn dùng để phủ định việc sợ của Dế Mèn: “Tao không sợ gì cả” với sắc
thái kiêu căng, tự mãn.
c) Câu nghi vấn dùng để phủ định việc biết làm của Dế Mèn với sắc thái ân hận.
d) Câu nghi vấn dùng để bộc lộ cảm xúc thương xót của tác giả với chú bé Lượm.
e) Câu nghi vấn dùng để bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên, thán phục với sắc thái tự hào.
e) Câu nghi vấn dùng để phủ định việc chăn bò của Sọ Dừa với sắc thái phân vân, nghi
ngờ.
3.
a) Cậu có thể đèo tớ về nhà được không?
b) Cậu có thể cho cháu mượn cái bút được không?
c) Sao lại có một bức tranh đẹp thế?
4.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 101 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Đừng cho gió thổi nữa ! Đừng cho gió thổi nữa!
b). Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
c) Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu con ạ!
d “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”
e) Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
g) - Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền!
5.
a) làm phúc
b) xin
6.
a) Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười
con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
b) Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
c) Nộp tiền sưu! Mau!
Các câu cầu khiến trên không có chủ ngữ vì quan hệ giữa người nói và người nghe
không ngang bằng: người nói có vị trí xã hội cao hơn người nghe thể hiện sự thiếu tôn
trọng.
7.
a) Bác làm ơn cho cháu mượn cái thang ạ!
b) Mẹ cho con ít tiền để con mua quyển sách!
c) Bạn cho tớ mượn quyển vở Toán một lúc!
Từ in đậm thể hiện quan hệ của người nói và người nghe.
8.a)
- ( thể hiện thái độ kiên quyết)
- Chồng tôi đau ốm, ông đừng hành hạ!(mong muốn, cầu khẩn)
- Chồng tôi đau ốm, xin ông chớ hành hạ!( van xin)
b) Câu :Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! có tác dụng nhất vì đây là
mệnh lệnh từ trái tim, từ lẽ phải, do đó Chị Dậu kiên quyết hành động để bảo vệ
chồng.
9.
a) Hỡi anh chị em nhà nông tiến lên! ( HCM)
=> Thể hiện thái độ thiết tha.
b) Anh cứ trả lời thế đi! (Nam Cao)
=> Thể hiện thái độ thân mật.
c) Đi đi, con!
=> thái độ dịu dàng.
d) Mày đi đi!
=> thái độ gắt gỏng
e) Con đi đi!
=> Thái độ dịu dàng.
f) Đi đi, đồ khỉ!
=> Thái độ không hài lòng.
10.
Khổ thơ thứ ba trong bài thơ Ông đồ củaVũ Đình Liên đã sử dụng thành công
hàng loạt các biện pháp tu từ: điệp ngữ, câu hỏi tu từ, nhân hóa, để diễn tả tình cảnh
ông khi thất thế và gửi gắm tâm trạng của nhà thơ. Điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 102 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
vẻ thê lương, người đến thuê ông đồ viết ngày một ít dần. Ông đồ rơi vào tình thất
nghiệp, hết thời như một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc: “Còn duyên
kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Một tâm trạng buồn tủi, xót
xa, một nỗi tiếc nuối khắc khoải đến đau lòng trào dâng trong câu hỏi: “Người thuê
viết nay đâu?”. Ông đồ thực sự bị lãng quên. Và hai câu “Giấy đỏ…sầu” là những
câu thơ hay nhất trong bài thơ. Phép nhân hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ
này. Nỗi buồn của ông đồ phú cho giấy và nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía.
Màu giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến
nữa. Nghiên mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Phải
chăng nỗi buồn tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa, thấm đẫm sang cả những hành trang
mà ông mang theo? Hay nói cách khác là giấy và nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm
với nỗi buồn của ông đồ. Đoạn thơ đã diễn tả được niềm đồng cảm, xót xa của nhà
thơ đối với một lớp người đã bị lãng quên, với một niềm văn hóa đã bị mai một.

Ngày 17/01/2015
TUẦN 22 ÔN LUYỆN NÂNG CAO
I/ CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1
Đọc câu chuyện sau và nêu suy nghĩ của em bằng một đoạn văn khoảng 10 câu:
Có người cha mắc bệnh rất nặng. Ông gọi hai người con trai đến bên giường và
ân cần nhắc nhở: “Sau khi cha qua đời, hai con cần phân chia tài sản một cách thỏa
đáng, đừng vì chuyện đó mà cãi nhau nhé!”
Hai anh em hứa sẽ làm theo lời cha. Khi cha qua đời họ phân chia tài sản làm
đôi. Nhưng sau đó người anh cho rằng người em chia không công bằng và cuộc tranh
cãi nổ ra. Một cụ già thấy thế dạy cho họ cách chia công bằng nhất: Đem tất cả đồ đạc
ra cưa đôi thành hai phần bằng nhau tuyệt đối. Hai anh em đó đồng ý.
Kết cục tài sản đó được chia công bằng tuyệt đối nhưng đó chỉ là đống đồ bỏ
đi.
Câu 2
Đọc câu chuyện sau: “Tờ giấy trắng” câu chuyện trên gợi cho em suy nghĩ gì?
Tờ giấy trắng
Có một lần, tại một trường trung học, ngài hiệu trưởng đến gặp các em học sinh để nói
chuyện. Trong khi nói, ông giơ lên cho các em thấy một tờ giấy trắng, trên đó có một
chấm tròn đen ở một góc nhỏ, và hỏi:
- Các em có thấy đây là gì không?
Tức thì cả hội trường vang lên:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 103 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Đó là một dấu chấm.
Ngài Hiệu trưởng hỏi lại:
- Thế không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng cả ư? Ngài kết luận:
- Thế đấy, con người luôn luôn chú ý đến những lỗi nhỏ nhặt mà quên đi tất cả
những phẩm chất tốt đẹp còn lại. Khi phải đánh giá một sự việc, hay là một con
người, thầy mong các em sẽ chú ý đến tờ giấy trắng nhiều hơn là những vết bẩn có
trên nó.
(Quà tặng cuộc sống)
Câu 3
Trong văn học hiện đại nước ta, có không ít các nhà văn đó thể hiện thành công việc
miêu tả tình mẫu tử, nhưng có lẽ chưa có nhà văn nào đó diễn tả tình mẹ con một cách
chân thật và sắc thấm thía như dưới ngòi bút Nguyên Hồng. Đằng sau những dòng
chữ, những câu văn là những “rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”(Thạch
Lam)
Qua trích đoạn Trong lòng mẹ ( Trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng)
em hãy làm sỏng tỏ nhận định trên.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1:
Câu chuyện trên kể cho chúng ta biết về hai anh em nhà nọ với số tài sản của
cha để lại.Họ đã không biết nhường nhịn nhau theo lời cha dặn mà tranh nhau tài
sản, tị nhau hơn kém, ai cũng muốn phải có sự công bằng tuyệt đối trong việc phân
chia tài sản. Để đạt được điều đó họ đã nghe theo lời khuyên của một ông già là
“Đem tất cả số đồ đạc ra cưa thành hai phần bằng nhau. Kết quả là tài sản của cha
để lại đã được chia thành hai phần bằng nhau tuyệt đối nhưng chỉ là đống đồ bỏ đi.
Câu chuyện trên đã dạy cho chúng ta một bài học trong cuộc sống là phải biết yêu
thương, nhường nhịn nhau, đừng vì tài sản, tiền bạc mà sinh lòng ghen ghét, đố kị.
Không thể có sự công bằng tuyệt đối trong cuộc sống cũng như trong việc phân chia
tài sản trong gia đình. Nếu lúc nào cũng tìm kiếm sự công bằng thì kết cục chẳng ai
được lợi gì. Sự công bằng chỉ tồn tại trong trái tim chúng ta . Trong bất cứ chuyện gì
đừng nên tính toán quá chi li. Nhường nhịn chính là tạo nên sự công bằng tuyệt
đối.Phải biết bằng lòng với những gì mình đã có. Tài sản của cha mẹ cho đến đâu ta
hưởng đến đó, không nên đòi hỏi, so bì hơn kém gây mất đoàn kết anh em. Tiền bạc
chỉ là vật ngoài thân, tình cảm gia đình mới là tình cảm thiêng liêng, cao quý chúng ta
cần giữ gìn, bảo vệ và trân trọng nó. Trên đời này không tồn tại sự công bằng tuyệt
đối
Câu 2
Câu chuyện “Tờ giấy trắng” đã gợi cho chúng ta bao suy nghĩ về cách đánh giá
nhìn nhận một sự việc và con người. Do thói quen của con người thường chú ý đến
lỗi nhỏ nhặt của người khác mà không nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Giống như các em học sinh trong câu chuyện trên chỉ chú ý đến cái chấm tròn đen mà
quên đi đó là tờ giấy trắng. Câu chuyện đã nhắc nhở chúng ta khi đánh giá một sự vật,
một con người cần có một cái nhìn toàn diện, tổng thể, đừng nhìn vào một lỗi nhỏ của
ai đó mà đánh giá họ là người chưa tốt, không tốt. Phải có cái nhìn bao dung, độ
lượng, biết bỏ qua những lỗi lầm nhỏ, phải nhìn thấy những mặt tốt của mỗi con
người mà đánh giá về họ, để động viên khích lệ họ trong cuộc sống. Câu chuyện đã
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 104 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
dạy cho chúng ta một bài học trong cuộc sống là có lòng bao dung, nhân ái, biết
thông cảm, chia sẻ và tha thứ cho những lỗi lầm nhỏ của người thân, của bạn bè.
Đừng nhìn vào lỗi lầm nhỏ mà cần nhìn vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người để
nhìn nhận, đánh giá về họ.

3/ Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều
kỳ diệu: khi là cánh diều chao nghiêng, khi là cánh cò trắng chập chờn bay vào những
giấc mơ… Còn đối với nhà văn Nguyên Hồng, ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – người
quen thuộc và gần gũi nhất. "Những ngày thơ ấu" là những dòng hồi kí chân thực về
tuổi thơ của tác giả. Nhận xét về tác phẩm này Thạch Lam đã viết: "Đây là sự rung
động cực điểm của một linh hồn trẻ dại". Đoạn trích “Trong lòng mẹ" đã gây nhiều
xúc động mạnh mẽ cho người đọc vì đã khi thể hiện rất sâu sắc tình mẫu tử thiêng
liêng chất chứa trong từng câu chữ. 
Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những
câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” người
đọc cùng chung sống với cuộc đời của nhà văn. Bởi lẽ “Những ngày thơ ấu” là một
phần kỷ niệm được rút ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang
hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng
cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ. Niềm khát khao
ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến
người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của
tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn
cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình
an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy.
Đoạn trích "Trong lòng mẹ" là câu chuyện chân thực và cảm động về một người
mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến
nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ. Cũng như đó là một tâm
hồn nhạy cả, trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng.
Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có
tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn
chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia
đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống
với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất
cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện
được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh bỉ, chửi mắng thậm tệ
nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu
mẹ và yêu mẹ hơn tất cả.
Hồng luôn tin tưởng khẳng định tình cảm của mẹ dành cho mình. Dẫu xa cách mẹ
cả về thời gian, không gian, dù bà cô có tinh ma độc địa đến đâu thì Hồng cũng quyết
bảo vệ đến cùng tình cảm của mình dành cho mẹ . Hồng luôn hiểu và cảm thông cho
tình cảnh cũng như nỗi đau của mẹ. Trong khi xã hội và người thân hùa nhau tìm cách
trừng phạt mẹ thì bé Hồng với trái tim bao dung và nhân hậu yêu thương mẹ sâu nặng
đã nhận thấy mẹ chỉ là nạn nhân đáng thương của những cổ tục phong kiến kia. Em đã
khóc cho nỗi đau của người phụ nữ khát khao yêu thương mà không được trọn vẹn.
Hồng căm thù những cổ tục đó: “Giá những cổ tục kia là một vật như .....thôi” 
Hồng luôn khao khát được gặp mẹ. Nỗi niềm thương nhớ mẹ nung nấu tích tụ qua
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 105 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
bao tháng ngày đã khiến tình cảm của đứa con dành cho mẹ như một niềm tín ngương
thiêng liêng thành kính. Trái tim của Hồng như đang rớm máu, rạn nứt vì nhớ mẹ .Vì
thế thoáng thấy người mẹ ngồi trên xe, em đã nhận ra mẹ, em vui mừng cất tiếng gọi
mẹ mà bấy lâu em đã cất giấu ở trong lòng.  Lòng vui sướng được toát lên từ những cử
chi vội vã bối rối từ giọt nước mắt giận hờn, hạnh phúc tức tưởi, mãn nguyện. Vừa
nhìn thấy mẹ em đã chay theo, gọi bối rối, thở hộc hộc, trán đẫm mồ hôi, khi trèo lên
xe ríu cả chân lại. Khi ngồi trong lòng mẹ cậu bé đã òa khóc nức nở. Đó là những giọt
nước mắt hạnh phúc của một đứa con xa mẹ lâu ngày nay được gặp lại. Ngồi trong
lòng mẹ em thấy mẹ vẫn tươi đẹp như hồi còn sung túc. Những cảm giác bao lâu nay
mất đi bỗng mơn man khắp da thịt. Em ước muốn mình bé lại, để lăn vào lòng mẹ
được mẹ gãi lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng. Đó chính là những
cảm giác ngây ngất, sung sướng, rạo rực của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.
Mọi điều sai lệch mà bà cô gieo vào lòng bé Hồng đều tan biết hết chỉ còn lại niềm
hạnh phúc giản dị mà thiêng liêng của lòng mẹ yêu còn và tình con cháy bỏng. Đoạn
văn là bài ca cảm động về mẫu tử thiêng liêng và bất diệt.
Dường như ,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và
thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim
nhân vật cũng như người đọc.
Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng
của bé Hồng đã không hề suy chuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải
biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã
mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị "Trong lòng mẹ" cũng như "Những ngày thơ
ấu"sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu
sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc
đời nhiều cay cực.
Ngày soạn: 20/01/2015
Tuần 24
ÔN TẬP VĂN BẢN:
TỨC CẢNH PÁC BÓ, NGẮM TRĂNG, ĐI ĐƯỜNG – HỒ CHÍ MINH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Gúp học sinh nắm được nội dung chính của các bài thơ từ đó hiểu thêm về vẻ đẹp
tâm hồn Hồ Chí Minh.
- Rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn cảm thụ văn học.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tức cảnh Pác Bó:
a) Cảm nhận của em về giọng điệu của bài thơ?
b) Bài thơ đã nói lên khá đầy đủ cảnh sinh hoạt giản dị mà thanh cao của Bác. Hãy tìm
các chi tiết đó trong bài?
c) Có mấy cách hiểu về ba chữ “vẫn sẵn sàng” ở câu thơ thứ hai? Em chọn cách hiểu
nào? Vì sao?
d) Vẻ đẹp của Bác được biểu hiện như thế nào trong hai câu thơ 3 -4?
e) Hãy nêu vài nhận xét về sự khác nhau giữa thú lâm tuyền của Bác và thú lâm tuyền
của các bậc tao nhân mặc khách trong thơ xưa?
2/ Ngắm trăng
a) Mở đầu bài thơ là “ngục trung” kết thúc là “thi gia”. Chi tiết này nói lên điều gì?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 106 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
b) Vẻ đẹp tâm hồn “thi gia” được thể hiện qua những chi tiết nào của bài thơ?
c) Về mặt kết cấu, hai câu thơ 3-4 có gì đặc biệt? Hãy chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của
nó?
d) Có người cho rằng: “Nhật kí trong tù là cuộc vượt ngục về tinh thần” của Bác. Em
có đồng ý với ý kiến đó không? Hãy chỉ ra điều đó trong bài thơ này?
e) Nêu hiểu biết của em về tập “Nhật kí trong tù”.
3. Đi đường
a) Phân tích nội dung hai câu thơ đầu. Chỉ ra mối quan hệ của hai câu thơ này?
b) Tư thế của người tù được miêu tả như thế nào trong câu 3 -4?
c) Về bài thơ này, có hai bạn tranh luận với nhau như sau:
- Đây là bài thơ tức cảnh, tập trung miêu tả cảnh đi đường.
- Đây là bài thơ chủ yếu thiên về triết lí, suy ngẫm.
Theo em ý kiến của bạn nào đúng? Vì sao?
4. Chân dung Hồ Chí Minh qua: “ Tức cảnh Pác bó”, “ Ngắm trăng”, “ Đi đường” –
Ngữ văn lớp 8 – tập 2.
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1. Tức cảnh Pác Bó
a) Bài thơ được viết với giọng điệu đùa vui, hóm hỉnh. Đằng sau giọng điệu ấy ta thấy
hiện lêm một con người mang phong thái ung dung tự tại, tràn đầy tinh thần lạc quan.

b) Bài thơ vừa nói đến cảnh sinh hoạt vừa thể hiện tâm hồn của Bác: câu 1 nói về
chuyện ở, câu 2 nói về chuyện ăn, câu 3 nói về chuyện làm việc, câu 4 thể hiện trực
tiếp tinh thần lạc quan, tràn đầy niềm vui của Bác.

c) Có 2 cách hiểu về 3 chữ “vẫn sẵn sàng”


- Cách thứ nhất: chủ thể của “sẵn sàng” là con người. Dù phải tồn tại trong hoàn cảnh
khó khăn nhưng tinh thần cũng không vì thế mà buông xuôi, mỏi mệt mà trái lại vẫn
hăng hái trong công việc, vẫn sẵn sàng.
- Cách hiểu thứ 2: chủ thể của “sẵn sàng” là cháo bẹ và rau măng. Sẵn sàng ở đây là
luôn dư dả, có sẵn, có thừa. Hiểu theo cách này, trong lời thơ như ẩn hiện một nụ cười
hóm hỉnh đùa vui. Nói về hoàn cảnh khó khăn bằng lời thơ như thế cho thấy bản lĩnh,
khả năng chiến thắng mọi hoàn cảnh của Bác.
- Cách hiểu thứ 2 phù hợp hơn với phong cách thơ HCM: ở Bác, cái bản lĩnh, sự vững
vàng của người chiến sĩ ít khi được bộc lộ trực tiếp mà thường ẩn sâu trong lời thơ.

d) Hai câu đầu nói về việc ăn, ở thì câu thơ thứ 3 nói về cảnh làm việc của Bác. Đây là
câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng: “Bàn đá chông chênh” là nói
đến hoàn cảnh thực tại của Bác: Sống giữa thiên nhiên, bàn làm việc chỉ là một tảng
đá chông chênh bên bờ suối. “Dịch sử đảng” là dịch Lịch sử Đảng Liên Xô để làm tài
liệu cho cách mạng Việt Nam, đó là một công việc lớn. Đặt trong tương quan này cho
ta thấy tư thế và tầm vóc của HCT. Câu thơ cho thấy Bác là một người chiến sĩ chứ
không phải là một ẩn sĩ. Người chiến sĩ cách mạng đang toàn tâm toàn ý trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc. Hình tượng người chiến sĩ với tư thế uy nghi, lồng lộng,
một vị lãnh tụ, nhà cách mạng vĩ đại sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn”.
Câu thơ thứ 4 kết tinh ý tứ của toàn bài thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 107 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
“Sang” là sang trọng, giàu có, cao quý, đẹp đẽ. Cái sang của người cách mạng
không phải là cái sang về tiện nghi, vật chất, mà là cái sang về tinh thần cái sang của
tư thế ung dung, của phong cách văn hoá mà không phải ai nhiều tiền cang đạt
được. Chữ “sang” kết thúc bài thơ có thể coi là chữ “thần” là “nhãn tự” kết tinh toả
sáng toàn bài. Đó là tâm trạng tình cảm của HCM khi nhìn nhận đánh giá về cuộc đời
cánh mạng của mình. Câu thơ cho thấy niềm vui, niềm tự hào được sống giữa thiên
nhiên, được làm cách mạng, thấy được tinh thần lạc quan, ung dung tin tưởng của
người chiến sĩ vào sự nghiệp cách mạng.

e) “Thú lâm tuyền ” của Bác vừa giống và vừa khác với thú lâm tuyền của các bậc
ẩn sĩ xưa. Điểm giống nhau đó là niềm vui vô hạn khi được sống giữa thiên nhiên, hòa
mình với thiên nhiên. Còn điểm khác nhau là: Người xưa tìm đến “thú lâm tuyền” để
lánh đục về trong, để giữ trọn khí tiết, nhân cách thanh cao. Còn HCM vui với “thú
lâm tuyền” nhưng vẫn nguyên cốt cách người chiến sĩ cách mạng đang toàn tâm toàn ý
cống hiến cho cuộc đấu tranh dành độc lập của dân tộc. Người vẫn luôn một lòng vì
nước vì dân.
2. Ngắm trăng
a) “Ngục trung” là hoàn cảnh tù đày, thông thường “ngục trung” phải gắn với “tù
nhân”. Nhưng kết thúc bài thơ, người đọc lại bắt gặp một “thi nhân”. Một thi nhân
ngay trong hoàn cảnh ngục tù. Đây chính là nét khác thường của bài thơ. Có ngục tù
nhưng không có tù nhân. Điều này cho thấy bản lĩnh của Hồ Chí Minh luôn đứng cao
hơn hoàn cảnh. Nhà tù chỉ có thể giam cầm được thân thể Bác còn tâm hồn người thì
luôn tự do.

b) Vẻ đẹp của tâm hồn thi gia được thể hiện ở câu thơ thứ 2: “Đối thử lương tiêu nại
nhược hà”. Câu thơ đã diễn tả tất cả sự bối rối, xốn xang, áy náy của thi sĩ trước đêm
trăng đẹp. Trong hoàn cảnh ngục tù, có bao nhiêu khó khăn, gian khổ thế mà Bác lại
chỉ thấy đối diện với mình là vẻ đẹp của ánh trăng.
- Tư thế ngắm trăng: lặng lẽ đầy say mê, Vì hoàn cảnh ngục tù không có rươu, không
hoa nên toàn bộ tình cảm với ánh trăng chỉ biết trút vào ánh nhìn tha thiết vời vợi theo
vầng trăng.

c) Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt


Nguyệt tòng song khích khán thi gia
Hai câu thơ đã sử dụng thành công phép đối trong thơ Đường. Cả hai câu đều
có cùng một kết cấu: trăng và người đặt ở hai đầu câu thơ, chắn giữa là cửa nhà tù,
nhưng có sự đảo ngược: câu trên là (người – trăng) câu dưới là ( trăng - người), sự đảo
ngược ấy tạo nên một thế đối giữa hai câu (nhân và nguyệt là một cặp đối, minh
nguyệt và thi gia là một cặp đối. Bản dịch thơ đã làm mất đi cấu trúc đăng đối đó, làm
giảm đi sức truyền cảm của bài thơ. Người đã thả hồn mình vượt ra ngoài cửa sổ để
tìm, ngắm vầng trăng trên bầu trời cao rộng còn vầng trăng cũng vượt qua song sắt
nhà tù để ngắm nhà thơ. Đó là cuộc giao hoà tuyệt đẹp giữa trăng và người. Phép đối
đã thể hiện được sự quấn quýt tâm giao giữa trăng và người. Nhà tù trong phút chốc đã
biết mất chỉ còn thi nhân và vầng trăng. Mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết của một
đôi bạn tâm giao thu vào một chữ “khán” – ngắm. Như vậy song sắt nhà tù không
ngăn nổi tâm hồn người tù nghệ sĩ tìm đến với với thế giới của cái đẹp của tự do và
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 108 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
ánh sáng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh của nhà tù và người tù nhưng đến cuối bài thơ
nhà tù vẫn còn đó nhưng không thấy bóng dáng người tù. Người tù đã vượt ngục trở
thành nhà thơ. Đó là cuộc vượt ngục bằng tinh thần. Câu thơ cho ta thấy sức mạnh
tinh thần kì diệu, tình yêu thiên nhiên mãnh liệt và phong thái ung dung vượt hẳn lên
hiện thực tàn bạo của nhà tù. Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người
chiến sĩ cộng sản đã tạo nên cuộc vượt ngục kì ths. Sự hòa quện giữa chất thép và chất
tình cùng với nghệ thuật đối ý, nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

d) Nhật kí trong tù là cuộc vượt ngục bằng tinh thần là nhận xét hoàn toàn chính xác.
Nhà tù chỉ giam cầm được thân thể Bác còn tinh thần Bác thì luôn tự do, Người đã thả
tâm hồn mình ra bên ngoài để giao hòa với thiên nhiên với vầng trăng.

e) Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ chữ Hán, chủ yếu là thơ tứ tuyệt, gồm 133
bài thơ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe hàng ngày trong nhà tù và trên đường đi
đày từ nhà lao này đến nhà lao khác.
- Nhật kí trong tù có nhiều giá trị lớn:
+ Phản ánh được hiện thực chế độ nhà tù, chế độ xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ: Đó là
một xã hội dày đặc những nhà tù. Bác bị bắt từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943 đã bị
giải tới, giải lui gần 30 nhà lao của 13 huyện thị tỉnh Quảng Tây- Trung Quốc. Đó là
một xã hội mà nhù tù nhiều hơn trường học.
+ Đó là một xã hội xấu xa chà đạp lên quyền sống của con người, xã hội tập trong
những bất bình:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm anh quanh
Trong đèn huyện trưởng làm công việc
Trời đất lai tân vẫn thái bình.( Lai tân)

Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội


Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này.(Đánh bạc)
+ Nhật kí trong tù ghi chép tâm sự của tác giả là chủ yếu – Bức chân dung tự họa Hồ
Chí Minh.
- Đó là một tấm gương nghi lực phi thường, bản lĩnh thép vĩ đại, một con người
sống với sự nghiệp lớn: Thân thể ....cao.
- Một con người với tâm hồn cao cả: yêu nước, yêu dân, yêu thiên nhiên, một người
mà đêm mơ nước ngày thấy hình của nước: Một canh ....hồn quanh.
- Một con người vượt lên mọi hoàn cảnh, đau đớn về thể xác nhưng tâm hồn vẫn
ung dung, thanh thoát, trẻ trung tươi tắn:
Hôm nay xiềng xích thay dây trói
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc dung
Tuy bị tình nghi là gián điệp
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.(Đi Nam Ninh)
- Đó là một tâm hồn khát khao tự do, khát khao được chiến đấu
Xót mình giam hãm trong tù ngục
Chưa được xông pha giữa trận tiền.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 109 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Bao trùm lên tất cả là tấm lòng yêu thương bao la với nhân loại cần lao. Tấm lòng
nhân đạo đến quên mình. Bác quan tâm, nhạy cảm với với nỗi khổ của mọi người
xung quanh: cháu bé trong nhà lao Tân Dương, phu làm đường, cảnh người vợ đến
thăm chồng, cảnh đói khát ghẻ lở của tù nhân.
- Nhật kí trong tù là bức chân dung tự họa của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Tập
thơ đã giúp ta hiểu thêm về tâm hồn vĩ đại của Bác có tác dụng bồi dưỡng lòng
yêu nước, tinh thần nhân ái cho thế hệ trẻ.
3. Đi đường
a) Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Câu thơ thứ nhất là lời suy ngẫm của một người đã trải qua nhiều lần đi đường núi nên
nó rất thật, rất thấm thía. Câu thơ thứ hai miêu tả hình ảnh núi non trùng điệp phía
trước mà người đi đường đang hướng tới. Đi đường bình thường đã vất vả, đi đường
núi lại càng vất vả hơn. Vượt qua ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Điệp từ “núi
cao” nối nhau hai lần kết hợp với tính từ “trập trùng” vừa tả hình ảnh con đường núi
vừa gợi ra một cảm giác nhiều khó khăn, thử thách nối tiếp đón chờ con người.

b) Núi cao lên đến tận cùng


Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Hai câu cuối vừa nói về con đường phía trước vừa nói về tư thế của người tù.
Lớp nghĩa thứ nhất vẫn vẫn tiếp tục nội dung tả thực hiện lên hình ảnh người đi
đường hiên ngang đứng trên đỉnh núi cao chót vót, tâm hồn phơi phới niềm vui. Đó
chính là tư thế và tâm hồn của chính Bác Hồ, người tù – người chiến sĩ luôn phải
trải qua những khó khăn thử thách và luôn cố gắng vượt khó vươn tới phía trước,
đạt tới những thắng lợi trong cuộc sống.
Lớp nghĩa thứ hai là từ niềm lạc quan chiến thắng ấy người đi đường rút ra bài học
kinh nghiệm sống: Khi con người có quyết tâm lòng kiên trì vượt qua thử thách thì
sẽ có hiệu quả cao trong công việc. Con người cần phải cố gắng hết mình, vượt
mọi khó khăn, vươn lên rèn luyện, học tập để đạt được đỉnh cao của phẩm chất đạo
đức và kiến thức khoa học. Khi ấy, ta sẽ thâu tóm được cả đất trời và vũ trụ, thấu
hiểu mọi việc lớn nhỏ như muôn trùng nước non vậy.

Bài thơ nêu lên chân lý bình thường mà sâu sắc, không phải ai cũng thực hiện
được. Những khó khăn trong cuộc sống,con người muốn giải quyết đòi hỏi phải có
lòng kiên trì và sự quyết tâm.Kết quả của sự phấn đấu là thước đo lòng kiên trì của
mỗi con người.
c) Ý kiến thứ 2 đúng. Bởi vì bài thơ không chỉ nói chuyện đi đường mà hình ảnh con
đường trập trùng trong bài thơ còn là con đường đời, đường cách mạng.

4/ Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời Người còn là nhà
văn nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa thế giới. Người đã để lại cho chúng ta một sự
nghiệp văn chương đồ sộ. Mỗi bài thơ là một mảng tâm hồn trong sáng cao đẹp của
Hồ Chí Minh. Đến với bài thơ Tức cảnh Pác Bó, Ngắm trăng, Đi đường ta hiểu hơn vẻ
đẹp tâm hồn cũng như tình cảm và phong cách của người.
Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác sáng tác khi người mới về nước, trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khi đó Người ở hang Pác Bó, một hang núi nhỏ thuộc
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 110 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
Đường luật với giọng điệu tự nhiên, thoải mái pha chút đùa vui hóm hỉnh, thể hiện
niềm vui, niềm lạc quan của Hồ Chủ Tịch khi được sống giữa thiên nhiên.
Sáng ra bờ suối tối vào hang
.......... Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Câu thơ thứ nhất đã diễn tả nhịp sống hàng ngày đều đặn đã thành nề nếp của
Bác nơi núi rừng. Sáng Bác ra bờ suối để làm việc, tối vàng hang để nghỉ ngơi. Câu
thơ thứ hai nói về thức ăn hàng ngày của Bác là cháo bẹ và rau măng luôn có sẵn, dưa
thừa. Cuộc sống của người nơi núi rừng đạm bạc gian khổ, nhưng Bác vẫn vui tươi,
say mê với cuộc sống cách mạng. Rất yêu thiên nhiên, rất thích thú khi được sống hoà
mình với thiên nhiên với núi rừng, gió trăng, với non xanh, nước biếc.
Hai câu đầu nói về việc ăn, ở thì câu thơ thứ 3 nói về cảnh làm việc của Bác.
Đây là câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng: “Bàn đá chông
chênh” là nói đến hoàn cảnh thực tại của Bác: Sống giữa thiên nhiên, bàn làm việc chỉ
là một tảng đá chông chênh bên bờ suối. “Dịch sử đảng” là dịch Lịch sử Đảng Liên Xô
để làm tài liệu cho cách mạng Việt Nam, đó là một công việc lớn. Đặt trong tương
quan này cho ta thấy tư thế và tầm vóc của HCT. Câu thơ cho thấy Bác là một người
chiến sĩ chứ không phải là một ẩn sĩ. Người chiến sĩ cách mạng đang toàn tâm toàn ý
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc. Hình tượng người chiến sĩ với tư thế uy nghi,
lồng lộng, một vị lãnh tụ, nhà cách mạng vĩ đại sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn”.
Câu thơ thứ 4 kết tinh ý tứ của toàn bài thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”
“Sang” là sang trọng, giàu có, cao quý, đẹp đẽ. Cái sang của người cách mạng
không phải là cái sang về tiện nghi, vật chất, mà là cái sang về tinh thần cái sang của
tư thế ung dung, của phong cách văn hoá mà không phải ai nhiều tiền cang đạt
được. Chữ “sang” kết thúc bài thơ có thể coi là chữ “thần” là “nhãn tự” kết tinh toả
sáng toàn bài. Đó là tâm trạng tình cảm của HCM khi nhìn nhận đánh giá về cuộc đời
cánh mạng của mình. Câu thơ cho thấy niềm vui, niềm tự hào được sống giữa thiên
nhiên, được làm cách mạng, thấy được tinh thần lạc quan, ung dung tin tưởng của
người chiến sĩ vào sự nghiệp cách mạng.
Đến với bài thơ Ngắm trăng ta lại bắt gặp một tâm hồn thi sĩ tha thiết yêu thiên
nhiên, yêu ánh trăng, người đã ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biết, ngắm trăng
trong nhà tù:
Trong tù không rượu cũng không hoa...
Ngắm trăng là một thú thanh nhã của các bậc tao nhân mặc khách. Thi nhân xưa ngắm
trăng khi tâm hồn thư thái, uống rượu trước hoa mà thưởng nguyệt (khi xem hoa nở
khi chờ trăng lên ) còn Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt: trong nhà tù thì lấy
đâu có rượu và có hoa. Câu thơ cho ta thấy hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt của Bác. Thế
nhưng trăng đêm nay đẹp quá, biết làm thế nào. Câu thơ thứ hai đã diễn tả tâm trạng
bối rối, xốn xang của ngù khi đứng trước vầng trăng đẹp mà không có hai yếu tố cần
và đủ là rượu và hoa để thưởng nguyệt. Chính sự bối rối, xôn xang ấy cho thấy tình
yêu thiên nhiên mãnh liệt của tâm hồn nghệ sĩ. Người đã quên đi tất cả sự thiếu thốn
khổ cực nơi nhà tù để khao khát thưởng thức trọn vẹn cảnh trăng đẹp.
Không có rượu và hoa nhưng cuộc ngắm trăng vẫn diễn ra lột cách lặng lẽ, say
mê:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ…
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 111 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Đó là cuộc giao hoà tuyệt đẹp giữa trăng và người. Phép đối đã thể hiện được sự quấn
quýt tâm giao giữa trăng và người. Nhà tù trong phút chốc đã biết mất chỉ còn thi
nhân và vầng trăng. Mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết của một đôi bạn tâm giao thu
vào một chữ “khán” – ngắm. Như vậy song sắt nhà tù không ngăn nổi tâm hồn người
tù nghệ sĩ tìm đến với với thế giới của cái đẹp của tự do và ánh sáng. Mở đầu bài thơ
là hình ảnh của nhà tù và người tù nhưng đến cuối bài thơ nhà tù vẫn còn đó nhưng
không thấy bóng dáng người tù. Người tù đã vượt ngục trở thành nhà thơ. Đó là cuộc
vượt ngục bằng tinh thần. Câu thơ cho ta thấy sức mạnh tinh thần kì diệu, tình yêu
thiên nhiên mãnh liệt và phong thái ung dung vượt hẳn lên hiện thực tàn bạo của nhà
tù. Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người chiến sĩ cộng sản đã tạo nên
cuộc vượt ngục kì thú. Sự hòa quện giữa chất thép và chất tình cùng với nghệ thuật đối
ý, nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Đến với bài thơ Đi đường ta lại bắt gặp một triết lí sâu xa của một người đã trải
qua bao gian lao vất vả việc đi đường cũng như tinh thần lạc quan, niềm vui phơi phới
của người chiến sĩ cách mạng khi đã đạt tới đỉnh vinh quang:
Đi đường mới biết gian lao….
Bài thơ có hai lớp nghĩa. Lớp nghĩa thứ nhất là nói về việc đi đường: Đi đường bình
thường đã vất vả,con đường lên núi lại càng vất vả.Vượt qua ngọn núi này lại trèo núi
khác, núi tiếp núi trập trùng. Lên đến đích nhìn lại từ đỉnh cao ta thấy quãng đường đã
vượt qua khi đó mọi khó khăn trở thành nhỏ bé. Lớp nghĩa thứ 2 là nghĩa bóng: Khi
con người có quyết tâm lòng kiên trì vượt qua thử thách thì sẽ có hiệu quả cao trong
công việc. Bài thơ nêu lên chân lý bình thường mà sâu sắc,không phải ai cũng thực
hiện được. Những khó khăn trong cuộc sống, con người muốn giải quyết đòi hỏi phải
có lòng kiên trì và sự quyết tâm. Kết quả của sự phấn đấu là thước đo lòng kiên trì của
mỗi con người.
Tóm lại, ba bài thơ trên đã giúp em thêm hiểu, thêm yêu quý, kính phục Bác,
một con người có phong thái ung dung, niềm tin, niềm lạc quan chiến thắng, có tinh
yêu thiên nhiên tha thiết mãnh liệt. Nhớ có những phẩm chất tốt đẹp đó mà người mới
vượt quan bao khó khăn gian khổ để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, chúng
em mới có cuộc sống ấm no ngày hôm nay. Em sẽ cố gắng học tập đức tính kiên trì,
nhẫn lại, vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Bác để rèn luyện mình trong cuộc sống.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 112 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn:10/02/2014
Tuần 24 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Rèn kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh về một danh nhân, một danh lam thắng cảnh,
một thể thơ.
- Biết cách viết một bài văn, đoạn văn thuyết minh.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Viết đoạn văn triển khai câu chủ đề sau: “Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
Việt Nam”.
2/ Viết đoạn văn thuyết minh về đặc điểm của thể thơ lục bát.
3/ Viết bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở quê em.
4/ Viết đoạn văn thuyết minh về một thể thơ đã học
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bác sinh năm 1890 mất
năm 1969, quê ở làng Sen, Kim Liên, Nam Đàn Nghệ An. Người đã cống hiến cả cuộc
đời mình cho non sông, cho đất nước. Năm 1911 Bác đã ra đi tìm đường cứu nước với
hai bàn tay trắng tại bến cảng Nhà Rồng. Người đã bôn ba hải ngoại hơn ba mươn
năm, Bác đã đi rất nhiều nơi, làm rất nhiều nghề để vừa kiếm sống vừa hoạt động
cách mạng, tìm ra con đường cứu nước. Năm 1941 Người đã trở về nước, trực tiếp
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 113 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bác đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đến năm 1945, với cuộc cách mạng tháng tám thành
công Bác đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, đem lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Người dân Việt Nam mãi mãi tôn
thờ, biết ơn vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

2 Thơ lục bát là thể thơ dân tộc, do cha ông ta sáng tạo ra. Một bài thơ làm theo
thể thơ lục bát ngắn nhất là phải có hai câu và nhiều nhất là vài nghìn câu. Thơ lục bát
phải đi theo cặp: cứ một câu sáu chữ lại đến một câu tám chữ, số câu trong một bài
không hạn định. Thơ lực bát gieo hai vần: vấn lưng và vần chân. Chữ thứ sáu của câu
sáu vần với chữ thứ sáu của câu tám(vần lưng). Chữ thứ tám của câu tám vần với chữ
thứ sáu của câu sáu ở cặp sau( vần chân), cứ như thế cho đến hết bài thơ. Thơ lục bát
thường ngắt nhịp: 2/2/2; 2/2/4; 4/4; 3/3. Cách gieo vần và ngắt nhịp như vậy làm cho
các bài thơ lục bát giàu nhạc điệu, dễ nhớ dễ thuộc.
3.
Em sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên bình. Quê hương em có nhiều danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa đã được nhà nước xếp hạng nhưng nổi tiếng
nhất phải kể đến chùa Bối Khê – Di tích lịch sử cấp quốc gia đã được nhà nước trùng
tu tôn tạo nhiều lần.
Chùa nằm trên đất thôn Bối Khê, trung tâm xã Tam Hưng huyện Thanh Oai
thành phố Hà Nội.Chùa được xây dựng theo cấu trúc “ngoại quốc nội công”. Ở phía
ngoài bao gồm Tiền đường, Tao bảo, hai bên hành lang dựng theo hình chữ quốc, bên
trong hậu đường là điện thờ thánh dựng theo hình chữ công.Toàn bộ cấu trúc được
sắp xếp hai bên theo đường trục chính.
Trước cổng chùa có sân đất rộng, có cây đa, cây đề cổ thụ, đường kính sát gốc
bằng ba vòng tay người lớn ôm không xuể. Muốn vào chùa ta phải qua ngũ quan. Đây
là cổng chùa cũng là cổng làng Bối Khê. Phía trên cổng chính có dòng chữ “Đại bi tự”
– đó chính là tên của chùa. Qua cổng chùa ta sẽ thấy ngay một chiếc cầu gạch bắc
ngang qua một hào nước hẹp – Đó chính là con sông Đỗ Động giang. Đi qua cầu là
Tam quan cao hai tầng tám mái, tầng trên treo hai quả chuông lớn đường kính 60 cm
và cao 1 m.
Qua khỏi tam quan là sân gạch khoảng 400m2 , trong sân trồng cây đại, cây
móng rồng, các cây cảnh khác và hai con voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một
bên trồng sen và một bên là giếng nước sinh hoạt gọi là Giếng Chùa.
Tòa Tam bảo còn gọi là thượng điện thờ Phật – Pháp – Tăng, cấu tạo theo bốn
hàng cột, mỗi hàng bốn chiếc, thềm điện có sáu cột đỡ chia thành bảy gian. Tam bảo
được trùng tu nhiều lần mới đẹp như hôm nay. Năm 2006 chùa được trùng tu toàn bộ.
Hai bên hành lang chạy dọc là 18 vị la hán ngồi trên bệ đá thể hiện đủ vác
gương mặt giống như các vị la hán ở chùa Tây Phương. Sau cuối dãy hành lang là thờ
Đức ông và Đức thánh hiền.
Sau Tam bảo là hậu cung thờ Đức thánh Bối: Nguyễn Đình An, là người có
thực, là một vị thiền sư đắc đạo thời Trần, ngài thuộc dòng họ Nguyễn sinh năm Tân
Tỵ(1281)- Đời vua Trần Nhân Tông, người đã có công đánh giặc. Năm 7 tuổi đã mồ
côi cha mẹ, ở nhà cô cậu ở thôn Bùi Xá, sớm có lòng từ bi ngài thường tới chùa nghe
giảng kinh, vào mùa hanh khô thường rủ bạn bè tát các vũng nước cạn, đem tôm cá bắt
được thả ra sông. Đến năm 15 tuổi, người đi tu lấy hiệu là Đức Minh đến tu ở chùa
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 114 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Tràng An(Chùa Sở) thuộc làng Tiên Lữ - Hà Đông – Hà Nội. Năm 95 tuổi ngày cho
làm một cái khám son ở mép tả điện trong chùa và mời dân làng, học trò trong vùng
đến dặn rằng: “Nay thầy số trời đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm
thì thờ, tanh hôi thì cho an táng sau chùa. Nhưng mới được 30 ngày thì có hương
thơm và ánh hào quang tỏa ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các
làng xung quanh. Sau đó Bối Khê cùng 10 làng xung quanh mang kiệu đến rước bát
phù hương về thờ và nhận làm anh em kết nghĩa với làng Tiên Lữ.
Cuối đời Trần vua hiếm muộn nên cùng hoàng hậu về ngự giá cầu tự và đã sinh
được quý tử. Vua phong cho ngài là “Thượng đẳng tôn thần” và phong chùa lên hàng
“Quốc tế”. Năm 1979 chùa được bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn
hóa.
Chùa Bối Khê là niềm tự hào của nhân dân Bối Khê nói riêng và cả xã Tam
Hưng nói chung. Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng giêng âm lịch là ngày hội của chùa.
Du khách thập phương và người dân quê hương đi làm ăn xa thì đến ngày này cũng trở
về để lễ Phật lễ Thánh cầu cho gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Đó cũng
là một nét đẹp văn hóa , một truyền thống tốt đẹp ở quê hương em.

4/
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ ra đời từ đời Đường ở Trung Quốc, là
thể thơ rất thông dụng trong các thể thơ Đường luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa
chuộng. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ai cũng có thể làm thể thơ này bằng chữ Hán
và chữ Nôm
Một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu mỗi câu 7 chữ, chia
làm 4 phần: đề, thực, luận, kết.
- Niêm, luật, vần, đối trong thơ Đường luật rất chặt chẽ. Niêm là quy luật phối thanh
theo chiều dọc làm cho các liên thơ dính lại với nhau. Hệ thống niêm này tính từ chữ
thứ 2 của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Câu 2 niêm với câu 3, câu
4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7, câu 8 niêm với câu 1 tạo cho bài thơ thành
một vòng tròn khép kín bền chặt.
- Luật là quy tắc phối thanh theo chiều ngang. Trong một câu 7 chữ thì chữ thứ 2-4- 6
phải tuyệt đối đúng thanh tạo thành đòn cân thanh điệu. Chữ thứ 4 là tâm đối xứng
phải khác thanh với chữ thứ hai và thứ 6. Cứ một câu 4 bằng 3 trắc lại đến một câu 4
trắc 3 bằng.
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
B B T T T B B
Lừng lẫy làm cho lở núi non
B T B B T T B
Thơ đường luật chỉ gieo một vần ,vần chân, và là vần bằng, gieo ở cuối câu
1,2,4,6,8. Bài thơ gieo vần ở từ Lôn, non, hòn, son, con.
Bài thơ Thất ngôn bát cú bắt buộc phải có đối ở câu 3 và 4 , 5 và 6 , đối phải chuẩn
chỉ cả về thanh về ý về lời.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Phép đối kết hợp với các động từ mạnh, giọng thơ dồn dập, gấp gáp diễn tả hành động
quả quyết mạnh mẽ của người anh hùng như đang bước và một trận chiến đấu mãnh
liệt.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 115 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Thơ Thất ngôn bát cú Đường luật ngắt nhịp chẵn trước lẻ sau không ngoại lệ.
Bài thơ được ngắt nhịp 2/2/3;4/3
Những kẻ vá trời/ khi lỡ bước
Gian nan chi kể/ việc con con!
Thơ thất ngôn bát cú là một thể thơ quan trọng, nhiều bài thơ hay đều làm theo
thể thơ này Ngày nay thơ thất ngôn bát cú vẫn còn được ưa chuộng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 116 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày soạn: 08/02/2015


TUẦN 25
ÔN TẬP VĂN BẢN CHIẾU DỜI ĐÔ – LÍ CÔNG UẨN

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Giúp học sinh nắm chắc nội dung và nghệ thuật của văn bản Chiếu dời đô.
- Thấy được khát vọng xây dựng quốc gia cường thịnh, phát triển của Lý Công Uẩn
cũng như của dân tộc ta ở một thời kì lịch sử.
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Nêu những hiểu biết của em về thể chiếu?
2/ Hoàn cảnh nào khiến Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La?
3/ Vì sao nói Chiếu dời đô ra đời phản ánh ý chí độc lập tự cường và sự phát triển lớn
mạnh của dân tộc Đại Việt?
4/ Việc LCU mở đầu bài chiếu bằng việc dẫn sử sách Trung Quốc có tác dụng gì?
5/ LCU đã đưa ra những lí lẽ nào để khẳng định thành Đại La xứng đáng là kinh đô
bậc nhất của đế vương muôn đời? Qua thực tế 1000 năm có đúng với tiên đoán và
khẳng định của tác giả không?
6/ Tìm những câu văn biền ngẫu trong bài Chiếu dời đô và nêu tác dụng của những
câu văn biền ngẫu đó?
7 Có ý kiến cho rằng: Chiếu dời đô là văn bản thể hiện ý chí và tư tưởng của dân tộc
Đại Việt. Em có đồng ý với ý kiến đó không?
8/Chứng minh Chiếu dời đô có kết cấu chặt chẽ, lập luận giàu sức thuyết phục.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 117 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
9/ Phân tích tư tưởng yêu nước trong bài Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn.
10. Bài “ Chiếu dời đô” phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập,
thống nhất, đồng thời, phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn
mạnh. Em hãy viết bài giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời và nội dung của tác phẩm?

III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI


1
- Chiếu: (chiếu thư, chiếu mệnh, chiếu chỉ ) là thể văn do vua chúa viết dùng để ban bố
mệnh lệnh xuống thần dân. Có nhiều loại chiếu như :Di chiếu, mật chiếu, khẩu chiếu.
+ Chức năng của chiếu là công bố chủ trương, đường lối, nhiệm vụ mà vua, triều đình
nêu ra yêu cầu thần dân thực hiện.
+ Thể văn: văn xuôi, văn vần, văn biền ngẫu (biền: hai con ngựa kéo xe sóng đôi cùng
đi; ngẫu: từng cặp)
Văn biền ngẫu: viết theo lối từng cặp câu hay những cặp đoạn câu cân xứng, nhịp
nhàng.
Ví dụ : Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây lại tiện nhìn sông tựa núi. Địa thế rộng mà
bằng; đất đai cao mà thoáng .
2.
- Hoàn cảnh: Đất nước Đại Việt đang trên đà phát triển, kinh đô Hoa Lư chật hẹp,
không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.
- Việc dời đô của Lí Công Uẩn là một sự kiện trọng đại, mở ra một thời kì phát triển
cường thịnh của đất nước trong chế độ phong kiến và đánh dấu một tầm nhìn chiếc
lược xa rộng của Lí Thái Tổ.
3
Trước khi dời đô về Thăng Long thì các triều đại, các tập đoàn phong kiến nổi
dậy chiếm lĩnh đất đai ở đâu thì đóng đô ở đó, đất nước vân chưa thực sự quy về một
mối. Kinh thành được đặt ở các địa phương khác, không nằm ở vị trí trung tâm, không
thu hút được nhân tài nên sự phát triển của đất nước bị cản trở.
Với tầm nhìn chiến lược, dựa trên các yếu tố Thiên thời – địa lợi – nhân
hòa, Lí Thái Tổ đã quyết định dời đô chứng tỏ triều đình nhà Lí đã đủ sức chấm nạn
cát cứ phân tranh, thế lực Đại Việt đã đủ sức ngang bằng phương Bắc. Định đô ở
Thăng Long thực là nguyện vọng của nhân dân thu giang sơn về một mối, xây dựng
đất nước độc lập tự cường.
4
Việc LCU mở đầu bài chiếc bằng việc dẫn ra sử sách Trung Quốc là hợp lí có tác
dụng thuyết phục người khác vì:
- Tạo tiền đề lí luận : “Nhà Thương đến vua Bàn Canh 5 lần dời đo, nhà Chu đến vua
Thành Vương cũng ba lần dời đô” không phải họ tự tiện chuyển dời mà dời đô nhằm
mục đích phát triển đất nước phồn thịnh, xâu dựng tương lai lâu bền cho con cháu.
Đây là những sự kiện có thật trong lịch sử vì vậy Lí Thái Tổ quyết định dời đô cũng
có gì bất thường mà phù hợp với đạo trời, thuận với lòng dân.
- Do tâm lí của người xưa thường lấy Trung Quốc làm hình mẫu, nên việc dẫn ra sử
sách Trung Quốc về các lần dời đô là đã đánh vào nhân tâm, phù hợp với đối tượng
người nghe.
5
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 118 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Lí Công Uẩn đã khẳng định thành Đại La là kinh đô bậc nhất của các đế vương muôn
đời bởi vì:
- Vị trí địa lí: ở vào nơi trung tâm đất nước, mở ra bốn phương nam bắc đông tây,
được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện nhìn sông tựa núi.
- Về địa thế: đất rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng, tránh cảnh ngập lụt, muôn
vật được tốt tươi.
- Về chính trị, văn hóa: là đầu mối giao lưu, là chốn tụ hội của bốn phương đất
nước.
- Thực tế 1000 năm qua cho thấy sự tiên đoán khẳng định của vua Lí Thái Tổ về kinh
đô Thăng Long là hoàn toàn đúng. Thăng Long được chọn làm kinh đô của hầu hết
các triều đại từ Lí, Trần, Hậu Lê, Mạc, chỉ đến triều Tây Sơn và triều Nguyễn chọn
Phú Xuân Huế làm kinh đô. Qua nhiều thời kì phát triển, kinh đô Thăng Long thực sự
là nơi hội tụ và tiêu biểu cho các giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần của đất nước,
cũng là một đô thị sầm uất, đứng đầu trong các đô thị của nước ta thời phong kiến:
Thứ nhất kinh kì thứ nhì phố hiến. Con người Thăng Long thì nổi tiếng thanh lịch, hào
hoa(Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An).
6
Những câu văn có tính biền ngẫu:
- Đã đúng ngôi...tựa núi.
- Địa thế rộng ...thoáng.
- Dân cư khỏi chịu cảnh ngập lụt; muôn vật cũng rất mực tốt tươi.
- Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc
nhất của đế vương muôn đời.
- Tác dụng: làm cho lời văn có nhịp điệu, cân xứng, nhịp nhàng. Các vế đối nhau
trong câu văn biền ngẫu giúp tác giả diễn tả được nhiều ý đối xứng hoặc bổ sung
cho nhau, làm cho người đọc dễ nhớ dễ thuộc.
7
- Đây là một ý kiến hoàn toàn chính xác, vì: Đất nước Đại Việt lớn mạnh, loạn cát cứ
bị đập tan, đất nước đủ sức sánh vai với các triều đình phương Bắc.
- Hướng đến một kinh đô rộng lớn, đẹp đẽ là cả dân tộc đã có nguyện vọng xây dựng
một đất nước cường thịnh, thống nhất muôn đời bền vững.
8
Chiếu dời đô là một văn bản có kết cấu chặt chễ, lập luận giàu sức thuyết phục
Bài chiếu có bố cục 3 phần:
- Phần 1: nêu tiền đề là điểm tựa cho lí lẽ ở phần sau( dẫn ra việc nhiều lần dời đô của
các nhà Thương Chu trong sử sách Trung Quốc nhằm mục đích mưu toan nghiệp lớn,
tính kế lâu dài cho con cháu.)
- Phần 2: Đánh giá về Hoa Lư, phê phán hai triều đại Đinh Lê không theo mệnh trời,
không học theo tiền nhân nên vận số ngắn ngủi, muôn vật không được thích nghi.
- Phân 3: Khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để định đô.
- Chiếu dời đô không chỉ bởi lập luận chặt chễ mà còn bởi tình cảm chân thành của
người viết. Câu văn “Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”. Câu văn
đã thể hiện tình cảm đau xót của nhà vua trước tình cảnh của đất nước của nhân dân,
nó đã tác động mạnh mẽ đế trái tim người người. Và như thế xét về lí và tình thì ai
cũng hiểu rằng việc dời đô không thể không làm.
8/
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 119 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Mở bài:
Giới thiệu bài chiếu dời đô của Lí Công Uẩn
Khẳng định bài chiếu là một áng văn sáng ngời tư tưởng yêu nước.
Thân bài: biểu hiện của tư tưởng yêu nước trong bài chiếu
1. Khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, đời sống nhân dân thanh bình,
triều đại thịnh trị:
- Thể hiện ở mục đích dời đô.
- Thể hiện ở cách nhìn về mối quan hệ giữa triều đại, đất nước và nhân dân.
2. Khí phách dân tộc độc lập tự cường:
- Thống nhất giang sơn về một mối
- Khẳng định tư cách độc lập ngang hàng với Trung hoa
- Niềm tin vào tương lai muôn đời của đất nước.
Kết bài:
Khẳng định tư tưởng yêu nước của bài chiếu
Nêu ý nghĩa và vị trí của bài chiếu.

Ngày 15/02/2015
TUẦN 25 ÔN TẬP CẢM THỤ VĂN HỌC, VĂN NGHỊ LUẬN

I/ Câu hỏi ôn tập


Câu 1 Cho đoạn thơ sau:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
A. Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên?
B. Suy nghĩ của em về hình ảnh những ngư dân đang ngày đêm bám biển hiện
nay?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 120 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
C. Câu 2
Trong chương trình ngữ văn 8 có hai bài thơ được viết theo kiểu đầu cuối tương
ứng. Em hãy nêu tên tác giả của hai bài thơ ấy?
Câu 4: Có một câu chuyện nhỏ như sau:
Ngụ ngôn về cây bút chì
Một người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm của mình trước khi cho vào hộp.
“Có năm điều ngươi cần nhớ trước khi ta đem ngươi ra giới thiệu bên ngoài.’’
Ông ta nói với cây bút chì. “ Hãy luôn ghi nhớ và không bao giờ quên để trở thành cây
bút chì tốt nhất mà Ngươi có thể.”
1. Ngươi có thể làm được nhiều công việc vĩ đại chỉ khi cho phép mình được một
người nào đó cầm trên tay.
2. Ngươi sẽ trải qua việc gọt giũa đau đớn hết lần này đến lần khác, nhưng đó là
điều cần thiết để trở nên một cây bút chì tốt hơn.
3. Ngươi có thể sửa chữa được bất kì lỗi sai nào nếu đã lỡ phạm phải.
4. Phần quan trọng nhất của Ngươi sẽ luôn là những gì ở bên trong Ngươi.
5. Trên mỗi bề mặt mà Ngươi được dùng đến Ngươi phải để lại dấu ấn. Trong bất
kì điều kiện gì, Ngươi cũng phải tiếp tục viết.
Cây bút chì hiểu và hứa sẽ ghi nhớ và nó đi vào trong hộp với mục đích nằm trong
tim mình.
Bây giờ bạn hãy thay thế vào chỗ của cây bút chì. Hãy luôn ghi nhớ và không bao
giờ quên để trở thành một người tốt nhất mà bạn có thể.
( Phỏng theo : Quà tặng cuộc sống- Nhà xuất bàn trè)
Em hãy viết một đoạn văn khoảng mười câu để nêu rõ những suy nghĩ của mình
về ý nghĩa câu chuyện trên.
Câu5:
Qua hai bài thơ : Khi con tu hú- Tố Hữu và Ngắm trăng- Hồ Chí Minh, hãy làm
sáng rõ tình yêu thiên nhiên và khát vọng tự do của những người chiến sĩ cách mạng.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
A. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ trên là: nhân hóa, ẩn dụ

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 121 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
( 1đ)
B. Đọc đoạn thơ trên , em thấy hình ảnh người dân chài được miêu tả vừa chân thực
vừa lãng mạn và trở nên có tầm vóc phi thường. Em lại liên tưởng tới những con
người vùng biển đảo thiêng liêng của tồ quốc hiện nay. Họ ngày đêm bám biển vừa
làm giàu cho quê hương vừa khẳng định chủ quyền của dân tộc . Họ phải chịu đựng
bao gian lao, nguy hiểm nhưng họ sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách. Ta khâm
phục, tự hào về họ. Hiện nay , một số vùng biển của đất nước ta bị giặc ngoại xâm, là
công dân Việt Nam mỗi người hãy chung tay góp sức giúp đỡ những người dân vùng
biển để một phần nào đó động viên, tiếp thêm sức mạnh cả vật chất lẫn tinh thần cho
những người con của biển khơi……
Câu 2:
Trong chương trình ngữ văn 8 có hai bài thơ được viết theo kiểu đầu cuối tương ứng
là: Ông đồ của Vũ Đình Liên và Khi con tu hú của Tố Hữu.
Câu4:
-Kĩ năng: Đúng đoạn văn theo cách mình lựa chọn. Số lượng khoảng 10 câu. Diễn đạt
tốt , không mắc lỗi chính tả , dùng từ, ngữ pháp. Luận điểm , lí lẽ rõ ràng. (2đ)
- Nội dung: Tât cả các câu hướng vào nội dung là: Muốn trở thành người tốt thì phải
trau dồi rèn luyện không chỉ về thể chất mà quan trọng là trí tuệ,đạo đức.( 4đ)
+ Mượn hình thức câu chuyện ngụ ngôn về một đồ vật , tác giả nhẹ nhàng khuyên nhủ
ta cần phải học tập , rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
+ Con người chỉ thành công khi khổ luyện giống như cây bút chì phải trải qua việc gọt
giũa đau đớn hết lần này đến lần khâc vì đó là điều cần thiết.
+Ta sai lầm vấp ngã, thất bại nhưng không nên nản chí mà phải biết rút kinh nghiệm,
có ý chí,nghị lực, lòng lạc quan, yêu đời…
+Một người tốt cần một cơ thể khỏe mạnh, một trí tuệ sắc bén, một tâm hồn nhân
văn…
+Dù ta làm gì , ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng phải cố gắng hoàn thành tốt công việc
bằng khả năng của mình…
+ Thật buồn và đáng chê trách cho những người sống không có hoài bão, ước mơ,
sống hoài , sống phí…
Câu 5:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 122 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- MB:
+ Dẫn dắt: Sống ở hai thời kì khác nhau nhưng hai tâm hồn thi nhân Tố Hữu và Hồ
Chí Minh lại gặp nhau ở một điểm là tình yêu thiên nhiên và khát khao tự do cháy
bỏng…
+ Nêu vấn đề: (0,5đ)
Điều đó được thể hiện rất rõ trong thơ văn , đặc biêt là qua hai bài thơ :Khi con tu
hú và Ngắm trăng.
-TB: ( 6đ)
+ Luận điểm 1: Tình yêu thiên nhiên say đắm của những người chiến sĩ cách mạng.
( 3đ)
 Trong bài thơ: Khi con tu hú- Tố Hữu thì tác nhân gợi nhớ đến thiên nhiên tươi
đẹp, đầy sức sống là tiếng chim tu hú. Cảm hứng thơ dạt dào cũng bắt nguồn từ
âm thanh quen thuộc ấy: (0,5đ)
“ Khi con tu hú gọi bầy
………
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” ( 0,5đ)
Tiếng chim gợi dậy cả một trời thương nhớ. Hình ảnh mùa hè tươi vui tràn sức
sống hiện lên rõ rệt , sống động trong tâm tưởng người tù với âm thanh… màu
sắc… hương vị… ánh nắng… không gian… ( 0,5đ)
*Trong nhà lao của Tưởng Giới Thạch, mặc dầu bị cùm trói nhưng tâm hồn Bác
vẫn dạt dào cảm xúc trước đêm trăng đẹp: ( 0,5đ)
“ Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” (0,5đ)
Bác bối rối, xao xuyến, rạo rực vì không biết làm thế nào để thưởng thức trọn vẹn
vẻ đẹp thanh cao trong sáng của vầng trăng mà Bác coi là tri âm tri kỉ. Thiếu thốn
khổ cực là thế mà Bác vẫn mở rộng tâm hồn để giao hòa với ánh trăng, với thiên
nhiên rộng lớn ,tự do… (0,5đ)
+ Luận điểm 2:( 3đ) Khát vọng tự do cháy bỏng của những người chiến sĩ cách
mạng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 123 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
 Tố Hữu bị xiềng xích, gông cùm trong nhà lao Thừa Phủ, nghe tiếng chim tu hú
đã thôi thúc nhà thơ muốn bứt tung , phá tan tù ngục để trở về với tự do, về với
cách mạng, với nhân dân: ( 0,5đ)
Ta nghe hè dậy bên lòng
…………
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu” (0,5đ)
Trong hoàn cảnh ấy người chiến sĩ phải tự đấu tranhvới bản thân…….(0,5đ)
*Bác Hồ vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, dù ở đâu , trong hoàn cảnh nào
Người vẫn luôn ung dung , tự chủ, giữ vững tinh thần lạc quan và nghị lực cách
mạng để vươn lên mọi gian nan, thử thách: ( 0,5đ)
“ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” ( 0,5đ)
Sự ngăn cách phũ phàng của bốn bức tường phòng giam chật hẹp càng thổi bùng
khát vọng được tự do thưởng nguyệt- một thú vui thanh nhã muôn đời của thi
nhân………….( 0,5đ)
KB: (1đ)
+ Khẳng định lại : ( 0,5đ) Tuy ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai con người – hai
thi nhân- hai người chiến sĩ cách mạng kiên cường lại cùng hướng về , hòa quyện
với thiên nhiên tươi đẹp, cùng một khát vọng tự do, một lí tưởng cao đẹp là chiến
đấu vì nền độc lập tự do dân tộc.
+ Cảm nghĩ của mình: (0,5đ) Khâm phục, tự hào, cố gắng học tập…..

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 124 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Ngày: 12/02/2015
TUẦN 24
ÔN TẬP VĂN BẢN HỊCH TƯỚNG SĨ – TRẦN QUỐC TUẤN

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


1/ Trình bài những hiểu biết của em về thể hịch. Từ đó xác định bố cục của bài Hịch
tướng sĩ và đặt tên cho từng đoạn.
2/ Nêu hoàn cảnh ra đời của Hịch tướng sĩ. Từ đó chỉ ra mục đích và ý nghĩa thực tiễn
của văn bản này.
3/ Trong phần mở đầu, tác giả nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử
sách nhằm mục đích gì?
4/ Tìm những chi tiết nói về sự ngang ngược và tội ác của giặc. Việc nêu lên những tội
ác của giặc như vậy có tác dụng gì với tướng sĩ?

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 125 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
5/ Phân tích những nét đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn tác giả tự nói
về lòng yêu nước và căm thù giặc của mình?
6/ Tóm tắt hệ thống luận điểm của bài hịch và nhận xét về cách lập luận của tác giả.
7/ Qua bài hịch, em cảm nhận như thế nào về vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn?
8/ Phân tích đoạn trích sau trong bài “Hịch tướng sĩ ” của Trần Quốc Tuấn:
“ Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó
thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sĩ mắng triều đình,
đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa
lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà vơ bạc vàng, để vét của kho có
hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ
căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi
ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.

II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI

1/ Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh dùng để cổ
động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, hay dùng để răn
dạy thần dân, người dưới quyền.
- Đặc điểm của thể hịch: khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe, có kết cấu chặt chẽ,
lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục.
- Kết cấu của thể hịch thường có 4 phần: Nêu vấn đề : nêu truyền thống vẻ vang trong
sử sách để gây lòng tin tưởng.
- Nhận định tình hình để gây lòng căm thù giặc,
- Phân tích phải trái làm rõ đúng sai.
- Kết thúc nêu ra chủ trương cụ thể và kêu gọi đấu tranh.
- Hịch tướng sĩ về cơ bản giống kết cấu chung của thể hịch nhưng có sự thay đổi linh
hoạt, tác giả không nêu vấn đề riêng vì toàn bộ bài hịch là nêu vấn đề và giả quyết vấn
đề.
- Bố cục: 4 phần
+ Đoạn 1: từ đầu …..lưu tiếng tốt
=> Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công
danh, xả thân vì nước.
+ Đoạn 2: tiếp …..ta cũng vui lòng
=> Lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.
+ Đoạn 3: tiếp …các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?
=> Phân tích phải trái làm rõ đúng sai chia làm 2 đoạn nhỏ. Đoạn 3a nêu mối ân tình
giữa chủ và tướng. Đoạn 3b khẳng định những hành động đúng nên làm để tướng sĩ
thấy rõ điều hay lẽ phải.
+ Đoạn 4 : còn lại, nêu nhiệm vụ cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu.
- Tư tưởng chủ đạo: Nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù.

2/ Bài hịch ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ
hai(1284), trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đời Trần thì cuộc
kháng chiến lần hai gay go quyết liệt nhất. Giặc cậy thế mạnh ngang ngược hống hách,
ta sôi sục căm thù quyết tâm chiến đấu. Nhưng trong hàng ngũ tướng sĩ cũng có người
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 126 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
dao động, tư tưởng cầu hoà. Để cuộc chiến giành thắng lợi, điều quan trọng là phải
đánh bại được nhưng tư tưởng dao động, bàn quan của tướng sĩ (có nghĩa là đánh địch
ở trong ta).
- Mục đích: Bài hịch nhằm khích lệ lòng yêu nước, tinh thần trung quân ái quốc,
quyết chiến quyết thắng kẻ thù của tướng sĩ.
- Mục đích cụ thể của bài hịch: yêu cầu tướng sĩ ra sức tập luyện võ nghệ, nghiêm túc
học Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn soạn ra.

3/ Phần đầu tác giả nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung
Quốc nhằm khích lệ ý chí lập công danh, tinh thần xả thân vì nước của các tướng sĩ.

4/ Sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù :


- Đi lại nghênh ngang ngoài đường, không coi ai ra gì.
- Sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ\
- Đòi ngọc lụa, thu bạc vàng để thỏa lòng tham.
Tác giả đã sử dụng những hành ảnh ẩn dụ: lưỡi cú diều, thân dê chó thể hiện thái độ
căm phẫn, khinh ghét cao đọ đối với kẻ thù. Những hình tượng đó lại được đặt trong
mối tương quan( lưỡi cú diều -sỉ mắng triều đình; thân dê chó - bắt nạt tể phụ) tác giả
đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị trà đạp, khơi dậy lòng tự ái dân tộc, khơi sâu nỗi căm
thù giặc ở các tướng sĩ .

5/ Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước và căm thù giặc của
mình qua đoạn văn: “Ta thường tới bữa quên ăn....vui lòng”. Đây là đoạn văn đặc biệt
xúc động. Muốn khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ thái độ của chính mình.
- Tác giả đã dùng cách nói khoa trương với những câu văn biền ngẫu, các vế có 4 từ
liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa nhằm
nhấn mạnh nỗi đau đớn, day dứt, trăn trở cao độ ám ảnh trong mọi lúc từ bữa ăn, giấc
ngủ cả ngày lẫn đêm. Nỗi đau xót lớn lao trong lòng được biểu hiện ra thành dòng
nước mắt đầm đìa. Còn lòng căm thù giặc và ý chí tiêu diệt giặc được thể hiện mạnh
mẽ qua các hình ảnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Còn câu văn: “Dẫu
cho trăm ....vui lòng” khẳng định tinh thần xả thân vì nước, sẵn sàng chết trăm lần
miễn là tiêu diệt được quân giặc.
- Đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ trái tim của một vị
tướng coi lợi ích quốc gia là lợi ích tối cao.

6/ Hệ thống luận điểm của bài hịch:


- Nêu những tấm gương trung thần nghĩa sĩ thời xưa và nay.
- Nhắc nhở về tình hình đất nước: giặc ngoại xâm đe dọa, sứ giặc nghênh ngang
làm nhục quốc thể.
- Bộc bạch nỗi niềm đau xót vì đất nước và lòng căm thù giặc sôi sục của vị chủ
tướng.
- Nhắc nhở tướng sĩ về những ân tình của chủ tướng với họ nhằm khơi dậy lòng
trung thành của tướng sĩ.
- Phê phán những sai trái của tướng sĩ: thái độ cầu an, ăn chơi hưởng lạc, vô trách
nhiệm trước tình hình của đất nước và chỉ ra hậu quả của nó.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 127 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Những việc cấp bách nên làm để đánh thắng quân giặc.

7/ Qua bài hịch ta có thể cảm nhận được: Trần Quốc Tuấn là người có tâm hồn cao
đẹp, với lòng yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc mãnh liệt, với tướng sĩ vừa chân
tình vừa nghiêm khắc, có trí tuệ sắc sảo, có khả năng thuyết phục, khích lệ tài tình.

8
Mở bài: giới thiệu khái quát về bài hịch
Giới thiệu đoạn văn cần phân tích.
Thân bài:
- Thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc trong tướng sĩ:
+ Chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước.
+ Vạch rõ tội ác của giặc
- Nỗi lòng của tác giả
+ Nỗi đau đớn và căm thù giặc mãnh liệt
+ Ý chí quyết tiêu diệt giặc ngoại xâm
Kết bài: đánh giá ý nghĩa của đoạn văn với tác phẩm

Ngày 25/02/2014
TUẦN 25 ÔN TẬP CẢM THỤ VĂN HỌC, VĂN NGHỊ LUẬN
Câu 1
Phân tích tác dụng của phép tu từ chủ yếu trong đoạn thơ sau:
Bàn tay con nắm tay cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non...
( Trích Sáng tháng năm - Tố Hữu)

Câu 2

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 128 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Viết một đoạn văn khoảng mười câu, có dùng câu chủ đề, giải thích ý kiến:
Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" ( trích "Bình Ngô đại cáo" - Nguyễn Trãi) có ý nghĩa
như bản tuyên ngôn độc lập. ( SGK Ngữ văn 8 - tập hai, tr. 69).

Câu 3
Khát vọng tự do là một trong những tư tưởng phổ biến trong nhiều tác phẩm thơ
ca Việt Nam hiện đại trước 1945. Hãy làm sáng tỏ điều đó qua hai đoạn thơ sau:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
(Trích Nhớ rừng - Thế Lữ)
và:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !
( Trích Khi con tu hú - Tố Hữu)

II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI


1/ Phân tích được tác dụng của phép ẩn dụ:
- Ẩn dụ: con, cha ( Bàn tay con nắm ta cha) thể hiện tình cảm tác giả dành cho Bác
như tình cảm một người con với cha, tình cảm Bác dành cho tác giả như tình cảm một
người cha với con. Đó là những tình cảm gần gũi, thân mật, thiêng liêng, ấm áp như
tình ruột thịt.
- Ẩn dụ: trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non giúp tác giả thể hiện sự ngưỡng
mộ, ca ngợi Bác: cuộc đời, tâm hồn, tình cảm, tư tưởng... của Bác vĩ đại, lớn lao, cao
cả như bầu trời, biển cả, nước non mà gần gũi, bình dị như ruộng đồng quê hương đất
nước.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 129 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
- Phép ẩn dụ không chỉ giúp thể hiện tình cảm của tác giả mà cũng thể hiện tình cảm
kính yêu, biết ơn, ngưỡng mộ và suy nghĩ chung của đồng bào ta, của nhân loại tiến bộ
đối với Bác

2/ Giải thích vấn đề: Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" ( trích "Bình Ngô đại cáo" -
Nguyễn Trãi) có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập. bằng cách đưa ra các luận điểm,
luận cứ cơ bản sau:
a. Viết đúng câu chủ đề để nêu được luận điểm: Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" có ý
nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập. (Nếu chọn vị trí câu chủ đề ở cuối đoạn thì đó là
luận điểm kết luận).
b. Nêu các luận cứ để giải thích:
- Giới thiệu sơ lược về Bình Ngô đại cáo; giới thiệu vị trí đoạn trích: là phần đầu của
bài cáo.
- Giải thích tuyên ngôn độc lập: lời tuyên bố về độc lập, chủ quyền của một dân tộc,
đất nước. Khẳng định ý kiến cho rằng đoạn trích "Nước Đại Việt ta" có ý nghĩa như
bản tuyên ngôn độc lập là thỏa đáng, thể hiện được ý nghĩa to lớn của đoạn trích cũng
như của tác phẩm đối với lịch sử dân tộc.
- Tính chất tuyên ngôn độc lập thể hiện ở sự khẳng định quốc hiệu Đại Việt, nền văn
hiến lâu đời, địa phận lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có lịch sử oai hùng, có nhân tài
hào kiệt. Đó chính là sự tuyên bố, khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc.
(Lưu ý: Nếu học sinh viết không có câu chủ đề hoặc không đúng yêu cầu dung
lượng thì không cho quá 3,0 điểm.)

3/ Giới thiệu được hai tác phẩm, hai tác giả: Nhớ rừng của Thế Lữ là tác phẩm tiêu
biểu của Thơ mới 1932 - 1945; Khi con tu hú là một trong nhiều sáng tác trong tù đặc
sắc của Tố Hữu trong tập thơ Từ ấy, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng trước 1945.
- Vị trí hai đoạn thơ: đoạn thơ trích trong Nhớ rừng là đoạn đầu của bài; đoạn thơ trích
trong Khi con tu hú là phần cuối của bài.
2. Phân tích, chứng minh:
a. Tổng quát:
- Giải thích khát vọng (khao khát, khát khao) tự do là khao khát, ước muốn có tự do,
thoát khỏi tình cảnh tù túng, mất tự do, mong muốn được sống đúng với lý tưởng, hoài
bão, giá trị bản thân, không bị trói buộc bởi ngoại cảnh. Khát vọng tự do là tư tưởng
chủ yếu được thể hiện trong hai bài thơ.
- Khái quát về đặc điểm Thơ mới (Văn học lãng mạn) và thơ ca cách mạng trước
1945: Thơ mới là một bộ phận của Văn học lãng mạn trước 1945, xu hướng đổi mới
thơ ca về hình thức nghệ thuật và nhất là nội dung tư tưởng; Thơ mới chủ yếu hướng
đến giải phóng cái Tôi cá nhân, đề cao bản ngã, tự do cá nhân. Thơ ca cách mạng
trước 1945 lại là xu hướng thơ thể hiện tiếng nói đấu tranh cách mạng theo khuynh
hướng vô sản, có nội dung tư tưởng tiến bộ, là vũ khí đấu tranh cách mạng của các
chiến sỹ cộng sản, thể hiện khát vọng tự do cao cả. Hai đoạn thơ đại diện cho hai
khuynh hướng thơ ca Việt Nam trước 1945.
b. Phân tích hai đoạn thơ để chứng minh:
* Điểm tương đồng: Khát vọng tự do đều thể hiện ở chỗ:
- Hai đoạn thơ đều thể hiện tâm trạng bức bối, căm uất của những thân phận tù ngục,
mất tự do trong cảnh nô lệ tăm tối của đất nước. (dẫn chứng và phân tích)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 130 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Hai đoạn thơ đều hướng đến cuộc sống tự do bên ngoài, đấu tranh để thoát khỏi cảnh
ngục tù, mất tự do.
* Điểm riêng độc đáo: Cách thể hiện khát vọng tự do, biểu hiện cụ thể của khát
vọng này ở hai đoạn thơ khác nhau:
- Đoạn thơ trong Nhớ rừng của Thế Lữ: Là những vần thơ đậm chất lãng mạn, dạt dào
cảm xúc, rất mới về ngôn từ. Khát vọng tự do thể hiện qua: tình cảnh tù ngục, mất tự
do rất đỗi thê thảm của chúa sơn lâm; nỗi căm uất cho thân phận; thể hiện sự ý thức rõ
về thân phận sa cơ, bị hạ thấp, bị biến thành trò mua vui cho người đời; tâm trạng tủi
nhục vì thân phận mất tự do. (dẫn chứng và phân tích).
- Đoạn thơ trong Khi con tu hú của Tố Hữu thể hiện khát vọng tự do qua tâm trạng
căm uất của một chiến sỹ cộng sản khi bị tù đày mà nghe hè về bên ngoài. Thể hiện
khát vọng tự do qua cảm giác ngột ngạt, bức bối vì mất tự do. Đặc biệt, khát vọng ấy
thể hiện qua khao khát tung phá, đập tan gông cùm, xiềng xích tù đày để đến với tự
do. (dẫn chứng và phân tích).
- Đoạn thơ trong Nhớ rừng của Thế Lữ là những vần thơ lãng mạn, đại diện cho khát
vọng tự do, tâm sự của cả một lớp trí thức bế tắc trước thời cuộc. Trong khi đó, đoạn
thơ trong Khi con tu hú của Tố Hữu lại là những vẫn thơ cách mạng đầy nhiệt huyết
tuổi trẻ, đại diện cho khát vọng tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc - một lý tưởng
cao cả của thời đại, là tiếng nói đấu tranh của những chiến sỹ cộng sản kiên trung.
c. Đánh giá, mở rộng:
- Hai đoạn thơ tuy đại diện cho hai trào lưu khác nhau, cách thức thể hiện khác nhau,
nhưng đều hướng đến mong muốn tự do, khao khát tự do cháy bỏng. Đây cũng chính
là tâm sự chung, khát vọng chung của một dân tộc đang chìm trong đêm đen nô lệ.
- Có thể liên hệ đến các bài thơ khác thuộc Thơ mới và thơ ca yêu nước, cách mạng
trước 1945.
3. Kết luận chung:
Khẳng định lại giá trị hai đoạn thơ, hai tác phẩm và bộc lộc suy nghĩ riêng.

Ngày 28/02/2015
TUẦN 26 ÔN TẬP VĂN BẢN: NƯỚC ĐẠI VIỆT TA
(Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


1/Hai câu đầu tác giả đã nêu lên tư tưởng gì? Phân tích để nêu bật nội dung của tư
tưởng đó?
2/ Tính chất của một bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện ở những phương diện nào
trong đoạn văn này?
3/ So với với bài thơ Sông núi nước Nam thì quan niệm về chủ quyền và độc lập dân
tộc của Nguyễn Trãi có sự kế thừa và phát triển như thế nào?
4/ Cho đoạn văn:
“ Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 131 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác. “
a. Đoạn trích trên ở tác phẩm nào? Tác giả là ai? Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
đó?
b. - Giải nghĩa các từ sau: Điếu phạt; Đại Việt; Văn hiến.
- Nêu nội dung của đoạn trích trên.
5/ Chứng minh sự tiếp nối và phát triển của ý thức độc lập dân tộc từ bài thơ Sông núi
nước Nam của Lí Thường Kiệt đến đoạn trích Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi.
6.Trình bày sơ đồ lập luận của văn bản Níc §¹i ViÖt ta của NguyÔn Tr·i.
7. Văn bản Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là áng văn tràn đầy lòng tự hào của dân
tộc. Hãy viết bài giới thiệu về tác giả , hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và làm sáng tỏ
nội dung nhận xét trên .
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1 Trong hai câu đầu tác giả nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Cốt lõi của tư tưởng nhân
nghĩa ấy là yên dân và trừ bạo. Yên dân là làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh
phúc. Đó là mục đích lớn nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cũng chính là tư
tưởng lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, đánh kẻ có
tội. Mà đặt trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì bạo ở đây chính là giặc Minh xâm
lược. Như vậy tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng yêu nước,
chống giặc ngoại xâm. Đây là nội dung mới trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi: nó được mở rộng ra, không chỉ còn là quan hệ giữa người với người mà là quan
hệ giữa quốc gia với quốc gia, dân tộc với dân tộc.
2/ Tính chất của một bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện trên những phương diện:
Nền văn hiến lâu đời
Cương vực lãnh thổ
Phong tục tập quán
Lịch sử và truyền thống giữ gìn độc lập
Đây là những phương diện cơ bản nhất để xác định quyền độc lập của một dân tộc.

3/ So với bài Sông núi nước Nam thì quan niệm vể chủ quyền độc lập của Nguyễn
Trãi trong đoạn trích Nước Đại Việt ta được mở rộng hơn, hoàn chỉnh hơn. Nêu như
trong bài Sông núi nước Nam quan niềm về chủ quyền độc lập dân tộc được khẳng
định trên hai yếu tố là; cương vực lãnh thổ và chủ quyền thông qua người đại diện là
Vua thì ở Bình Ngô đại cáo cũng có sự kế thừa hai yếu tố đó( Núi sông bờ cõi đã chia/
xưng đế một phương) nhưng được bổ sung thêm nhiều phương diện nữa: văn hiến,
phong tục tập quán, truyền thống lịch sử, anh hùng hào kiệt. Quan niệm ấy đã đạt tới
sự toàn diện, sâu sắc, đây là sự phát triển cao của ý thức dân tộc trong lịch sử.
4.a
- Đoạn trích trên trích trong văn bản: Nước Đại Việt ta- trích Bình Ngô đại cao của
Nguyễn Trãi.
- Tác phẩm được viết năm 1428 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành thắng lợi, đất
nước sạch bóng quân thù mở ra một kỉ nguyên thanh bình độc lập.
b. Điếu phạt: thương dân, đánh kẻ có tội.
Đại Việt: tên nước ta thời vua Lí Thánh Tông.
Văn hiến: truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 132 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nội dung của đoạn trích: nêu lên tư tưởng nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền độc
lập của dân tộc Đại Việt.
5/
Nói dến nền Văn học trung đại Việt Nam thì chúng ta không thể không kể đến
hai tác phẩm nổi tiếng là Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo
của Nguyễn Trãi. Tuy ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng cả hai
tác phẩm để thể hiện chung một khát vọng độc lập dân tộc và tự do của đất nước. Đó
là những lời khẳng định đanh thép, mãnh liệt về chủ quyền dân tộc ta, được con là
những bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
Vào cuối năm 1076 khi cuộc kháng chiến chống quân Tống bước sang giai đoạn
gay go ác liệt nhất thì trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, trong đền thờ Trương
Hống, Trương Hát vang lên tiếng đọc sang sảng, tiêng thơ làn nức lòng binh sĩ tạo nên
khí thế áp đảo kẻ thù
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiết nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
( Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Cớ sao giặc dữ phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Lời thơ vang lên khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam qua hai yếu tố đó là:
cương vực lãnh thổ và chủ quyền thông qua người đại diện là vua( Nam đế). Không
chỉ phong kiến phương Bắc mới có vua mà nước Nam cũng có hoàng đế riêng của
mình. Xưa phong kiến phương Bắc luôn tự coi mình là thiên tử(con trời) là hoàng đế
còn vua nước láng giềng chỉ là vương, hầu. Lí Thường Kiệt xưng “đế” là muốn tước
đi cái tự phụ, ngạo nghễ của Trung Hoa.
Bên cạnh đó tác giả còn khẳng định: “Rành rành sách trời chia xứ sở”, có nghĩa
là ranh giới ấy đã được tạo hóa phân định rõ ràng không thể xâm phạm. Nếu kẻ nào
dám xâm phạm nhất định sẽ bị tan vỡ: “Như hà...hư”. Hai câu thơ đã khẳng định sự
thất bại thảm hại của kẻ thù xâm lược. Cả bài thơ như một hồi kèn xung trận quyết
chiến, quyết thắng. Lời khẳng định về chủ quyền độc lập dân tộc đã kết thúc mà vẫn
còn in đậm trong lòng mỗi người dân đất Việt.
Trải qua bốn thế kỉ, ý thức về độc lập dân tộc ấy đã được phát triển cao hơn,
toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Nếu như
trong Nam quốc sơn hà- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta chỉ thấy vị trí
của Nam đế(vua là nước) mà chưa thấy vị trí của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng
đất nước thì đến BNĐC ta đã thấy điều đó. Trên những chặng đường lịch sử, nhân dân
sôi sục dành lại đất nước từ tay giặc, ý thức độc lập tự cường mãnh liệt và tiến xa hơn.
Mở đầu bài cáo vẫn là lời khẳng định dứt khoát, chắc chắn về sự tồn tại ngang
hàng của một quốc gia phương Nam với một quốc gia phương Bắc. Không chỉ có
hoàng đế, có lãnh thổ rõ ràng như trong NQSH mà còn có cả quá khứ oai hùng trong
công cuộc chống giặc ngoại xâm, có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước...cũng có.
Đoạn thơ đã khẳng định Đại Việt là đất nước có quốc hiệu riêng, có lãnh thổ riêng, có
nền văn hiến lâu đời, có những phong tục tốt đẹp mà phong kiến phương Bắc luôn có
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 133 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
âm mưu đồng hóa để phủ nhận tư cách độc lập dân tộc của Đại Việt. Nước Nam còn
có lịch sử riêng, có anh hùng hào kiệt sánh ngang bằng với các triều đại Trung Quốc.
Ý thức quốc gia dân tộc không chỉ được khẳng định trong cương vực lãnh thổ,
bản sắc văn hóa mà còn khẳng định trong cách đánh giặc ngoại xâm. Đó là lấy sức
mạnh nhân nghĩa để chiến thắng:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Sức mạnh của dân tộc chính là sức manh của nhân nghĩa để chiến thắng kẻ thù bạo
ngược .
Phải có lòng yêu nước sâu sắc, có ý thức độc lập tự chủ lớn lao Nguyễn Trãi
mới viết lên được những câu văn hiên ngang như thế. Nếu như ở Nam Quốc Sơn Hà
chỉ khẳng định “sách trời chia xứ sở” thì đến BNĐC đã khẳng định cả lịch sử hào
hùng của một quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chứng tỏ dân tôc ta có vị
trí ngang hàng với Trung Quốc.
Với tư tưởng nhân nghĩa, với những vị anh hùng hào kiệt, Nguyễn Trãi lại một
lần nữa khẳng định sức mạnh của dân tộc đã lập nên những chiến công hiển hách,
đánh tan mọi kẻ thù xâm lược:
Lưu Cung tham công nên thất bại....Ô Mã.
Những chiến công lừng lẫy lần lượt được đưa ra với các động từ mạnh: thất bại, tiêu
vong, bắt sống, giết tươi đã làm nổi bật lên sự thất bại thảm hại của quân thù và chiến
chông lừng lẫy của ta và niềm tự hào dân tộc sáng ngời trên từng con chữ.
Bình Ngô đại cáo với những giá trị lớn lao về nội dung và nghệ thuật xứng đáng
là một áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc với ý
thức tự lực tự cường mạnh mẽ.
Đã bao năm trôi qua nhưng những lời trong bản tuyên ngôn độc lập của cha ông
vẫn còn in đậm trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Thời gian có thể xóa nhòa đi
nhiều thứ nhưng không thể làm mờ đi những chân lí trong SNNN và BNĐC của người
dân nước Việt. Em thật tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc, em hứa sẽ học tập
tốt hơn để viết tiếp những trang sử vàng trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt là hiện nay
một số vùng đất của đất nước đang bị xâm chiếm thì chúng ta càng cần nêu cao tinh
thần dân tộc, tinh thần yêu nước để cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước.

7. Baì viết này kết hợp cả văn giới thiệu (thuyết minh) và văn nghị luận( chứng
minh) . Có hai nội dung cần thuyết minh là : về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm . Về nghị luận, HS cần làm sáng tỏ nội dung bao trùm lên đoạn trích Nước Đại
Việt ta là lòng tự hào dân tộc. Các ý chính cần nêu trong bài viết :
a)Tác giả đoạn trích này là Nguyễn Trãi (1380-1442) , người đã từng sát cánh cùng
Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống qquân Minh , người có công to lớn nhưng
saau này bị chết mộy cách oan uổng .Nguyễn Trãi là người anh hùng dân tộc ,nhà
văn hóa đồng thời là nhà văn ,nhà thơ lớn của dân tộc .
b)Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm : Nước Đại Việt ta được trích từ tác phẩm Bình
Ngô đại cáo. Bài đại cáo này do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo sau khi cuộc
kháng chiến chống quân minh vừa kết thúc (1428) để tuyên bố chién thắng.
c)Về nội dung nhận xét cần làm sáng tỏ ,HS cần nêu được các ý sau:
-Tự hào về dân tộc đã có một nền văn hiến , một truyền thống vă hóa tốt đẹp, lâu
đời.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 134 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
-Tự hào về đất nước có lãnh thổ riêng , phong tục tập quán riêng.
-Tự hào về một dân tộc có truyền thống lịch sử vẻ vang.
-Tự hào về một dân tộc luôn có người tài giỏi, thao lược.
-Tự hào về một đất nước có nhiều chiến công vang lừng đã được lưu danh sử sách.

TUẦN 27
ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1:
“Một trong những nội dung quan trọng của văn học trung đại Việt Nam là thể hiện
lòng yêu nước sâu sắc”. Dựa vào các tác phẩm, đoạn trích “Hịch tướng sĩ” “Chiếu dời
đô”, “Nước Đại Việt ta” của các tác giả Trần Quốc Tuấn, Lý Công Uẩn, Nguyễn Trãi,
em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Câu 2:
Được sáng tác ở ba thời điểm khác nhau, ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau và với ba
thể loại khác nhau, nhưng chúng ta vẫn thấy một sợi chỉ đỏ thống nhất, xuyên suốt cả
ba tác phẩm: Nam quốc sơn hà-Lý Thường Kiệt; Hịch tướng sĩ-Trần Quốc Tuấn;
Nước Đại Việt ta-Nguyễn Trãi.
Theo em sợi chỉ đỏ thống nhất, xuyên suốt cả ba tác phẩm đó là gì? Hãy làm
sáng tỏ?./.

Trong nền Văn học trung đại Việt Nam nổi bật lên những áng văn chính luận xuất
sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công
cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai
đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn
cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”
và “Nước Đại Việt ta”.

“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của
dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả thể hiện
ở khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới
thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một
tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu
tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con
cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị,
tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
Kế tục truyền thống và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm
của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết
phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu
đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi
noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển
dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn
ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 135 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Đau xót khi nghĩ về “số phận ngắn ngủi” của các triều đại Đinh, Lê trước, Lí Công
Uẩn cảm thấy việc dời đô là một việc hết sức cấp thiết “không thể không chuyển dời”.

Đại La là kinh đô cũ của Cao Vương với vẻ đẹp và thuận lợi muôn mặt bởi lẽ là
“trung tâm trời đất”, “đúng ngôi nam bắc đông tây”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, “tiện
hướng nhìn sông dựa núi”, “muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”… Đại La xứng
đáng là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đó là tầm nhìn chiến lược của Lí
Công Uẩn về Đại La, một cái nhìn toàn diện, sắc sảo và sáng suốt, mong muốn về một
đất nước ngày mai tươi đẹp, thái bình giàu mạnh, phát triển vững bền.

Mặc dù vậy, để thống nhất trên dưới chung lòng cùng một ý kiến, Lí Công Uẩn đã
bàn bạc với triều thần chỉ với một câu hỏi tu từ bỏ ngõ ở phần kết: “Các khanh thấy
thế nào?”. Lời lẽ ấy xuất phát từ tình cảm máu mủ ruột thịt dân tộc Đại Việt, từ tinh
thần yêu nước sâu nặng lớn lao, khao khát thoát ra ngoài vỏ bọc yếu kém so với các
cường quốc khác.

Với “Hịch tướng sĩ”, qua thời kì dựng nước của Lí Thái Tổ, tới thời đại giữ
nước này, mặc dù trong loạn lạc chiến tranh nhưng tinh thần yêu nước vẫn luôn được
nung nấu với quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước bấy giờ là
mong muốn đánh đuổi giặc ngoại xâm đang lăm le bờ cõi, là mong muốn nền hòa bình
độc lập tự do.

Để thức tỉnh lòng yêu nước các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nêu gương các trung
thần nghĩa sĩ đã xả thân cứu nước cứu chúa phương Bắc để kích thích tinh thần trung
dũng của các tì tướng nước nhà. Bằng cái nhìn sáng suốt và cảnh giác, Trần Quốc
Tuấn đã vạch trần bộ mặt tham lam, dã tâm tàn bạo của quân xâm lược qua tên sứ giặc
“đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân
dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Cậy thế nước lớn quân đông, chúng ra sức hoành hành, vừa
“bắt nạt” vừa “sỉ mắng” triều đình vua quan nhà Trần. Xúc phạm đến quốc thể và tự
tôn dân tộc Việt Nam là tự đào hố chôn mình bởi những hành động đó là nguyên nhân
để đốt cháy lòng căm thì và khinh bỉ đối với sứ giặc Mông –Nguyên, khơi gợi ý thức
dân tộc đối với tướng sĩ Đại Việt.

Bởi “ ta cùng các ngươi” “sinh phải thời loạn lạc” – “lớn gặp buổi gian nan” đã gắn
kết chủ soái và tướng sĩ trong một sứ mệnh thiêng liêng cao cả: chống giặc Mông –
Nguyên. Bộc lộ tất thảy nỗi lòng căm thù giặc sâu sắc cùng nỗi nhục mất nước, tác giả
đã khẳng định “không thế khoan nhượng”. Với lũ giặc Nguyên – Mông thì quyết
không thể dung tha! Vì “chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máy quân thù” nên “tới
bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa”. Trong cuộc chiến
này, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tinh thần vì tổ
quốc muôn ngàn kính yêu được Trần Quốc Tuấn nhắc nhở và nhấn mạnh ở chỗ quyết
tâm và hành động “ huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi
như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”… Ở bất kì khía cạnh nào, biểu hiện nào,

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 136 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
tác giả cũng biểu lộ một chí khí anh hùng, lẫm liệt và quyết chiến quyết thắng! Vì sự
sống còn và niềm vinh quang của dân tộc mà quyết tâm đánh thắng giặc Mông –
Nguyên để tông miếu muôn đời được tế lễ, để tiếng thơm lưu truyền hàng ngàn năm.

Bên cạnh đó, Trần Quốc Tuấn còn đưa ra những thú vui khoái lạc của các tướng sĩ
cần phê phán. Vừa chân tình mà nghiêm khăc, răn dạy binh sĩ phải nghe theo. Bởi khi
giặc ồ ạt kéo vào kinh đô, thì “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ
bạc không thể làm mưu lược nhà binh, chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng
hát hay không thể làm giặc điếc tai”… để đến nỗi “ta cùng các ngươi khi ấy sẽ bị bắt,
đau xót biết nhường nào”. Khi ấy, nước mất nhà tan, trăm dân trăm họ sống trong cảnh
lầm than cơ cực; không những thế “thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau,
tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu…”.

“Hịch tướng sĩ” là bài ca yêu nước và niềm tự hào dân tộc, Nó là áng văn chính
luận hùng hồn, sục sôi nhiệt huyết và tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng của
muôn vạn hùng binh. 
khác.

Đầu xuân năm 1428, hưởng nền thái bình cực thịnh trị, Nguyễn Trãi đã thay mặt
Lê Lợi tổng kết 10 năm kháng chiến luôn song hành với tinh thần yêu nước và tuyên
bố nước Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của “muôn thuở thái bình
vững chắc”.

Tự hào đất Việt vốn có nền văn hiến đã lâu, có lãnh thổ núi sông bờ cõi, có thuần
phong mĩ tục, có nền độc lập tự chủ riêng và trong mọi thời đại luôn có nhân tài hào
kiệt, Nguyễn Trãi viết bài cáo với niềm vui sướng hân hoan, tự hào vì “Việt Nam là
một dân tộc anh hùng”.Trước tiên, nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa mà tác giả đang nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc
để cứu dân cứu nước, vì độc lập dân tộc và vì tự do, hòa bình, hạnh phúc của nhân
dân. Qua đó ta mới biết nhân nghĩa là cái gốc của đạo lí, là nguồn gốc sức mạnh Việt
Nam. Khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền dân tộc Đại Việt, Nguyễn
Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xây dựng độc lập, chủ quyền dân tộc:

“Như nước Đại Việt ra từ trước


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 137 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Quan niệm của Nguyễn Trãi luôn từng bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc
hơn trong học thuyết quốc gia, dân tộc trung đại. Trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”, ý
thức về quốc gia dân tộc được xác định trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền nhưng
chỉ mới là chủ quyền của triều đình vua quan. Đến với “Nước Đại Việt ta”, Nguyễn
Trãi đã có thêm những yếu tố khác như văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử.
Nguyễn Trãi đã thể hiện một ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc sâu sắc khi nói về
chủ quyền độc lập dân tộc: “Như nước Đại Việt ta từ trước…” Nguyễn Trãi đã khẳng
định một cách rõ ràng: các triều đại của Đại Việt luôn sánh ngang hàng với các triều
đại phương Bắc, mỗi bên xưng đế một phương”.

“Nước Đại Việt ta” như là một bản tuyên ngôn độc lập. Để làm sáng tỏ nguyên lí nhân
nghĩa, Nguyễn Trãi cũng đã đưa ra các dẫn chứng:

“Lưu Cung tham công nên thất bại


Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”

Kẻ xâm lược là kẻ đi ngược lại nhân nghĩa. Nói về thất bại của kẻ thù là ca ngợi thắng
lợi hào hùng của dân tộc ta. Lời văn Nguyễn Trãi âm vang niềm tự hào dân tộc, sáng
ngời chính nghĩa bằng lối nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục, cách
viết sóng đôi, đề cao mọi thứ của nước Nam như là của tạo vật hiển nhiên, đời nào
cũng có, có từ trước và lúc nào cũng khác.

Cả ba tác phẩm “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta” đều là những
áng văn chương hào hùng của dân tộc. Mỗi tác phẩm đều được viết ở mỗi thời kì, mỗi
triều đại khác nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chung một lòng, một tinh
thần yêu nước. Trải qua nhiều năm văn hiến lịch sử, cách khám phá và thể hiện lòng
yêu nước ở từng thời kì khác nhau song đều chung một lòng mong muốn xây dựng đất
nước vững mạnh, độc lập tự chủ ỏ cả giai đoạn dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Xây dựng đất nước ở những buổi đầu còn dựa vào “ý trời”, dựa vào người cầm gươm
giáo đánh giặc nhưng ở thời kì thịnh trị, tự hào dân tộc, cái nhân nghĩa là giá trị lâu dài
của lòng yêu nước. Đó chính là cách khám phá và thể hiện của mỗi tác giả, thông qua
tác phẩm về tinh thần “nồng nàn yêu nước” của Đại Việt ta.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 138 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Tuần 28 ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN(Tiếp)

I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT


- Rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn nghị luận về một vấn đề văn học cho học sinh.
II// CÂU HỎI ÔN TẬP
1/ Dựa vào bài Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, hãy chứng minh rằng: Những người
lãnh đạo anh minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn luôn chăm lo cho hạnh phúc
của nhân dân.
2/ “Thơ Bác đầy trăng !” . Làm sáng tỏ lời bình trên của Hoài Thanh qua hai bài thơ
Nguyên tiêu và Vọng nguyệt của Hồ Chí Minh ?
III/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
Dàn ý chi tiết:
Lịch sử đã lưu danh tên tuổi bao bậc anh hùng hào kiệt. Nhưng có lẽ không ai
không biết đến hai nhà lãnh đạo, nhà quân sự tài ba là vua Lí Thái Tổ và Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn với hai tác phẩm nổi tiếng là Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ.
Qua hai tác phẩm này ta thấy được tấm lòng yêu nước, luôn chăm lo cho hạnh phúc
của muôn dân của họ.
Chiếu dời đô do Lí Công Uẩn soạn thảo nhằm thể hiện tư tưởng dời đô của ông.
Đằng sau những lập luận chặt chễ ấy là một tấm lòng luôn quan tâm, chăm lo đến
hạnh phúc của muôn dân. Điều đó được thể hiện ở mục đích dời đô. Nhà vua muốn
dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La là muốn đóng đô ở nơi trung tâm của đất trời, tính
kế muôn đời cho con cháu. Vì thế ông đã không quản ngại khó khăn, quyết định dời
đô, đảm đương trọng trách nặng nề để có lợi ích cho nhân dân. Đó chính là tấm lòng
yêu dân như con của vị vua anh minh này
Lo lắng cho cuộc sống của nhân dân Lí Công Uẩn đã đưa ra giải pháp là dời đô.
Bằng nhãn quang của một vị vua anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng ông đã quyết
định chọn thành Đại La làm kinh đô. Vì Đại La là vùng đất có đủ nhân tố thiết yếu để
trở thành kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. “ Ở vào nơi trung tâm của đất trời
lại được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây lại tiện nhìn sông
tựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi cảnh ngập lụt;
muôn vật cũng được thích nghi.
Tóm lại qua Chiếu dời đô, Lí Công Uẩn đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân
sâu sắc. và việc dời đô lớn lao ấy đã trở thành một trong những công việc đầu tiên đặt
nền móng cho sự nghiệp xây dựng đất nước, mở ra một trang sử mới của dân tộc.
Đến Hịch tướng sĩ lòng yêu nước thương dân đã trở thành lòng yêu thương binh sĩ.
Thấy giặc Mông Thát tràn sang TQT lo cho dân đến “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối,
ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Hịch tướng sĩ không chỉ khích lệ binh sĩ học

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 139 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
binh thư yếu lược mà còn thể hiện tấm lòng yêu thương dân sâu sắc, chăm lo cho hạnh
phúc vững bền của muôn dân.
Vì lo cho cuộc sống của nhân dân và binh sĩ mà ông đã vẽ ra hai viễn cảnh: một
là cực khổ trăm bề khi nước mất nhà tan; hai là khúc khải hoàn chiến thắng với cuộc
sống đầy đủ, vui vẻ hạnh phúc. Đất nước mà mất thì bổng lộc chẳng còn, vợ con khốn
khổ, phần một cha mẹ bị quật lên, gia thanh mang tiếng bại trận. Trần Quốc Tuấn
không chỉ lo về đời sống vật chất là còn lo cho cả danh dự của anh em binh sĩ. Ông đã
chỉ cho binh sĩ thấy cái nhục và cái vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết.
Không chỉ lo cho binh sĩ mà ông còn lo cho cả gia đình, vợ con, tổ tiên của họ. Chừng
ấy thôi đã đủ thấy tấm lòng của một vị chủ tướng yêu nước thương dân.
Tấm lòng của vị chủ tướng còn thể hiện trong cuộc sống hàng ngày: không có
mặc thì ta cho áo….vui cười. những cử chỉ bình thường ấy là bằng chứng cho tấm
lòng nhân ái của TQT. Hịch tướng sĩ là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao
đẹp nhất của thời đại chống quân Nguyên Mông, là minh chứng cho lòng yêu nước
thương binh sĩ của nhà quân sự tài ba TQT.

Tuy Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ được viết bởi hai tác giả khác nhau, hai thời đại
khác nhau nhưng lại có điểm tương đồng. Đó là sự quan tâm đến hạnh phúc của muôn
dân và đó cũng là nhân tố quan trọng nhất để hai tác phẩm này sống mãi cùng thời
gian. Qua đó ta cũng thấy được tấm lòng cao cả, lớn lao của những nhà lãnh đạo anh
minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với đất nước và nhân dân.

Câu 2
Đúng kiểu bài nghị luận chứng minh (1đ)
- Nội dung (6đ)
- Mở bài : Giới thiệu được trăng là một đề tài vô tận trong thơ Bác, Bác luôn
dành cho trăng một tình cảm đặc biệt.
Trăng là đề tai vô tận cho thơ ca từ cổ chí kim. Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy.
Bác dành cho trăng một tình cảm đặt biệt, Bác có thể ngắm trăng ở mọi lúc, mọi nơi
và những bài thơ Bác viết về trăng thì rất hay và đặc sắc. Chính vì thế mà nhà phê
bình Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Bác đầy trăng” . Đây là một ý kiến hoàn toàn
chính xác.
- Thân bài : Chứng minh qua hai bài thơ
+ Những bài thơ Bác viết về trăng đều rất hay và đặc sắc. Trong thơ Bác trăng
không phải là một vật vô tri mà là người bạn gần gũi với Bác. Trăng đến với Bác
trong nhiều hoàn cảnh, nhiều tình huống và Bác đón chào trăng trong nhiều trường
hợp. Ta có thể bắt gặp một khung cảnh đầy trăng do Bác tạo ra: Nguyên tiêu
( Phân tích bài thơ )
- Nhật kí trong tù cũng là một tác phẩm đặc sắc của Người. Ngắm trăng cũng là
một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ này.
- Phân tích bài thơ để thấy được tình yêu trăng của Bác.
- Kết bài : khẳng định lại nhận định của Hoài Thanh
- Đúng như Hoài Thanh đã nhận xét : Thơ Bác đầy trăng! Bác luôn dành cho
trăng một vị trí đặc biệt trong trái tim cũng như trong thơ của mình. Đọc thơ
Người ta cảm nhận được một tình yêu trăng tha thiết, mãnh liệt. Người có thể
quên đi tất cả những đau đớn về thể xác, những khó khăn gian khổ của cuộc
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 140 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
sống để giao hoà trọn vẹn với ánh trăng. Đó chính là sự hoà hợp giữa chất thép
và chất tình trong thơ Bác.

Ngày soạn: 15/03/2014


TUẦN 29

ÔN TẬP CẢM THỤ VĂN HỌC

Câu 1/
Nêu ý nghĩa tiếng chim tu hú mở đầu và kết thúc bài thơ “Khi con tu hú" của Tố
Hữu.
Câu 2
Cảm nhận của em về phần trích sau:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương...
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Trích Bình Ngô Đại cáo, Nguyễn Trãi)
Câu 3
Trình bày cảm nhận của em về tình yêu cuộc sống, niềm khát khao tự do cháy bỏng
của người chiến sĩ cách mạng qua bài thơ " Khi con tu hú " bằng một bài viết ngắn.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Ý nghĩa của tiếng chim tu hú ở đầu và cuối bài thơ là:
+ Ở đầu:
- Tiếng chim gọi bầy, gọi bạn, âm thanh trong sáng
- Tiếng chim báo hiệu cảnh mùa hè đẹp đẽ, tưng bừng, tràn đầy nhựa sống, khơi thức
khát vọng tự do.
+ Lần cuối:
- Tiếng kêu khắc khoải, giục giã, thiêu đốt.
- Tiếng kêu khiến nhà thơ cảm thấy bực bội, khổ đau, day dứt.
- Thôi thúc người chiến sĩ đạp tan cái xà lim chật chội, trở về với cuộc sống tự do
bên ngoài.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 141 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng.
* Hình thức:
- Đảm bảo hình thức đoạn văn
- Thấy rõ được sự khác biệt giữa 2 lần xuất hiện âm thanh tiếng chim tu hú

2/ Yêu cầu:
- Đảm bảo hình thức bài văn ngắn
- Lập luận tốt, không mắc lỗi chính tả
Luận điểm 1
- Nguyên lí nhân nghĩa : 2 câu đầu
- Theo Nguyễn Trãi: cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa là yên dân, trừ bạo.
+ Yên dân: là làm cho dân được yên ổn, hạnh phúc.
+ Trừ bạo: là làm cho dân được yên ổn, hạnh phúc.
+ Trong hoàn cảnh bấy giờ dân Đại Việt đang bị xâm lược, thế lực tàn bạo chính là
giặc Minh
+ Với Nguyễn Trãi nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất
nước
- Yêu nước không chỉ là quan hệ giữa người với người ( Phạm trù Nho Giáo) mà còn
là quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
-> Nguyễn Trãi đã cho thấy điểm mới trong tư tưởng nhân nghĩa so với Nho Giáo.
Đây là một tư tưởng tiến bộ có trong mọi thời đại.
* Luận điểm 2:
- Chân lí về sự tồn tại độc lập dân tộc: 8 câu sau
- Nguyễn Trãi đưa ra 5 yếu tố cơ bản để xác định độc lập chủ quyền dân tộc:
+ Nền văn hiến lâu đời
+ Lãnh thổ
+ Phong tục tập quán
+ Lịch sử
+ Chế độ chủ quyền riêng
- Dây cũng là sự phát triển của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo so với Lý
Thường Kiệt trong Sông núi nước Nam
- Nguyễn Trãi đã có ý thức sâu sắc rằng: văn hiến, truyền thống lịch sử là yếu tố căn
bản, cốt lõi để xác định dân tộc. Đây chính là lí do tại sao quân phương Bắc đã bao đời
tìm cách muốn đồng hóa, phủ định nền văn hiến nước Nam.
- Nguyên lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một thực tế, luôn tồn tại sức mạnh của
chân lí khách quan. Đại Việt luôn có chủ quyền ngang hàng với phương Bắc

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 142 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 29
ÔN TẬP VĂN BẢN THUẾ MÁU- NGUYỄN ÁI QUỐC

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


1/ Em hiểu như thế nào về nhan đề Thuế máu?
2/ Thái độ của bọn thực dân đối với người dân bản xứ thay đổi như thế nào trước và
sau chiến tranh?
3/ Phân tích số phận thảm thương của người dân nước thuộc địa trong các cuộc chiến
tranh phi nghĩa qua sự miêu tả của tác giả?
4/ Chế độ lính tình nguyện của chính quyền thực dân được chúng tiến hành như thế
nào?
5/ Trong phần kết quả của sự hi sinh, người dân thuộc địa mất gì và được gì? Em có
nhận xét gì về bộ mặt thật của chính quyền thực dân đối với họ khi chiến tranh kết
thúc?
6/ Viết đoạn văn theo cách diễn dịch nêu cảm nhận của em về thái độ của tác giả đối
chính quyền thực dân trong tác phẩm này?

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 143 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Nhan đề “Thuế máu” có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc và đầy sức ám ảnh. Thuế máu là
thứ thuế bất công tàn ác nhất trong nhiều thứ thuế mà người dân nước thuộc địa phải
gánh chịu. Thuế máu là đóng, nộp bằng xương máu, tính mạng con người. Tác giả đã
dùng cái tên Thuế máu để nói lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, đồng
thời bày tỏ lòng căm phẫn thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tởm của chính quyền
thực dân. Nhan đề ấy đã gợi lên sự đau thương căm thù, tố cáo tính vô nhân đạo của
chủ nghĩa thực dân. Chúng đã lợi dụng xương máu, tính mạng cả hàng chục triệu
người dân lao động nghèo khổ ở các nước thuộc địa (bản xứ ) Á – Phi trong cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 -1918)

2/ Thái độ của chính quyền thực dân đối với người dân bản xứ thay đổi đột ngột:
- Trước chiến tranh:
+ Gọi người dân bản xứ là An nam mít bẩn thỉu, tên da đen bẩn thỉu (mọi đen ) chỉ
biết kéo xe tay, và biết ăn đòn …
=> Họ bị xem là giống người hạ đẳng, ngu si, bẩn thỉu, chỉ đáng làm tay sai, đầy tớ,
thậm chí không được coi là người mà còn như là súc vật.
=> Cách gọi đó thể hiện sự coi thường, khinh bỉ, lăng nhục của bọn thực dân với
người dân bản xứ. Từ người bản xứ được đặt trong dấu ngoặc kép cũng thể hiện sự
khinh miệt đó, Tác giả dùng lại từ của thực dân nhằm mục đích châm biếm trào
phúng.
- Chiến tranh bùng nổ :
+ Dân bản xứ biến thành những đứa con yêu, người bạn hiền.
+ Phong cho danh hiệu tối cao là: chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do.
- Không phải nhẫu nhiên các nhà cầm quyền thực dân đột ngột quay ngoắt 180 độ,
biến những con lừa, con bò, những tên da đen bẩn thỉu thành những đứa con yêu,
người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí. Thay đổi như vậy để lợi dụng, bóc lột học mà
thôi.
=> Thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi để biến họ thành vật hi sinh cho quyền lợi của chúng, bản
chất tàn bạo, độc ác của chủ nghĩa thực dân
=> Giọng điệu trào phúng, châm biếm mỉa mai nhằm tố cáo bản chất tàn bạo của thực
dân.

3/ Họ phải xa lìa vợ con, rời bỏ ruộng vườn, vượt đại dương, phơi thây trên các bãi
chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu …
- Ở hậu phương: người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng… khạc ra từng
miếng phổi.
- Bảy mươi vạn người đặt chân lên đất Pháp thì có tám vạn người không trông thấy
mặt trời quê hương.
=> Dẫn chứng hùng hồn, chính xác nhằm lật mặt lạ giả nhân giả nghĩa của nhà
cầm quyền, tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, gây lên lòng căm thù, phẫn lộ
trong các dân tộc thuộc địa.

4 / Các thủ đoạn, mánh khoé để bắt lính


+ Lùng ráp vây bẳt trên toàn cõi Đông Dương, nhốt vào trại lính với đủ các thứ tên:
lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp ….
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 144 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Vật liệu biết nói
=> Có ý nghĩa trào phúng mỉa mai sâu sắc. Bọn thực dân coi người dân bản xứ chỉ
như một thứ đồ vật biết nói, như một thứ hàng đặc biệt có thể sinh lợi mà thôi.
- Bắt người khoẻ mạnh, nghèo khổ, bắt con nhà giàu nhốt lại để cho họ chọn giữa hai
con đường : đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra.
=> Lợi dụng việc bắt lính để kiếm tiền, chúng sẵn sàng trói xích, nhốt nguời ta như
súc vật sẵn sàng đàn áp nếu có ý chống đối.
- Quan toàn quyền trịnh trọng tuyên bố : Các bạn tấp nập đi đầu quân…
=> Bản chất lừa bịp, trơ trẽn.

5/ Người dân thuộc địa không được gì mà chỉ chịu nhiều mất mát, đau thương:
- Người An nan mít trở lại giống người bẩn thỉu.
- Ghi nhớ công ơn của người lính An Nam bằng cách: lột hết của cải của họ, giao cho
bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập, cho họ ăn như cho lợn ăn, xếp họ như xếp lợn
dưới hầm tàu ẩm ướt …
- Bỉ ổi hơn là chúng cấp thẻ môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp
và vợ con tử sĩ người pháp.
=> Đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi tham.

=> Người dân bản xứ không được lợi ích gì bởi “chế độ bản xứ không hề biết đến
chính nghĩa và công lí ”.
=> Tố cáo, phơi bày bộ mặt tàn nhẫn, độc ác, giả nhân giả nghĩa của bọn thực dân
xoay quanh việc bóc lột thuế máu . Thấy được số phận thảm thương của người
dân thuộc địa khi bị bóc lột cả xương máu và tính mạng .

6/ Sau khi học xong văn bản Thuế máu chúng ta thấy được thái độ căm phẫn cao độ
của Bác đối với chính quyền thực dân và niềm cảm thương chân thành đối với nhân
dân. Bằng giọng điệu trào phúng đặc sắc, người đã tố cáo tội ác ghê tởm của chính
quyền thực dân trong việc lợi dụng xương máu của người dân nước thuộc địa trong
các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Người đã vạch trần bộ mặt lửa bịp, giả nhân, giả
nghĩa của chúng trong việc đối xử với người dân thuộc địa trước và khi chiến tranh
xảy ra. Trước chiến tranh chúng chỉ coi những người dân bản xứ là những tên da đen
bẩn thỉu, những tên An nam mít bẩn thỉu, chỉ đáng để kéo xe tay và ăn đòn của các
quan cai trị nhà ta. Thế mà khi chiến tranh bùng nổ họ lập tức trở thành những đứa
con yêu, những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ tự do và công lí. Và để trả giả cho cái
danh hiệu cao quý đó họ đã phải xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của những loài
thủy quái, phải đi phơi thây trên những bãi xa mạc, hoặc bỏ xác tại những vùng hoang
vu thơ mộng... Tiếp đến Bác còn nên án, tố cáo chế độ lính tình nguyện của thực dân
Pháp. Chúng đã tiến hành lùng ráp, vây bắt lính trên toàn cõi Đông Dương, chúng lợi
dụng chiến tranh để xoay xở kiếm tiền, sẵn sàng đối xử tàn bạo đối với những người
chống đối. Dã man nhất, tàn bạo nhất là cách đối xử của chúng đối với những dân
thuộc địa khi chiến tranh kết thúc. Chúng lột tất cả của cải của họ và đối xử với họ
như đối với xúc vật. Độc ác ghê tởm hơn là chúng đã cấp thẻ môn bài buôn bán thuốc
phiện cho thương binh và vợ con tử sĩ Pháp để đầu độc cả một dân tộc, vơ vét cho đầy
túi tham.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 145 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Câu 3 ( 12 điểm) Tập làm văn
Văn bản ” Thuế máu” là một thứ thuế dã man nhất, tàn bạo nhất của chính
quyền thực dân đối với các nước thuộc địa, đồng thời thể hiện tấm lòng của Nguyễn
Ái Quốc.
Dựa vào sự hiểu biết của em về văn bản ấy, hãy làm sỏng tỏ nhận định trên.

Yêu cầu: Học sinh cần xác định về thể loại và phương thức làm bài đúng.
- Thể loại chứng minh.
- Nội dung:
a. Làm sỏng tỏ” thuế máu” là thứ thuế dã man, tàn bạo của chính quyền thực
dân.
Dựa vào ba phần của văn bản:
+ Thủ đoạn phỉnh nịnh của bọn thực dân để mộ lính ở các nước thuộc địa
( trước và khi có chiến tranh).
+ Thủ đoạn dùng vũ lực để bắt lính.
+ Sự bạc đói, tráo trở của bọn thực dân sau khi kết thúc chiến tranh.
b. Tấm lòng của tác gỉa Nguyễn Ái Quốc:
+ Vạch trần sự thực với tấm lòng của một người yêu nước.
+ Lời văn có vẻ khách quan nhưng vẫn chứa sự căm hờn, sự thương cảm.

TUẦN 30 ÔN TẬP CẢM THỤ VĂN HỌC,


RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


CÂU 1/ Phân tích giá trị biểu đạt của các từ : già, xưa, cũ trong những câu thơ sau :
– Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
– Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
(Trích Ông đồ - Vũ Đình Liên)
Câu 2
Cho đoạn văn: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép
cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 146 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
(Trích Lão Hạc, Nam Cao)
a. Tìm câu ghép trong đoạn văn trên. Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong
câu đó?
b. Chỉ rõ từ tượng hình, từ tượng thanh và phân tích giá trị biểu hiện (tác dụng) của
các từ tượng hình, tượng thanh trong đoạn văn đó?
Câu 3
Qua các văn bản: Trong lòng mẹ, Lão Hạc, Cô bé bán diêm, Chiếc lá cuối cùng đã
gợi lên cho em điều gì về sự cảm thông, tình thương yêu với những con người nghèo khổ,
bất hạnh? Hãy trình bày điều đó bằng một bài viết khoảng 10 đến 15 dòng.
Câu 4
Viết một đoạn văn (6-8 câu) nêu suy nghĩ của em về phong thái ung dung và tinh thần
lạc quan của Bác Hồ (trong văn bản “Ngắm trăng” – Hồ Chí Minh) có sử dụng câu
cảm thán. Gạch chân câu cảm thán đó (5,5 điểm).
Câu 5: (7 điểm)

Bằng những hiểu biết về các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn lớp
8, em hãy chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi tình yêu thương giữa
người với người.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
_ Các từ già, xưa,cũ trong các câu thơ đã cho cùng một trường từ vựng,cùng chỉ một
đối tượng : ông đồ (0,25điểm).
_ Già – cao tuổi , vẫn sống – đang tồn tại.
Xưa- đã khuất - thời quá khứ trái nghĩa với nay.
Cũ - gần nghĩa với xưa, đối lập vối mới- hiện tại. (0,25điểm)
_ Ý nghĩa của các cách biểu đạt đó : Qua những từ này khiến cho người đọc cảm
nhận được sự vô thường, biến đổi, nỗi ngậm ngùi đầy thương cảm trước một lớp
người đang tàn tạ : ông đồ ( 0,5 điểm)
 2
a/ - Câu ghép: Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu
như con nít. (0,5 điểm)
- Quan hệ ý nghĩa giữa 2 vế câu: quan hệ bổ sung hoặc đồng thời. (0,5 điểm)
b/ - Từ tượng hình: móm mém (0,25 điểm)
- Từ tượng thanh: hu hu (0,25 điểm)
- Giá trị biểu hiện (tác dụng): Gợi tả hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động có giá trị
biểu cảm cao. (0,5 điểm)
Câu 3:
Qua những nhân vật người vợ, người mẹ trong các tác phẩm Tôi đi học, Trong lòng
mẹ, Tức nước vỡ bờ chúng ta thấy sáng ngời những phẩm chất cao quý của người mẹ -
người phụ nữ Việt Nam. Đó là tình cảm thắm thiết, sâu nặng đối với chồng con dù
trong những hoàn cảnh đau đớn tủi cực, gay cấn nhất. Họ không chỉ bộc lộ bản chất
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 147 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
dịu hiền, đảm đang mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, đức hy sinh quên mình chống
lại bọn bạo tàn để bảo vệ gia đình.
4/
Bài thơ Ngắm trăng được Bác viết trong hoàn cảnh đặc biệt: trong ngục tù, mọi thứ
đều thiếu thốn, bị đọa đầy cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Cảnh tù ngục khắc nghiệt ấy không làm Bác vướng bận, tâm hồn vẫn tự do, ung
dung, thèm được tận hưởng ánh trăng. Với tư thế “thân thể ở trong lao, tinh thần ở
ngoài lao”, người chiến sĩ cách mạng đã thả tâm hồn vượt ra ngoài cửa sắt nhà tù để
ngắm trăng sáng, để giao hòa với trăng.
- Đó là một cuộc vượt ngục về tinh thần, cho thấy sức mạnh kì diệu của người chiến sĩ
cách mạng. Vượt trên xiềng xích, đói rét... của chế độ nhà tù, người chiến sĩ cách
mạng vẫn để tâm hồn mình bay bổng tìm đến với vầng trăng tri âm.
- Bài thơ Ngắm trăng cho ta thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách
mạng vĩ đại, một biểu hiện của tinh thần thép, là sự tự do nội tại, phong thái ung dung,
vượt hẳn lên sự nặng nề, tàn bạo của nhà tù.
- Đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và gạch chân.
5/ Dàn ý tham khảo :
a) Mở bài :
_ Có thể nêu mục đích của văn chương ( văn chương hướng người đọc đến với sự
hiểu biết và tình yêu thương)
_ Giới thiệu vấn đề cần giải quyết.
b)Thân bài : Tình yêu thương giữa người với người thể hiện qua nhiều mối quan
hệ xã hội .
_ Tình cảm xóm giềng :
+ Bà lão láng giềng với vợ chồng chị Dậu ( Tức nước vỡ bờ- Ngô Tất Tố).
+ Ông giáo với lão Hạc( Lão Hạc – Nam Cao).
_ Tình cảm gia đình :
+ Tình cảm vợ chồng : Chị Dậu ân cần chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ
chồng (Tức nước vỡ bờ - Ngô Tất Tố).
+ Tình cảm cha mẹ và con cái :
• Người mẹ âu yếm đưa con đến trường ( Tôi đi học- Thanh Tịnh)  ; Lão Hạc
thương con (Lão Hạc- Nam Cao).
• Con trai lão Hạc thương cha ( Lão Hạc- Nam Cao) ; bé Hồng thông cảm, bênh
vực, bảo vệ mẹ (Trong lòng mẹ- Nguyên Hồng).
c)Kết bài : Nêu tác dụng của văn chương ( khơi dậy tình cảm nhân ái cho con
người để con người sống tốt đẹp hơn).

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 148 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 31 ÔN TẬP TỔNG HỢP CUỐI HỌC KÌ

Câu 1: (1điểm)
a/ “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ
căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài
nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
(Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn)
Đoạn hịch trên thể hiện tình cảm, thái độ gì của tác giả?

b/ Chép hai câu thơ miêu tả hình ảnh người dân chài trong bài thơ Quê hương của Tế
Hanh.

Câu 2: (1điểm)
a/ Cho biết câu sau đây thực hiện hành động nói gì?
“ Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư,
con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tuỳ đâu tiện đấy mà đi học.”
( Bàn về phép học)
b/ Việc lựa chọn trật tự từ (in đậm) trong ví dụ sau nhằm mục đích gì?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 149 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
“Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…”
(Hồ Chí Minh)
Câu 3: (3điểm)
Viết một đoạn văn ngắn (từ 8-10 câu) trình bày cảm nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ
trong hai câu thơ sau:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
(Hồ Chí Minh- Tức cảnh Pác Bó)
Câu 4: (5 điểm)
Nói lời hay, làm việc tốt, ứng xử đẹp,… là những nét đẹp học đường cần có ở học sinh
hiện nay.
Em suy nghĩ gì về vấn đề trên?
HƯỚNG DẪN CHẤM KIỂM TRA HỌC KÌ II NĂM HỌC 2013 – 2014
MÔN NGỮ VĂN LỚP 8
Câu 1: ( 1 điểm)
a/ Đoạn hịch thể hiện tình yêu nước và lòng căm thù giặc của tác giả. (đúng mỗi ý 0,25
điểm)
b/ Chép hai câu thơ miêu tả hình ảnh người dân chài trong bài thơ Quê hương của Tế
Hanh.
- Học sinh chép đúng hai câu thơ (0,5 điểm)
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
+ Sai, thiếu 2 từ trừ 0,25điểm.
+ Sai 2 lỗi chính tả trừ 0,25điểm.
+ Không ghi tên tác giả, tác phẩm trừ 0,25điểm.
+ Sai trật tự dòng thơ trừ 0,25điểm.
Câu 2:
a/ Câu thực hiện hành động nói: đề nghị (0,5 điểm)
b/ Việc lựa chọn trật tự từ nhằm mục đích thể hiện trình tự thời gian của các sự kiện
lịch sử (0,5 điểm).

Câu 3: ( 3 điểm)
- Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu: nêu được cảm nghĩ về hình ảnh người
chiến sĩ cách mạng qua hai câu thơ. (1, 5 điểm)
- Đoạn văn đúng số câu (0,5 điểm). Nhiều hơn 1 câu không trừ điểm. Quá 2 câu trở
lên trừ 0,25 điểm. Thiếu 1 câu trừ 0,25điểm.
- Bố cục rõ ràng. Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, văn có cảm xúc (1 điểm)
- 2 lỗi chính tả, ngữ pháp (trừ 0,25điểm).

Câu 4: (5 điểm)
a.Yêu cầu về kĩ năng
- Nắm phương pháp làm bài nghị luận xã hội.
- Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.
- Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận (giải thích, chứng minh, bình
luận… ).
-Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Không mắc lỗi diễn đạt; không
sai lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp; trình bày bài rõ ràng.
b. Yêu cầu về kiến thức
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 150 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
- Giải thích: Thế nào là nói lời hay, làm việc tốt, ứng xử đẹp? Nêu biểu hiện
- Nguyên nhân: Tại sao nói lời hay, làm việc tốt, ứng xử đẹp là nét đẹp học đường cần có
ở học sinh hiện nay?
- Phê phán: Những cách xử sự thiếu tế nhị, những việc làm thiếu suy nghĩ...
Lưu ý: học sinh cần có dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ.

-Nhận thức và hành động của bản thân.


c. Biểu điểm:

Tuần 32. ÔN TẬP MỞ RỘNG NÂNG CAO


I/ CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1
Ngoài việc dùng để hỏi, câu nghi vấn còn có thể được dùng với những mục đích gì?
Cho ví dụ minh hoạ.
Câu 2
Trong bài thơ "Nhớ rừng" đoạn thơ thứ ba có thể coi là bộ tranh tứ bình với chủ đề:
chúa sơn lâm ngự trị giang sơn hùng vĩ của mình.
..."Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 151 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
( "Nhớ rừng"- Thế Lữ)
Em hãy chỉ ra vẻ đẹp đó.
Câu 3
“ Một số tác phẩm thơ văn cách mạng đã khắc hoạ hình tượng người chí sĩ yêu
nước đầu thế kỷ XX, dù trong hoàn cảnh tù đầy gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có tư thế
hiên ngang, khí phách hào hùng và ý chí kiên định”. Dựa vào các tác phẩm “Cảm tác
vào nhà ngục Quảng Đông” của Phan Bội Châu và tác phẩm “ Đập đá ở Côn Lôn”
của Phan Châu Trinh , em hãy làm sáng tỏ điều đó.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
- Trong nhiều trường hợp, câu nghi vấn không dùng để hỏi mà dùng để cầu khiến,
khẳng định, phủ định, đe doạ, bộc lộ tình cảm, cảm xúc….và không yêu cầu người đối
thoại trả lời. (0,25đ).
- VD: (1,25đ).
+ Dùng với mục đích cầu khiến: Bạn có thể kể cho tôi nghe bộ phim vừa chiếu trên
VTT1 được không?
+ Dùng với mục đích khẳng định: Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình
thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở
đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực lạ
lùng của văn chương hay sao?
+ Dùng với mục đích phủ định: Vâng, thử tưởng tượng một quả bong bóng không bao
giờ vỡ, không thể bay mất, nó cứ còn mãi một vật lì lợm…. Ôi, nếu thế còn đâu là quả
bóng bay?
+ Dùng với mục đích đe doạ: Cai lệ không để cho chị Dậu nói hết câu, trợn hai mắt,
hắn quát: - Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu thuế của nhà nước mà dám
mở mồm xin khất!.
+ Dùng với mục đích bộc lộ tình cảm cảm xúc: Những người muôn năm cũ. Hồn ở
đâu bây giờ?
Câu 3
Thơ văn yêu nước đầu thế kỉ XX sáng ngời tên tuổi của hai nhà ái quốc lớn: Phan
Bội Châu và Phan Châu Trinh. Tuy rằng con đường hoạt động cách mạng của mỗi
người là khác nhau nhưng lại giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước, khí phách hiên
ngang, ý chí kiên đinh. Vì vậy có ý kiến cho rằng:“ Một số tác phẩm thơ văn cách
mạng đã khắc hoạ hình tượng người chí sĩ yêu nước đầu thế kỷ XX, dù trong hoàn
cảnh tù đầy gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn có tư thế hiên ngang, khí phách hào hùng
và ý chí kiên định”. Điều đó được thể hiện rõ qua hai tác phẩm: “Cảm tác vào nhà
ngục Quảng Đông” của Phan Bội Châu và “ Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu
Trinh
Cả hai bài thơ đều được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt: sáng tác trong nhà
tù, đều được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, súc tích về ý tứ sang sảng
về hơi văn, thể hiện được tư thế của người tù cách mạng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 152 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
- Đó là những con người thân bị tù đầy mà tư thế vẫn hiên ngang, lẫm liệt, khí
phách thật hào hùng.
+ Với Phan Bội Châu thì nhà tù chỉ là chốn nghỉ chân của bậc phong lưu, hào kiệt trên
đường sự nghiệp.
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
Vào tù mà vẫn phong thái đường hoàng, ung dung như chủ động nghỉ chân. Vào tù mà
vẫn hào kiêt, phong lưu , hoàn cảnh ngục tù không làm thay đổi chất hào kiệt, phong
lưu vốn là bản chất của con người họ.
+ Với Phan Châu Trinh thì người tù như biến thành vị thần vũ trụ, còn lao dịch khổ sai
thì biến thành cuộc chinh phục dũng mãnh.
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Cả hai đều khắc họa phong thái ung dung của những người có chí dời non lấp biển, coi
nhà tù và những trò hành hạ của kẻ thù chỉ là những thử thách không đáng quan tâm.
Ở Phan Bội Châu là hình ảnh trang hào kiệt, phong lưu còn PCT lại nhấn mạnh vào
tầm vóc của kẻ làm trai sừng sững giữa đất trời, núi non.

- Họ là những con người coi thường hiểm nguy.


Cái hà khắc của nhà tù thực dân có thể thấy rõ trong bài thơ của PCT khi ông diễn tả
trực tiếp cuộc sống của người tù khổ sai ở nơi Côn Đảo nổi tiếng dã man trong việc
hành hạ thể xác và tinh thần con người, khiến cho biết bao người vĩnh viễn không thể
trở về. Nhưng chính tại nơi đây nhà tù đã trở thành trường học rèn luyện ý chí cho biết
bao người con ưu tú:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Hình ảnh vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Thực dân Pháp bắt người tù đập
đá trong điều kiện ăn uống kham khổ, thiếu thốn để giết dần giết mòn họ. Nhưng ở
đây ta không thấy hình ảnh người tù tiều tuỵ vì lao động khổ sai mà ta thấy một người
anh hùng oai phong lẫm liệt có sức mạnh phi thường làm rung chuyển cả đất trời.
Trong khi đó PBC lại nói đến cảnh đi tù ở xứ lạ
Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội với năm châu
Nhà thơ đã khái quát quãng đời bôn ba của mình ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Nhưng đây không phải là lời than thân, bởi một con người đã từng coi thường nguy
hiểm đến thế, ngay từ lúc dấn thân vào con đường cách mạng đã nguyện gắn bó cuộc
đời mình với sự tồn vong của dân tộc. Cả hai con người vĩ đại ấy không hề run sợ cho
bản thân mà chỉ bày tỏ nỗi đau xót cho tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.

- Đó còn là những con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn kiên định ý chí, vượt lên
thử thách lao tù, tràn đầy tinh thần lạc quan:
Nếu như niềm tin ấy ở PCT là :
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắc son
Thì PBC là quyết tâm hành động dứt khoát hơn:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 153 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Quyết tâm của nhà chí sĩ được nói lên thành hành động. Rơi vào hoàn cảnh ngục tù
ông vẫn không quên lí tưởng kinh bang tế thế (trị nước cứu đời) vẫn có thể cười trước
cuộc oán thù (thủ đoạn của kẻ thù ). Các cặp từ đối nhau ( bủa tay - mở miệng, bồ kinh
tế - cuộc oán thù ) theo lối nói khoa trương khiến ta cảm nhận được tầm vóc lớn lao
kì vĩ, khí phách hiên ngang bất khuất của người tù yêu nước.

- Khát vọng tự do, ý chí chiến đấu bền bỉ kiên cường là phẩm chất tiêu biểu của
những nhà lãnh tụ cách mạng. Tuy mỗi nhà thơ có cách thể hiện khác nhau nhưng đều
gặp gỡ ở một tinh thần can đảm. Với PBC là
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nghu hiểm sợ gì đâu
Còn PCT là :
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con
Công việc cách mạng là sự nghiệp bền lâu gắn với trọn đời người, là sự nghiệp vá trời
có quyền năng ngang tạo hóa. Đó là tình yêu nước nhiệt huyết kết thành tâm niệm để
vượt lên mọi hoàn cảnh tù đầy. Không hẹn mà gặp, bởi suy nghĩ, cảm xúc của hai nhà
thơ cũng là tinh thần kiên cường của biến bao chiến sĩ yêu nước cách mạng lúc bấy
giờ.
Cả hai bài thơ đều gắn với quãng đời hoạt động cách mạng hăm hở nhiệt huyết
nhất của hai nhà yêu nước. Tuy rằng sự nghiệp cứu nước của hai cụ đều dang dở
nhưng tình yêu nước và ngọn lửa niềm tin vào tiền đồ dân tộc của hai cụ vẫn lan tỏa
hơi nóng nhiệt huyết sang thế hệ kế tục để hoàn thành tâm nguyện của những con
người đáng kính ấy. Đọc thơ của các cụ ta nhận ra sức mạnh bất khuất của dân tộc
Việt Nam tiềm ẩn trong từng ý từng lời thơ

Tuần 31. ÔN TẬP THEO DẠNG ĐỀ THI HỌC KÌ

Phần 2
Cho đoạn văn sau:
" Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù . Dẫu cho trăm
thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng" .( Hịch
tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn)

Câu 1( 1đ) Đoạn văn trên gồm mấy câu? Mỗi câu được trình bày theo mục đích nói
nào?
Câu 2: Viết đoạn văn(5-7 câu) trình bày sự cảm nhận của em về đoạn văn trên ?
PHẦN II: (7đ)
Cho câu thơ sau:
Như nước Đại Việt ta từ trước

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 154 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…
Câu 1(2đ) Chép những câu thơ tiếp theo để hoàn thiện bài thơ? Những câu thơ đó
được trích trong bài thơ nào? Tác giả là ai? Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ?
Câu 2(1đ) Bài thơ trên được sáng tác theo thể loại nào? Em hiểu gì về thể loại đó?
Câu 3: (4đ)
Trên cơ sở so sánh với bài thơ “Sông núi nước Nam”. Em hãy chỉ ra sự tiếp nối
và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích “Nước Đại Việt ta”

ĐỀ BÀI 2
Câu 1: (2đ)
a) Em hãy nêu nét chính về tác giả Lí Công Uẩn?
b) Em hãy nêu những nét chính về nghệ thuật của văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn?
Câu 2: Văn bản “ Đi bộ ngao du ” của Ru-xô có ý nghĩa gì? (1đ)
Câu 3:(2đ)
a) Hành động nói là gì?.
b) Cho hai ví dụ về hành động nói được thực hiện theo hai cách trực tiếp và gián tiếp.
Câu 4:(5đ)
“Sự bổ ích của những chuyến tham quan du lịch của học sinh”. Em hãy làm sáng tỏ vấn đề
trên,

ĐÁP ÁN
Câu 1 (2đ)
a) - Lí Công Uẩn(974-1028) tức vua Lí Thái Tổ.
- Quê Bắc Ninh Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn.
- Ông là người sáng lập ra vương triều nhà Lí,lấy niên hiệu là Thuận Thiên. (1đ)
b) - Gồm có ba phần chặt chẽ.
- Giọng văn trang trọng, thể hiện suy nghĩ, tình cảm sâu sắc của tác giả về một vấn đề hết
sức quan trọng của đất nước.
- Lựa chọn ngôn ngữ có tính chất tâm tình, đối thoại:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 155 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
+ Là mệnh lệnh nhưng “Chiếu dời đô” không sử dụng hình thức mệnh lệnh.
+ câu hỏi cuối cùng làm cho quyết định của nhà vua được người đọc người nghe tiếp nhận,
suy nghĩ và hành động một cách tự nguyện.
Câu 2: (1đ)
Từ những điều mà “đi bộ ngao du” đem lại như tri thức, sức khỏe, cảm giác thoải mái, nhà
văn thể hiện tinh thần tự do dân chủ- tư tưởng tiến bộ của thời đại.
Câu 3: ( 3 đ)
a) Hành động nói là hành động được thực hiện bằng lời nói nhằm một mục đích nhất định.
(1đ)
b) Ví dụ: Tớ muốn bạn mua cho tớ quyển sách . (HĐ nói gián tiếp) ( 1đ).
Bạn làm bài tập xong chưa? (HĐ nói trực tiếp) ( 1đ).
* Lưu ý: Tùy theo cách viết câu của học sinh xác định đúng yêu cầu câu hỏi là được.
Câu 4 (5đ)
Yêu cầu: Về hình thức:
- Viết đúng kiểu bài nghị luận (có kết hợp yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm)
- Hành văn trôi chảy.
- Bố cục đầy đủ.
- Hạn chế mắc lỗi diễn đạt.
Về nội dung:
* Mở bài( 1đ) Nêu được lợi ích của việc tham quan.
* Thân bài( 3đ) Nêu các lợi ích cụ thể:
- Về thể chất: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta thêm khỏe mạnh.
- Về tình cảm: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta :
+ Tìm thêm được nhiều niềm vui cho bản thân mình;
+có thêm tình yêu đối với thiên nhiên, với quê hương đất nước
+Về kiến thức: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta:
+ Hiểu cụ thể hơn sau những điều được học trong trường lớp qua những điều mắt thấy tai
nghe;
+ Đưa lại nhiều bài học có thể còn chua có trong sách vở của nhà trường.

* Kết bài: ( 1đ) Khẳng định tác dụng của việc tham quan.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 156 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 31 ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN

I/ CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Viết một đoạn văn nghị luận ( từ 10 -12 dòng )có kết hợp với yếu tố biểu cảm để
làm sáng tỏ luận điểm : “Đi bộ có tác dụng tốt cho sức khoẻ và tinh thần của con
người” ?
2 Viết bài văn nghị luận làm sáng tỏ nhận định sau : “Qua văn bản “Chiếu dời đô” của
Lí Công Uẩn, đoạn trích “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi ta thấy được lòng yêu
nước, tự hào dân tộc của nhân dân ta trong quá khứ” ?
II. TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
- Nêu được những luận cứ làm sáng tỏ được tác dụng của Đi bộ với sức khoẻ và tinh
thần của con người.
Câu 2
Mở bài : Giới thiệu được hai văn bản và lời nhận định (1đ)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 157 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Thân bài :
- Nêu được các luận cứ làm sáng tỏ lời nhận định về lòng yêu nước và tự hào dân tộc
của nhân dân ta
- Chiếu dời đô :
+ Mục đích của việc dời đô: là đóng đô ở nơi trung tâm của đất trời, mưu toan nghiệp
lớn, tính kế muôn đời cho con cháu.
+ Lòng yêu nước tự hào dân tộc thể hiện rõ nhất khi nói về thành Đại La.
- Nước Đại Việt ta
- Lòng yêu nước thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa
- Lòng yêu nước tự hào dân tộc thể hiện ở việc khẳng định chủ quyền đất nước, khẳng
định sức mạnh của dân tộc, sự thất bại thảm hại của kẻ xâm lược.
Kết bài : Khẳng định lại vấn đề đã nêu ở phần mở bài, cảm nghĩ của em về các tác
giả .

Trong nền Văn học trung đại Việt Nam nổi bật lên những áng văn chính luận xuất
sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công
cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai
đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn
cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô” và “Nước Đại Việt
ta”.

“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của
dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả thể hiện
ở mục đích dời đô là muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế
muôn đời cho con cháu, thể hiện khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập,
thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh
đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh
trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan
nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước
hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị, tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã
quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
Kế tục truyền thống và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm
của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết
phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu
đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi
noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển
dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn
ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…

Đau xót khi nghĩ về “số phận ngắn ngủi” của các triều đại Đinh, Lê trước, Lí Công
Uẩn cảm thấy việc dời đô là một việc hết sức cấp thiết “không thể không chuyển dời”.

Tinh thần yêu nước được thể hiện rõ nhất khi nhà vua nói về thành Đại La. Đại La
là kinh đô cũ của Cao Vương với vẻ đẹp và thuận lợi muôn mặt bởi lẽ là “trung tâm
trời đất”, “đúng ngôi nam bắc đông tây”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, “tiện hướng nhìn
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 158 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
sông dựa núi”, “muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”… Đại La xứng đáng là “kinh
đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đó là tầm nhìn chiến lược của Lí Công Uẩn về
Đại La, một cái nhìn toàn diện, sắc sảo và sáng suốt, mong muốn về một đất nước
ngày mai tươi đẹp, thái bình giàu mạnh, phát triển vững bền.

Mặc dù vậy, để thống nhất trên dưới chung lòng cùng một ý kiến, Lí Công Uẩn đã
bàn bạc với triều thần chỉ với một câu hỏi tu từ bỏ ngõ ở phần kết: “Các khanh thấy
thế nào?”. Lời lẽ ấy xuất phát từ tình cảm máu mủ ruột thịt dân tộc Đại Việt, từ tinh
thần yêu nước sâu nặng lớn lao, khao khát thoát ra ngoài vỏ bọc yếu kém so với các
cường quốc khác.

Tinh thần yêu nước trong văn bản Nước Đại Việt ta trước tiên thể hiện ở tư tưởng
nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hai câu đầu tác giả nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa ấy
là yên dân và trừ bạo. Yên dân là làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh phúc. Đó
là mục đích lớn nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cũng chính là tư tưởng lớn nhất
trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, đánh kẻ có tội. Mà đặt
trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì bạo ở đây chính là giặc Minh xâm lược. Như
vậy tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng yêu nước, chống giặc
ngoại xâm. Đây là nội dung mới trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi: nó được
mở rộng ra, không chỉ còn là quan hệ giữa người với người mà là quan hệ giữa quốc
gia với quốc gia, dân tộc với dân tộc.
Tiếp đến, tinh thần yêu nước và niều tự hào dân tộc còn được khẳng định chân lí về
sự tồn tại độc lập có chủ quyền dân tộc Đại Việt, Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố
căn bản để xây dựng độc lập, chủ quyền dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước...


Đoạn văn đã khẳng định Đại Việt là đất nước có quốc hiệu riêng, có lãnh thổ riêng,
có nền văn hiến lâu đời, có những phong tục tốt đẹp mà phong kiến phương Bắc luôn
có âm mưu đồng hóa để phủ nhận tư cách độc lập dân tộc của Đại Việt. Nước Nam
còn có lịch sử riêng, có anh hùng hào kiệt sánh ngang bằng với các triều đại Trung
Quốc. So với bài Sông núi nước Nam thì quan niệm vể chủ quyền độc lập của
Nguyễn Trãi trong đoạn trích Nước Đại Việt ta được mở rộng hơn, hoàn chỉnh hơn.
Nêu như trong bài Sông núi nước Nam quan niềm về chủ quyền độc lập dân tộc được
khẳng định trên hai yếu tố là; cương vực lãnh thổ và chủ quyền thông qua người đại
diện là Vua thì ở Bình Ngô đại cáo cũng có sự kế thừa hai yếu tố đó( Núi sông bờ cõi
đã chia/ xưng đế một phương) nhưng được bổ sung thêm nhiều phương diện nữa: văn
hiến, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử, anh hùng hào kiệt. Quan niệm ấy đã đạt
tới sự toàn diện, sâu sắc, đây là sự phát triển cao của ý thức dân tộc trong lịch sử.
Tiếp đến tác giả đã làm khẳng định sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và chân
lí về sự chủ quyền độc lập bằng những dẫn chứng hùng hồn, đanh thép

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 159 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”

Kẻ xâm lược là kẻ đi ngược lại nhân nghĩa. Nói về thất bại của kẻ thù là ca ngợi thắng
lợi hào hùng của dân tộc ta. Lời văn Nguyễn Trãi âm vang niềm tự hào dân tộc, sáng
ngời chính nghĩa bằng lối nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục, cách
viết sóng đôi, đề cao mọi thứ của nước Nam như là của tạo vật hiển nhiên, đời nào
cũng có, có từ trước và lúc nào cũng khác.

Cả 2 tác phẩm “Chiếu dời đô và “Nước Đại Việt ta” đều là những áng văn chương
hào hùng của dân tộc. Mỗi tác phẩm đều được viết ở mỗi thời kì, mỗi triều đại khác
nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chung một lòng, một tinh thần yêu nước.
Đã bao năm trôi qua nhưng những lời của cha ông vẫn còn in đậm trong trái tim mỗi
người dân đất Việt. Thời gian có thể xóa nhòa đi nhiều thứ nhưng không thể làm mờ
đi những chân lí trong Chiếu dời đô và BNĐC của người dân nước Việt. Em thật tự
hào về truyền thống lịch sử của dân tộc, em hứa sẽ học tập tốt hơn để viết tiếp những
trang sử vàng trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt là hiện nay một số vùng đất của đất
nước đang bị xâm chiếm thì chúng ta càng cần nêu cao tinh thần dân tộc, tinh thần yêu
nước để cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước.

TUẦN 32 ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN (Tiếp)

I/ Đề bài:
Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng nhân dịp Tết năm 1946, Bác Hồ viết: Một
năm khởi đầu thừ mùa xuân. Một đời bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội. Em hiểu như thế nào về câu nói trên.
II/Hướng dẫn làm bài
Theo qui luật tuần hoàn của thiên nhiên, ta thấy muà xuân vừa là kết thúc cho
một năm cũ vừa mở đầu cho một năm mới. Mùa xuân mang laị sự ấm áp, cây cối đâm
chồi nảy lộc, xanh tươi đầy sức sống. Và con người thời trai trẻ khi bước vaò muà
xuân cũng cảm thấy mình lớn hơn, cơ thể,trí tuệ, tư duy cũng phát triển hơn và cả ước
mơ khát vọng của tuổi trẻ cũng tràn đầy mãnh liệt hơn. Vì vậy, Trong thư gưỉ thanh
niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết Nguyên Đán năm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “ Một năm khởi đầu từ muà xuân. Một đơì khởi đâù từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là muà
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 160 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
xuân của xã hội”. Ở đây Bác đã đề cao vai trò của thanh niên trong xã hội, chính họ sẽ
là những người sẽ làm đất nước tươi đẹp như muà xuân.
1. Giải thích, chứng minh câu nói của Bác
+ Một năm khởi đầu từ mùa xuân:
Mùa xuân là mùa chuyển tiếp giữa đông và hè, là mùa đầu tiên của một năm. Mùa
xuân thường gợi lên ý niệm về sức sống, hi vọng, niềm vui và hạnh phúc.
+ Một đời bắt đầu bằng tuổi trẻ.
-Tuổi trẻ là quãng đời đẹp nhất của con người, đánh dấu sự trưởng thành của một đời
người.
-Tuổi trẻ cũng đồng nghĩa với mùa xuân của thiên nhiên tạo hoá, nó gợi lên ý niệm về
sức sống, niềm vui, tương lai và hạnh phúc tràn đầy.
- Tuổi trẻ là tuổi phát triển rực rỡ nhất về thể chất, tài năng, tâm hồn và trí tuệ.
- Tuổi trẻ là tuổi hăng hái sôi nổi, giàu nhiệt tình, giàu chí tiến thủ, có thể vượt qua
mọi khó khăn gian khổ để đạt tới mục đích và ước mơ cao cả, tự tạo cho mình một
tương lai tươi sáng, góp phần xây dựng quê hương.
+ Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội:
Tuổi trẻ của mỗi con người cùng góp lại sẽ tạo thành mùa xuân của xã hội. Vì:
- Thế hệ trẻ luôn là sức sống, niềm hi vọng và tương lai của đất nước.
- Trong quá khứ: biết bao tấm gương các vị anh hùng liệt sĩ đã tạo nên cuộc sống và
những trang sử hào hùng đầy sức xuân cho dân tộc.
- Điều đó được chứng minh trong những trang sử chống ngoại xâm cuả dân tộc ta, biết
bao thanh niên đã hiến dâng tuổi thanh xuân đẹp nhất của mình để đổi lấy độc lập, tự
do cho Tổ quốc. Tại sao họ có thể hoàn thành được sứ mệnh vinh quang đó bằng
xương máu mà không chút e ngại, bơỉ họ có lý tưởng sống đúng đắn và cao đẹp: Tất
cả cho Tổ quốc quyết sinh. Nhưng với hoàn cảnh sống, một môi trường sống khác tốt
hơn, hạnh phúc hơn, yên bình hơn thì lý tưởng của thanh niên ngày nay làgì? 
- Ngày nay: tuổi trẻ là lực lượng đi đầu trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh,
xã hội văn minh. Cuộc đời họ là những bài ca mùa xuân đất nước.
Mỗi thanh niên sống có lí tưởng, có hoài bão, ước mơ của riêng mình và cố gắng học
tập, vươn lên để đạt được những hoài bão ước mơ đó. Đặc biệt là những hoài bão ước
mơ đó phù hợp với xu thế chung của thanh niên thì đó chính là lí tưởng. Và lý tưởng
chung đó chính là xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước vững mạnh cũng như tự gắn
mình vào nhiệm vụ chống đói nghèo, lạc hậu, nuôi dưỡng bản than, gia đình, đưa đất
nước phát triển và hội nhập cùng quốc tế. 
Nhưng thực tế hiện nay, khi đất nước có nguy cơ tụt hậu vế kinh tế, tệ nạn xã
hội ngày càng gia tăng thì thanh niên chưa chứng tỏ đầy đủ vai trò, trọng trách của
mình trước sứ mệnh của đất nước. Đó là một bộ phận thanh niên sống mờ nhạt. Dưới
tác động của cơ chế thị trường, nhiều thanh niên đã chạy theo lối sống thực dụng của
đồng tiền, lo ăn chơi, hưởng thụ, lao vào các tệ nạn xã hội. như ma túy, mãi dâm. Một
điều không khỏi phải nhắc đến là tội phạm trong con cái những người có chức quyền
có nguy cơ gia tăng, những thanh niên này thường được bố mẹ nuông chiều, thiếu sự
giáo dục, lại cậy quyền thế, giàu có nên sống buông thả. 

Cùng với việc gia tăng tội phạm trong thanh niên, thì nạn chảy máu chất xám
trong giới trí thức thanh niên hiện nay cũng đang trở thành một vấn đề bức xúc. Nhiều
thanh niên sau khi được nhà nước cho di du học bằng tiền cuả nhân dân đã định cư
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 161 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
nước ngoài không trở về, hoặc có trở về thì cũng đi làm cho các liên doanh nước ngoài
để thu nhập cao. Có lẽ nguyên nhân do hoàn cảnh kinh tế, do ta chưa biết trọng nhân
tài, thì điều quan trọng phải là do chính họ chạy theo lý tưởng sống thực dụng của
đồng tiền mà quên đi đất nước – chính là nơi minh2 đã được sinh ra và nuôi dưỡng
nên ngươì. Thay vì họ phải chung sức lực, trí tuệ cùng nhân dân xây dựng, phát triển
đất nước thì họ lại chạy theo lối sống cá nhân, hưởng thụ. 

2. Bổn phận của thanh niên và học sinh:


- Làm tốt những công việc bình thường, cố gắng học tập tu dưỡng đạo đức không
ngừng.
- Phải có mục đích sống cao cả, có lí tưởng vì dân vì nước, thể hiện ở suy nghĩ, lời nói
và những việc làm cụ thể.
- Hồ Chí Minh đã tửng dạy thanh niên: “ Chúng ta không một phút nào được quên lý
tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã
hội hoản toàn được thắng lợi trên đất nước ta..” Vì vậy kế thừa lời dạy về lý tưởng cho
thanh niên của Bác, kết hợp với thực tiễn ngày hôm nay của đất nước, thanh niên có
thể xây dựng cho mình một lý tưởng: Không ngừng phấn đấu xây dựng Việt Nam trở
thành nước “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tất nhiên
sự nghiệp to lớn này là của toàn dân tộc nhưng thanh niên giữ vai trò quan trọng, bởi
sự nghiệp này không phải một sớm một chiều mà đạt được; cần có thời gian , ngắn hay
dài phụ thuộc vào sự phấn đấu của chúng ta. Thanh niên là lớp ngươì trẻ tuổi sẽ kế tục
và biến sự nghiệp này thành hiện thực.
Lời dạy của Bác với tuổi trẻ là hoàn đúng đắn và chân thành, thể hiện niềm
mong mỏi, hi vọng lớn lao của Bác với thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng đất nước.
Em hứa sẽ học tập tốt…

Ngày 04/4/2015
TUẦN 32 ÔN TẬP TỔNG HỢP CUỐI HỌC KÌ II
Đề 1
Phần I
1. Bài thơ “ Nhớ rừng” của tác giả nào? Nêu hoàn cảnh sáng tác?
2. Tác giả bài “ Quê hương” là ai? Sáng tác năm bao nhiêu?
3. Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm yếu tố nào trong văn bản “ Nước Đại Việt ta” để
khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc?
4. Câu văn sau mắc lỗi gì? Hãy sửa lại cho đúng:
Trong bóng đá nói riêng và học tập nói chung, An đều đạt được những thành
tích xuất sắc.
Phần II
1. (2đ) Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 162 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
“ Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm của trời
đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng
nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải
chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp
đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất
nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”
a. Đoạn văn được trích dẫn từ văn bản nào? Của ai?
b. Văn bản có đoạn văn trên viết bằng thể loại gì? Nêu đặc điểm của thể loại đó?
c. Nội dung chủ yếu của đoạn văn trên là gì?
d. Câu: “ Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là kinh đô
bậc nhất của đế vương muôn đời.” thuộc kiểu câu gì? Thực hiện hành động nói
nào?
e. 2. Khi kết thúc văn bản trên, tác giả đã viết:  « Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi
của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” Em hãy xác định kiểu câu
của hai câu văn trên( phân lọai theo mục đích nói) và cho biết cách kết thúc ấy
có tác dụng như thế nào?
f. Bằng một đoạn văn quy nạp từ 10 -12 câu hãy làm sáng tỏ nhận định sau:
“Thành Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Phần III
1. Chép chính xác bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” (Hồ Chí Minh)? (1đ)
2. Cho biết hoàn cảnh ra đời bài thơ trên? (1đ)
3. Bài thơ thuộc thể thơ gì? Kể tên những bài thơ đã học ở lớp 8 có cùng thể thơ
này? (1đ)
4. Viết đoạn văn quy nạp (9-12 câu) nêu cảm nhận của em vể cuộc sống, tinh thần,
phong thái của Bác thể hiện trong bài thơ này. Trong đoạn văn có sử dụng câu
cảm thán. (4đ)

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI


PHẦN 1
1/ Tác giả: Thế Lữ
Hoàn cảnh sáng tác: 1935 khi đất nước đang chìm trong ách nô lệ của thực dân Pháp.
Bài thơ đã mượn lời con hổ trong vườn bách thú để thể hiện sâu sắc tâm sự u uất của
thế hệ thanh niên lức bấy giờ và đó cũng là tâm sự chung của người dân VN trong
cảnh nước mất nhà tan.
2.Tác giả: Tế Hanh
Sáng tác: 1939
3. Bóng đá và học tập không cùng loại nên không thể nói gộp.
Chữa lại:

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 163 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Trong bóng đá nói riêng và trong thể thao nói chung, An đều đạt được những thành
tích xuất sắc.
Phần 2
Đoạn văn trên trích trong văn bản: “ Chiếu dời đô”.
- Tác giả: Lý Công Uẩn.
- Văn bản đó được viết theo thể loại chiếu.
- Những đặc điểm của thể loại chiếu:
+ Tác giả: vua.
+ Mục đích: ban bố mệnh lệnh.
+ Hình thức: viết bằng văn xuôi, văn biền ngẫu, văn vần.
2.
- Kiểu câu: câu 1: câu trần thuật; câu 2: câu nghi vấn.
- Cách kết thúc bằng câu nghi vấn có tác dụng mang tính chất đối thoại, tạo ra sự đồng
cảm giữa mệnh lệnh của vua với quần thần.
3.
- Hệ thống luận cứ:
+ Thành Đại La có thuận lợi về mặt lịch sử: là kinh đô cũ của Cao Vương.
+ Thành Đại La có thuận lợi về vị trí địa lí: ở vào nơi trung tâm trời đât, thế
rồng cuộn hổ ngồi, đúng ngôi nam bắc đông tây, tiện hướng nhìn sông dựa núi.
+ Thành Đại La có tiềm năng phát triển kinh tế: địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà
thoáng, dân cư không phải chịu cảnh ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi.
Phần 3
Với nhịp thơ 4/3 và nghệ thuật đối ngữ câu thơ thứ nhất trong bài thơ « Tức cảnh
Pác Bó » đã cho chúng ta thấy nhịp sống hàng ngày đều đặn của Bác nơi núi rừng :
sáng ra bờ suối làm việc, tối vào hang để nghỉ ngơi(1) Vẫn giọng điệu đùa vui hóm
hỉnh ấy, câu thơ thứ hai nói về thức ăn của Bác là « cháo bẹ, rau măng » luôn có sẵn
tới mức dư thừa.(2) Câu thơ thứ ba nói về công việc của Người : « Bàn đá chông
chênh dịch sử Đảng ». (3) Bàn làm việc là một tảng đá đặt « chông chênh » bên bờ
suối và Người đang dịch lịch sử Đảng  Liên Xô để làm tài liệu cho cách mạng Việt
Nam(4) .Nếuhai câu thơ đầu ta thấy Bác mang dáng dấp của một ẩn sĩ xưa kia « lánh
đục về trong » vui với thiên nhiên, tránh vòng danh lợi thì đến câu thơ thứ ba Bác hiện
lên là một người chiến sĩ cách mạng với tư thế uy nghi, lồng lộng(5). Người chiến sĩ
cách mạng đang sáng tạo ra lịch sử dân tộc nơi đầu nguồn(6). Câu thơ cuối là câu thơ
hay nhất kết tinh ý tứ của toàn bài thơ : « Cuộc đời cách mạng thật là sang ». (7)
« Sang » là sang trọng, giàu có, cao quý và đẹp đẽ(8). Cái sang của người chiến sĩ
cách mạng không phải cái sang về mặt vật chất mà là sang về tinh thần, sang về
phong cách văn hóa mà không phải ai nhiều tiền cũng đạt được(9). Câu thơ cho thấy
được niềm vui, niềm lạc quan của Bác khi được sống giữa thiên nhiên và được làm
cách mạng, thấy được tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của người chiến sĩ
cách mạng.(10) Bài thơ vừa nói đến cuộc sống của Bác nơi núi rừng Pác Bó vừa cho
ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn cũng như những phẩm chất cao đẹp của Người.(11)
Chao ôi, con người của Bác, tư tưởng của Bác mới đẹp làm sao !(12)

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 164 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Tuần 34 ÔN TẬP CUỐI HỌC KÌ


Câu 1(2 điểm)
a. Hành động nói là gì? Kể tên một số kiểu hành động nói thường gặp.
b. Chỉ ra hành động nói trong mỗi câu văn sau?
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
(Lí Công Uẩn- Chiếu dời đô)
Câu 2 (3 điểm)
" Như nước Đại Việt ta từ trước,
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 165 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có"…
a. Phần trích trên được trích trong văn bản nào? Tác phẩm nào? Do ai sáng tác?
b. Tại sao nói văn bản trên có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập?
Câu 3
Đọc kĩ đoạn trích sau:
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của
cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các
vật kỉ niệm đủ thứ,v.v…trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao?
Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó
sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới
hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến
xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một
bài diễn văn yêu nước: “ Các anh đã bảo vệ tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi
không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?
Câu 1: ( 1điểm) Đoạn văn trên được trích từ văn bản nào ? Tác giả là ai?
Câu 2: (1 điểm) Em hãy cho biết nhan đề của văn bản có ý nghĩa gì?
Câu 3: ( 1 điểm) Câu Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát
và đánh đập họ vô cớ đó sao? Thuộc kiểu câu gì? Hành động nói là gì?
Câu 4: ( 1 điểm) Em hãy chuyển câu văn trên thành một kiểu câu khác có nội dung
tương đương. Cho biết câu văn đã chuyển thuộc kiểu câu gì?
Câu 4
Đọc kỹ đoạn văn sau rồi thực hiện yêu cầu bên dưới:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân
này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
a. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Ai là tác giả của tác phẩm đó?
b. Gọi tên và chỉ rõ một biện pháp nghệ thuật mà em đã học trong chương trình
Ngữ Văn lớp 8 được tác giả sử dụng trong đoạn văn trên?
c. Nêu cảm nhận của em về đoạn văn trên?

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


1.
- Hành động nói là hành động được thực hiện bằng lời nói nhằm mục đích nhất định.
- Một số kiểu hành động nói thường gặp là: hành động trình bày, hành động hỏi, hành
động bộc lộ cảm xúc…
- Câu 1: hành động trình bày
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 166 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Câu 2: hành động hỏi.
2.
a. Đoạn trích nằm trong văn bản Nước Đại Việt ta, tác phẩm Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi (2 ý đầu 0,5 điểm, ý cuối cho 0,5 điểm)
b Về hình thức: học sinh viết thành đoạn văn nghị luận, biết cách triển khai luận điểm
thành một đoạn văn:
- Về nội dung: đoạn văn phải có những ý sau:
+ Nước ta là nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ
quyền, có truyền thống lịch sử.
+ Kẻ xâm lược là phản nhân nghĩa, nhất định thất bại.
3.
Câu 1: (1 điểm)
Đoạn văn trên trích trong văn bản “ Thuế máu” ( 0,5 điểm)
Tác giả Nguyễn Ái Quốc ( 0,5 điểm)

Câu 2: ( 1 điểm)
Ý nghĩa nhan đề :“ Thuế máu” là thứ thuế tàn nhẫn, phũ phàng nhất, thứ thuế bóc
lột xương máu, mạng sống những người dân thuộc địa của chính quyền thực dân.
( có nhiều cách diễn đạt miễn đúng là chấm điểm)

Câu 3: ( 1 điểm)
Câu Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ
vô cớ đó sao? Thuộc kiểu câu nghi vấn ( 0,5 điểm). Hành động nói là khẳng định ( 0,5
điểm)

Câu 4: (1 điểm)
Chuyển câu văn trên thành một kiểu câu khác có nội dung tương đương. ( tùy HS
chuyển miễn đúng là chấm điểm) ( 0,5 điểm)
Xác định đúng kiểu câu đã sử dụng ( 0,5 điểm)

4./ Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước và căm thù giặc của
mình qua đoạn văn: “Ta thường tới bữa quên ăn....vui lòng”. Đây là đoạn văn đặc biệt
xúc động. Muốn khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ thái độ của chính mình.
- Tác giả đã dùng cách nói khoa trương với những câu văn biền ngẫu, các vế có 4 từ
liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa nhằm
nhấn mạnh nỗi đau đớn, day dứt, trăn trở cao độ ám ảnh trong mọi lúc từ bữa ăn, giấc
ngủ cả ngày lẫn đêm. Nỗi đau xót lớn lao trong lòng được biểu hiện ra thành dòng
nước mắt đầm đìa. Còn lòng căm thù giặc và ý chí tiêu diệt giặc được thể hiện mạnh
mẽ qua các hình ảnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Còn câu văn: “Dẫu
cho trăm ....vui lòng” khẳng định tinh thần xả thân vì nước, sẵn sàng chết trăm lần
miễn là tiêu diệt được quân giặc.
- Đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ trái tim của một vị
tướng coi lợi ích quốc gia là lợi ích tối cao.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 167 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

ÔN TẬP TỔNG HỢP CUỐI HỌC KÌ

Câu 1: Trong những đoạn trích sau, câu nào là câu cầu khiến?
a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
(Tô Hoài, "Dế mèn phiêu lưu kí")
b) Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:
- Các em đừng khóc. Trưa nay các em vẫn được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được
nghỉ cả ngày nữa. (Thanh Tịnh, "Tôi đi học")
Câu 2:

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 168 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Em hãy cho biết tên tác giả, hoàn cảnh ra đời, và nội dung chính của bài thơ “Nhớ
rừng” ?
Câu 3: Chép lại khổ thơ cuối bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh, và trình
bày nội dung chính của khổ thơ đó?
Câu 4: Thế nào là câu cảm thán? Cho ví dụ?
Câu 5: Câu sau đây đã mắc lỗi diễn đạt liên qua đến lô gic. Hãy phát hiện và chữa lại
lỗi đó?
Trong sân trường chỉ còn lại hai người. Một người mặc áo màu xanh, còn một
người thì lùn và mập.
Câu 6
a) Chép chính xác bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chủ tịch phần phiên âm và dịch thơ?
Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ?
b) Phân tích hai câu thơ cuối để thấy được tình yêu thiên nhiên tha thiết và bản lĩnh
thép vĩ đại của HCM.
Câu 6 (3.0 điểm):
Viết một đoạn văn ngắn trình bày về cái hay của phần trích sau:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy,


Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.
(Ông đồ - Vũ Đình Liên)

II/ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI


Phần II: Tự luận: 7 điểm
Câu 1: (2 điểm) Có những câu cầu khiến sau:
a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. (1 điểm)
b) Các em đừng khóc. (1 điểm)
2 / Học sinh trình bày đúng:
- Tên tác giả: Thế Lữ : 0,25đ
- Nhớ rừng là bài thơ nổi tiếng đầu tiên của Thế Lữ, in trong tập Mấy vần thơ và
Mấy vần thơ (tập mới, 1943) 0,25đ
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 169 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Nội dung chính: Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi
chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt bằng những
vần thơ tràn đầy cảm xúc lãng mạn.bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của
người dân mất nước thưở ấy. 0,5đ
3/ Học sinh chép đúng khổ thơ cuối 0.,5đ
- Trình bày đúng nội dung : nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ khi xa quê : nhớ
về những hình ảnh đặc trưng như màu nước xanh, cánh buồm vôi, cá bạc. Và nỗi nhớ
da diết nhất đó là “nhớ cái mùi nồng mặn quá”, cái mùi đặc trưng của quê hương miền
biển. 1đ

4/ Trình bày đúng đặc điểm hình thức ,chức năng của câu cảm thán 1đ
- cho đúng được ví dụ 0,5đ
5 / chỉ ra được lỗi sai cụ thể 0,5đ
Trong sân trường chỉ còn lại hai người. Một người thì mặc áo màu xanh, còn một
người thì lùn và mập.
- sửa lại đúng lỗi sai đó 0,5đ
Trong sân trường chỉ còn lại hai người.Một người thì mặc áo màu xanh, còn một
người thì mặc áo màu trắng ( tím, vàng…)
6/ Chép chính xác bài thơ
Nêu được hoàn cảnh sáng tác” 8/1942 trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc
Viết bài văn phân tích bài thơ:
Hai câu thơ cuối đã diễn tả được cuộc giao hòa tuyệt đẹp giữa trăng và người.
Không có rượu và hoa nhưng cuộc ngắm trăng vẫn diễn ra lột cách lặng lẽ, say mê:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ…
Đó là cuộc giao hoà tuyệt đẹp giữa trăng và người. Phép đối đã thể hiện được sự quấn
quýt tâm giao giữa trăng và người. Nhà tù trong phút chốc đã biết mất chỉ còn thi
nhân và vầng trăng. Mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết của một đôi bạn tâm giao thu
vào một chữ “khán” – ngắm. Như vậy song sắt nhà tù không ngăn nổi tâm hồn người
tù nghệ sĩ tìm đến với với thế giới của cái đẹp của tự do và ánh sáng. Mở đầu bài thơ
là hình ảnh của nhà tù và người tù nhưng đến cuối bài thơ nhà tù vẫn còn đó nhưng
không thấy bóng dáng người tù. Người tù đã vượt ngục trở thành nhà thơ. Đó là cuộc
vượt ngục bằng tinh thần. Câu thơ cho ta thấy sức mạnh tinh thần kì diệu, tình yêu
thiên nhiên mãnh liệt và phong thái ung dung vượt hẳn lên hiện thực tàn bạo của nhà
tù. Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người chiến sĩ cộng sản đã tạo nên
cuộc vượt ngục kì thú. Sự hòa quện giữa chất thép và chất tình cùng với nghệ thuật đối
ý, nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
ÔN TẬP CUỐI HỌC KÌ II

Câu 1
Chép lại nguyên văn bài thơ “ Đi đường” của Hồ Chí Minh (phần dịch thơ).
Nêu khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Câu 2
Xác định kiểu câu trong đoạn văn sau:
“ Vẻ nghi ngại hiện ra sắc mặt, con bé hóm hỉnh hỏi mẹ một cách thiết tha: (1)
- Sáng ngày người ta đấm u có đau lắm không ? ( 2)
Chị Dậu gạt nước mắt: ( 3)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 170 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Không đau con ạ ! ( 4)”
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
Câu 3: Xác định câu cảm thán và chức năng của câu cảm thán trong những đoạn trích
sau:
a. Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi !
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
b. Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời ! Thế đê không sao
cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng
mất.
(Phạm Duy Tốn, Sống chết mặc bay)
Câu 4
Cho câu thơ: “ Khi con tu hú gọi bầy”
1. Chép chính xác 5 câu thơ tiếp theo để hoàn chỉnh khổ thơ?
2. Bằng hiểu biết của mình, em hãy viết một đoạn văn từ (6-8 câu) giới thiệu về
tác giả của đoạn thơ vừa chép
3. Hãy giải thích ý nghĩa nhan đề của văn bản có đoạn thơ trên.
Câu 5
Cho đoạn văn:
“ Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Đạo là
lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điểu ấy. Nước Đại Việt ta, từ khi
lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình
thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường,
thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan, đều do những điều tệ hại ấy”
1. Hãy xác định hành động nói, cách thức thực hiện hành động nói của câu: “Ngọc
không mài, không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. (1đ)
2. Hãy cho biết đoạn văn trên trình bày luận điểm gì? Từ luận điểm này, em hãy
viết một đoạn văn từ 10 đến 12 câu để trình bày ý kiến của mình về mục đích
học tập của học sinh hiện nay. Trong đoạn văn sử dụng một câu cầu khiến và
nêu rõ cách trình bày nội dung đoạn văn. (5đ)
Câu 6
Có nhận xét cho rằng: "Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là áng văn tràn đầy
lòng tự hào dân tộc". Qua văn bản đã học, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


I. Phần văn - Tiếng việt:( 4 điểm)
Câu 1: ( 2 điểm)
- Học sinh chép lại nguyên văn phần dịch thơ của bài thơ " Đi đường" của Hồ
Chí Minh (1 điểm).
- Học sinh nêu khái quát được nội dung và nghệ thuật bài thơ:
+ Nghệ thuật: Thể thơ tứ tuyệt giản dị mà hàm súc, mang ý nghĩa tư tưởng sâu sắc
+ Nội dung: Từ việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường đời ; Vượt qua gian lao
chồng chất sẽ tới thắng lợi vẻ vang. (0,5 điểm)
Câu 2: ( 2 điểm)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 171 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Học sinh xác định đúng mỗi câu: (0,5 điểm)
(1) Câu trần thuật.
(2) Câu nghi vấn.
(3) Câu trần thuật
(4) Câu phủ định.
Câu 3
a. Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi !. Chức năng :Bộc lộ nỗi nhớ tha thiết về quá khứ
huy hoàng của chú hổ...
b.Than ôi ! Chức năng: thể hiện nỗi lo trước cảnh vỡ đê.
Lo thay ! Chức năng: thể hiện nỗi lo trước cảnh vỡ đê.
Nguy thay ! Chức năng: thể hiện nỗi lo trước cảnh vỡ đê.
II. Phần tập làm văn: ( 6 điểm)
* Yêu cầu chung:
- Xác định đúng thể loại văn nghị luận chứng minh kết hợp giải thích.
- Lựa chọn dẫn chứng tiêu biểu, lập luận chặt chẽ, rõ ràng.
- Bố cục đầy đủ 3 phần. Viết đúng chính tả, chữ viết sạch, đẹp.
* Yêu cầu cụ thể:
1. Mở bài: (1 điểm)
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi - Hoàn cảnh ra đời của Bình Ngô đại cáo và
đoạn trích Nước Đại Việt ta.
- Nêu luận điểm khái quát: Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy lòng tự hào
dân tộc.
2. Thân bài: (4 điểm)
Chứng minh nguyên lí nhân nghĩa là nguyên lí cơ bản làm nền tảng; cốt lõi tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là: Yên dân và trừ bạo.
- Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc; muốn yên dân thì
phải trừ diệt mọi thế lực bạo tàn.
- Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng tiến bộ, tích cực, nhân quyền
dân tộc.
- Nhân nghĩa gắn liền với tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm bảo vệ độc
lập chủ quyền dân tộc.
+ Lịch sử dân tộc có nền văn hiến lâu đời.
+ Có lãnh thổ rõ ràng.
+ Có phong tục tập quán riêng.
+ Có chế độ chủ quyền riêng song song tồn tại với các triều đại Trung
Quốc.
Sức mạnh Đại Việt là sức mạnh nhân nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc, sức mạnh
của chính nghĩa.
3. Kết bài:- Khẳng định Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập, tự chủ dân tộc,
là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc.- Suy nghĩ của bản thân.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 172 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 37
ÔN TẬP PHẦN VĂN CUỐI HỌC KÌ

I/ Câu hỏi ôn tập


1. Cho câu thơ sau: Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
a) Chép tiếp 7 câu thơ còn lại để hoàn thành khổ thơ ?
b) Khổ thơ vừa chép trích trong tác phẩm nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác và nội
dụng chính của bài thơ?
c) Viết đoạn văn diễn dịch nêu cảm nhận của em về khô thơ trên .

2/ Cho câu thơ sau: Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ


GV: Nguyễn Thị Nguyệt 173 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Chép tiếp tiếp 7 câu thơ còn lại để hoàn thành khổ thơ?
b) Đoạn thơ vừa chép nằm trong tác phẩm nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác và
nội dung chính của bài thơ?
c) Viết đoạn văn theo cách quy nạp nêu cảm nhận của em về khổ thơ trên?

3/ Cho câu thơ sau: Khi con tu hú gọi bầy


a) Chép tiếp 5 câu thơ còn lại để hoàn thành khổ thơ?
b) Đoạn thơ vừa chép nằm trong tác phẩm nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác
và nội dung chính của bài thơ?
c) Viết đoạn văn theo cách lập luận tổng – phân – hợp trình bài cảm nhận của em
về đoạn thơ trên?

4/ Văn bản Chiếu dời đô được sáng tác năm nào? Nội dung chính của tác phẩm đó?
5/ Chép chính xác đoạn văn thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc của Trần Quốc
Tuấn? Hoàn cảnh sáng tác của văn bản Hịch tướng sĩ?

6/ Phân tích tư tưởng nhân nghĩa Nguyễn Trãi trong hai câu đầu của văn bản:
Nước Đại Việt ta.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1
b) Nhớ rừng rút từ tập “Mấy vần thơ”(1935)
-Bài thơ là lời của con hổ bị nhốt trong vườn bách thú có tâm trạng u uất, chán ghét
cuộc sống thực tại khát khao tự do mãnh liệt.
- Tác giả đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú để thể hiện sâu sắc tâm sự u uất
của thế hệ thanh niên lúc bấy giờ và cũng là tâm sự chung của người dân Việt Nam
trong cảnh nước mất nhà tan khi đó
- Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
- Con hổ từ chỗ là chúa tể của muôn loài, là oai linh nơi rừng thẳm nay nó bị nhốt
trong cũi sắt làm trò lạ mắt thứ đồ chơi nên nó vô cùng cay đắng căm uất.
- Căm hờn là một từ để chỉ tâm trạng nó vô hình vô tướng, không thể nhìn thấy .Như
Tản Đà đã từng viết:
“ Sầu không có mối chém sao cho đứt; Sầu không có khối đập sao cho tan”.
Nhưng nỗi cay đắng căm hờn chứa chất lâu trong lòng con hổ đã trở thành hình thành
khối có nghĩa là rất nhiều.
- Động từ “ gậm ” càng cụ thể hoá tâm trạng của con hổ. Gậm không chỉ là (gặm) mà
còn là ngậm (ngậm đắng nuốt cay)
=> Con hổ đang nghiền ngẫm thấm thía sự đau khổ cay đắng của thân phận tù
hãm và nung nấu hờn căm, uất hận trong tư thế bất lực.
- Lí do: sa cơ, tù hãm, thứ đồ chơi, ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi.
- Khinh lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ, khinh miệt bọn thú dở hơi, bọn báo vô tư lự.
=> Tâm trạng uất hận, căm hờn, ngao ngán như không có cách gì thoát ra được
nên đành buông xuôi bất lực.

3.c) Sáu câu thơ đầu của bài thơ Khi con tu hú là bức tranh mùa hè tươi đẹp tràn
trề nhựa sống. Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức gọi trong lòng người tù khu cảnh
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 174 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
mùa hè tràn ngập âm thanh, rực rỡ sắc màu,và ngọt ngào hương vị. Người chiến sĩ
như nhìn thấy “lúa chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây, nghe được
“tiếng ve ngân” trong vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng tượng của
người tù luôn ở trạng thái căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy tiếng, đầy
sân, càng rộng, càng cao. Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả một bức
tranh mùa hè tràn trề nhựa sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không gian: có
màu vàng của lúa chiêm, màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào, màu xanh
của trời cao. Sinh động nhất là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Hình
ảnh đó là biểu hiện cao độ của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của tác giả. Đôi
con diều sáo đang thỏa sức “lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay chính tác giả
đang vượt qua song sắt nhà tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn bức tường của
phòng giam chật chội chỉ qua một âm thanh nghe được người tù như nhìn thấy, ngửi
thấy, nếm thấy và cảm thấy được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sống
bên ngoài. Đoạn thơ cho ta cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát khao tự do
cháy bỏng và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ.

5/ Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước và căm thù giặc của
mình qua đoạn văn: “Ta thường tới bữa quên ăn....vui lòng”. Đây là đoạn văn đặc biệt
xúc động. Muốn khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ thái độ của chính mình.
- Tác giả đã dùng cách nói khoa trương với những câu văn biền ngẫu, các vế có 4 từ
liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa nhằm
nhấn mạnh nỗi đau đớn, day dứt, trăn trở cao độ ám ảnh trong mọi lúc từ bữa ăn, giấc
ngủ cả ngày lẫn đêm. Nỗi đau xót lớn lao trong lòng được biểu hiện ra thành dòng
nước mắt đầm đìa. Còn lòng căm thù giặc và ý chí tiêu diệt giặc được thể hiện mạnh
mẽ qua các hình ảnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Còn câu văn: “Dẫu
cho trăm ....vui lòng” khẳng định tinh thần xả thân vì nước, sẵn sàng chết trăm lần
miễn là tiêu diệt được quân giặc.
- Đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ trái tim của một vị
tướng coi lợi ích quốc gia là lợi ích tối cao.

6/ Trong hai câu đầu tác giả nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Cốt lõi của tư tưởng nhân
nghĩa ấy là yên dân và trừ bạo. Yên dân là làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh
phúc. Đó là mục đích lớn nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cũng chính là tư
tưởng lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, đánh kẻ có
tội. Mà đặt trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì bạo ở đây chính là giặc Minh xâm
lược. Như vậy tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng yêu nước,
chống giặc ngoại xâm. Đây là nội dung mới trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi: nó được mở rộng ra, không chỉ còn là quan hệ giữa người với người mà là quan
hệ giữa quốc gia với quốc gia, dân tộc với dân tộc.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 175 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 176 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

TUẦN 35 ÔN TẬP CUỐI HỌC KÌ


ĐỀ SỐ 1
PHẦN I: (3đ)
Cho đoạn văn sau:
" Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù . Dẫu cho trăm
thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng" .( Hịch
tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn)
a. Đoạn văn trên gồm mấy câu? Mỗi câu được trình bày theo mục đích nói nào?
b. Viết đoạn văn (5-7 câu) trình bày cảm nhận của em về tâm trạng của Trần
Quốc Tuấn ?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 177 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
PHẦN II: (7đ)
Cho 2 câu sau:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…
Câu 1 (3đ)
Chép những câu tiếp theo để hoàn thiện đoạn trích?
“Nước Đại Việt ta” được trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Văn bản được viết theo thể loại nào? Em hiểu gì về thể văn cổ đó?
Câu 2: (4đ)
Viết đoạn văn ( 12- 15 câu) trên cơ sở so sánh với bài thơ “Sông núi nước
Nam”( Lý Thường Kiệt). Em hãy chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc
trong đoạn trích “Nước đại Việt ta” ( Nguyễn Trãi)

ĐỀ SỐ 2

PHẦN I: (4đ)
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“ Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm của trời
đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng
nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải
chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp
đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất
nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”
1. Đoạn văn trên viết bằng thể loại nào? Nêu đặc điểm của thể loại đó?
2. Nêu nội dung của đoạn văn trên?
3. Câu: “Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh
đô bậc nhất của đế vương muôn đời” thuộc kiểu câu gì? Thực hiện hành động
nói nào?
4. Viết đoạn văn từ 5-7 câu làm sáng tỏ luận điểm: “ Đại La là thắng địa xứng là
kinh đô của đế vương muôn đời”
PHẦN II (6đ)
Cho câu thơ: “ Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ”
1. Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn chỉnh đoạn thơ?
2. Đoạn thơ vừa chép nằm trong văn bản nào? Tác giả là ai? Nêu hiểu biết của em
về tác giả và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ đó ?
3. Viết một đoạn văn quy nạp ( khoảng 15 câu), trình bày cảm nhận của em về
đoạn thơ trên. Trong đoạn văn có sử dụng một câu cảm thán-gạch chân câu văn
đó.
ĐỀ SỐ 3
Câu 1: (3,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 178 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”
(Trích “Nhớ rừng”, Thế Lữ)

Câu 2:(2 điểm): Trong những đoạn trích sau, câu nào là câu cầu khiến?
a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
(Tô Hoài, "Dế mèn phiêu lưu kí")
b) Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:
- Các em đừng khóc. Trưa nay các em vẫn được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được
nghỉ cả ngày nữa. (Thanh Tịnh, "Tôi đi học")
Câu 3: Từ bài “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, hãy nêu suy
nghĩ về mối quan hệ giữa “học” và “hành”.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 179 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


Phần I:
a. Đoạn văn gồm 2 câu.( 0,5đ)
Kiểu câu trần thuật – được dùng với mục đích biểu cảm( 0,5đ)
b. Viết đoạn văn: giới thiệu được tác giả- danh tướng kiệt xuất của nhà Trần. Qua
đoạn văn thấy được lòng yêu nước thương dân, căm thù giặc sâu sắc của TG .(2đ)

Phần II.
Câu 1.
 Chép đầy đủ hoàn thiện đoạn trích ( 1đ)
 Đoạn trích “ Nước Đại Việt ta” được trích trong tác phẩm “ Bình Ngô đại cáo”
của tác giả Nguyễn Trãi( 0,5)
 Bình Ngô đại cáo được sáng tác năm 1428 sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm
tan rã 15 vạn quân Minh xâm lược ( 0,5đ)
 VB được viết theo thể văn nghị luận cổ: cáo( là thể văn nghị luận cổ thường
được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết
quả một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn
biền ngẫu( 1đ)

Câu 2: 4 đ
a. Yêu cầu chung
- Cần vận dụng kiến thức về văn học, tập làm văn để so sánh sự tiếp nối của ý
thức dân tộc từ bài “Sông núi nước Nam” đến “Nước Đại Việt ta”.
b. Yêu cầu cụ thể
- Nêu vấn đề nghị luận ( 0,5đ)
- 2 văn bản đều thể hiện chung một khát vọng, độc lập tự do của đất nước.
Đó là những lời khẳng định đanh thép dõng dạc về chủ quyền dân tộc vì vậy mà
hai văn bản trên mới được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất và thứ hai của
dân tộc.(0,5đ)
- Mặc dù đều có chung một tư tưởng thế nhưng ý thức dân tộc, quan niệm về
quốc gia của mỗi tác giả lại không hoàn toàn giống nhau. (2đ)
+ Văn bản “Nam quốc sơn hà” ra đời ở thế kỷ XI trong cuộc kháng chiến chống
quân Tống. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền qua hai yếu tố là: Chủ quyền và lãnh thổ
+ Văn bản “Nước Đại Việt ta” ngoài hai yếu tố trên còn bổ sung thêm các yếu
tố: Văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử, anh hùng hào kiệt. Đó là một quan niệm đầy
đủ, hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc (Chú ý hai yếu tố cốt lõi lịch sử văn hiến).
- Khẳng định tư tưởng về dân tộc đã có sự tiếp nối và phát triển. ( 0,5đ)
- Có sự liên hệ về tiếp nối trong giai đoạn hiện nay( 0,5đ)

ĐỀ SỐ 3
CÂU 1
- Học sinh cảm nhận được hình ảnh con hổ trong đoạn trích hiện lên thật oai phong
lẫm liệt …

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 180 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
+ Một loạt những từ ngữ gợi hình khắc hoạ tư thế oai phong của con hổ “dõng dạc”,
“đường hoàng”…
+ Phép tu từ so sánh diễn tả chính xác vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển của chúa sơn
lâm…
- Không chỉ trong tư thế oai phong, hình ảnh vị chúa tể còn được khắc hoạ có cả sự uy
nghi, dữ dội, đầy uy lực “Trong hang tối mắt thần khi đã quắc – Là khiến cho mọi vật
đều im hơi.”
- Từ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh. Chúa sơn lâm được miêu tả, được khắc hoạ với vẻ
đẹp quyền uy là tuyệt đối...
=> Đánh giá: Những câu thơ trên thật sống động, giàu chất tạo hình, diễn tả vẻ
đẹp uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại, uyển chuyển của vị chúa tể sơn lâm đầy quyền
uy
Khái quát về ý nghĩa của đoạn thơ: Là đoạn thơ hay nhất khắc hoạ hình ảnh chúa sơn
lâm nhớ về quá khứ …

Phần II: Tự luận: 7 điểm


Câu 1: (2 điểm) Có những câu cầu khiến sau:
a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. (1 điểm)
b) Các em đừng khóc. (1 điểm)
Câu 2: (5 điểm)
Mở bài:
- Giới thiệu về La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và bài tấu “Bàn luận về phép học” gửi
lên vua Quang Trung của ông.
Thân bài:
* Tóm tắt những luận điểm trong “Bàn luận về phép học” của Nguyễn Thiếp.
- Mục đích chân chính của việc học: Học là để làm người.
- Phê phán những quan điểm sai trái trong việc học tập: lối học hình thức mà mục đích
là cầu danh lợi.
- Khẳng định muốn học tốt phải có phương pháp: học cơ bản, học từ thấp tới cao, đặc
biệt là học phải đi đôi với hành.
* Suy nghĩ về mối quan hệ giữa “học” và “hành”:
- Học và hành có mối quan hệ mật thiết với nhau; không nên đề cao mặt này xem nhẹ
mặt kia.
- Xác định đúng đắn mục đích của việc học: học để có kiến thức, tránh lối học chạy
theo bằng cấp, …
- Không ngừng bổ sung, nâng cao hiểu biết, tích luỹ kiến thức qua việc học tập.
- Liên hệ thực tế (lời Bác hồi dạy “Học đi đôi với hành”
Kết bài
- Phương pháp đào tạo hiện nay của chúng ta là tạo ra những con người mới sáng tạo,
chủ động, tích cực.
- Bài viết: “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đến hôm nay
vẫn là chân lí đúng đắn …

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 181 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

Tuần 37
ÔN TẬP BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH, NHÂN HÓA

I/ NỘI DUNG
1/ So sánh( khái niệm, phân loại)
- So sánh: là đối chiếu sự vật này với sự vật khác có nét tương đồng làm tăng sức
gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Cấu tạo của phép so sánh: sự vật được so sánh – phương diện so sánh – từ so
sánh – sự vật dùng để so sánh.
- Có 2 kiểu so sánh, so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng
2/ Nhân hóa( khái niệm, phân loại)
Nhân hóa: là gọi tả vật bằng những từ vốn dùng để gọi tả người làm cho thế giới loài
vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được suy nghĩ tình cảm của con người.
- Có 3 kiểu nhân hóa: dùng từ vốn gọi người để gọi vật; dùng từ vốn chỉ hoạt động,
tính chất của người để chỉ hoạt động tính chất của vật; trò chuyện xưng hô với vật như
với con người.

II/ Bài tập


2/ Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong các ví dụ sau:
a) Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
( Ca dao)
b) Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.
( Võ Thanh An)
c) Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng.
( Nhớ con sông quê hương- Tế Hanh)
d) Anh đội viên mơ màng
Như nằm trong giấc mộng
Bóng Bác cao lồng lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng.
( Đêm nay Bác không ngủ, Minh Huệ)

Bài tập 3
Cho đoạn văn sau:
“ Mặt trời nhú lên dần dần rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một
quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Qủa trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt trên
một cái mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả cái chân trời màu ngọc trai nước
biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người dân chài lưới trên muôn thủa biển Đông.”
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 182 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
1. Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào của ai?
2. Đoạn văn trên được viết theo phương pháp biểu đạt chính nào?
3. Câu văn: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người dân chài trên muôn thủa biển đông” thuộc kiểu
câu gì? Tác dụng của kiểu câu đó?
3. Trong đoạn văn trên tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? Nêu tác
dụng của những biện pháp nghệ thuật đó.

4/Tìm các sự vật được nhân hóa và các từ ngữ có tác dụng nhân hóa trong bài thơ sau:
a) Góc sân cây phượng phất cờ
Cây chuối gõ trống reo hò say sưa
Thương sao đọt bí măng tơ
Tay run chới với trong mưa tìm giàn.
( Cao Xuân Sơn)
b) Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được?
( Sóng, Xuân Quỳnh)
5/ Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong các đoạn thơ sau:
a) Tôi đưa tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ.
( Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh)
b) Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
c) Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm…
( Tre Việt Nam, Nguyễn Duy)
d) “ Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng
đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để
bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”
g) Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách cười
Cây dừa
Sải tay bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Mưa!
Mưa!
Ù ù như say lúa
( Mưa – Trần Đăng Khoa)

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 183 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
III/ GỢI Ý TRẢ LỜI.
Bài tập 2
b) Hai câu thơ trên tác giả đã so sánh hình ảnh người bà với “quả ngọt chín rồi”. Hình
ảnh bà và “quả ngọt chín rồi” đều có đặc điểm là đã phát triển rất cao. Hình ảnh “quả
ngọt chín rồi” gợi cho người đọc liên tưởng tới những phẩm chất tốt đẹp của bà. Đó là
tấm lòng nhân hậu, dù tuổi tác đã cao nhưng bà vẫn có ích cho cuộc sống, bà vẫn bảo
ban dìu dắt che chở cho con cháu( Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng). Phép so
sánh đó vừa thể hiện sự trân trọng của cháu đối với bà vừa nhằm ca ngợi vẻ đẹp truyền
thống của người phụ nữ Việt Nam. Đó là những con người anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang.
c) Trong bốn câu thơ mở đầu bài thơ “Nhớ con sông quê hương” Tế Hanh đã sử
dụng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh để giới thiệu về con sông quê hương mình.
Dòng sông hiện lên với tính từ “xanh biếc”, mặt nước sông trong như mặt gương và
những hàng tre hai bên bờ như những nàng thiếu nữ đang trải tóc, soi gương, in bóng
dưới mặt sông. Phép so sánh: “Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống dùng
sông lấp loáng” làm cho hình ảnh tâm hồn tôi được cụ thể hoá, thể hiện được tình cảm
tha thiết, nồng thắm của tác giả với con sông quê hương. Buổi trưa hè có nắng có gió,
có nhiệt độ cao như mối tình nồng cháy của tác giả với dòng sông quê. Tình yêu quê
hương đã lan tỏa rộng khắp làm cho mặt sông lấp loáng ánh sáng kì diệu. Chính tình
yêu quê hương của Tế Hanh đã làm cho con sông quê hương hiện lên đẹp đẽ, rực rỡ
như một trang cổ tích.
d) Đoạn thơ trên Minh Huệ đã sử dụng liên tiếp hai phép so sánh ngang bằng và
không ngang bằng vừa kể lại giấc mơ đẹp của anh đội viên vừa ca ngợi sự vĩ đại và
tình yêu thương bao la của Bác Hồ đối với chiến sĩ đồng bào. “Mơ màng” là trạng thái
nửa tỉnh nửa mơ, lâng lâng xúc động, trong trang thái đó anh đội viên đã có cảm nhận
rất tinh tế về Bác. Từ láy “lồng lộng” gợi cho ta liên tưởng đến một hình ảnh vừa cao
vừa xa. Hình ảnh so sánh:
“Bóng Bác cao lồng lộng/ Ấm hơn ngọn lửa hồng” gợi cho ta cảm nhận Bác vừa lớn
lao vĩ đại, vừa gần gũi, thân quen, ấm áp như ngọn lửa hồng. Phải chăng chính tình
yêu thương bao la của Bác là ngọn lửa hồng sưởi ấm trái tim người chiến sĩ, xua tan
cái lạnh lẽo hoang vắng của rừng khuya, xua tan nỗi vất vả, nhọc nhằn và sự lo lắng
của mỗi người chiến sĩ. Phép so sánh hợp lí đó đã tạo nên hình ảnh thơ thật đẹp, thật
lung linh, vừa thể hiện được sự lớn lao vĩ đã của Bác vừa thể hiện được tấm lòng yêu
thương, kính trọng, sự ngưỡng mộ của anh đội viên đối với Bác. Đó cũng là cảm nhận
của mỗi người dân Việt Nam về Bác Hồ kính yêu.
Bài tập 4
1. Đoạn văn trên trích trong văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân.
2. Đoạn văn được viết theo phương thức miêu tả.
3. Câu: “Y như một mâm lễ ….” Là câu rút gọn chủ ngữ, làm cho câu văn gọn hơn,
thông tin nhanh, tránh lặp từ.
4. Đoạn văn đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa(tròng trĩnh, phúc hậu),
so sánh, và nhiều từ láy( hồng hào, thăm thẳm, đầy đặn…) để miêu tả cảnh mặt
trời mọc trên Cô Tô. Phép nhân hóa đã biến mặt trời thành gương mặt một người con
gái đẹp, như gương mặt của Thúy Vân trong Truyện Kiều, tròn trĩnh, phúc hậu , đầy
nữ tính. Hình ảnh gợi cảm đó lại được đem so sánh tiếp với “lòng đỏ một quả trứng
thiên nhiên đày đặn” là cho nó vừa giống với người vừa là sản phẩm của thiên nhiên kì
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 184 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
diệu. Qủa trứng hồng hào thăm thẳm đó lại được đặt trên một cái mâm bạc, trở thành
mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của những người
dân chài trên muôn thủa biển Đông. Từ láy “hồng hào, thăm thẳm” được dùng thật
hay, thật chính xác đã gợi tả màu sắc rực rỡ, cảnh tượng tráng lệ của mặt trời trên
biển Đông. Phải có tài quan sát tinh tế, có một tâm hồn tha thiết yêu thiên nhiên, yêu
cuộc sống thì tác giả mới vẽ lên được bức tranh thiên nhiên tươi đẹp đến thế. Đoạn
văn cho ta cảm nhận được cảnh biển Cô Tô thật rực rỡ tráng lệ trong ánh bình
minh và Nguyễn Tuân là nhà văn bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ miêu tả.
Bài tập 2 Sự vật được nhân hóa :
- Phượng – phất cờ
- Chuối : gõ trống, reo hò say sưa
- Bí : tay run chới với
- Sóng : nhớ bờ, không ngủ được.
Bài tập 3
a) Hai câu thơ trên tác giả đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nhân hóa. Với động
từ “ôm” tác giả đã biến sông trở thành một con người, một người bạn tri âm tuổi thiếu
thời của nhà thơ. Người bạn ấy đang dang rộng vòng tay mở rộng tâm hồn để đón
nhận, trao ban tình cảm với tác giả, một người vô cùng yêu quý mình. Sông và người
đã hòa làm một, không còn khoảng cách. Hai câu thơ đã thể hiện được tình yêu con
sông vô bờ của nhà thơ Tế Hanh. Tình yêu ấy như lan tỏa, thức dậy trong ta tình yêu
quê hương làng xóm mình.
b) Hai câu thơ trên Nguyễn Duy đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nhân hóa.
Phép nhân hóa đã biến tre trở thành một bà mẹ giàu tình yêu thương, giàu đức hi sinh
cho con cái. Người mẹ ấy chỉ có mỗi một manh áo cộc mỏng manh đã nhường cho
đứa con non nớt còn mình thì phơi tấm lưng trần ra với gió sương. Tre đã mang những
phẩm chất cao quý của con người Việt Nam. Chính bởi thế mà cây tre đã trở thành
biểu tượng cao quý cho con người, cho dân tộc Việt Nam.
c)
Đoạn thơ trên Nguyễn Duy đã sử dụng thành công biện pháp tu từ nhân hóa: “
vươn mình, tre đu, kham khổ, hát ru, yêu nhiều, không đứng khuất mình” .Những từ
ngữ có tác dụng nhân hóa đó đã biến tre trở thành một con người lạc quan , yêu
đời( Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành), hiên ngang, bất khuất, không chịu nép mình
dưới một bóng cây nào(Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm). Tre mang những
phẩm chất quý báu của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Cũng chính bởi
thế mà tre đã trở thành loài cây tượng trưng cao quý cho con người, cho dân tộc Việt
Nam.
d) Đoạn văn trên tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ, nhân hóa(giữ, bảo vệ,
xung phong, anh hùng, chiến đấu)… để nhấn mạnh vai trò của tre trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Phép nhân hóa đã biến tre trở thành một con người, một người
chiến sĩ anh dũng kiên cường, xông pha trận mạc, vào sinh ra tử để bảo vệ con người:
“Tre đã xung phong vào xe tăng đại bác để giữ làng, giữ nước, tre hi sinh để bảo vệ
con người”. Tre đã được vinh danh bằng danh hiệu cao quý: “Anh hùng lao động! Anh
hùng chiến đấu!”. Đoạn văn đã cho ta thấy tre là người bạn thân thiết của con người
trong cuộc sống đời thường cũng như trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương đất
nước. Cũng chính bởi thế mà cây tre đã trở thành loài cây biểu trưng cho con người và
dân tộc Việt Nam.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 185 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
e) Đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh để miểu tả cảnh
cơn mưa ở làng quê thật sinh động hấp dẫn. Phép nhân hóa đã biến “sấm” một hiện
tượng rất ghê sợ của thiên nhiên trở thành một người bạn có hành động nhẹ
nhàng( ghé xuống sân), có nụ cười hồn nhiên như trẻ thơ( khanh khách cười). Những
cây dừa trở thành những vận động viên bơi lội, đang bơi hối hả trong không trung.
Còn những ngọn mùng tơi thì như những vũ nữ đang nhảy múa trên sân khấu. Tiếng
mưa thì ù ù như tiếng say lúa. Tất cả nhằm miêu tả cảnh cơn mưa ở làng quê thật
sống động và diễn tả niềm niềm vui sướng hân hoan của các sự vật khi có cơn mưa
mới sau những ngày nắng hạn kéo dài. Phải có tài quan sát tinh tế, có một tâm hồn tha
thiết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống ở làng quê thì tác giả mới viết lên được những câu
thơ hay đến thế về cảnh cơn mưa ở làng quê.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 186 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
TUẦN 37 ÔN TẬP BIỆN PHÁP TU TỪ ẨN DỤ, HOÁN DỤ
ĐIỆPNGỮ, CHƠI CHỮ

I/ Trọng tâm kiên thức


1/ Ẩn dụ
2/ Hoán dụ
II/ Bài tập
1/ Xác định các hoán dụ trong những câu sau và cho biết mối quan hệ giữa các sự vật
trong mỗi phép hoán dụ là gì ?
a) Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
( Nguyễn Du)
b) Sài Gòn thức đêm đêm theo Hà Nội
Nghe thủ đô đập giữa trái tim mình.
( Giang Nam)
c) Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
( Lên Tây Bắc – Tố Hữu)
d) Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè
( Tố Hữu )
2/ Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong các đoạn thơ sau:
a) Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong năng rất đỏ
( Viếng lăng Bác – Viễn Phương)

b) Mặt trời của Bắp thì nằm trên đồi


Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng
( Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Nguyễn Khoa Điềm)
c) Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
( Quê hương, Tế Hanh)
d) Nêu giá trị gợi tả của các từ láy và giá trị của các biện pháp tu từ trong đoạn thơ
sau:
Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 187 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
( Lượm – Tố Hữu)
III/ GỢI Ý TRẢ LỜI
1/ Ẩn dụ : là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác dựa trên
một nét tương đồng, làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho lời văn.
- Có 4 kiểu ẩn dụ : ẩn dụ hình thức, cách thức, phẩm chất, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
Ví dụ:
- Về thăm nhà Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.
- Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm.
2/ Hoán dụ: là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác dựa trên
quan hệ gần gũi làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho lời văn.
- Có 4 kiểu hoán dụ thường gặp
- Lấy cái bộ phận để gọi cho cái toàn thể
VD: Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già…
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Con mắt : bộ phận cơ thể biểu thị cái nhìn của một người. Từ Hải khen Kiều thông
minh, sắc sảo, tâm đầu ý hợp.
- Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người HCM
- Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật
VD: Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng
VD: Ờ đã chín năm rồi đấy nhỉ!
Kháng chiến ba nghìn ngày không nghỉ
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân.
( Tố Hữu)
- Chín năm, ba nghìn ngày nói lên tính chất trường kì của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Bắp chân đầu gối vẫn săn gân cía cụ thể để biểu thị tinh thần kháng
chiến vô cùng dẻo dai, kiên cường của quân và dân ta( cái trừu tượng)
3. Điệp ngữ: là cách lặp đi lặp lại một từ, một ngữ, một câu nào đó để làm nổi bật ý
hoặc gây cảm xúc mạnh.
Ví dụ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.(Viễn Phương)
- Có ba loại điệp ngữ: điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ vòng tròn.
4. Chơi chữ: là cách vẫn dụng khéo léo những đặc sắc về âm, về nghĩa của từ để tạo ra
sắc thái dí dỏm, hài hước làm cho câu văn hấp dẫn, thú vị
- Các lối chơi chữ thường gặp: dùng từ đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, dùng cách nói
trại âm, điệp âm.
Ví dụ: Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ
Ì ầm sấm dậy đất Xuân Lôi( Câu đối)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 188 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Ngày xuân em đi chợ Hạ
Mua cá thu về, chợ hãy còn đông( dùng từ cùng trường từ vựng)

III/ Bài tập


1/
a) Đầu xanh=> người còn trẻ,
má hồng => người con gái đẹp => lấy cái bộ phận thay cho cái toàn thể
b) Sài Gòn, Hà Nội => người sống ở Sài Gòn, Hà Nội => Lấy vật chứa thay cho cái
vật bị chứa.
c) Vai vươn tới => người chiến sĩ => bộ phận thay cho cái toàn thể
d) Đổ máu => hành động xâm lược của thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Huế, tàn
sát đồng bào và quân dân Thừa Thiên Huế( Lấy cái cụ thể thay cho cái trừu tượng)

Bài tập 1
Cho đoạn thơ sau:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
(Tiếng gà trưa, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 7, tập 1)
a. Chỉ ra và nêu đặc điểm của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ.
b. Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về hiệu quả nghệ thuật của các phép
tu từ đó trong việc thể hiện nội dung.
Bài tập 2
Tìm và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong đoạn thơ sau:
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ( Xuân Quỳnh)

Bài tập 3
Tìm và phân tích tác dụng của phép điệp ngữ trong đoạn thơ sau:

“Năm qua đi, tháng qua đi


Tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau
Mai sau
Mai sau
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh”.
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 189 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Bài tập 4
H·y chØ râ vµ ph©n tÝch t¸c dông cña c¸c biÖn ph¸p tu tõ trong nh÷ng c©u th¬
sau:
“ Cïng tr«ng l¹i mµ cïng ch¼ng thÊy,
ThÊy xanh xanh nh÷ng mÊy ngµn d©u.
Ngµn d©u xanh ng¾t mét mµu,
Lßng chµng ý thiÕp ai sÇu h¬n ai?”
(Sau phót chia ly - §oµn ThÞ §iÓm).

Bài tập 5
Cho hai đoạn văn sau:
“Tôi yêu Sài Gòn da diết…Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào vào
buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời
tiết trái chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt như thủy tinh. Tôi yêu
cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường nào động, dập dìu xe cộ vào
những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí
mát dịu, thanh sạch trêm một số đường còn nhiều cây xanh che chở…”
a) Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào của ai?
b) Đoạn văn trên viết theo phương thức biểu đạt chính nào?
c) Đoạn văn đã sử dụng biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó
trong việc biểu đạt nội dụng đoạn văn.
Bài tập 6
Trình bầy cảm nhận của em về đoạn văn sau:
“ Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của
mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương
nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai
cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người
mê luyến mùa xuân.”
(Mùa xuân của tôi- Vũ Bằng- Ngữ văn 7, tập 1)

Bài tập 1
a. - Điệp ngữ: vì . Đặc điểm: điệp ngữ cách quãng.
- Liệt kê: Tổ quốc; xóm làng; bà; tiếng gà; Ổ trứng hồng. Đặc điểm: trình bày từ
khái quát đến cụ thể.
b. Viết đoạn văn cảm nhận:
Đoạn thơ trên là những dòng suy nghĩ của người chiến sĩ về mục đích của cuộc
chiến đấu. Điệp từ “vì” kết hợp với phép liệt kê càng nhấn mạnh mục đích của cuộc
chiến đấu hết sức cao cả mà cũng rất đỗi bình thường. Cháu chiến đấu để bảo vệ quê
hương đất nước, bảo vệ xóm làng thân thuộc, bảo vệ người bà thân yêu và để giữ gìn
những kỉ niệm đẹp đẽ của chính bản thân mình. Và như thế tình cảm gia đình đã lớn
dần lên thành tình yêu tổ quốc: “Lòng yêu nhà, yêu làng xón, yêu miền quê trở nên
lòng yêu tổ quốc”. Tiếng gà trưa đã gọi về những kỉ niệm của tuổi thơ thơ mộng và
tình bà cháu đậm đà thắm thiết. Những tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc
thêm tình nước và nhắc nhở chúng ta tinh thần trách nhiệm đối với đất nước.
Bài tập 2

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 190 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8
Đoạn thơ trên đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “nghe”. Điệp từ “nghe” đặt ở
đầu câu thơ làm cho giọng thơ thêm ngọt ngào tha thiết. Tiếng gà là âm thanh quen
thuộc của làng quê, gợi cảm giác gần gũi, thân thương giúp con người vơi đi nỗi vất
vả. Chính vì vậy trong vô vàn những âm thanh của làng quê, tâm trí người chiến sĩ lại
bị ám ảnh bởi âm thanh của tiếng gà trưa.Anh không chỉ nghe bằng tai mà còn nghe
bằng cả trái tim bằng cảm tâm hồn. Tiếng gà đã khua động cả không gian yên tĩnh,
đã làm dịu bớt đi cái nắng trưa gay gắt, làm xua tan đi những mệt mỏi của buổi hành
quân.( Nghe bàn chân đỡ mỏi). Tiếng gà ấy khơi gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ khi
sống bên bà, bên đàn gà, làm cho các anh sống lại những năm tháng hồn nhiên, tươi
đẹp nhất của đời người. Đoạn thơ cho ta thấy tình làng quê thắm thiết, sâu nặng trong
lòng người chiến sĩ.
Bài tập 5
Đoạn văn trên đã sử dụng thành công biện pháp tu từ điệp ngữ để bộc lộ tình yêu SG
da diết đắm say của tác giả.của mình thật nồng nàn, say đắm. Điệp ngữ “Tôi yêu”…
lặp đi lặp lại khẳng định tình yêu da diết của tác giả với SG. Yêu nắng sớm ngọt
ngào,yêu những buổi chiều lộng gió nhớ thương, yêu những cây mưa nhiệt đới, yêu
thời tiết trái chứng… Yêu đêm khuya thưa thớt tiếng ồn, yêu phố phường nào động,
dập dìu xe cộ… Đặc biệt hơn cả là yêu cả cái tĩnh lặng …Tình yêu nồng nàn của tác
giả đã thấm đậm trong từng lời văn, lan tỏa đến bạn đọc để bạn đọc mãi mãi yêu SG –
thành phố mang tên BH kính yêu. Đọc văn bản này trong lòng tôi bỗng vang lên câu
hát: “Từ thành phố này, Người đã ra đi…”

Bài tập 6
Mùa xuân của tôi là phần đầu bài tuỳ bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong
kiệt tác văn chương Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng.
Đoạn văn mở đầu bằng câu khẳng định: “ Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa
xuân.”
Bằng nghệ thuật liệt kê, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu tác giả khẳng
định: Tình cảm yêu mến mùa xuân là tình cảm rất tự nhiên của con người, là quy luật
tất yếu.
- Diễn tả một cách sâu sắc cảm xúc của nhà văn trước một quy luật rất đỗi tự
nhiên trong tình cảm của con người: yêu mùa xuân, yêu tháng giêng…Từ đó tác động
mạnh mẽ đến cảm xúc người nghe, người đọc... Ai cũng chuộng mùa xuân và mê luyến
mùa xuân nên càng trìu mến tháng giêng, tháng đầu của mùa xuân.

- Một cách viết duyên dáng, mượt mà, làm cho lời văn mềm mại, tha thiết theo
dòng cảm xúc, đọc lên ta cứ ngỡ là thơ. Cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ đừng,
đừng thương, ai bảo được…ai cấm được…ai cấm được…ai cấm được…Chữ thương
được nhắc lại tới 4 lần, liên kết với chữ yêu, chữ nhớ đầy ấn tượng và rung động.
- Thể hiện rõ tình cảm, tấm lòng của tác giả Vũ Bằng đối với mùa xuân, với
quê hương, đất nước.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 191 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

ÔN TẬP: DÙNG CỤM CHỦ VỊ ĐỂ MỞ RỘNG CÂU

I/ BÀI TẬP ÔN LUYỆN


Bài tập 1
Tìm cụm chủ vị làm thành phần câu trong các câu sau đây và cho biết đó là
thành phần gì trong mỗi câu.
a) Những hình ảnh và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương và tìm cách giúp
đỡ.
b) Những nơi khuất, nơi công cộng, lâu ngày rác cứ ùn lên, khiến nhiều khu dân cư
phải chịu hậu quả mất vệ sinh nặng nề.
c) Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng gắng sức.
d) Vừa về tới nhà, tôi đã nhìn thấy một chiếc xe tải đỗ trước cổng.
d) Con hãy nghĩ đến những cậu bé câm và mù mà vẫn phải đi học.
g) Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng
nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc.
h) Ông ấy chân đi chữ bát, tay vạt tứ tung.
i) Chế độ người bóc lột người dần dần bị xóa bỏ
k) Một làn khói trắng ngoằn ngoèo bốc lên như một vệt phấn ai vừa vạch trên nền trời.
Bài tập 2.
Chuyển những câu có cụm C – V làm thành phần câu sau đây thành câu đơn
không mở rộng cụm chủ vị.
a) Ông ấy tiền bạc mất hết cả.
b) Ông em chân tay đều yếu lắm rồi.
c) Sự tiến bộ của em làm cha mẹ vui lòng.
d) Em thay đổi nhận thức là một điều tốt.
Bài tập 3
Hãy ghép hai câu đơn sau thành câu có cụm chủ vị được mở rộng thành phần( có
thể thêm bớt những từ cần thiết)
a) Lan học giỏi. e) Hoa đã gặp bạn ấy
b) Anh quen biết cậu ấy. g) Bố mẹ luôn vui lòng.
c) Chúng em biết. h) Bàn đã hỏng.
d) Bạn ấy đẹp. i) Bạn ấy đã về nhà hôm qua.
Bài tập 4
Tìm các cụm chủ vị làm thành phần câu trong các câu sau:
a) Nó xuất hiện thật đột ngột, tay cầm gậy, đầu đội mũ, chân mang giày ba ta, vai
đeo ba lô.
b) Trong rạp xiếc, anh diễn viên hề chân đạp đạp, tay lắc lắc, miệng ngậm quả cầu
to tướng.
c) Nơi em sống những ngày tuổi thơ đã trở thành kỉ niệm.
d) Chúng ta có thể khẳng định rằng: cấu tạo của tiếng Việt, với khả năng thích ứng
với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây là một chứng cớ khá rõ về
sức sống của nói.
e) Mặt trời mọc khiến cho mọi vật đều thức dậy.
f) Cách mạng tháng tám thành công đem lại độc lập tự do cho dân tộc.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 192 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
g) Trong những lúc nhà dỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu
chuyện này của một đồng chí già kể lại.
h) Ông lão cứ ngỡ là mình còn chiêm bao.
i) Thầy giáo khen bài tập làm văn mà bạn Nam viết.
j) Cuốn sách của tôi mua bìa rất đẹp.
Bài tập 5
Tìm các cụm chủ vị làm phụ ngữ trong các câu sau?
a) Quyển sách mẹ cho con rất hay.
b) Tớ rất thích bức tranh bạn Nam vẽ hôm nọ.
c) Chúng tôi hi vọng đội bóng lớp tôi sẽ thắng.
d) Chúng tôi đoán rằng bạn Nam sẽ đoạt giải nhất.
Bài tập 6
Hãy mở rộng những danh từ làm chủ ngữ trong các câu sau thành một cụm chủ
vị làm chủ ngữ.
a) Người thanh niên ấy làm mọi người khó chịu.
b) Nam làm cho bố mẹ vui lòng.
c) Gió làm đổ cây.
Bài tập 7
Tìm các cụm C- V thích hợp làm phụ ngữ cho các danh từ trong những câu sau
đây?
a) Bài báo rất hay.
b) Cuốn sách có nhiều tranh minh họa
Bài tập 8
Thêm cụm chủ vị vào chỗ trống làm phụ ngữ cho danh từ, động từ sau:
a) Chúng tôi bàn nhau rào lại mảnh vườn do……….
b) Tôi chép lại bài thơ mà ……….
c) Tôi rất thích cái bánh mà………..
d) Vấn đề mà ……………….vẫn chưa được giải quyết.
e) Mọi người đều lắng nghe………….
f) Tôi nhìn thấy…………..
g) Tôi tin rằng……………..
Bài tập 9
Cho từng đôi câu sau . Hãy biến chúng thành một câu có cụm C- V làm thành
phần câu hoặc phụ ngữ.
a) Trời trở rét. Đó là dấu hiệu của mùa đông.
b) Ai cũng phải tuân thủ luật lệ giao thông. Thầy giáo chủ nhiệm thường nhắc
chúng tôi như vậy
c) Bạn Nam đã kể chuyện này cho tôi. Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe câu chuyện
đó.
d) Bố mẹ thưởng cho tôi chiếc xe đạp. Tôi đi học bằng chiếc xe đạp đó.
e) Sương muối xuống nhiều. Lúa mới cấy có nguy cơ hỏng.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 193 Trường THCS Tam Hưng


Ôn tập Ngữ văn 8

II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI


Bài tập 1
Tìm cụm chủ vị làm thành phần câu trong các câu sau đây và cho biết đó là
thành phần gì trong mỗi câu.
a) Những hình ảnh và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương và tìm cách
giúp đỡ.(BN)
b) Những nơi khuất, nơi công cộng, lâu ngày rác cứ ùn lên, khiến nhiều khu dân cư
phải chịu hậu quả mất vệ sinh nặng nề.(BN)
c) Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng gắng sức.(BN)
d) Vừa về tới nhà, tôi đã nhìn thấy một chiếc xe tải đỗ trước cổng.(BN)
d) Con hãy nghĩ đến những cậu bé câm và mù mà vẫn phải đi học.(BN)
g) Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng
nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc.(BN)
h) Ông ấy chân đi chữ bát, tay vạt tứ tung.(VN)
i) Chế độ người bóc lột người dần dần bị xóa bỏ.(CN)
k) Một làn khói trắng ngoằn ngoèo bốc lên như một vệt phấn ai vừa vạch trên nền
trời.(ĐN)
Bài tập 2.
Chuyển những câu có cụm C – V làm thành phần câu sau đây thành câu đơn
không mở rộng cụm chủ vị.
a) Ông ấy tiền bạc mất hết cả.
=> Tiền bạc của ông ấy bị mất hết cả.
b) Ông em chân tay đều yếu lắm rồi.
=> Chân tay ông em đều yếu lắm rồi.
c) Sự tiến bộ của em làm cha mẹ vui lòng.
=> Cha mẹ vui lòng vì sự tiến bộ của em.
d) Em thay đổi nhận thức là một điều tốt.
=> Sự thay đổi nhận thức của em là một điều tốt.
e) Bài thơ mà em yêu thích đã được ngâm nhiều lần trên đài phát thanh.
=> Bài thơ ấy đã được ngâm nhiều lần trên đài phát thanh.
Bài tập 3
Hãy ghép hai câu đơn sau thành câu có cụm chủ vị được mở rộng thành phần( có
thể thêm bớt những từ cần thiết)
a) Lan học giỏi. e) Hoa đã gặp bạn ấy
b) Anh quen biết cậu ấy g) Bố mẹ luôn vui lòng.
c) Chúng em biết h) Bàn đã hỏng.
d) Bạn ấy đẹp. i) Bạn ấy đã về nhà hôm qua.
- Lan học giỏi khiến cha mẹ vui lòng.
- Chúng em biết Lan học giỏi
- Chúng em biết bàn đã hỏng.
- Chúng em biết bạn ấy đã về nhà hôm qua.
- Chúng em biết bạn ấy đẹp.
Bài tập 4
Tìm các cụm chủ vị làm thành phần câu trong các câu sau:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 194 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a)Nó xuất hiện thật đột ngột, tay cầm gậy, đầu đội mũ, chân mang giày ba ta, vai
đeo ba lô.(VN
c) Trong ráp xiếc, anh diễn viên hề chân đạp đạp, tay lắc lắc, miệng ngậm quả
cầu to tướng.(VN)
d) Nơi em sống những ngày tuổi thơ đã trở thành kỉ niệm.(ĐN)
e) Chúng ta có thể khẳng định rằng: cấu tạo của tiếng Việt, với khả năng thích
ứng với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây là một chứng cớ
khá rõ về sức sống của nói.(BN)
f) Mặt trời mọc khiến cho mọi vật đều thức dậy.(CN,BN)
g) Cách mạng tháng tám thành công đem lại độc lập tự do cho dân tộc.(CN)
h) Trong những lúc nhà dỗi ấy, chúng tôi thường hay kể chuyện. Và tôi nghe câu
chuyện này của một đồng chí già kể lại.(ĐN)
i) Ông lão cứ ngỡ là mình còn chiêm bao.(BN)
j) Thầy giáo khen bài tập làm văn mà bạn Nam viết.(ĐN)
k) Cuốn sách của tôi mua bìa rất đẹp(BN)
Bài tập 5
Tìm các cụm chủ vị làm phụ ngữ trong các câu sau?
a)Quyển sách mẹ cho con rất hay.(ĐN)
a) Tớ rất thích bức tranh bạn Nam vẽ hôm nọ.(ĐN)
b) Chúng tôi hi vọng đối bóng lớp tôi sẽ thắng.(BN)
c) Chúng tôi đoán rằng bạn Nam sẽ đoạt giải nhất.(BN)
Bài tập 6
Hãy mở rộng những danh từ làm chủ ngữ trong các câu sau thành một cụm chủ
vị làm chủ ngữ.
a) Người thanh niên ấy đến muộn làm mọi người khó chịu.
b) Nam học giỏi làm cho bố mẹ vui lòng.
c) Gió thổi mạnh làm đổ cây.
Bài tập 7
Tìm các cụm C- V thích hợp làm phụ ngữ cho các danh từ trong những câu sau
đây?
a) Bài báo bạn Lan viết rất hay.
b) Cuốn sách anh cho mượn có nhiều tranh minh họa
Bài tập 8
Thêm cụm chủ vị vào chỗ trống làm phụ ngữ cho danh từ, động từ sau:
a) Chúng tôi bàn nhau rào lại mảnh vườn do ông nội trồng
b) nTôi chép lại bài thơ mà cô giáo sáng tác.
c) Tôi rất thích cái bánh mà mẹ mua cho.
d) Vấn đề mà anh đưa ra vẫn chưa được giải quyết.
e) Mọi người đều lắng nghe anh ấy hát.
f) Tôi nhìn thấy nó đi ngoài đường
g) Tôi tin rằng Linh sẽ dành giải nhất.
Bài tập 9
Cho từng đôi câu sau . Hãy biến chúng thành một câu có cụm C- V làm thành
phần câu hoặc phụ ngữ.
a) Trời trở rét. Đó là dấu hiệu của mùa đông.
Trời trở rét là dấy hiệu của mùa động.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 195 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
b) Ai cũng phải tuân thủ luật lệ giao thông. Thấy giáo chủ nhiệm thường nhắc
chúng tôi như vậy.
Thấy giáo chru nhiệm thường nhắc: ai cũng phải tuân thủ luật lệ giao thông.
c) Bạn Nam đã kể chuyện này cho tôi. Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe câu
chuyện đó.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe câu chuyện mà bạn Nam đã kể.
d) Bố mẹ thưởng cho tôi chiếc xe đạp. Tôi đi học bằng chiếc xe đạp đó.
Tôi thường đi học bằng chiếc xe đạp bố mẹ thưởng cho.
e) Sương muối xuống nhiều. Lúa mới cấy có nguy cơ hỏng.
Sương muốn xuống nhiều khiến lúa mới cấy có nguy cơ bị hỏng.
Bài tập 10
Viết đoạn văn có sử dụng câu có cụm chủ vị làm thành phần của câu.

GV: Nguyễn Thị Nguyệt 196 Trường THCS Tam Hưng

You might also like