Professional Documents
Culture Documents
d) Văn bản kể về những con vật có cánh bay. Người bố có thú nuôi chim, mua về
một con khưới và một con sáo. Bố mua cả châu chấu về cho chim ăn để nó hót hay
hơn. Thấy bố vặt cánh và chân châu chấu đi thì người con vô cùng thương cảm cho
những con châu chấu, đã bảo với bố là nếu bố vặt cánh và chân châu chấu đi thì nó sẽ
chết mất. Lời nói ngây thơ và đầy tình cảm ấy của người con đã tác động rất lớn đến
nhận thức và tình cảm của bố khiến người bố đã thả châu chấu ra và cuối cùng thả cả
hai con chim ra để cho chúng tự do được bay nhảy trong thế giới của chúng. Nhân vật
người con trong văn bản trên là một cậu bé giàu tình yêu thương loài vật. Văn bản đã
đánh thức tình yêu loài vật trong em, giúp em nhận ra rằng mỗi con vật chúng cũng có
một sinh mạng, cũng cần được sống tự do trong thế giới của chúng như những con
người, chúng ta cần nâng niu, trân trọng và bảo vệ chúng.
9/ Bây giờ em đã học lớp 8, đã trải qua 7 lần khai giảng năm học mới, nhưng ấn
tượng sâu đậm nhất trong em vẫn là ngày khai giảng đầu tiên khi em vào lớp một.
- Cảm xúc trong đêm trước ngày khai giảng.
- Cảm xúc khi đến trường.
- Quang cảnh trường, thầy cô, bạn bè…
- Khi được cô giáo đón vào lớp…
3/ Tinh thần phản kháng của chị Dậu thể hiện qua các chặng như sau:
- Lúc đầu, chị tha thiết van xin với hi vọng là bọn sai nha sẽ thương tình. Đó là tư
thế của kẻ dưới.
- Sau đó, trước sự tàn bạo của bọn cai lệ chị liều mạng cự lại: Chị đấu lí với chúng:
“Chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô ông – tôi
cho thấy chị không còn là kẻ dưới nữa mà ngang hàng với chúng.
- Đỉnh cao của tinh thần phản kháng là màn đấu lực: Chị thách thức chúng “Mày trói
ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Cách xưng hô cho thấy chị ở tư thế khác, tư
thế của bề trên. Trong cuộc đấu lực đó phần thắng đã thuộc về người đàn bà lực
điền.
=> Đó là quá trình phát triển tâm lí rất lô gic của chị Dậu cho ta thấy cảnh Con giun
xéo lắm cũng quằn. Hành động phản kháng của chị tuy còn tự phát nhưng cho thấy
sức mạnh tiềm tàng của người nông dân.
4/ Cai lệ là một tên tay sai chuyên nghiệp, chuyên đi đánh trói, đàn áp nhân dân.
Hắn xuất hiện ở nhà chị Dậu với hành động hung dữ, thái độ hách dịch: gõ đầu roi
xuống đất, quát mắng, thét, hầm hè, chạy sầm sập, giật phắt cái dây thừng, bịch vào
ngực chị Dậu, tát chị…Tất cả những hành động, lời nói đó cho thấy hắn là một tên tay
sai tàn bạo, không một chút nhân tính. Hắn chỉ là một con người - công cụ của bộ
máy xã hội đương thời bất nhân.
8/ Lão Hạc rất yêu quý con chó: Gọi là cậu Vàng, chăm sóc chu đáo, trò chuyện với
cậu Vàng, mắng yêu… cậu Vàng làm lão bớt cô đơn.
- Lão bán cậu Vàng vì không còn sự lựa chọn nào khác.
- Sau khi bán cậu Vàng, lão ân hận, day dứt, lão tự kết tội mình là đánh lừa con
chó(cười như mếu, khóc hu hu…) Trong cuộc đời đầy đen bạc, người ta có thể lừa
nhau vì tiền, vì tình, vì các ham muốn khác nhưng lão Hạc lại ăn năn vì đã lừa một con
chó. Điều này cho thấy sự ngay thẳng và cao đẹp trong nhân cách của lão Hạc.
9/ Nỗi khốn cùng của lão Hạc được miêu tả theo chiều tăng tiến:
- Nghèo đến mức không đủ tiền cưới vợ cho con khiến nó phẫn chí bỏ nhà đi kiếm ăn
nơi khác.
10/ Suy nghĩ của nhân vật Tôi về cái chết của lão Hạc:
- Lúc đầu, rất ngạc nhiên vì lão Hạc cũng theo gót Binh Tư để có ăn, ông giáo chán
nản nghĩ: “Cuộc đời quả thật cứ ngày thêm đáng buồn”
- Khi hiểu ra, ông giáo lại nghĩ: “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì vẫn
còn có những con người lương thiện, trong sạch như lão Hạc.
- “Hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo nghĩa khác”. Buồn vì những người
tốt như lão Hạc lại phải sống một cuộc sống khốn khổ như thế, phải chế một cách
thê thảm như thế.
- Từ đó, ông suy ngẫm về cuộc đời, tự nhận ra con đường nhận thức: Phải nhìn sâu
vào bản chất con người, phải đặt họ trong tình huống cụ thể để hiểu họ chứ không
nên dừng lại ở bên ngoài.
12/ Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ, nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và
đặc biệt là có tình yêu thương con sâu sắc.Vợ lão mất sớm, con bỏ đi làm ăn xa, lão
chỉ có mỗi cậu Vàng làm bạn. Lão rất yêu quý cậu Vàng, lão ăn gì cũng cho cậu
Vàng ăn thứ đó, chăm sóc cậu Vàng chu đáo, thường xuyên trò chuyện với cậu.
Nhưng vì nghèo túng quá không muốn tiêu vào số tiền của con lão đã quyết định bán
cậu Vàng – người bạn thân thiết nhất của mình đi sau bao ngày đắn đo suy nghĩ. Bán
chó xong, lão đã sang nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, gửi tiền lo hậu sự cho
mình, Về nhà, lão kiếm được cái gì thì ăn cái đó, lão ăn khoai, ăn sung luộc, của
chuối cho qua ngày và cuối cùng lão quyết định ăn bả chó tự tử, để không phải tiêu
vào số tiền dành dụm cho con, để kết thúc cuộc đời khốn khổ của lão. Đó là cái chết
dữ dội, đau đớn thể hiện sự trừng phạt ghê gớm, thể hiện đức tính trung thực và lòng
tự trọng đáng quý ở lão Hạc. Lão chết để giữ được bản chất trong sạch sạch của
mình, lão chết để bảo toàn vốn liếng cho con. Đó là sự hi sinh thầm lặng của một
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 14 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
người cha giàu tình yêu thương con. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách thanh cao của lão
Hạc đã làm rung động bao trái tim bạn đọc, làm thức tỉnh những người làm con,
phải sống sao cho xứng đáng với sự quan tâm, hi sinh của cha mẹ dành cho mình.
13a/ Sau khi học xong văn bản “Tức nước vỡ bờ” và truyện ngắn “Lão Hạc’ của
Nam Cao cho ta hiểu được cuộc đời người nông dân trong xã hội cũ thực sự tối tăm,
thảm hại và không có lối thoát. Một đất nước không có độc lập thì người dân không có
quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc. Họ phải đối diện với đủ thứ thuế vô lí của
một xã hội bất công, họ phải đối diện với nạn đói khủng khiếp khiến người ta gầy gò,
ốm yếu. Cái nghèo đã khiến con trai lão Hạc bỏ nhà ra đi. Để cứu chồng, chị Dậu đã
phải bán con, bán chó…Nhưng chính trong hoàn cảnh khốn khổ ấy, người nông dân
vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp của mình: Chị Dậu tha thiết yêu thương chồng
con, chi có thể làm tất cả vì chồng, sẵn sàng chống trả lại bọn tay sai để bảo vệ
chồng. Lão Hạc thì yêu thương con tha thiết, hi sinh một cách lạ thường, chọn cái chết
để kết thúc cuộc đời mình, để giữ lại tiền bạc và mảnh vườn cho con. Người nông dẫn
trong xã hội cũ chỉ có một con đường hi sinh bản thân mình để giữ gìn phẩm chất tốt
đẹp. Đó là kết cục bi kịch, đầy đau khổ của những người nông dân trong xã hội cũ.
13. Truyện, kí Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 có nhiều tác phẩm
đặc sắc của những tác giả tiêu biểu như Nguyên Hồng với “Những ngày thơ ấu”, Ngô
Tất Tố với tiểu thuyết “Tắt đèn”, Nam Cao với truyện ngắn “ Lão Hạc”. Cả ba tác
phẩm này đều viết về con người và cuộc sống đương thời với một tinh thần nhân đạo
sâu sắc.
Trước hết ta cần hiểu thế nào là tinh thần nhân đạo? Đó chính là tình yêu thương
con người, sự thông cảm và chia sẻ với những lỗi đau của con người, ca ngợi những
phẩm chất tốt đẹp của con người và lên án, tố cáo những cái xấu xa chà đạp lên quyền
sống của con người.
Cả ba văn bản trên đều chan chứa tinh thần nhân đạo sâu sắc. Trước hết, các tác
phẩm đó đã diễn tả một cách chân thực và cảm động những nỗi đau, những bất hạnh
của con người. Đó là tình cảnh nguy khốn của gia đình chị Dậu trong mùa sưu thuế.
Thứ thuế thân – loại thuế đánh vào thân thể, mạng sống của con người, thể hiện sự vô
nhân đạo, chỉ con con người như súc vật, như hàng hóa của chế độ thực dân phong
kiến. Anh Dậu đang ốm rề rề tưởng đã chết thì bọn cai lệ lại xông tới để đánh trói, kìm
kẹp lôi anh ra đình đánh tiếp vì còn thiếu xuất sưu của người em đã chết từ năm ngoái.
Mặc cho chị Dậu tha thiết van xin, chúng vẫn sấn tới để trói anh Dậu, tát vào mặt chị
Dậu.
Còn nhà văn Nam Cao lại thông cảm với nỗi khổ của Lão Hạc trong cảnh nghèo
đói xơ xác. Vì nghèo không đủ tiền cưới vợ cho con nên con đã bỏ đi làm ăn nơi khác.
Ngheo đến nỗi không nuôi nổi một con chó mà phải bán nó đi trong nỗi day dứt ân
hận vì trót lừa một con chó. Và cái nghèo đã đẩy lão đến bước đường cùng là phải ăn
bả chó tự tử để giải thoát cho cuộc đời khốn khổ của mình.
Nguyên Hồng lại thông cảm xót xa cho tình cảnh của mẹ con bé Hồng. Vì những
hủ tục lạc hậu, những thành kiến tàn ác của xã hội mà mẹ bé Hồng phải xa lìa anh em
Hồng đi tha hương cầu thực, kiếm ăn nơi khác để cho Hồng phải sống trong sự ghẻ
Ngày 22/10/2014
TUẦN 7 ÔN TẬP TRỢ TỪ, THÁN TỪ,
CÁCH XÂY DỰNG ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN.
Ngày 26/10/2014
TUẦN 8
ÔN TẬP VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
Cô bé bán diêm, Chiếc lá cuối cùng, Đánh nhau với cối xay gió
I/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm? Tóm tắt tác phẩm và
phân tích cảm nhận được các nhận vật trong tác phẩm
II/ CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tóm tắt văn bản Cô bé bán diêm bằng một đoạn văn từ 10 -15 dòng?
2.Tìm những chi tiết nói về hoàn cảnh bất hạnh của cô bé bán diêm. Để tô đậm nỗi
khổ cực của em bé tác giả đã sử dụng BPNT nào? Tác dụng của BPNT đó?
3. Trong truyện cô bé quẹt diêm mấy lần? Những mộng tưởng của cô được sắp xếp
theo trình tự nào? Vì sao thế giới mộng tưởng của em bé bán diêm lại được bắt đầu
bằng hình ảnh lò sưởi và kết thúc bằng hình ảnh người bà nhân từ?
4. Tại sao trong câu chuyện, hình ảnh người bà được nhắc đến nhiều nhất trong suy
nghĩ của cô bé?
5. Theo em, kết thúc truyện có phải là kết thúc có hậu không? Vì sao?
6. Viết đoạn văn tổng phân hợp nêu cảm nhận của em về nhân vật em bé bán diêm?
7. Tóm tắt văn bản Đánh nhau với cối xay gió bằng một đoạn văn khoảng 10 dòng.
3. Xiu cũng là một họa sĩ nghèo cùng sống với giôn xi. Trong những ngày giôn xi
bị bệnh cô hết lòng yêu thương, chăm sóc, lo lắng cho người bạn gái của mình. Tình
yêu thương của cô thể hiện rõ khi những chiếc lá thường xuân cứ ít dần, mỗi lần Giôn
xi nhờ kéo tấm mành lên, cô đều làm theo một cách chán nản, cô không muốn bạn
mình thêm bi quan, chán nản. Vì thế mà Xiu cũng hết sức ngạc nhiên khi thấy chiếc lá
Ngày 01/11/2014
TUẦN 8
ÔN TẬP VĂN TỰ SỰ KẾT HỢP VỚI MIÊU TẢ VÀ BIỂU CẢM
2. Dùng các tình thái từ để biến đổi các câu trần thuật sau thành câu nghi vấn?
a) Mẹ về rồi.
b) Nam đi bơi.
c)Ngày mai là chủ nhật.
d) Đây là quyển sách của Nam?
3)Tìm các tình thái từ trong các câu dưới đây và cho biết ý nghĩa của chúng:
a) Đến lượt bố tôi ngây người ra không tin vào mắt mình:
- Con gái tôi vẽ đây ư?
b) Mèo rất hay lục lõi các đồ vật với một sự thích thú đến khó chịu.
- Này, em không để chúng nó yên được à?
c) Trên mái nhà trường, chi bồ câu gật gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ:
Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
d) Thưa cô, cái gì mà mình biết nó ở đâu rổi thì có thể gọi là mất được không cô nhỉ?
4) Điền tình thái từ thích hợp vào chỗ trống trong mỗi câu dưới đây:
a) - Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ….!
- Thế nó cho bắt …..?
b) - Anh xem chúng đang cười ….!
- Sao bố mãi không về…?
c) Em bé bỗng tươi tỉnh:
- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín
con để nộp cho vưa? Giống đực thì làm sao mà đẻ được….!
Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi….! Thế làng chúng bay không biết đem trâu ấy ra mà ăn với
nhau…?
5) Cho đoạn văn tự sự sau:
Sáng nay, gió mùa đông bắc tràn về. Vậy mà khi đi học, tôi lại quên mang theo
áo ấm. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy mẹ xuất hiện với cái áo len trên tay. Mẹ xin phép cô
giáo cho tôi ra khỏi lớp rồi giục tôi mặc áo. Đây là cái cáo len mẹ đã đan tặng tôi từ
mùa đông năm ngoái. Khoác chiếc áo vào, tôi thấy ấm áp. Tôi muốn nói thành lời:
“Con cảm ơn mẹ!”
Hãy bổ sung thêm phương thức mieu tả và biểu cảm để viết lại đoạn văn trên.
6/ Dựa vào đoạn thơ sau, viết đoạn văn tự sự có yếu tố miêu tả và biểu cảm:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp
6/ Trên đường hành quân, bất chợt nghe thấy tiếng gà cục tác ở một xóm nhỏ. Âm
thanh quen thuộc ấy đã gợi cho tôi nhớ về người bà thân yêu của mình ở quê nhà. Tôi
nhớ đến bà với cử chỉ soi trứng gà, bà đưa quả trứng lên trước mặt, khum tay xuống
quả trứng để soi xem trứng có trống không. Bà chắt chiu nhặt nhạnh từng quả trứng
hồng ấy để cho gà ấp. Khi gà nở, bà chăm sóc, nâng niu mong cho gà khỏe mạnh,
nhanh lớn. Cuối năm, gió mùa đông bắc tràn về lại thêm cả sương muối trút xuống bà
lo lắng cho đàn gà không chịu được gió rét thì sẽ chết mất. Bà đi che chắn lại chuồng
gà cho gió khỏi lùa vào, bà cầu xin trời đừng rét, đừng có nhiều sương muối để đàn gà
khỏe mạnh, cuối năm bán gà để lấy tiền mua quần áo mới cho cháu. Chao ôi! Nỗi lo
lắng của bà thật giản dị, bình thường mà sâu lắng. Tất cả nỗi vất vả, lo toan của bà
đều hướng vào cháu, mong cho cháu có được niềm vui trong ngày Tết. Bà ơi! Cháu
nhớ bà, biết ơn bà nhiều lắm!
Tre là một loài cây rất quen thuộc trên đất nước Việt Nam. Họ hàng nhà tre gồm
mấy chục loại khác nhau có mặt ở mọ miền đất nước, tre là vành đai kiên cố bảo vệ
làng quê Việt Nam.
Tre sống thành búi lớn, trở thành một quần thể rộng lớn, thống nhất, có ý thức
bảo vệ và nương tựa vào nhau. Tre không bao giờ sống riêng lẻ, mỗi khóm tre ít nhất
phải có từ 5 -7 cây nhiều là hàng trăm, hàng nghìn cây.
Tre cao khoảng từ 15 – 20m, thân tre tròn thẳng chia làm nhiều đoạn nhỏ. Trên
từng đốt tre mọc ra các tay tre, có gai, có lá, các tay tre vươn dài ra làm cho các cây
tre quấn quýt lại với nhau, gió bão khó mà quật ngã. Khi ta muốn chặt một cây tre, ta
phải chặt hết các tay rong của nó thì mới có thể rút nó ra khỏi búi tre.
Lá tre nhỏ, mảnh, hình mũi mác có màu xanh sẫm, khi lá mới ra cuộn tròn lại
như chiếc tăm, dần dần xòe ra, lá tre xếp lại xòe ra như bàn tay. Khi lá tre già chuyển
sang màu vàng úa rồi rụng xuống kết thúc cuộc đời của lá.
Tre thuộc loại cây rễ chùm. Tre có thể sống ở vùng đất cằn cỗi, không cần sự
chăm sóc của con người mà vẫn xanh tốt là nhờ bà mẹ rễ tre siêng năng, cần cù ăn sâu
vào trong lòng đất hút chất dinh dưỡng để nuôi cây.
Tre sinh trưởng quanh năm, dưới gốc tre nảy ra các cây tre non còn gọi là măng
tre. Chúng cứ từ trong lòng đất trỗi dậy như mũi tên trọc thẳng lên trời. Khi mới sinh
Bên cạnh ta có biết bao con vật quen thuộc nhưng con vật nuôi mà em yêu thích
nhất là con mèo.
Chó là loại động vật có ích trong mọi lĩnh vực. Cho còn là người bạn của con
người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó là loại
động vật rất quan trọng giúp việc đắc lực cho con người.
Bài tập 2
Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam.
“Trở lại Huế thương, bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ
sông”. Cùng với tà áo dài thướt tha trong gió chiều mùa thu, chiếc nón lá cũng góp
phần không nhỏ tạo nên sự duyên dáng, tinh tế thật đẹp, thật đặc biệt cho phụ nữ Việt
Nam.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên quanh năm nắng lắm mưa
nhiều. Chiếc nón lá khâu tỉ mỉ che nắng, che mưa đã trở thành người bạn không thể
thiếu của những người phụ nữ Việt Nam. Chiếc nón lá không đơn thuần là che nắng,
che mưa mà còn tôn lên vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của người con gái Việt.
Nón có nhiều loại: nón thúng quai thao, nón rộng vành, nón ba tầm, nón chóp
nhọn. Nón được làm bằng lá gồi nhỏ hay lá cọ. Những người thợ làm nón phải phơi
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 47 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
khô, là phẳng lá rồi mới đặt lên khung khâu tỉ mỉ. Lá gồi, lá cọ không phải ở đâu
cũng có mà chỉ có ở vùng núi cao, vùng trung du. Những người đi lấy lá phải đóng bè
chở về. Vậy là chỉ riêng việc đi lấy nguyên liệu thôi đã thấy sự nhọc nhằn của người
làm nón. Nón cân bằng hai bên và giữ được chắc là nhờ quai thao, đây là sợi dây dệt
bằng tơ ở hai đầu có tua thao mềm mại tôn lên vẻ đẹp, tính cách dịu dàng của người
con gái Việt.
Ngày nay, các bà các mẹ thường đội nón chóp nhọn. Nón có khung bằng 16
vành tre chuốt nhỏ, mỏng, dễ uốn. Khuôn nón làm như vậy tạo nên sự thanh thoát hài
hòa tôn lên vẻ đẹp của người đội nón. Nón đẹp tựa như một tác phẩm nghệ thuật từ
bàn tay kì diệu của con người. Vành tre cật chuốt nhỏ, lá cọ phẳng, phơi khô, trắng
muốt xếp đều tăm tắp và được khâu bằng những sợi cước mảnh, chắc. Người thợ làm
nón dùng kim và cước để khâu từng lớp lá vào 16 vành nón. Khâu nón bao giờ cũng
khâu từ đỉnh rồi xuống các vành nón, vết khâu phải thật đều thẳng hàng với nhau. Nón
của các cô gái trẻ thì được khâu bằng lá nõn, trắng ngà, mượt mà mỏng và nhẹ. Phía
bên trong chóp nón có đính gương, lòng nón được trang trí hoa văn, dùng chỉ hồng
lồng và buộc quai. Quai nón được làm bằng những dải lụa nõn nà đủ màu sắc: trắng
trinh bạch, đen gấm sang trọng đặc biệt là màu tím thủy chung.
Nón đẹp nổi tiếng của làng Chuông, làng Triều Khúc (Hà Nội), làng Chuông
còn nổi tiếng với chiếc nón bài thơ xứ Huế. Nhìn những cô gái Huế thướt tha trong bộ
áo dài tím mộng mơ, đội nón bài thơ đi dưới tia nắng ấm áp của mặt trời thì còn lời
nào tả xiết cho vẻ đẹp duyên dáng ấy. Chiếc nón lá trong tay các cô gái trở thành
những điệu múa thật đẹp. Nón làm cho người phụ nữ Việt Nam đẹp hơn, duyên dáng
hơn. Nón cũng là của là biểu tượng của Việt Nam cùng với tà áo dài.
Ngày nay cuộc sống hiện đại đã có những chiếc ô và bao loại mũ với kiểu dáng
đẹp , hợp thời trang cũng có công dụng như nón lá. Điều đó cũng làm cho nón lá mất
dần đi vị trí của mình. Mặc dù vậy, nón lá vẫn là một sản phẩm văn hóa mang nét đặc
trưng của người Việt. Nón lá vẫn là một niềm tự hào của dân tộc ta.
Ngày 05/12/2014
TUẦN 12 ÔN TẬP CÂU GHÉP
Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm, ngồi lên lại nằm xuống, vừa run
vừa kêu:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình
phải tù, phải tội.
c) Xe chạy chầm chậm…Mẹ tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau tôi đuổi kịp. Tôi thở
hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay
tôi, xoa đầu tôi hỏi, thì tôi òa khóc rồi cứ thế nức nở. Mẹ tôi cũng sụt sùi theo…
7/ Tìm cặp quan hệ từ nối các vế câu trong các câu ghép dưới đây.
a) Nếu bà con đi làm thì thật con tôi chết oan.
b) Vì Thủy Tinh đến sau nên Thủy Tinh không lấy được Mị Nương làm vợ.
c) Để môi trường được trong sạch thì chúng ta nên hạn chế sử dụng bao bì ni lông.
d) Tuy miêng cười nói như vậy mà bụng ông cứ rối bời lên.
8/ Có thể đảo các vế câu trong các câu ghép ở bài tập 3 không. Khi đổi trật tự các vế
câu cần lưu ý điều gì.
9/ Viết một đoạn văn giới thiệu một loài cây quý ở quê em(chú ý sử dụng câu ghép),
gạch chân dưới câu ghép đã sử dụng.
3/ Ông đồ: biểu tượng cho lớp nhà nho hết thời, là “cái di tích tiều tụy đáng thương
của một thời tàn” vì: Ông đồ đang tồn tại hữu hiệu nhưng lại đang bị xã hội phủ nhận.
Sự hữu hiệu ấy chỉ là cái dấu tích rớt lại của một nền văn hóa vốn rất tốt đẹp nhưng đã
bị lụi tàn, tiều tụy và đáng thương.
- Khi chữ nho còn thịnh hành, ông đồ được mến mộ trọng vọng, nhưng khi Hán học
suy tàn, thú chơi câu đối không còn, ông đồ bị lãng quên và mất hẳn giữa dòng đời
tấp nập.
4/
Đoạn thơ trên đã sử dụng thành công hàng loạt các biện pháp tu từ: điệp ngữ,
câu hỏi tu từ, nhân hóa để diễn tả tình cảnh ông khi thất thế và gửi gắm tâm trạng của
nhà thơ. Điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng vẻ thê lương, người đến thuê ông đồ viết
ngày một ít dần. Ông đồ rơi vào tình thất nghiệp, hết thời như một nghệ sĩ hết công
chúng, một cô gái hết nhan sắc: “Còn duyên kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về
trưa một mình”. Một tâm trạng buồn tủi, xót xa, một nỗi tiếc nuối khắc khoải đến đau
lòng trào dâng trong câu hỏi: “Người thuê viết nay đâu?”. Ông đồ thực sự bị lãng
quên. Và hai câu “Giấy đỏ…sầu” là những câu thơ hay nhất trong bài thơ. Phép nhân
hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ này. Nỗi buồn của ông đồ phú cho giấy và
nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía. Màu giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn
đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến nữa. Nghiên mực không được bút lông
chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Nỗi buồn tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa,
thấm đẫm sang cả những hành trang mà ông mang theo. Hay nói cách khác là giấy và
nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm với nỗi buồn của ông đồ. Khổ thơ đã diễn tả niềm
tiếc nuối, xót xa của tác giả cho một lớp người đã bị lãng quên, một nền văn hóa bị
mai một.
5/
Khổ thơ thứ tư diễn tả sâu sắc nhất tình cảnh ông đồ khi thất thế. Có sự đối lập
đầy xót xa giữa cái không thay đổi và cái đã thay đổi. Ông đồ vẫn ngồi đấy như xưa
không có gì thay đổi nhưng cuộc đời đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua lại
nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông đồ. Nếu như trước thì “mỗi năm mỗi
vắng”, tức là dù ít ỏi nhưng vẫn còn người đến thuê ông đồ viết nhưng nay thì hết hẳn.
Ông đồ vẫn ngồi đấy, vẫn kiên trì cố bán lấy sự sống, vẫn muốn có mặt trong cuộc
đời nhưng người đời đã lãng quên hẳn ông. Đó là sự lãng quên tuyệt đối. Ông trở nên
lạc lõng giữa cuộc đời, lòng ông trống vắng sụp đổ đất trời cũng thê lương:
“Lá vàng rơi trên giấy/ Ngoài trời mưa bụi bay”. Đây là hai câu thơ giàu tính tạo hình
đặc sắc nhất trong bài thơ này. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng khéo léo, tài
tình. Hai câu thơ tả cảnh nhưng chính là tả nỗi lòng của ông đồ. Ngoại cảnh nhưng
thực ra là tâm cảnh. Khổ thơ khiến ta hình dung ra hình ảnh ông đồ ngồi bó gối trên
vỉa hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ không buồn nhặt, mắt ngơ ngác nhìn ra màn mưa bịu
mịt mù. Cảnh ngày Tết nhưng không thấy hoa đào mà chỉ thấy “lá vàng, mưa bụi”
những hình ảnh mang nỗi niểm của lòng người. “ Lá vàng” rơi bao giờ cũng gợi cảm
giác buồn bã, tàn tạ, khiến ta liên tưởng đến sự tàn phai, rơi rụng, cũng giống như vận
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 56 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
ông đồ đã đến lúc tàn suy. “Mưa bụi” bay lất phất đầy trời gợi lên một không gian mịt
mờ ảm đạm – như chính số phận của ông đồ. Ông đồ thất thế thì nỗi buồn tủi của ông
của lan tỏa sang cảnh vật, dường như cả trời đất cũng buồn bã ảm đạm cùng với nỗi
buồi của ông. Và khổ thơ cũng là niềm thương cảm xót xa của nhà thơ dành cho
một lớp nhà nho đang bị tàn tạ, chôn vùi trong quên lãng trước sự thay đổi của cuộc
đời. Đó cũng là niềm tiếc nuối cho một nét đẹp văn hóa đã bị suy tàn. Đó chính là
niềm hoài cổ, tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của tác giả.
6/Dàn ý chi tiết:
“Ông đồ” là bài thơ thành công nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên và cũng là một
trong những tác phẩm hay nhất trong phong trào Thơ mới, làm nổi tiếng tên tuổi của
nhà thơ trên văn đàn. Nhận xét về tác phẩm này, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã
viết: “Ông đồ là nơi gặp gỡ của hai nguồn thi cảm: tình thương người và lòng hoài
cổ”. Đó là một nhận định hoàn toàn chính xác.
Bài thơ mở đầu vằng nhịp điệu thời gian lặp đi lặp lại đã trở thành nếp, thành
quy luật quen thuộc. Cứ khi hoa đào nở lại thấy ông đồ già xuất hiện cùng mực tàu,
giấy đỏ bên phố nhộn nhịp người sắm Tết:
Mỗi năm hoa đào nở….đông người qua
Ông đồ được mọi người tìm đến thuê viết câu đối để trang trí nhà cửa vào ngày Tết và
gửi gắm lời chúc tốt lành. Khi đó ông đồ rất đắt hàng:
Bao nhiêu người ….khen tài
Khách đến thuê ông đồ viết rất đông, khi ấy ông có dịp trổ tài và được khen tài: “Hoa
tay…rồng bay.”. Nghệ thuật so sánh đã nhấn mạnh tài năng của ông đồ trong việc viết
chữ. Người ta tìm đến ông không chỉ để thuê viết mà còn để thưởng thức tài viết chữ
đẹp của ông đồ với thái độ thán phục và ngưỡng mộ. Ông đồ trở thành trung tâm của
sự chú ý. Đó là thời kì “vàng son ’’nhất của ông đồ. Nhưng người xưa quan niệm, chữ
nho là chữ thánh hiền. Học chữ nho không phải để kiếm sống mà để làm người, để
phò vua giúp nước. Ngày Tết mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc
dĩ của giới nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi
thời. Vậy nên những lời khen của người mua cũng động viên an ủi ông đồ nhiều. Họ
xúm xít thuê ông đồ viết chữ, trầm trồ trước tài hoa của ông cũng có nghĩa là biết trân
trọng tài năng và cái đẹp.
Nhưng thời gian biến đổi, mọi hình ảnh trong quá khứ đã phai nhạt. Nếu như
trước đây mỗi năm hoa đào nở lại đưa đến cho ông đồ “bao nhiêu người thuê viết” thì
nay:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Nhịp thời gian bao hàm cả sự bài mòn suy thoái. Điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng
vẻ thê lương, người đến thuê ông đồ viết ngày một ít dần. Ông đồ rơi vào tình thất
nghiệp, hết thời như một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc: “Còn duyên
kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Một tâm trạng buồn tủi, xót
xa, một nỗi tiếc nuối khắc khoải đến đau lòng trào dâng trong câu hỏi: “Người thuê
viết nay đâu?”. Ông đồ thực sự bị lãng quên. Giấy và nghiên cũng buồn cũng sầu vì
không được dùng đến. Phép nhân hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ này. Nỗi
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 57 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
buồn của ông đồ phú cho giấy và nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía. Màu
giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến nữa.
Nghiên mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Nỗi buồn
tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa, thấm đẫm sang cả những hành trang mà ông mang
theo. Hay nói cách khác là giấy và nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm với nỗi buồn
của ông đồ.
Nếu trước kia, sự xuất hiện của ông đồ làm cho khôn gian và lòng người thêm
náo nức, người ta đón nhận ông bằng cả sự trân trọng, kính yêu thì giờ đây:
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
. Có sự đối lập đầy xót xa giữa cái không thay đổi và cái đã thay đổi. Ông đồ vẫn ngồi
đấy như xưa không có gì thay đổi nhưng cuộc đời đã khác xưa. Đường phố vẫn đông
người qua lại nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông đồ. Nếu như trước thì “mỗi
năm mỗi vắng”, tức là dù ít ỏi nhưng vẫn còn người đến thuê ông đồ viết nhưng nay
thì hết hẳn. Ông đồ vẫn ngồi đấy, vẫn kiên trì cố bán lấy sự sống, vẫn muốn có mặt
trong cuộc đời nhưng người đời đã lãng quên hẳn ông. Đó là sự lãng quên tuyệt đối
Ông trở nên lạc lõng giữa cuộc đời, lòng ông trống vắng sụp đổ đất trời cũng thê
lương:
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”.
Đây là hai câu thơ giàu tính tạo hình đặc sắc nhất trong bài thơ này. Nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình được sử dụng khéo léo, tài tình. Hai câu thơ tả cảnh nhưng chính là tả
nỗi lòng của ông đồ. Ngoại cảnh nhưng thực ra là tâm cảnh. Khổ thơ khiến ta hình
dung ra hình ảnh ông đồ ngồi bó gối trên vỉa hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ không buồn
nhặt, mắt ngơ ngác nhìn ra màn mưa bịu mịt mù. Cảnh ngày Tết nhưng không thấy
hoa đào mà chỉ thấy “lá vàng, mưa bụi” những hình ảnh mang nỗi niểm của lòng
người. “ Lá vàng” rơi bao giờ cũng gợi cảm giác buồn bã, tàn tạ, khiến ta liên tưởng
đến sự tàn phai, rơi rụng, cũng giống như vận ông đồ đã đến lúc tàn suy. “Mưa bụi”
bay lất phất đầy trời gợi lên một không gian mịt mờ ảm đạm – như chính số phận của
ông đồ. Ông đồ thất thế thì nỗi buồn tủi của ông của lan tỏa sang cảnh vật, dường như
cả trời đất cũng buồn bã ảm đạm cùng với nỗi buồi của ông.
Khổ thơ cuối là nỗi chơi vơi, cảm giác nuối tiếc mất mát của tác giả:
Năm nay đào lại nở
….Hồn ở đâu bây giờ?
Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến như không còn nguyên vẹn như xưa. Ngôn ngữ
có sự biến đổi tinh tế, từ “ông đồ già” thành “ông đồ xưa”, biến nhân vật thành “cái di
tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”. Bài thơ khép lại bằng tiếng “gọi hồn” tha
thiết của tác giả. “Những người muôn năm cũ” ấy là ai”? Là ông đồ, là những người
đến thuê ông đồ viết hay là một thời đã đi qua chỉ còn vang bóng. Dẫu là gọi ai thì
câu thơ vẫn kết đọng bao nỗi xót xa cho sự tàn tạ của những nét đẹp văn hóa của dân
tộc. Nhà thơ gọi tiếc nuối, gọi để thức tỉnh mọi người hãy giữ lấy giá trị truyền thống
ngàn đời mà cha ông ta đã bao công bồi đắp.
Nói tóm lại, bài thơ là niềm thương cảm của tác giả cho một lớp người đã bị
chôn vùi trong quên lãng. Niềm tiếc nuối cho một nét đẹp văn hóa truyền thống của
dân tộc đã bị mai một. Đó chính là sự hòa quyện giữa “tình thương người và niềm
hoài cổ” trong thơ Vũ Đình Liên. Bài thơ cũng giúp ta hiểu hơn về tác giả: một con
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 58 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
người giàu tình yêu thương, có một thái độ giàu chất nhân văn , thể hiện tinh thần dân
tộc đáng trân trọng.
Trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 chúng em đã được học truyện ngắn Lão
Hạc của nhà văn Nam Cao. Sau đây là đôi nét nổi bật vể tác giả và tác phẩm.
Nam Cao sinh năm 1917 mất năm 1951, tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở huyện
Lí Nhân tỉnh Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc, chuyên viết về người
nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã
hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 59 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Ông đã hi sinh trên đường công tác ở vùng sau lưng địch. Những tác phẩm nổi tiếng
của ông là: Truyện ngắn Chí Phèo, Giăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc, Đôi mắt, tiểu
thuyết Sống mòn…. Nam Cao được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật năm 1996.
Lão Hạc là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân được
nhà văn sáng tác năm 1943. Truyện kể về cuộc đời, số phận và phẩm chất của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám qua nhân vật lão Hạc. Lão Hạc có một người
con trai, một mảnh vườn và một con chó . Con trai lão vì nghèo túng, không lấy được
vợ, phẫn chí bỏ làm ăn xa, lão chỉ còn lại mỗi con chó làm bạn. Lão rất yêu quý con
con chó gọi nó là cậu Vang, lão ăn gì cũng cho nó ăn đấy. Nhưng vì cuộc sống túng
quẫn, lão già yếu không làm ra tiền, lại không muốn tiêu vào tiền dành dụm cho con,
muốn giữ lại mảnh vườn cho con, nên lão đành phải bán cậu Vàng – người bạn thân
thiết nhất của lão. Lão đem tất cả chỗ tiền dành dụm được sang gửi ông giáo và nhờ
trông coi hộ mảnh vườn. Từ hôm đó lão kiếm được gì ăn nấy và từ chối sự giúp đỡ
của ông giáo. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói là để bẫy chó làm thịt. Nghe
Binh Tư kể chuyện ấy ông giáo rất buồn vì một con người đáng kính như lão Hạc mà
cũng phải theo gót Binh Tư để kiếm ăn. Rồi lão Hạc bỗng nhiên chết, cái chết thật dữ
dội. Cả làng không ai hiểu vì sao lão chết chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu. Lão đã ăn
bả chó tử tử để kết thúc cuộc đời túng quẫn của mình và để bảo toàn vốn liếng cho
con.
Là một học sinh được học tác phẩm của ông, em vô cùng kính phục tài năng và
tấm lòng của ông dành cho người nông dân nghèo khổ. Ông luôn trận trọng, nâng niu,
tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của con người ẩn sau vẻ ngoài nghèo khổ. Đó
là cái nhìn chan chứa tinh thần nhân đạo của nhà văn đối với con người. Ông xứng
đáng được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Bài tập 2
Các em đã được học bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh trong chương
trình Ngữ văn lớp 8
1. Chép chính xác bài thơ ấy và cho biết bài thơ được viết theo thể thơ nào.
2. Trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Phan Bội Châu và thể thơ của bài thơ
trên trong một bài văn thuyết minh
Câu 2:
a.Trình bày được cảm nhận về vấn đề câu chuyện nêu ra:
Từ câu chuyện cái chậu nứt,xấu hổ vì mình đã không làm tròn nhiệm vụ mà
không biết rằng:Chính vết nứt của mình đã làm tươi tốt những luống hoa bên vệ
đường,góp phần làm đẹp căn nhà của người chủ.Câu chuyện gợi lên những suy
ngẫm về triết lý cuộc sống:
*- Mỗi con người có thể có khiếm khuyết( như cái vết nứt của cái chậu) nhưng
không vì thế mà người ấy trở nên vô dụng,bỏ đi. Con người có thể có khiếm
khuyết ở mặt này, việc này nhưng lại hữu dụng ở việc khác, mặt khác. Hãy biết tự
tin và tận dụng “vết nứt” của mình.
* Câu chuyện cũng nêu lên bài học về nhìn nhận , đánh giá và sử dụng con
người. Cái chậu nứt cũng trở nên hữu dụng nhờ người chủ biết tận dụng vết nứt của
nó để tưới cho những luống hoa. Con người dù là có khiếm khuyết cũng có thể hữu
dụng nếu người quản lý biết dùng người đúng việc, đúng người. Ông cha ta đã dạy:
dụng nhân như dụng mộc chính là ở ý nghĩa này, một cái nhìn rất nhân văn về con
người.
b.Liên hệ bản thân, xác định quan điểm sống; tự tin, không mặc cảm dù
mình có khiếm khuyết; biết tận dụng nh ững “ vết nứt” của mình; luôn cống
hiến hết khả năng của mình.
Câu 3
1/ Mở bài :
Học sinh dẫn dắt và nêu được vấn đề nghị luận : Chị Dậu và Lão Hạc là những
hình tượng tiêu biểu cho phẩm chất và số phận của người nông dân Việt Nam trước
cách mạng tháng tám
2/ Thân bài:
a. Chị Dậu và Lão Hạc là những hình t ượng tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của ng-
ười nông dân Việt Nam trước cách mạng .
* Chị Dậu : Là một mẫu mực vừa gần gũi vừa cao đẹp của người phụ nữ nông thôn
Việt Nam thời kì trước cách mạng : Có phẩm chất của người phụ nữ truyền thống, có
vẻ đẹp của người phụ nữ hiện đại. Cụ thể :
- Là một người vợ giàu tình thương : Ân cần chăm sóc người chồng ốm yếu giữa vụ
sưu thuế.
- Là người phụ nữ cứng cỏi, dũng cảm để bảo vệ chồng .
* Lão Hạc :Tiêu biểu cho phẩm chất người nông dân thể hiện ở :
- Là một lão nông chất phát, hiền lành, nhân hậu ( dẫn chứng).
Câu 1 (4 điểm):
Cho khổ thơ sau:
“ Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”.
( Ông Đồ - Vũ Đình Liên )
Chỉ ra biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ trên? Phân tích cái
hay của mỗi câu thơ.
Câu 2 ( 6 điểm):
Em có suy nghĩ như thế nào về thông điệp trong câu chuyện sau đây.
Khi người ta gửi đi một nụ cười.
Cô gái cười với một người xa lạ rầu rĩ, nụ cười làm cho anh ta cảm thấy phấn
chấn hơn. Anh mơ đến sự tử tế của một người bạn cũ và viết cho người ấy một lá thư
cảm ơn. Người bạn này vui sướng vì nhận được thư của người bạn cũ lâu ngày không
gặp đến nỗi sau bữa trưa anh boa một món tiền lớn cho chị hầu bàn. Chị hầu bàn
ngạc nhiên vì món tiền bo quá lớn, đã quyết định mang tất cả đi mua vé số. Và trúng
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 67 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
số. Ngày hôm sau chị đi nhận giải và cho người ăn mày trên phố một ít tiền lẻ. Người
ăn mày rất biết ơn vì đã hai ngày nay anh ta chẳng được ăn gì. Sau bữa tối anh ta trở
về ăn phòng tối tăm của mình. Trên đường về, anh ta thấy một chú chó con đang rét
run lập cập, anh mang nó về để sửa ấm cho nó. Chú chó rất vui mừng vì được cứu
khỏi cơn bão tuyết sắp đến gần. Đêm ấy, trong khi mọi người đang ngủ say thì ngôi
nhà bốc cháy, chú chó con sủa sóng siết. Chú chó sủa cho đến khi đánh thức tất cả
mọi người trong nhà dậy và cứu tất cả mọi người thoát chết. Một trong những chú bé
được cứu thoát đêm ấy sau này trở thành bác sĩ tìm ra một loại vắc – xin chữa khỏi
một căn bệnh vô cùng nguy hiểm cho loài người. Tất cả là nhờ một nụ cười.
(Góc tâm hồn)
Câu 3 ( 10 điểm)
“ Chiếc lá dũng cảm, tình người bao la” Bằng kiến thức đã được học qua văn bản
“ Chiếc lá cuối cùng” của OHen –ri em hãy làm sáng tỏ nội dung trên bằng một bài
văn nghị luận.
II/HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Câu 1
Dân gian có câu: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” để nói đến sức
mạnh kì diệu của nụ cười, nụ cười đã mang lại nhiều điều tốt đẹp cho con người. Câu
chuyện “Khi người ta gửi đi một nụ cười” càng khẳng định rõ giá trị của nụ cười trong
cuộc sống.
Yêu cầu về hình thức ( 1 điểm)
- Viết đúng thể loại, nội dung.
- Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, không mắc lỗi dùng từ, chính tả.
- Văn phong rõ ràng, giàu hình ảnh.
Yêu cầu về nội dung ( 5 điểm)
- Nêu được vấn đề cần nghị luận ( 05 điểm)
- Giải thích tình huống ( 0,5 điểm)
+ Nụ cười mang lại nhiều cảm xúc khác nhau Niềm vui, phấn chấn
May mắn, sẻ chia
Cứu giúp, nó ấm
Thành công, sáng tạo
Ý nghĩa: Nụ cười có sức mạnh kì diệu, mang lại nhiều điều tốt đẹp cho con
người.
Nội dung câu chuyện ( 3 điểm)
+ Tiếng cười là trạng thái cảm xúc vui mừng, soảng khoái của con người trước đời
sống và trong mối quan hệ giữa con người với nhau.
+ Tiếng cười có sức mạnh kì diệu Tiếng cười tạo niềm vui nhân đôi
Tiếng cười giúp con người thắt chặt tình cảm.
Tiếng cười là sự động viên khích lệ.
+ Tiếng cười chỉ phát huy hết sức mạnh khi xuất phát từ tình cảm chân thành và phù
hợp với từng tình huống hoàn cảnh.
+ Người thiếu tinh thần lạc quan, nhìn đời bằng cái bi quan sẽ không thấy hết sự đời kì
diệu của tiếng cười.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 68 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
+ Sống lạc quan, yêu đời không chỉ mang lại nhiều niềm vui, hạnh phúc cho mọi
người xung quanh.
Thông điệp ( 1 điểm):
+ Câu chuyện là một thông điệp quý giúp chúng ta nhìn nhận khía cạnh khác của tiếng
cười, đó là sức mạnh kì diệu của nó.
+ Nhắc nhở mọi người hãy sống lạc quan, yêu đời, đem niềm vui, chia sẻ tiếng cười
cho mọi người xung quanh.
Câu 3:
Yêu cầu về hình thức ( 1 điểm)
- Viết đúng thể loại, nội dung.
- Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, không mắc lỗi dùng từ, chính tả.
- Văn phong rõ ràng, giàu hình ảnh.
Yêu cầu về nội dung (10 điểm)
- Mở bài ( 1 điểm): Dẫn dắt – đưa yêu cầu nội dung vào bài
- Thân bài ( 9 điểm): Làm rõ hai nội dung chính:
+ Chiến lá dũng cảm Tác phẩm hội họa đích thực ( 0,5 điểm)
Kiệt tác của họa sĩ già ( cụ Bơ – men) đã giúp Giôn – xi
chiến thắng cái chết, dần trở về với sự sống -> niềm tin và
nghị lực ( 4 điểm).
+ Tình người bao la Người hoạc sĩ già đã hiến dâng sự sống của mình để giành
lại sự sống và tuổi trẻ cho Giôn – xi ( 2 điểm).
Tình bạn bè, tấm lòng nhân ái, vị tha của Giôn – xi bao
la, sâu nặng vô bờ ( 2 điểm).
OHen –Ri đã ngợi ca tình thương, tấm lòng vị tha cao cả của những con người
nghèo khổ trên đất Mĩ đầu thế kỉ XX nói riêng, trên trái đất này nói chung. ( 0,5
điểm).
- Kết bài (1 điểm) Ý nghĩa tác phẩm
Thông điệp gửi tới bạn đọc.
Ngày 26/12/2014
TUẦN 19 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH
Bài tập 1
Viết bài văn thuyết minh về các loài hoa trong ngày Tết cổ truyền của Việt Nam.
(hoa đào hoa mai)
Tết đến, xuân về trăm hoa đua nở. Hoa nào cũng đẹp, hoa nào cũng thơm nhưng
ai cũng phải khẳng định hoa đào, hoa mai là loài hoa đặc trưng của ngày Tết .
Hoa đào là loài hoa đặc trưng cho Hà Nội, biểu tượng cho mùa xuân và sức
sống bất diệt của Bắc Việt. Một đóa hoa đào mang lại bao nhiêu cảm xúc cho lòng
người, như báo hiệu một sự khởi đầu của năm mới. Mọi người chuộng chơi đào ngày
Tết vì có lẽ màu đỏ của hoa đào mang lại sự may mắn, phúc lộc đầu năm.
Cây đào chỉ trồng ở miền Bắc, là loại hoa nở vào mùa xuân, nhưng muốn cho
hoa nở đúng vụ thì lại là một vấn đề phức tạp. Nó đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của
người trồng hoa. Đào có nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch, đào thất tốn. Nhưng
giống đào đẹp nhất là đào bích, có màu hồng thẫm, sai quả, sai hoa, là giống đào dùng
để chơi vào ngày tết. giống đào phai có màu hồng nhạt cũng rất sai qua, sai hoa nhưng
thường trồng để lấy quả. Đào bạch thì ít hoa, có màu trắng và thuwong đối khó trồng.
Đào thất tốn có màu đỏ thẫm được trồng vào chậu, người trồng uốn các thế khác nhau.
Ở Hà Nội có hai vùng trồng đào đẹp nhất là Nhật Tân và Ngọc Hà.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 74 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nếu hoa đào là biểu trưng của miền Bắc thì hoa mai là biểu trưng của miền
Nam. Mai biểu trưng cho sự tinh khiết, thanh bạch, tấm lòng tri kỉ. Mai có nhiều loại:
chi mai, bạch mai, hoàng mai, mai tứ quý. Thú chơi mai thật cầu kì, công phu vì để
tôn được vẻ đẹp của mai thật không dễ. Cây mai vàng rụng lá vào mùa đông. Thân
cành mềm mại hơn đào. Hoa mai mọc thành chùm có cuống dài treo lơ lửng trên cành.
Mai có màu vàng , mùi thơm thoang thoảng kín đáo, e ấp như một người con gái e
thẹn. Mai ưa ánh sáng và đất ẩm. Mai tứ quý thì nở bốn mùa. Mai nhị độ thì nở hai lần
trong năm. Mai vàng bây giờ cũng được trồng ở miền Bắc nhưng cần tránh gió rét và
hoa nở chậm.
Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào nhưng cánh to hơn hoa đào. Nụ mai
không phô hồng như nụ đào chỉ khi sắp nở nụ mai mới phô vàng ra. Điểm khác biệt
lớn nhất giữa mai và đào là mai có hương thơm. Cành mai cũng có phần uyển chuyển
hơn cành đào. Thú chơi mai cũng giống như thú chơi đào, chỉ khác biệt là hoa mai chỉ
có ở miền Nam mà thôi.
Hoa đào dịu hiền, hoa mai tươi thắm, các loài hoa đua nhau khoe sắc với đất
trời. Mỗi loài hoa đều có màu sắc riêng, vẻ đẹp riêng nhưng chúng đều góp phần tô
điểm cho sắc xuân thêm vui tươi và đầm ấm. Chúng sẽ mãi đi vào ngày tết cổ truyền
của dân tộc Việt Nam.
Bài tập 2
Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở quê hương em?( Chùa Bối Khê)
Dàn ý chi tiết:
Em sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên bình. Quê hương em có nhiều danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa đã được nhà nước xếp hạng nhưng nổi tiếng
nhất phải kể đến chùa Bối Khê – Di tích lịch sử cấp quốc gia đã được nhà nước trùng
tu tôn tạo nhiều lần.
Chùa nằm trên đất thôn Bối Khê, trung tâm xã Tam Hưng huyện Thanh Oai
thành phố Hà Nội.Chùa được xây dựng theo cấu trúc “ngoại quốc nội công”. Ở phía
ngoài bao gồm Tiền đường, Tao bảo, hai bên hành lang dựng theo hình chữ quốc, bên
trong hậu đường là điện thờ thánh dựng theo hình chữ công.Toàn bộ cấu trúc được
sắp xếp hai bên theo đường trục chính.
Trước cổng chùa có sân đất rộng, có cây đa, cây đề cổ thụ, đường kính sát gốc
bằng ba vòng tay người lớn ôm không xuể. Muốn vào chùa ta phải qua ngũ quan. Đây
là cổng chùa cũng là cổng làng Bối Khê. Phía trên cổng chính có dòng chữ “Đại bi tự”
– đó chính là tên của chùa. Qua cổng chùa ta sẽ thấy ngay một chiếc cầu gạch bắc
ngang qua một hào nước hẹp – Đó chính là con sông Đỗ Động giang. Đi qua cầu là
Tam quan cao hai tầng tám mái, tầng trên treo hai quả chuông lớn đường kính 60 cm
và cao 1 m.
Qua khỏi tam quan là sân gạch khoảng 400m2 , trong sân trồng cây đại, cây
móng rồng, các cây cảnh khác và hai con voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một
bên trồng sen và một bên là giếng nước sinh hoạt gọi là Giếng Chùa.
Tòa Tam bảo còn gọi là thượng điện thờ Phật – Pháp – Tăng, cấu tạo theo bốn
hàng cột, mỗi hàng bốn chiếc, thềm điện có sáu cột đỡ chia thành bảy gian. Tam bảo
được trùng tu nhiều lần mới đẹp như hôm nay. Năm 2006 chùa được trùng tu toàn bộ.
Hai bên hành lang chạy dọc là 18 vị la hán ngồi trên bệ đá thể hiện đủ vác
gương mặt giống như các vị la hán ở chùa Tây Phương. Sau cuối dãy hành lang là thờ
Đức ông và Đức thánh hiền.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 75 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Sau Tam bảo là hậu cung thờ Đức thánh Bối: Nguyễn Đình An, là người có
thực, là một vị thiền sư đắc đạo thời Trần, ngài thuộc dòng họ Nguyễn sinh năm Tân
Tỵ(1281)- Đời vua Trần Nhân Tông, người đã có công đánh giặc. Năm 7 tuổi đã mồ
côi cha mẹ, ở nhà cô cậu ở thôn Bùi Xá, sớm có lòng từ bi ngài thường tới chùa nghe
giảng kinh, vào mùa hanh khô thường rủ bạn bè tát các vũng nước cạn, đem tôm cá bắt
được thả ra sông. Đến năm 15 tuổi, người đi tu lấy hiệu là Đức Minh đến tu ở chùa
Tràng An(Chùa Sở) thuộc làng Tiên Lữ - Hà Đông – Hà Nội. Năm 95 tuổi ngày cho
làm một cái khám son ở mép tả điện trong chùa và mời dân làng, học trò trong vùng
đến dặn rằng: “Nay thầy số trời đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm
thì thờ, tanh hôi thì cho an táng sau chùa. Nhưng mới được 30 ngày thì có hương
thơm và ánh hào quang tỏa ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các
làng xung quanh. Sau đó Bối Khê cùng 10 làng xung quanh mang kiệu đến rước bát
phù hương về thờ và nhận làm anh em kết nghĩa với làng Tiên Lữ.
Cuối đời Trần vua hiếm muộn nên cùng hoàng hậu về ngự giá cầu tự và đã sinh
được quý tử. Vua phong cho ngài là “Thượng đẳng tôn thần” và phong chùa lên hàng
“Quốc tế”. Năm 1979 chùa được bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn
hóa.
Chùa Bối Khê là niềm tự hào của nhân dân Bối Khê nói riêng và cả xã Tam
Hưng nói chung. Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng giêng âm lịch là ngày hội của chùa.
Du khách thập phương và người dân quê hương đi làm ăn xa thì đến ngày này cũng trở
về để lễ Phật lễ Thánh cầu cho gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Đó cũng
là một nét đẹp văn hóa , một truyền thống tốt đẹp ở quê hương em.
c) Nếu đúng là đoạn văn thuyết minh thì đoạn văn đã sử dụng các phương pháp thuyết
minh nào?
4/ Đọc đoạn văn sau:
Vườn bách thú Hơ –rơ- bin ở Trung Quốc vừa làm lễ kỉ niệm ngày chào đời của
ba chú hổ trắng: hai cái, một đực. Trên thế giới hiện nay chỉ có khoảng 200 con hổ
trắng, nên sự ra đời của chúng là một tin mừng đối với kho tàng động vật quý hiếm
của thế giới. Duy nhất, từ xưa đến nay, chỉ có một con hổ trắng được phát hiện trong
thế giới hoang dã vào năm 1951 tại một khu rừng ở Ấn Độ. Còn lại, toàn bộ số hổ
trắng có hiện nay đều được sinh ra với sự giúp đỡ của con người.
a) Đoạn văn trên có mấy câu? Câu chủ đề là câu nào? Vì sao? Có thể đặt tên cho đoạn
văn không?
b) Vì sao gọi đây là đoạn văn thuyết minh? Những yếu tố nào khiến cho bạn đọc tin
cậy và thích thú?
5/ Cho câu đố sau:
Bốn chân trông giống cột đình
Vòi dài tai lớn, dáng hình oai phong
Lúc ra trận, khi xiếc rong
Thồ hàng kéo gỗ đều không quản gì?
a) Là con gì?
b) Dựa vào câu đố, viết một đoạn văn thuyết minh ngắn khoảng 3 -4 câu giới thiệu về
con vật vừa đoán.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 78 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
6/ Cho câu đố sau:
Cũng gọi là quả
Chẳng ở trên cây
Có vảy có vây
Suốt ngày bơi lội
a) Là con gì?
b) Viết một đoạn văn giới thiệu về con vật vừa đoán và những món ăn pha chế từ con
vật đó, mà em yêu thích.
7/ Viết bài thuyết minh về con trâu.
Ngày soạn:01/01/2015
TUẦN 21 ÔN TẬP VĂN BẢN NHỚ RỪNG – THẾ LỮ
2/ Bài thơ đã mượn lời con hổ trong vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét
thực tại tầm thường giả dối và niềm khát khao tự do mãnh liệt bằng những vần thơ
tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Bài thơ đã khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân
mất nước thủa ấy.
3/
- Đoạn 1: Anh hùng thất thế.
- Đoạn 2: khúc trường ca dữ dội.
- Đoạn 3: sự tiếc nuối quá khứ huy hoàng.
- Đoạn 4: niềm uất hận trước thực tại tầm thường.
- Đoạn 5: khát vọng tự do cháy bỏng.
4/
Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một khúc trường ca dữ dội của chúa sơn lâm
trong quá khứ. Với búp pháp lãng mạn, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tác giả đã làm nổi
bật lên hình ảnh rừng già “ngàn năm cao cả âm u” đầy hoang vu, bí hiểm, dữ dội và
oai linh. Đó là cảnh “bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, tiếng
thét khúc trường ca dữ dội”. Biện pháp liệt kê kết hợp với điệp từ “với” đã mở ra vẻ
đẹp bất tận, hào hùng của chốn rừng thiêng. Trên cái phông nền của núi non hùng vĩ
ấy hiện ra bóng dáng đẹp đẽ oai hùng của chúa sơn lâm.:
“Ta bước chân lên ….không tuổi”.
Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm diễn tả từng bước chân oai vệ, chuyển động
vừa mạnh mẽ vừa mề mại của chúa sơn lâm. Khi rừng thiêng thét lên khúc trường ca
dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên trong tư thế dõng dạc, đường hoàng, rồi lượn
tấm thân, vờn bóng và quắc lên ánh mắt thần. Với nhiều động từ, tính từ, so sánh ẩn
dụ giàu chất tạo hình đoan thơ đã miêu tả thật chính xác từng động tác của bàn chân,
tấm thân và ánh mắt gợi lên vẻ đẹp vừa uy nghi dũng mãnh vừa mềm mại uyển
chuyển của chúa sơn lâm.
Ngày soạn:08/01/2015
TUẦN 21
ÔN TẬP VĂN BẢN QUÊ HƯƠNG – TẾ HANH
5/Nhận xét về bài thơ "Quê hương" của nhà thơ Tế Hanh, có ý kiến cho rằng: "Dường
như trong kí ức của người đi xa đầy ắp những kỉ niệm về quê hương xứ sở và luôn
thường trực một nỗi nhớ không nguôi"
Em hãy chứng minh ý kiến trên qua hai khổ thơ sau (Trích trong bài thơ "Quê hương"
của Tế Hanh)
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
…..
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh cá bạc chiếc buồm vôi,
Thoáng thấy con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Ngày 10/01/2015
TUẦN 22
ÔN TẬP VĂN BẢN “KHI CON TU HÚ” – TỐ HỮU
2/ Nhan đề Khi con tu hú: chỉ là vế phụ của một câu, chưa trọn ý, nhưng chính chỗ
chưa trọn ý đó đã gợi ra bao liên tưởng cho người tù cách mạng. Căn cứ vào nội dung
bài thơ có thể hiểu là : Khi chim tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, nguời tù cách mạng
cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống
tự do ở bên ngoài. Tiếng chim tu hú là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng
bừng bên ngoài, của trời cao tự do lồng lộng. Tiếng chim ấy đã tác động mạnh mẽ đến
tâm hồn người tù
3. Trong bài thơ, tiếng chim tu hú được nhắc đến hai lần trong bài thơ:
Lần 1 ở câu thơ đầu: gợi ra cảnh mùa hè đẹp đẽ, tràn đầy nhựa sống khơi gợi niềm
khát khao tự do của người tù cách mạng.
Lần 2 ỏ câu thơ cuối: tiếng chim ấy khiến nhà thơ cảm thấy bực bội, đau khổ, day dứt.
Nhưng cả hai lần tiếng chim ấy đều vang lên như tiếng gọi của tự do.
4/
Sáu câu thơ đầu của bài thơ Khi con tu hú là bức tranh mùa hè tươi đẹp tràn
trề nhựa sống. Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức gọi trong lòng người tù khu cảnh
mùa hè tràn ngập âm thanh, rực rỡ sắc màu,và ngọt ngào hương vị. Người chiến sĩ
như nhìn thấy “lúa chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây, nghe được
“tiếng ve ngân” trong vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng tượng của
người tù luôn ở trạng thái căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy tiếng, đầy
sân, càng rộng, càng cao. Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả một bức
tranh mùa hè tràn trề nhựa sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không gian: có
màu vàng của lúa chiêm, màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào, màu xanh
của trời cao. Sinh động nhất là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Hình
ảnh đó là biểu hiện cao độ của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của tác giả. Đôi
con diều sáo đang thỏa sức “lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay chính tác giả
đang vượt qua song sắt nhà tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn bức tường của
phòng giam chật chội chỉ qua một âm thanh nghe được người tù như nhìn thấy, ngửi
thấy, nếm thấy và cảm thấy được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sống
bên ngoài. Đoạn thơ cho ta cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát khao tự do
cháy bỏng và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 93 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
5/
Đoạn thơ đã diễn tả cảm giác ngột ngạt, bực bội, đau khổ và niềm khát khao tự
do cháy bỏng của người tù cách mạng. Bốn câu thơ lục bát được ngắt làm hai câu cảm
thán, với nhịp thơ bất thường (6/ 2: 3/ 3), kết hợp với các động từ mạnh, từ cảm thán
làm cho đoạn thơ trở thành tiếng kêu phẫn uất của một người mất tự do. Mùa hè tươi
đẹp của cuộc sống bên ngoài thôi thúc người tù đạp tan cả bốn bức tường của phòng
giam. Tiếng chim tu hú ở câu mở đầu là một âm thanh quen thuộc báo hiệu mùa sôi
động, tưng bừng sự sống, đầy ắp tự do đang đến. Còn tiếng chim tu hú ở câu cuối
vẫn là tiếng gọi của tự do nhưng nó da diết, thúc giục càng làm cho người tù đau khổ
thấm thía(“Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”). Cảnh trong tưởng tượng càng đẹp bao
nhiêu thì người tù cách mạng càng đau đớn sôi sục ý chí căm thù vì mất tự do bấy
nhiêu. Cuối cùng để kết thúc cảnh tù đầy ngột ngạt đó, để trở về với cuộc sống hoạt
động sôi nổi tự do người tù cách mạng đã vượt ngục trở về với đồng chí, với quê
hương. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh bay cao.
5/
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, cuộc đời thơ của ông gắn liền với cuộc đời
cách mạng. Đang hăng say hoạt động cách mạng thì ông bị bắt giam trong bốn bức
tường chật chội nguời tù cảm thấy ngột ngạt, cô đơn, hướng tất cả cõi lòng ra cuộc
sống bên ngoài. Bài thơ khi con tu hú được sáng tác trong hoàn cảnh đó.
“ Khi con tu hú” là tiếng lòng của người thanh niên 19 tuổi say mê lí tưởng,
thiết tha yêu đời, hăng hái hoạt động nhưng lại bị giam cầm cách biệt với cuộc sống
bên ngoài. Bài thơ được làm theo thể thơ lục bát giản dị, thiết tha thể hiện sâu sắc tình
yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong
cảnh tù đày.
Mở đầu bài thơ là một bức tranh mùa hè tươi đẹp tràn trề nhựa sống hiện ra
trong tâm tưởng của người tù:
" Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng, càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không ...
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức gọi trong lòng người tù khu cảnh mùa hè tràn ngập
âm thanh, rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vị. Người chiến sĩ như nhìn thấy “lúa
chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây, nghe được “tiếng ve ngân” trong
vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng tượng của người tù luôn ở trạng thái
căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy tiếng, đầy sân, càng rộng, càng cao.
Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả một bức tranh mùa hè tràn trề nhựa
sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không gian: có màu vàng của lúa chiêm,
màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào, màu xanh của trời cao. Sinh động nhất
là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Hình ảnh đó là biểu hiện cao độ
của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của tác giả. Đôi con diều sáo đang thỏa sức
“lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay chính tác giả đang vượt qua song sắt nhà
tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn bức tường của phòng giam chật chội chỉ
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 94 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
qua một âm thanh nghe được người tù như nhìn thấy, ngửi thấy, nếm thấy và cảm thấy
được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sống bên ngoài. Đoạn thơ cho ta
cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát khao tự do cháy bỏng và trí tưởng tượng
phong phú của nhà thơ.
Cảnh trong tưởng tượng càng đẹp bao nhiêu thì người tù càng cảm thấy đau khổ
vì mất tự do bấy nhiêu:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu ! "
Nếu ở khổ thơ trên, tâm trạng người tù ẩn trong cảnh, chan hòa với cảnh thì ở đoạn
này niềm khát khao bật thành lời, giãi bày trực tiếp với mùa hè. Bốn câu thơ lục bát
được ngắt làm hai câu cảm thán, với nhịp thơ bất thường (6/ 2: 3/3), kết hợp với các
động từ mạnh, từ cảm thán làm cho đoạn thơ trở thành tiếng kêu phẫn uất của một
người mất tự do. Mùa hè tươi đẹp của cuộc sống bên ngoài thôi thúc người tù đạp tan
cả bốn bức tường của phòng giam. Tiếng chim tu hú ở câu mở đầu là một âm thanh
quen thuộc báo hiệu mùa sôi động, tưng bừng sự sống, đầy ắp tự do đang đến. Còn
tiếng chim tu hú ở câu cuối vẫn là tiếng gọi của tự do nhưng nó da diết, thúc giục càng
làm cho người tù đau khổ thấm thía(Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu). Cảnh trong
tưởng tượng càng đẹp bao nhiêu thì người tù cách mạng càng đau đớn sôi sục ý chí
căm thù vì mất tự do bấy nhiêu. Cuối cùng để kết thúc cảnh tù đầy ngột ngạt đó, để trở
về với cuộc sống hoạt động sôi nổi tự do người tù cách mạng đã vượt ngục trở về với
đồng chí, với quê hương. Con chim cách mạng ấy đã cất cánh bay cao.
Với mười câu lục bát giản dị, bài thơ “Khi con tu hú” thể hiện thật sâu sắc, thật
thiết tha lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người tù cộng sản
trong cảnh tù đầy. Những nỗi niềm riêng ấy cho thấy tâm hồn người chiến sĩ cách
mạng thật phong phú và cao đẹp. Đó cũng chính là điều mà khiến mỗi chúng ta khâm
phục và cần phải học tập.
7/ Thế Lữ và Tố Hữu là hai nhà thơ nổi tiếng của trong nền thơ hiện đại
Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ có một phong cách sáng tác khác nhau. Thế Lữ tiêu
biểu cho hồn thơ lãng mạn còn Tố Hữu lại tiêu biểu cho thơ cách mạng. Nhưng đến
với bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ và bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu lại có một điểm
chung: Đó là niềm khát khao tự do cháy bỏng của nhân vật trữ tình. Nhận xét về hai
bài thơ này, có ý kiến cho rằng: ““ Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm
khao khát tự do cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức. Tuy nhiên thái độ đấu
tranh cho tự do ở mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau”.
Thậy vậy, cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khát khao tự do
cháy bỏng của tầng lớp thanh niên trí thức lúc bấy giờ nhưng cách đấu tranh cho tự do
ở mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau.
Tình yêu nước và niềm khát khao tự do cháy bỏng trong bài thơ Nhớ rừng được
thể hiện gián tiếp qua lời của một con hổ trong vườn bách thú.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Con hổ từ chỗ là chúa tể của muôn loài, là oai linh nơi rừng thẳm nay nó bị nhốt trong
cũi sắt làm trò lạ mắt thứ đồ chơi nên nó vô cùng cay đắng căm uất. Nỗi cay đắng căm
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 95 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
hờn chứa chất lâu trong lòng con hổ đã trở thành hình thành khối có nghĩa là rất nhiều.
Nó đang nghiền ngẫm thấm thía sự đau khổ cay đắng của thân phận tù hãm và nung
nấu hờn căm, uất hận trong tư thế buông xuối, bất lực.
Và trong cảnh tù đày đó, nó nhớ tiếc quá khứ oai hùng khi ở chốn rừng thiêng,
“thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Với búp pháp lãng mạn, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tác giả đã làm nổi bật lên hình
ảnh rừng già “ngàn năm cao cả âm u” đầy hoang vu, bí hiểm, dữ dội và oai linh.Trên
cái phông nền của núi non hùng vĩ ấy hiện ra bóng dáng đẹp đẽ oai hùng của chúa sơn
lâm:
“Ta bước chân lên ….không tuổi”.
Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm diễn tả từng bước chân oai vệ, chuyển động
vừa mạnh mẽ vừa mề mại của chúa sơn lâm. Khi rừng thiêng thét lên khúc trường ca
dữ dội thì con hổ cũng bước chân lên trong tư thế dõng dạc, đường hoàng, rồi lượn
tấm thân, vờn bóng và quắc lên ánh mắt thần. Với nhiều động từ, tính từ, so sánh ẩn
dụ giàu chất tạo hình đoan thơ đã miêu tả thật chính xác từng động tác của bàn chân,
tấm thân và ánh mắt gợi lên vẻ đẹp vừa uy nghi dũng mãnh vừa mềm mại uyển
chuyển của chúa sơn lâm.
Đoạn thơ thứ ba đã sử dụng thành công nghệ thuật điệp ngữ kết hợp với câu hỏi
tu từ để diễn tả sâu sắc niềm tiếc nuối của khứ huy hoàng của chúa sơn lâm:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
……. .
Than ôi! Thời oanh liệt nay con đâu?
Trong nỗi nhớ da diết của con hổ hiện lên 4 cảnh, cảnh nào cũng có núi rừng hùng vĩ,
dữ dội, tráng lệ và thơ mộng và con hổ ở vị trí trung tâm với một tư thế uy nghi, dũng
mãnh của chúa sơn lâm. Đó là cảnh “những đêm vàng bên bờ suối” thơ mộng và lộng
lẫy với hình ảnh con hổ “say mồi đứng uống ánh trăng tan” như một nghệ sĩ vừa kiêu
hùng vừa hào hoa. Đó là cảnh “ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” đẹp một cách
hùng tráng với hình ảnh vị chúa tể đang “lặng ngắm giang sơn đổi mới”. Trong tư thế
này con hổ giống như một nhà hiền triết trầm lặng ngắm đất trời thay đổi sau mưa bão.
Đó là “cảnh bình minh cây xanh nắng gội”, chan hòa ánh nắng, tưng bừng rộn rã tiếng
chim ca nâng giấc ngủ bình yên cho chúa sơn lâm. Khi đó hổ như một bậc đế vương
hiền lành có chim ca hầu quanh giấc ngủ. Và cuối cùng là cảnh “chiều lênh láng máu
sau rừng” đẹp dữ dội với con hổ đang đợi chết mảnh mặt trời gay gắt để chiếm lấy
riêng phần bí mật. Trong cảnh cuối cùng này, nó chính là nó, vị chúa tể rừng già tàn
bạo, dữ dội, làm chủ bóng tối, làm chủ vũ trụ. “Chết mảnh mặt trời” là cách nói mới
mẻ giàu sức biểu cảm. Sắc đỏ của ánh tà dương trở thảnh máu của mặt trời đang hấp
hối, nhuộm đỏ cả không gian sau rừng. Vầng thái dương vị đại của vũ trụ chỉ là một
mảnh bé nhỏ trong con mắt ngạo mạn và khinh miệt của chúa sơn lâm.
Bốn bức tranh cùng vẽ về một con hổ với những phông nền và tư thế khác nhau
đã khái khoát trọn vẹn một thời oanh liệt huy hoàng của chúa sơn lâm. Bốn bức tranh
là 4 câu hỏi thể hiện niềm nuối tiếc uất hận thời quá khứ huy hoàng không bao giờ trở
lại cứ tăng dần. Và niềm nuối tiếc được đẩy lên đến đỉnh điểm trong câu thơ : “Than ôi
2/ Tìm câu nghi vấn trong các câu dưới đây và chỉ ra đặc điểm hình thức, công
dụng của nó?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 99 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
b) Tôi quắc mắt:
- Sợ gì? Mày bảo tao còn biết sợ cái ai hơn tao nữa!
c) Nào đâu tôi biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm! Tôi hối hận lắm! Anh mà
chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?
d) Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng…
Lượm ơi, còn không?
e)
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
g) Cả đàn bò giao cho thằng bé người không ra người ngợm không ra ngợm ấy, chăn
dắt làm sao?
4/ Tìm các câu cầu khiến trong các câu dưới đây và chỉ ra hình thức của các câu
cầu khiến đó:
a) Đừng cho gió thổi nữa ! Đừng cho gió thổi nữa!
b) Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó tất không khỏi bị tội chết. Thôi
bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Có chuyện gì để anh ở nhà lo liệu.
c) Đã ăn thịt còn lo liệu thế nào? Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu con ạ!
d) Con Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu lên cao nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó
đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”
e) Bà buồn lắm, toan vứt đi thì đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
g) Vua rất thích thu, vội ra lệnh:
- Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá.
5/ Hãy chỉ ra những từ biểu thị ý van xin trong cá câu cầu khiến sau:
a) Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như
thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông là phúc nói với ông lí
cho cháu khất…
b) Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông
trông lại!
6/ Tìm các câu cầu khiến trong các câu dưới đây và giải thích tại sao trong các câu
cầu khiến đó không có chủ ngữ.
a) Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
b) Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 100 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
c) Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
b)Câu nghi vấn dùng để phủ định việc sợ của Dế Mèn: “Tao không sợ gì cả” với sắc
thái kiêu căng, tự mãn.
c) Câu nghi vấn dùng để phủ định việc biết làm của Dế Mèn với sắc thái ân hận.
d) Câu nghi vấn dùng để bộc lộ cảm xúc thương xót của tác giả với chú bé Lượm.
e) Câu nghi vấn dùng để bộc lộ cảm xúc ngạc nhiên, thán phục với sắc thái tự hào.
e) Câu nghi vấn dùng để phủ định việc chăn bò của Sọ Dừa với sắc thái phân vân, nghi
ngờ.
3.
a) Cậu có thể đèo tớ về nhà được không?
b) Cậu có thể cho cháu mượn cái bút được không?
c) Sao lại có một bức tranh đẹp thế?
4.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 101 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
a) Đừng cho gió thổi nữa ! Đừng cho gió thổi nữa!
b). Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
c) Mày đừng có làm dại mà bay mất đầu con ạ!
d “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”
e) Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
g) - Hãy vẽ ngay cho ta một chiếc thuyền!
5.
a) làm phúc
b) xin
6.
a) Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười
con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
b) Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
c) Nộp tiền sưu! Mau!
Các câu cầu khiến trên không có chủ ngữ vì quan hệ giữa người nói và người nghe
không ngang bằng: người nói có vị trí xã hội cao hơn người nghe thể hiện sự thiếu tôn
trọng.
7.
a) Bác làm ơn cho cháu mượn cái thang ạ!
b) Mẹ cho con ít tiền để con mua quyển sách!
c) Bạn cho tớ mượn quyển vở Toán một lúc!
Từ in đậm thể hiện quan hệ của người nói và người nghe.
8.a)
- ( thể hiện thái độ kiên quyết)
- Chồng tôi đau ốm, ông đừng hành hạ!(mong muốn, cầu khẩn)
- Chồng tôi đau ốm, xin ông chớ hành hạ!( van xin)
b) Câu :Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! có tác dụng nhất vì đây là
mệnh lệnh từ trái tim, từ lẽ phải, do đó Chị Dậu kiên quyết hành động để bảo vệ
chồng.
9.
a) Hỡi anh chị em nhà nông tiến lên! ( HCM)
=> Thể hiện thái độ thiết tha.
b) Anh cứ trả lời thế đi! (Nam Cao)
=> Thể hiện thái độ thân mật.
c) Đi đi, con!
=> thái độ dịu dàng.
d) Mày đi đi!
=> thái độ gắt gỏng
e) Con đi đi!
=> Thái độ dịu dàng.
f) Đi đi, đồ khỉ!
=> Thái độ không hài lòng.
10.
Khổ thơ thứ ba trong bài thơ Ông đồ củaVũ Đình Liên đã sử dụng thành công
hàng loạt các biện pháp tu từ: điệp ngữ, câu hỏi tu từ, nhân hóa, để diễn tả tình cảnh
ông khi thất thế và gửi gắm tâm trạng của nhà thơ. Điệp từ “mỗi” nhấn mạnh sự vắng
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 102 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
vẻ thê lương, người đến thuê ông đồ viết ngày một ít dần. Ông đồ rơi vào tình thất
nghiệp, hết thời như một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc: “Còn duyên
kẻ đón người đưa/ Hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Một tâm trạng buồn tủi, xót
xa, một nỗi tiếc nuối khắc khoải đến đau lòng trào dâng trong câu hỏi: “Người thuê
viết nay đâu?”. Ông đồ thực sự bị lãng quên. Và hai câu “Giấy đỏ…sầu” là những
câu thơ hay nhất trong bài thơ. Phép nhân hóa được dùng rất đắt trong hai câu thơ
này. Nỗi buồn của ông đồ phú cho giấy và nghiên làm cho nỗi buồn trở nên thấm thía.
Màu giấy điều vốn đỏ thắm, giờ đây vẫn đỏ mà không thắm vì chẳng được ai đụng đến
nữa. Nghiên mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao nhiêu sầu tủi. Phải
chăng nỗi buồn tủi cô đơn của ông đồ đã lan tỏa, thấm đẫm sang cả những hành trang
mà ông mang theo? Hay nói cách khác là giấy và nghiên cũng biết chia sẻ, đồng cảm
với nỗi buồn của ông đồ. Đoạn thơ đã diễn tả được niềm đồng cảm, xót xa của nhà
thơ đối với một lớp người đã bị lãng quên, với một niềm văn hóa đã bị mai một.
Ngày 17/01/2015
TUẦN 22 ÔN LUYỆN NÂNG CAO
I/ CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1
Đọc câu chuyện sau và nêu suy nghĩ của em bằng một đoạn văn khoảng 10 câu:
Có người cha mắc bệnh rất nặng. Ông gọi hai người con trai đến bên giường và
ân cần nhắc nhở: “Sau khi cha qua đời, hai con cần phân chia tài sản một cách thỏa
đáng, đừng vì chuyện đó mà cãi nhau nhé!”
Hai anh em hứa sẽ làm theo lời cha. Khi cha qua đời họ phân chia tài sản làm
đôi. Nhưng sau đó người anh cho rằng người em chia không công bằng và cuộc tranh
cãi nổ ra. Một cụ già thấy thế dạy cho họ cách chia công bằng nhất: Đem tất cả đồ đạc
ra cưa đôi thành hai phần bằng nhau tuyệt đối. Hai anh em đó đồng ý.
Kết cục tài sản đó được chia công bằng tuyệt đối nhưng đó chỉ là đống đồ bỏ
đi.
Câu 2
Đọc câu chuyện sau: “Tờ giấy trắng” câu chuyện trên gợi cho em suy nghĩ gì?
Tờ giấy trắng
Có một lần, tại một trường trung học, ngài hiệu trưởng đến gặp các em học sinh để nói
chuyện. Trong khi nói, ông giơ lên cho các em thấy một tờ giấy trắng, trên đó có một
chấm tròn đen ở một góc nhỏ, và hỏi:
- Các em có thấy đây là gì không?
Tức thì cả hội trường vang lên:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 103 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Đó là một dấu chấm.
Ngài Hiệu trưởng hỏi lại:
- Thế không ai nhận ra đây là một tờ giấy trắng cả ư? Ngài kết luận:
- Thế đấy, con người luôn luôn chú ý đến những lỗi nhỏ nhặt mà quên đi tất cả
những phẩm chất tốt đẹp còn lại. Khi phải đánh giá một sự việc, hay là một con
người, thầy mong các em sẽ chú ý đến tờ giấy trắng nhiều hơn là những vết bẩn có
trên nó.
(Quà tặng cuộc sống)
Câu 3
Trong văn học hiện đại nước ta, có không ít các nhà văn đó thể hiện thành công việc
miêu tả tình mẫu tử, nhưng có lẽ chưa có nhà văn nào đó diễn tả tình mẹ con một cách
chân thật và sắc thấm thía như dưới ngòi bút Nguyên Hồng. Đằng sau những dòng
chữ, những câu văn là những “rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”(Thạch
Lam)
Qua trích đoạn Trong lòng mẹ ( Trích Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng)
em hãy làm sỏng tỏ nhận định trên.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1:
Câu chuyện trên kể cho chúng ta biết về hai anh em nhà nọ với số tài sản của
cha để lại.Họ đã không biết nhường nhịn nhau theo lời cha dặn mà tranh nhau tài
sản, tị nhau hơn kém, ai cũng muốn phải có sự công bằng tuyệt đối trong việc phân
chia tài sản. Để đạt được điều đó họ đã nghe theo lời khuyên của một ông già là
“Đem tất cả số đồ đạc ra cưa thành hai phần bằng nhau. Kết quả là tài sản của cha
để lại đã được chia thành hai phần bằng nhau tuyệt đối nhưng chỉ là đống đồ bỏ đi.
Câu chuyện trên đã dạy cho chúng ta một bài học trong cuộc sống là phải biết yêu
thương, nhường nhịn nhau, đừng vì tài sản, tiền bạc mà sinh lòng ghen ghét, đố kị.
Không thể có sự công bằng tuyệt đối trong cuộc sống cũng như trong việc phân chia
tài sản trong gia đình. Nếu lúc nào cũng tìm kiếm sự công bằng thì kết cục chẳng ai
được lợi gì. Sự công bằng chỉ tồn tại trong trái tim chúng ta . Trong bất cứ chuyện gì
đừng nên tính toán quá chi li. Nhường nhịn chính là tạo nên sự công bằng tuyệt
đối.Phải biết bằng lòng với những gì mình đã có. Tài sản của cha mẹ cho đến đâu ta
hưởng đến đó, không nên đòi hỏi, so bì hơn kém gây mất đoàn kết anh em. Tiền bạc
chỉ là vật ngoài thân, tình cảm gia đình mới là tình cảm thiêng liêng, cao quý chúng ta
cần giữ gìn, bảo vệ và trân trọng nó. Trên đời này không tồn tại sự công bằng tuyệt
đối
Câu 2
Câu chuyện “Tờ giấy trắng” đã gợi cho chúng ta bao suy nghĩ về cách đánh giá
nhìn nhận một sự việc và con người. Do thói quen của con người thường chú ý đến
lỗi nhỏ nhặt của người khác mà không nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Giống như các em học sinh trong câu chuyện trên chỉ chú ý đến cái chấm tròn đen mà
quên đi đó là tờ giấy trắng. Câu chuyện đã nhắc nhở chúng ta khi đánh giá một sự vật,
một con người cần có một cái nhìn toàn diện, tổng thể, đừng nhìn vào một lỗi nhỏ của
ai đó mà đánh giá họ là người chưa tốt, không tốt. Phải có cái nhìn bao dung, độ
lượng, biết bỏ qua những lỗi lầm nhỏ, phải nhìn thấy những mặt tốt của mỗi con
người mà đánh giá về họ, để động viên khích lệ họ trong cuộc sống. Câu chuyện đã
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 104 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
dạy cho chúng ta một bài học trong cuộc sống là có lòng bao dung, nhân ái, biết
thông cảm, chia sẻ và tha thứ cho những lỗi lầm nhỏ của người thân, của bạn bè.
Đừng nhìn vào lỗi lầm nhỏ mà cần nhìn vào bản chất tốt đẹp của mỗi con người để
nhìn nhận, đánh giá về họ.
3/ Tuổi thơ trong ký ức của mỗi con người bao giờ cũng chất chứa biết bao điều
kỳ diệu: khi là cánh diều chao nghiêng, khi là cánh cò trắng chập chờn bay vào những
giấc mơ… Còn đối với nhà văn Nguyên Hồng, ký ức tuổi thơ lại chính là Mẹ – người
quen thuộc và gần gũi nhất. "Những ngày thơ ấu" là những dòng hồi kí chân thực về
tuổi thơ của tác giả. Nhận xét về tác phẩm này Thạch Lam đã viết: "Đây là sự rung
động cực điểm của một linh hồn trẻ dại". Đoạn trích “Trong lòng mẹ" đã gây nhiều
xúc động mạnh mẽ cho người đọc vì đã khi thể hiện rất sâu sắc tình mẫu tử thiêng
liêng chất chứa trong từng câu chữ.
Đến với tác phẩm của Nguyên Hồng, người ta không phải là thưởng thức những
câu chuyện được dựng xây bằng tưởng tượng mà Nguyên Hồng đã “lôi kéo” người
đọc cùng chung sống với cuộc đời của nhà văn. Bởi lẽ “Những ngày thơ ấu” là một
phần kỷ niệm được rút ra trong tuổi thơ cay cực của chính nhà văn. Nó là những trang
hồi ký chứa đầy nước mắt, thổn thức xót xa của một trái tim sớm phải nếm vị đắng
cuộc đời, thiếu vắng tình thương và luôn khát khao tình yêu của mẹ. Niềm khát khao
ấy cháy bỏng, mãnh liệt như muốn phá tung tất cả để tìm đến tình thương, tìm đến
người mẹ. Và cũng chính từ tình cảm ấy, người đọc nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của
tình mẫu tử. Đó là động lực để giúp những đứa trẻ vượt lên khó khăn, vượt lên hoàn
cảnh bất hạnh để tìm đến một tương lai rạng ngời. Đó cũng là nguồn sức mạnh vô hình
an ủi và chở che cho những trái tim run rẩy.
Đoạn trích "Trong lòng mẹ" là câu chuyện chân thực và cảm động về một người
mẹ đáng thương phải chạy trốn những hủ tục khắt khe của xã hội, những định kiến
nghiệt ngã của người đời trói buộc, đọa đày người phụ nữ. Cũng như đó là một tâm
hồn nhạy cả, trong trắng, thơ ngây của một trái tim luôn tôn thờ người mẹ – bé Hồng.
Sinh ra trong gia đình bất hạnh, bé Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không có
tình yêu, lại càng gánh bất hạnh nhiều hơn nữa. Một ông bố nghiện ngập rồi chết mòn
chết rục bên bàn đèn thuốc phiện để lại cho người mẹ tất cả những cùng túng của gia
đình, cuối cùng phải ly hương kiếm sống. Thế là chỉ còn một mình bé Hồng phải sống
với gia đình họ nội, hứng chịu tất cả sự hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt, lắng nghe tất
cả những gièm pha về người mẹ đi tha phương cầu thực. Trong những câu chuyện
được thêu dệt bởi “bà cô bên chồng”, người mẹ luôn bị khinh bỉ, chửi mắng thậm tệ
nhưng nào ai hiểu rằng nỗi khổ tâm lớn nhất là cảnh xa con? Chỉ mỗi bé Hồng hiểu
mẹ và yêu mẹ hơn tất cả.
Hồng luôn tin tưởng khẳng định tình cảm của mẹ dành cho mình. Dẫu xa cách mẹ
cả về thời gian, không gian, dù bà cô có tinh ma độc địa đến đâu thì Hồng cũng quyết
bảo vệ đến cùng tình cảm của mình dành cho mẹ . Hồng luôn hiểu và cảm thông cho
tình cảnh cũng như nỗi đau của mẹ. Trong khi xã hội và người thân hùa nhau tìm cách
trừng phạt mẹ thì bé Hồng với trái tim bao dung và nhân hậu yêu thương mẹ sâu nặng
đã nhận thấy mẹ chỉ là nạn nhân đáng thương của những cổ tục phong kiến kia. Em đã
khóc cho nỗi đau của người phụ nữ khát khao yêu thương mà không được trọn vẹn.
Hồng căm thù những cổ tục đó: “Giá những cổ tục kia là một vật như .....thôi”
Hồng luôn khao khát được gặp mẹ. Nỗi niềm thương nhớ mẹ nung nấu tích tụ qua
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 105 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
bao tháng ngày đã khiến tình cảm của đứa con dành cho mẹ như một niềm tín ngương
thiêng liêng thành kính. Trái tim của Hồng như đang rớm máu, rạn nứt vì nhớ mẹ .Vì
thế thoáng thấy người mẹ ngồi trên xe, em đã nhận ra mẹ, em vui mừng cất tiếng gọi
mẹ mà bấy lâu em đã cất giấu ở trong lòng. Lòng vui sướng được toát lên từ những cử
chi vội vã bối rối từ giọt nước mắt giận hờn, hạnh phúc tức tưởi, mãn nguyện. Vừa
nhìn thấy mẹ em đã chay theo, gọi bối rối, thở hộc hộc, trán đẫm mồ hôi, khi trèo lên
xe ríu cả chân lại. Khi ngồi trong lòng mẹ cậu bé đã òa khóc nức nở. Đó là những giọt
nước mắt hạnh phúc của một đứa con xa mẹ lâu ngày nay được gặp lại. Ngồi trong
lòng mẹ em thấy mẹ vẫn tươi đẹp như hồi còn sung túc. Những cảm giác bao lâu nay
mất đi bỗng mơn man khắp da thịt. Em ước muốn mình bé lại, để lăn vào lòng mẹ
được mẹ gãi lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng. Đó chính là những
cảm giác ngây ngất, sung sướng, rạo rực của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.
Mọi điều sai lệch mà bà cô gieo vào lòng bé Hồng đều tan biết hết chỉ còn lại niềm
hạnh phúc giản dị mà thiêng liêng của lòng mẹ yêu còn và tình con cháy bỏng. Đoạn
văn là bài ca cảm động về mẫu tử thiêng liêng và bất diệt.
Dường như ,đoạn văn đã ắp đầy những cảm xúc êm ái lan toả toàn bộ không gian và
thời gian. Phút giây gặp gỡ ấy như ngưng đọng mãi niềm hạnh phúc trong trái tim
nhân vật cũng như người đọc.
Có những tình cảm dễ dàng đổ vỡ trước chông gai nhưng tình mẫu tử thiêng liêng
của bé Hồng đã không hề suy chuyển. Đó cũng là sự nhắc nhở cho mỗi con người phải
biết thương yêu kính trọng mẹ với tất cả tình cảm của mình. Có những tác phẩm đã
mau chóng bị lãng quên nhưng giá trị "Trong lòng mẹ" cũng như "Những ngày thơ
ấu"sẽ mãi mãi trường tồn bởi nó không những chứa đựng một tình cảm nhân đạo sâu
sắc mà còn là một triết lí về giá trị tình cảm gia đình, thấm đượm chất thơ giữa cuộc
đời nhiều cay cực.
Ngày soạn: 20/01/2015
Tuần 24
ÔN TẬP VĂN BẢN:
TỨC CẢNH PÁC BÓ, NGẮM TRĂNG, ĐI ĐƯỜNG – HỒ CHÍ MINH
b) Bài thơ vừa nói đến cảnh sinh hoạt vừa thể hiện tâm hồn của Bác: câu 1 nói về
chuyện ở, câu 2 nói về chuyện ăn, câu 3 nói về chuyện làm việc, câu 4 thể hiện trực
tiếp tinh thần lạc quan, tràn đầy niềm vui của Bác.
d) Hai câu đầu nói về việc ăn, ở thì câu thơ thứ 3 nói về cảnh làm việc của Bác. Đây là
câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng: “Bàn đá chông chênh” là nói
đến hoàn cảnh thực tại của Bác: Sống giữa thiên nhiên, bàn làm việc chỉ là một tảng
đá chông chênh bên bờ suối. “Dịch sử đảng” là dịch Lịch sử Đảng Liên Xô để làm tài
liệu cho cách mạng Việt Nam, đó là một công việc lớn. Đặt trong tương quan này cho
ta thấy tư thế và tầm vóc của HCT. Câu thơ cho thấy Bác là một người chiến sĩ chứ
không phải là một ẩn sĩ. Người chiến sĩ cách mạng đang toàn tâm toàn ý trong cuộc
đấu tranh vì độc lập dân tộc. Hình tượng người chiến sĩ với tư thế uy nghi, lồng lộng,
một vị lãnh tụ, nhà cách mạng vĩ đại sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn”.
Câu thơ thứ 4 kết tinh ý tứ của toàn bài thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”
e) “Thú lâm tuyền ” của Bác vừa giống và vừa khác với thú lâm tuyền của các bậc
ẩn sĩ xưa. Điểm giống nhau đó là niềm vui vô hạn khi được sống giữa thiên nhiên, hòa
mình với thiên nhiên. Còn điểm khác nhau là: Người xưa tìm đến “thú lâm tuyền” để
lánh đục về trong, để giữ trọn khí tiết, nhân cách thanh cao. Còn HCM vui với “thú
lâm tuyền” nhưng vẫn nguyên cốt cách người chiến sĩ cách mạng đang toàn tâm toàn ý
cống hiến cho cuộc đấu tranh dành độc lập của dân tộc. Người vẫn luôn một lòng vì
nước vì dân.
2. Ngắm trăng
a) “Ngục trung” là hoàn cảnh tù đày, thông thường “ngục trung” phải gắn với “tù
nhân”. Nhưng kết thúc bài thơ, người đọc lại bắt gặp một “thi nhân”. Một thi nhân
ngay trong hoàn cảnh ngục tù. Đây chính là nét khác thường của bài thơ. Có ngục tù
nhưng không có tù nhân. Điều này cho thấy bản lĩnh của Hồ Chí Minh luôn đứng cao
hơn hoàn cảnh. Nhà tù chỉ có thể giam cầm được thân thể Bác còn tâm hồn người thì
luôn tự do.
b) Vẻ đẹp của tâm hồn thi gia được thể hiện ở câu thơ thứ 2: “Đối thử lương tiêu nại
nhược hà”. Câu thơ đã diễn tả tất cả sự bối rối, xốn xang, áy náy của thi sĩ trước đêm
trăng đẹp. Trong hoàn cảnh ngục tù, có bao nhiêu khó khăn, gian khổ thế mà Bác lại
chỉ thấy đối diện với mình là vẻ đẹp của ánh trăng.
- Tư thế ngắm trăng: lặng lẽ đầy say mê, Vì hoàn cảnh ngục tù không có rươu, không
hoa nên toàn bộ tình cảm với ánh trăng chỉ biết trút vào ánh nhìn tha thiết vời vợi theo
vầng trăng.
d) Nhật kí trong tù là cuộc vượt ngục bằng tinh thần là nhận xét hoàn toàn chính xác.
Nhà tù chỉ giam cầm được thân thể Bác còn tinh thần Bác thì luôn tự do, Người đã thả
tâm hồn mình ra bên ngoài để giao hòa với thiên nhiên với vầng trăng.
e) Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ chữ Hán, chủ yếu là thơ tứ tuyệt, gồm 133
bài thơ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe hàng ngày trong nhà tù và trên đường đi
đày từ nhà lao này đến nhà lao khác.
- Nhật kí trong tù có nhiều giá trị lớn:
+ Phản ánh được hiện thực chế độ nhà tù, chế độ xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ: Đó là
một xã hội dày đặc những nhà tù. Bác bị bắt từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943 đã bị
giải tới, giải lui gần 30 nhà lao của 13 huyện thị tỉnh Quảng Tây- Trung Quốc. Đó là
một xã hội mà nhù tù nhiều hơn trường học.
+ Đó là một xã hội xấu xa chà đạp lên quyền sống của con người, xã hội tập trong
những bất bình:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm anh quanh
Trong đèn huyện trưởng làm công việc
Trời đất lai tân vẫn thái bình.( Lai tân)
Bài thơ nêu lên chân lý bình thường mà sâu sắc, không phải ai cũng thực hiện
được. Những khó khăn trong cuộc sống,con người muốn giải quyết đòi hỏi phải có
lòng kiên trì và sự quyết tâm.Kết quả của sự phấn đấu là thước đo lòng kiên trì của
mỗi con người.
c) Ý kiến thứ 2 đúng. Bởi vì bài thơ không chỉ nói chuyện đi đường mà hình ảnh con
đường trập trùng trong bài thơ còn là con đường đời, đường cách mạng.
4/ Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời Người còn là nhà
văn nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa thế giới. Người đã để lại cho chúng ta một sự
nghiệp văn chương đồ sộ. Mỗi bài thơ là một mảng tâm hồn trong sáng cao đẹp của
Hồ Chí Minh. Đến với bài thơ Tức cảnh Pác Bó, Ngắm trăng, Đi đường ta hiểu hơn vẻ
đẹp tâm hồn cũng như tình cảm và phong cách của người.
Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác sáng tác khi người mới về nước, trực tiếp
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, khi đó Người ở hang Pác Bó, một hang núi nhỏ thuộc
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 110 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
Đường luật với giọng điệu tự nhiên, thoải mái pha chút đùa vui hóm hỉnh, thể hiện
niềm vui, niềm lạc quan của Hồ Chủ Tịch khi được sống giữa thiên nhiên.
Sáng ra bờ suối tối vào hang
.......... Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Câu thơ thứ nhất đã diễn tả nhịp sống hàng ngày đều đặn đã thành nề nếp của
Bác nơi núi rừng. Sáng Bác ra bờ suối để làm việc, tối vàng hang để nghỉ ngơi. Câu
thơ thứ hai nói về thức ăn hàng ngày của Bác là cháo bẹ và rau măng luôn có sẵn, dưa
thừa. Cuộc sống của người nơi núi rừng đạm bạc gian khổ, nhưng Bác vẫn vui tươi,
say mê với cuộc sống cách mạng. Rất yêu thiên nhiên, rất thích thú khi được sống hoà
mình với thiên nhiên với núi rừng, gió trăng, với non xanh, nước biếc.
Hai câu đầu nói về việc ăn, ở thì câu thơ thứ 3 nói về cảnh làm việc của Bác.
Đây là câu thơ làm nổi bật vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng: “Bàn đá chông
chênh” là nói đến hoàn cảnh thực tại của Bác: Sống giữa thiên nhiên, bàn làm việc chỉ
là một tảng đá chông chênh bên bờ suối. “Dịch sử đảng” là dịch Lịch sử Đảng Liên Xô
để làm tài liệu cho cách mạng Việt Nam, đó là một công việc lớn. Đặt trong tương
quan này cho ta thấy tư thế và tầm vóc của HCT. Câu thơ cho thấy Bác là một người
chiến sĩ chứ không phải là một ẩn sĩ. Người chiến sĩ cách mạng đang toàn tâm toàn ý
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc. Hình tượng người chiến sĩ với tư thế uy nghi,
lồng lộng, một vị lãnh tụ, nhà cách mạng vĩ đại sáng tạo ra lịch sử nơi “đầu nguồn”.
Câu thơ thứ 4 kết tinh ý tứ của toàn bài thơ: “Cuộc đời cách mạng thật là sang”
“Sang” là sang trọng, giàu có, cao quý, đẹp đẽ. Cái sang của người cách mạng
không phải là cái sang về tiện nghi, vật chất, mà là cái sang về tinh thần cái sang của
tư thế ung dung, của phong cách văn hoá mà không phải ai nhiều tiền cang đạt
được. Chữ “sang” kết thúc bài thơ có thể coi là chữ “thần” là “nhãn tự” kết tinh toả
sáng toàn bài. Đó là tâm trạng tình cảm của HCM khi nhìn nhận đánh giá về cuộc đời
cánh mạng của mình. Câu thơ cho thấy niềm vui, niềm tự hào được sống giữa thiên
nhiên, được làm cách mạng, thấy được tinh thần lạc quan, ung dung tin tưởng của
người chiến sĩ vào sự nghiệp cách mạng.
Đến với bài thơ Ngắm trăng ta lại bắt gặp một tâm hồn thi sĩ tha thiết yêu thiên
nhiên, yêu ánh trăng, người đã ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biết, ngắm trăng
trong nhà tù:
Trong tù không rượu cũng không hoa...
Ngắm trăng là một thú thanh nhã của các bậc tao nhân mặc khách. Thi nhân xưa ngắm
trăng khi tâm hồn thư thái, uống rượu trước hoa mà thưởng nguyệt (khi xem hoa nở
khi chờ trăng lên ) còn Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt: trong nhà tù thì lấy
đâu có rượu và có hoa. Câu thơ cho ta thấy hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt của Bác. Thế
nhưng trăng đêm nay đẹp quá, biết làm thế nào. Câu thơ thứ hai đã diễn tả tâm trạng
bối rối, xốn xang của ngù khi đứng trước vầng trăng đẹp mà không có hai yếu tố cần
và đủ là rượu và hoa để thưởng nguyệt. Chính sự bối rối, xôn xang ấy cho thấy tình
yêu thiên nhiên mãnh liệt của tâm hồn nghệ sĩ. Người đã quên đi tất cả sự thiếu thốn
khổ cực nơi nhà tù để khao khát thưởng thức trọn vẹn cảnh trăng đẹp.
Không có rượu và hoa nhưng cuộc ngắm trăng vẫn diễn ra lột cách lặng lẽ, say
mê:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ…
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 111 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Đó là cuộc giao hoà tuyệt đẹp giữa trăng và người. Phép đối đã thể hiện được sự quấn
quýt tâm giao giữa trăng và người. Nhà tù trong phút chốc đã biết mất chỉ còn thi
nhân và vầng trăng. Mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết của một đôi bạn tâm giao thu
vào một chữ “khán” – ngắm. Như vậy song sắt nhà tù không ngăn nổi tâm hồn người
tù nghệ sĩ tìm đến với với thế giới của cái đẹp của tự do và ánh sáng. Mở đầu bài thơ
là hình ảnh của nhà tù và người tù nhưng đến cuối bài thơ nhà tù vẫn còn đó nhưng
không thấy bóng dáng người tù. Người tù đã vượt ngục trở thành nhà thơ. Đó là cuộc
vượt ngục bằng tinh thần. Câu thơ cho ta thấy sức mạnh tinh thần kì diệu, tình yêu
thiên nhiên mãnh liệt và phong thái ung dung vượt hẳn lên hiện thực tàn bạo của nhà
tù. Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người chiến sĩ cộng sản đã tạo nên
cuộc vượt ngục kì thú. Sự hòa quện giữa chất thép và chất tình cùng với nghệ thuật đối
ý, nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Đến với bài thơ Đi đường ta lại bắt gặp một triết lí sâu xa của một người đã trải
qua bao gian lao vất vả việc đi đường cũng như tinh thần lạc quan, niềm vui phơi phới
của người chiến sĩ cách mạng khi đã đạt tới đỉnh vinh quang:
Đi đường mới biết gian lao….
Bài thơ có hai lớp nghĩa. Lớp nghĩa thứ nhất là nói về việc đi đường: Đi đường bình
thường đã vất vả,con đường lên núi lại càng vất vả.Vượt qua ngọn núi này lại trèo núi
khác, núi tiếp núi trập trùng. Lên đến đích nhìn lại từ đỉnh cao ta thấy quãng đường đã
vượt qua khi đó mọi khó khăn trở thành nhỏ bé. Lớp nghĩa thứ 2 là nghĩa bóng: Khi
con người có quyết tâm lòng kiên trì vượt qua thử thách thì sẽ có hiệu quả cao trong
công việc. Bài thơ nêu lên chân lý bình thường mà sâu sắc,không phải ai cũng thực
hiện được. Những khó khăn trong cuộc sống, con người muốn giải quyết đòi hỏi phải
có lòng kiên trì và sự quyết tâm. Kết quả của sự phấn đấu là thước đo lòng kiên trì của
mỗi con người.
Tóm lại, ba bài thơ trên đã giúp em thêm hiểu, thêm yêu quý, kính phục Bác,
một con người có phong thái ung dung, niềm tin, niềm lạc quan chiến thắng, có tinh
yêu thiên nhiên tha thiết mãnh liệt. Nhớ có những phẩm chất tốt đẹp đó mà người mới
vượt quan bao khó khăn gian khổ để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, chúng
em mới có cuộc sống ấm no ngày hôm nay. Em sẽ cố gắng học tập đức tính kiên trì,
nhẫn lại, vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Bác để rèn luyện mình trong cuộc sống.
Ngày soạn:10/02/2014
Tuần 24 ÔN TẬP VĂN THUYẾT MINH
2 Thơ lục bát là thể thơ dân tộc, do cha ông ta sáng tạo ra. Một bài thơ làm theo
thể thơ lục bát ngắn nhất là phải có hai câu và nhiều nhất là vài nghìn câu. Thơ lục bát
phải đi theo cặp: cứ một câu sáu chữ lại đến một câu tám chữ, số câu trong một bài
không hạn định. Thơ lực bát gieo hai vần: vấn lưng và vần chân. Chữ thứ sáu của câu
sáu vần với chữ thứ sáu của câu tám(vần lưng). Chữ thứ tám của câu tám vần với chữ
thứ sáu của câu sáu ở cặp sau( vần chân), cứ như thế cho đến hết bài thơ. Thơ lục bát
thường ngắt nhịp: 2/2/2; 2/2/4; 4/4; 3/3. Cách gieo vần và ngắt nhịp như vậy làm cho
các bài thơ lục bát giàu nhạc điệu, dễ nhớ dễ thuộc.
3.
Em sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên bình. Quê hương em có nhiều danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa đã được nhà nước xếp hạng nhưng nổi tiếng
nhất phải kể đến chùa Bối Khê – Di tích lịch sử cấp quốc gia đã được nhà nước trùng
tu tôn tạo nhiều lần.
Chùa nằm trên đất thôn Bối Khê, trung tâm xã Tam Hưng huyện Thanh Oai
thành phố Hà Nội.Chùa được xây dựng theo cấu trúc “ngoại quốc nội công”. Ở phía
ngoài bao gồm Tiền đường, Tao bảo, hai bên hành lang dựng theo hình chữ quốc, bên
trong hậu đường là điện thờ thánh dựng theo hình chữ công.Toàn bộ cấu trúc được
sắp xếp hai bên theo đường trục chính.
Trước cổng chùa có sân đất rộng, có cây đa, cây đề cổ thụ, đường kính sát gốc
bằng ba vòng tay người lớn ôm không xuể. Muốn vào chùa ta phải qua ngũ quan. Đây
là cổng chùa cũng là cổng làng Bối Khê. Phía trên cổng chính có dòng chữ “Đại bi tự”
– đó chính là tên của chùa. Qua cổng chùa ta sẽ thấy ngay một chiếc cầu gạch bắc
ngang qua một hào nước hẹp – Đó chính là con sông Đỗ Động giang. Đi qua cầu là
Tam quan cao hai tầng tám mái, tầng trên treo hai quả chuông lớn đường kính 60 cm
và cao 1 m.
Qua khỏi tam quan là sân gạch khoảng 400m2 , trong sân trồng cây đại, cây
móng rồng, các cây cảnh khác và hai con voi đá chầu. Hai bên sân là hai hồ nước, một
bên trồng sen và một bên là giếng nước sinh hoạt gọi là Giếng Chùa.
Tòa Tam bảo còn gọi là thượng điện thờ Phật – Pháp – Tăng, cấu tạo theo bốn
hàng cột, mỗi hàng bốn chiếc, thềm điện có sáu cột đỡ chia thành bảy gian. Tam bảo
được trùng tu nhiều lần mới đẹp như hôm nay. Năm 2006 chùa được trùng tu toàn bộ.
Hai bên hành lang chạy dọc là 18 vị la hán ngồi trên bệ đá thể hiện đủ vác
gương mặt giống như các vị la hán ở chùa Tây Phương. Sau cuối dãy hành lang là thờ
Đức ông và Đức thánh hiền.
Sau Tam bảo là hậu cung thờ Đức thánh Bối: Nguyễn Đình An, là người có
thực, là một vị thiền sư đắc đạo thời Trần, ngài thuộc dòng họ Nguyễn sinh năm Tân
Tỵ(1281)- Đời vua Trần Nhân Tông, người đã có công đánh giặc. Năm 7 tuổi đã mồ
côi cha mẹ, ở nhà cô cậu ở thôn Bùi Xá, sớm có lòng từ bi ngài thường tới chùa nghe
giảng kinh, vào mùa hanh khô thường rủ bạn bè tát các vũng nước cạn, đem tôm cá bắt
được thả ra sông. Đến năm 15 tuổi, người đi tu lấy hiệu là Đức Minh đến tu ở chùa
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 114 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Tràng An(Chùa Sở) thuộc làng Tiên Lữ - Hà Đông – Hà Nội. Năm 95 tuổi ngày cho
làm một cái khám son ở mép tả điện trong chùa và mời dân làng, học trò trong vùng
đến dặn rằng: “Nay thầy số trời đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm
thì thờ, tanh hôi thì cho an táng sau chùa. Nhưng mới được 30 ngày thì có hương
thơm và ánh hào quang tỏa ra, mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các
làng xung quanh. Sau đó Bối Khê cùng 10 làng xung quanh mang kiệu đến rước bát
phù hương về thờ và nhận làm anh em kết nghĩa với làng Tiên Lữ.
Cuối đời Trần vua hiếm muộn nên cùng hoàng hậu về ngự giá cầu tự và đã sinh
được quý tử. Vua phong cho ngài là “Thượng đẳng tôn thần” và phong chùa lên hàng
“Quốc tế”. Năm 1979 chùa được bộ văn hóa thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử văn
hóa.
Chùa Bối Khê là niềm tự hào của nhân dân Bối Khê nói riêng và cả xã Tam
Hưng nói chung. Hàng năm, cứ đến ngày 12 tháng giêng âm lịch là ngày hội của chùa.
Du khách thập phương và người dân quê hương đi làm ăn xa thì đến ngày này cũng trở
về để lễ Phật lễ Thánh cầu cho gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Đó cũng
là một nét đẹp văn hóa , một truyền thống tốt đẹp ở quê hương em.
4/
Thơ thất ngôn bát cú Đường luật là thể thơ ra đời từ đời Đường ở Trung Quốc, là
thể thơ rất thông dụng trong các thể thơ Đường luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa
chuộng. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ai cũng có thể làm thể thơ này bằng chữ Hán
và chữ Nôm
Một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu mỗi câu 7 chữ, chia
làm 4 phần: đề, thực, luận, kết.
- Niêm, luật, vần, đối trong thơ Đường luật rất chặt chẽ. Niêm là quy luật phối thanh
theo chiều dọc làm cho các liên thơ dính lại với nhau. Hệ thống niêm này tính từ chữ
thứ 2 của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Câu 2 niêm với câu 3, câu
4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu 7, câu 8 niêm với câu 1 tạo cho bài thơ thành
một vòng tròn khép kín bền chặt.
- Luật là quy tắc phối thanh theo chiều ngang. Trong một câu 7 chữ thì chữ thứ 2-4- 6
phải tuyệt đối đúng thanh tạo thành đòn cân thanh điệu. Chữ thứ 4 là tâm đối xứng
phải khác thanh với chữ thứ hai và thứ 6. Cứ một câu 4 bằng 3 trắc lại đến một câu 4
trắc 3 bằng.
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
B B T T T B B
Lừng lẫy làm cho lở núi non
B T B B T T B
Thơ đường luật chỉ gieo một vần ,vần chân, và là vần bằng, gieo ở cuối câu
1,2,4,6,8. Bài thơ gieo vần ở từ Lôn, non, hòn, son, con.
Bài thơ Thất ngôn bát cú bắt buộc phải có đối ở câu 3 và 4 , 5 và 6 , đối phải chuẩn
chỉ cả về thanh về ý về lời.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Phép đối kết hợp với các động từ mạnh, giọng thơ dồn dập, gấp gáp diễn tả hành động
quả quyết mạnh mẽ của người anh hùng như đang bước và một trận chiến đấu mãnh
liệt.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 115 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Thơ Thất ngôn bát cú Đường luật ngắt nhịp chẵn trước lẻ sau không ngoại lệ.
Bài thơ được ngắt nhịp 2/2/3;4/3
Những kẻ vá trời/ khi lỡ bước
Gian nan chi kể/ việc con con!
Thơ thất ngôn bát cú là một thể thơ quan trọng, nhiều bài thơ hay đều làm theo
thể thơ này Ngày nay thơ thất ngôn bát cú vẫn còn được ưa chuộng.
Ngày 15/02/2015
TUẦN 25 ÔN TẬP CẢM THỤ VĂN HỌC, VĂN NGHỊ LUẬN
Ngày: 12/02/2015
TUẦN 24
ÔN TẬP VĂN BẢN HỊCH TƯỚNG SĨ – TRẦN QUỐC TUẤN
1/ Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh dùng để cổ
động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, hay dùng để răn
dạy thần dân, người dưới quyền.
- Đặc điểm của thể hịch: khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe, có kết cấu chặt chẽ,
lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục.
- Kết cấu của thể hịch thường có 4 phần: Nêu vấn đề : nêu truyền thống vẻ vang trong
sử sách để gây lòng tin tưởng.
- Nhận định tình hình để gây lòng căm thù giặc,
- Phân tích phải trái làm rõ đúng sai.
- Kết thúc nêu ra chủ trương cụ thể và kêu gọi đấu tranh.
- Hịch tướng sĩ về cơ bản giống kết cấu chung của thể hịch nhưng có sự thay đổi linh
hoạt, tác giả không nêu vấn đề riêng vì toàn bộ bài hịch là nêu vấn đề và giả quyết vấn
đề.
- Bố cục: 4 phần
+ Đoạn 1: từ đầu …..lưu tiếng tốt
=> Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công
danh, xả thân vì nước.
+ Đoạn 2: tiếp …..ta cũng vui lòng
=> Lột tả sự ngang ngược và tội ác của giặc đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.
+ Đoạn 3: tiếp …các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?
=> Phân tích phải trái làm rõ đúng sai chia làm 2 đoạn nhỏ. Đoạn 3a nêu mối ân tình
giữa chủ và tướng. Đoạn 3b khẳng định những hành động đúng nên làm để tướng sĩ
thấy rõ điều hay lẽ phải.
+ Đoạn 4 : còn lại, nêu nhiệm vụ cấp bách, khích lệ tinh thần chiến đấu.
- Tư tưởng chủ đạo: Nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù.
2/ Bài hịch ra đời trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ
hai(1284), trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đời Trần thì cuộc
kháng chiến lần hai gay go quyết liệt nhất. Giặc cậy thế mạnh ngang ngược hống hách,
ta sôi sục căm thù quyết tâm chiến đấu. Nhưng trong hàng ngũ tướng sĩ cũng có người
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 126 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
dao động, tư tưởng cầu hoà. Để cuộc chiến giành thắng lợi, điều quan trọng là phải
đánh bại được nhưng tư tưởng dao động, bàn quan của tướng sĩ (có nghĩa là đánh địch
ở trong ta).
- Mục đích: Bài hịch nhằm khích lệ lòng yêu nước, tinh thần trung quân ái quốc,
quyết chiến quyết thắng kẻ thù của tướng sĩ.
- Mục đích cụ thể của bài hịch: yêu cầu tướng sĩ ra sức tập luyện võ nghệ, nghiêm túc
học Binh thư yếu lược do chính Trần Quốc Tuấn soạn ra.
3/ Phần đầu tác giả nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung
Quốc nhằm khích lệ ý chí lập công danh, tinh thần xả thân vì nước của các tướng sĩ.
5/ Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước và căm thù giặc của
mình qua đoạn văn: “Ta thường tới bữa quên ăn....vui lòng”. Đây là đoạn văn đặc biệt
xúc động. Muốn khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ thái độ của chính mình.
- Tác giả đã dùng cách nói khoa trương với những câu văn biền ngẫu, các vế có 4 từ
liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa nhằm
nhấn mạnh nỗi đau đớn, day dứt, trăn trở cao độ ám ảnh trong mọi lúc từ bữa ăn, giấc
ngủ cả ngày lẫn đêm. Nỗi đau xót lớn lao trong lòng được biểu hiện ra thành dòng
nước mắt đầm đìa. Còn lòng căm thù giặc và ý chí tiêu diệt giặc được thể hiện mạnh
mẽ qua các hình ảnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Còn câu văn: “Dẫu
cho trăm ....vui lòng” khẳng định tinh thần xả thân vì nước, sẵn sàng chết trăm lần
miễn là tiêu diệt được quân giặc.
- Đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ trái tim của một vị
tướng coi lợi ích quốc gia là lợi ích tối cao.
7/ Qua bài hịch ta có thể cảm nhận được: Trần Quốc Tuấn là người có tâm hồn cao
đẹp, với lòng yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc mãnh liệt, với tướng sĩ vừa chân
tình vừa nghiêm khắc, có trí tuệ sắc sảo, có khả năng thuyết phục, khích lệ tài tình.
8
Mở bài: giới thiệu khái quát về bài hịch
Giới thiệu đoạn văn cần phân tích.
Thân bài:
- Thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc trong tướng sĩ:
+ Chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước.
+ Vạch rõ tội ác của giặc
- Nỗi lòng của tác giả
+ Nỗi đau đớn và căm thù giặc mãnh liệt
+ Ý chí quyết tiêu diệt giặc ngoại xâm
Kết bài: đánh giá ý nghĩa của đoạn văn với tác phẩm
Ngày 25/02/2014
TUẦN 25 ÔN TẬP CẢM THỤ VĂN HỌC, VĂN NGHỊ LUẬN
Câu 1
Phân tích tác dụng của phép tu từ chủ yếu trong đoạn thơ sau:
Bàn tay con nắm tay cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non...
( Trích Sáng tháng năm - Tố Hữu)
Câu 2
Câu 3
Khát vọng tự do là một trong những tư tưởng phổ biến trong nhiều tác phẩm thơ
ca Việt Nam hiện đại trước 1945. Hãy làm sáng tỏ điều đó qua hai đoạn thơ sau:
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
(Trích Nhớ rừng - Thế Lữ)
và:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !
( Trích Khi con tu hú - Tố Hữu)
2/ Giải thích vấn đề: Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" ( trích "Bình Ngô đại cáo" -
Nguyễn Trãi) có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập. bằng cách đưa ra các luận điểm,
luận cứ cơ bản sau:
a. Viết đúng câu chủ đề để nêu được luận điểm: Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" có ý
nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập. (Nếu chọn vị trí câu chủ đề ở cuối đoạn thì đó là
luận điểm kết luận).
b. Nêu các luận cứ để giải thích:
- Giới thiệu sơ lược về Bình Ngô đại cáo; giới thiệu vị trí đoạn trích: là phần đầu của
bài cáo.
- Giải thích tuyên ngôn độc lập: lời tuyên bố về độc lập, chủ quyền của một dân tộc,
đất nước. Khẳng định ý kiến cho rằng đoạn trích "Nước Đại Việt ta" có ý nghĩa như
bản tuyên ngôn độc lập là thỏa đáng, thể hiện được ý nghĩa to lớn của đoạn trích cũng
như của tác phẩm đối với lịch sử dân tộc.
- Tính chất tuyên ngôn độc lập thể hiện ở sự khẳng định quốc hiệu Đại Việt, nền văn
hiến lâu đời, địa phận lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có lịch sử oai hùng, có nhân tài
hào kiệt. Đó chính là sự tuyên bố, khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc.
(Lưu ý: Nếu học sinh viết không có câu chủ đề hoặc không đúng yêu cầu dung
lượng thì không cho quá 3,0 điểm.)
3/ Giới thiệu được hai tác phẩm, hai tác giả: Nhớ rừng của Thế Lữ là tác phẩm tiêu
biểu của Thơ mới 1932 - 1945; Khi con tu hú là một trong nhiều sáng tác trong tù đặc
sắc của Tố Hữu trong tập thơ Từ ấy, tiêu biểu cho thơ ca cách mạng trước 1945.
- Vị trí hai đoạn thơ: đoạn thơ trích trong Nhớ rừng là đoạn đầu của bài; đoạn thơ trích
trong Khi con tu hú là phần cuối của bài.
2. Phân tích, chứng minh:
a. Tổng quát:
- Giải thích khát vọng (khao khát, khát khao) tự do là khao khát, ước muốn có tự do,
thoát khỏi tình cảnh tù túng, mất tự do, mong muốn được sống đúng với lý tưởng, hoài
bão, giá trị bản thân, không bị trói buộc bởi ngoại cảnh. Khát vọng tự do là tư tưởng
chủ yếu được thể hiện trong hai bài thơ.
- Khái quát về đặc điểm Thơ mới (Văn học lãng mạn) và thơ ca cách mạng trước
1945: Thơ mới là một bộ phận của Văn học lãng mạn trước 1945, xu hướng đổi mới
thơ ca về hình thức nghệ thuật và nhất là nội dung tư tưởng; Thơ mới chủ yếu hướng
đến giải phóng cái Tôi cá nhân, đề cao bản ngã, tự do cá nhân. Thơ ca cách mạng
trước 1945 lại là xu hướng thơ thể hiện tiếng nói đấu tranh cách mạng theo khuynh
hướng vô sản, có nội dung tư tưởng tiến bộ, là vũ khí đấu tranh cách mạng của các
chiến sỹ cộng sản, thể hiện khát vọng tự do cao cả. Hai đoạn thơ đại diện cho hai
khuynh hướng thơ ca Việt Nam trước 1945.
b. Phân tích hai đoạn thơ để chứng minh:
* Điểm tương đồng: Khát vọng tự do đều thể hiện ở chỗ:
- Hai đoạn thơ đều thể hiện tâm trạng bức bối, căm uất của những thân phận tù ngục,
mất tự do trong cảnh nô lệ tăm tối của đất nước. (dẫn chứng và phân tích)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 130 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Hai đoạn thơ đều hướng đến cuộc sống tự do bên ngoài, đấu tranh để thoát khỏi cảnh
ngục tù, mất tự do.
* Điểm riêng độc đáo: Cách thể hiện khát vọng tự do, biểu hiện cụ thể của khát
vọng này ở hai đoạn thơ khác nhau:
- Đoạn thơ trong Nhớ rừng của Thế Lữ: Là những vần thơ đậm chất lãng mạn, dạt dào
cảm xúc, rất mới về ngôn từ. Khát vọng tự do thể hiện qua: tình cảnh tù ngục, mất tự
do rất đỗi thê thảm của chúa sơn lâm; nỗi căm uất cho thân phận; thể hiện sự ý thức rõ
về thân phận sa cơ, bị hạ thấp, bị biến thành trò mua vui cho người đời; tâm trạng tủi
nhục vì thân phận mất tự do. (dẫn chứng và phân tích).
- Đoạn thơ trong Khi con tu hú của Tố Hữu thể hiện khát vọng tự do qua tâm trạng
căm uất của một chiến sỹ cộng sản khi bị tù đày mà nghe hè về bên ngoài. Thể hiện
khát vọng tự do qua cảm giác ngột ngạt, bức bối vì mất tự do. Đặc biệt, khát vọng ấy
thể hiện qua khao khát tung phá, đập tan gông cùm, xiềng xích tù đày để đến với tự
do. (dẫn chứng và phân tích).
- Đoạn thơ trong Nhớ rừng của Thế Lữ là những vần thơ lãng mạn, đại diện cho khát
vọng tự do, tâm sự của cả một lớp trí thức bế tắc trước thời cuộc. Trong khi đó, đoạn
thơ trong Khi con tu hú của Tố Hữu lại là những vẫn thơ cách mạng đầy nhiệt huyết
tuổi trẻ, đại diện cho khát vọng tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc - một lý tưởng
cao cả của thời đại, là tiếng nói đấu tranh của những chiến sỹ cộng sản kiên trung.
c. Đánh giá, mở rộng:
- Hai đoạn thơ tuy đại diện cho hai trào lưu khác nhau, cách thức thể hiện khác nhau,
nhưng đều hướng đến mong muốn tự do, khao khát tự do cháy bỏng. Đây cũng chính
là tâm sự chung, khát vọng chung của một dân tộc đang chìm trong đêm đen nô lệ.
- Có thể liên hệ đến các bài thơ khác thuộc Thơ mới và thơ ca yêu nước, cách mạng
trước 1945.
3. Kết luận chung:
Khẳng định lại giá trị hai đoạn thơ, hai tác phẩm và bộc lộc suy nghĩ riêng.
Ngày 28/02/2015
TUẦN 26 ÔN TẬP VĂN BẢN: NƯỚC ĐẠI VIỆT TA
(Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
3/ So với bài Sông núi nước Nam thì quan niệm vể chủ quyền độc lập của Nguyễn
Trãi trong đoạn trích Nước Đại Việt ta được mở rộng hơn, hoàn chỉnh hơn. Nêu như
trong bài Sông núi nước Nam quan niềm về chủ quyền độc lập dân tộc được khẳng
định trên hai yếu tố là; cương vực lãnh thổ và chủ quyền thông qua người đại diện là
Vua thì ở Bình Ngô đại cáo cũng có sự kế thừa hai yếu tố đó( Núi sông bờ cõi đã chia/
xưng đế một phương) nhưng được bổ sung thêm nhiều phương diện nữa: văn hiến,
phong tục tập quán, truyền thống lịch sử, anh hùng hào kiệt. Quan niệm ấy đã đạt tới
sự toàn diện, sâu sắc, đây là sự phát triển cao của ý thức dân tộc trong lịch sử.
4.a
- Đoạn trích trên trích trong văn bản: Nước Đại Việt ta- trích Bình Ngô đại cao của
Nguyễn Trãi.
- Tác phẩm được viết năm 1428 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dành thắng lợi, đất
nước sạch bóng quân thù mở ra một kỉ nguyên thanh bình độc lập.
b. Điếu phạt: thương dân, đánh kẻ có tội.
Đại Việt: tên nước ta thời vua Lí Thánh Tông.
Văn hiến: truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 132 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Nội dung của đoạn trích: nêu lên tư tưởng nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền độc
lập của dân tộc Đại Việt.
5/
Nói dến nền Văn học trung đại Việt Nam thì chúng ta không thể không kể đến
hai tác phẩm nổi tiếng là Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo
của Nguyễn Trãi. Tuy ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng cả hai
tác phẩm để thể hiện chung một khát vọng độc lập dân tộc và tự do của đất nước. Đó
là những lời khẳng định đanh thép, mãnh liệt về chủ quyền dân tộc ta, được con là
những bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
Vào cuối năm 1076 khi cuộc kháng chiến chống quân Tống bước sang giai đoạn
gay go ác liệt nhất thì trên phòng tuyến sông Như Nguyệt, trong đền thờ Trương
Hống, Trương Hát vang lên tiếng đọc sang sảng, tiêng thơ làn nức lòng binh sĩ tạo nên
khí thế áp đảo kẻ thù
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiết nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
( Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Cớ sao giặc dữ phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Lời thơ vang lên khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam qua hai yếu tố đó là:
cương vực lãnh thổ và chủ quyền thông qua người đại diện là vua( Nam đế). Không
chỉ phong kiến phương Bắc mới có vua mà nước Nam cũng có hoàng đế riêng của
mình. Xưa phong kiến phương Bắc luôn tự coi mình là thiên tử(con trời) là hoàng đế
còn vua nước láng giềng chỉ là vương, hầu. Lí Thường Kiệt xưng “đế” là muốn tước
đi cái tự phụ, ngạo nghễ của Trung Hoa.
Bên cạnh đó tác giả còn khẳng định: “Rành rành sách trời chia xứ sở”, có nghĩa
là ranh giới ấy đã được tạo hóa phân định rõ ràng không thể xâm phạm. Nếu kẻ nào
dám xâm phạm nhất định sẽ bị tan vỡ: “Như hà...hư”. Hai câu thơ đã khẳng định sự
thất bại thảm hại của kẻ thù xâm lược. Cả bài thơ như một hồi kèn xung trận quyết
chiến, quyết thắng. Lời khẳng định về chủ quyền độc lập dân tộc đã kết thúc mà vẫn
còn in đậm trong lòng mỗi người dân đất Việt.
Trải qua bốn thế kỉ, ý thức về độc lập dân tộc ấy đã được phát triển cao hơn,
toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Nếu như
trong Nam quốc sơn hà- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta chỉ thấy vị trí
của Nam đế(vua là nước) mà chưa thấy vị trí của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng
đất nước thì đến BNĐC ta đã thấy điều đó. Trên những chặng đường lịch sử, nhân dân
sôi sục dành lại đất nước từ tay giặc, ý thức độc lập tự cường mãnh liệt và tiến xa hơn.
Mở đầu bài cáo vẫn là lời khẳng định dứt khoát, chắc chắn về sự tồn tại ngang
hàng của một quốc gia phương Nam với một quốc gia phương Bắc. Không chỉ có
hoàng đế, có lãnh thổ rõ ràng như trong NQSH mà còn có cả quá khứ oai hùng trong
công cuộc chống giặc ngoại xâm, có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước...cũng có.
Đoạn thơ đã khẳng định Đại Việt là đất nước có quốc hiệu riêng, có lãnh thổ riêng, có
nền văn hiến lâu đời, có những phong tục tốt đẹp mà phong kiến phương Bắc luôn có
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 133 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
âm mưu đồng hóa để phủ nhận tư cách độc lập dân tộc của Đại Việt. Nước Nam còn
có lịch sử riêng, có anh hùng hào kiệt sánh ngang bằng với các triều đại Trung Quốc.
Ý thức quốc gia dân tộc không chỉ được khẳng định trong cương vực lãnh thổ,
bản sắc văn hóa mà còn khẳng định trong cách đánh giặc ngoại xâm. Đó là lấy sức
mạnh nhân nghĩa để chiến thắng:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Sức mạnh của dân tộc chính là sức manh của nhân nghĩa để chiến thắng kẻ thù bạo
ngược .
Phải có lòng yêu nước sâu sắc, có ý thức độc lập tự chủ lớn lao Nguyễn Trãi
mới viết lên được những câu văn hiên ngang như thế. Nếu như ở Nam Quốc Sơn Hà
chỉ khẳng định “sách trời chia xứ sở” thì đến BNĐC đã khẳng định cả lịch sử hào
hùng của một quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chứng tỏ dân tôc ta có vị
trí ngang hàng với Trung Quốc.
Với tư tưởng nhân nghĩa, với những vị anh hùng hào kiệt, Nguyễn Trãi lại một
lần nữa khẳng định sức mạnh của dân tộc đã lập nên những chiến công hiển hách,
đánh tan mọi kẻ thù xâm lược:
Lưu Cung tham công nên thất bại....Ô Mã.
Những chiến công lừng lẫy lần lượt được đưa ra với các động từ mạnh: thất bại, tiêu
vong, bắt sống, giết tươi đã làm nổi bật lên sự thất bại thảm hại của quân thù và chiến
chông lừng lẫy của ta và niềm tự hào dân tộc sáng ngời trên từng con chữ.
Bình Ngô đại cáo với những giá trị lớn lao về nội dung và nghệ thuật xứng đáng
là một áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc với ý
thức tự lực tự cường mạnh mẽ.
Đã bao năm trôi qua nhưng những lời trong bản tuyên ngôn độc lập của cha ông
vẫn còn in đậm trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Thời gian có thể xóa nhòa đi
nhiều thứ nhưng không thể làm mờ đi những chân lí trong SNNN và BNĐC của người
dân nước Việt. Em thật tự hào về truyền thống lịch sử của dân tộc, em hứa sẽ học tập
tốt hơn để viết tiếp những trang sử vàng trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt là hiện nay
một số vùng đất của đất nước đang bị xâm chiếm thì chúng ta càng cần nêu cao tinh
thần dân tộc, tinh thần yêu nước để cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước.
7. Baì viết này kết hợp cả văn giới thiệu (thuyết minh) và văn nghị luận( chứng
minh) . Có hai nội dung cần thuyết minh là : về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm . Về nghị luận, HS cần làm sáng tỏ nội dung bao trùm lên đoạn trích Nước Đại
Việt ta là lòng tự hào dân tộc. Các ý chính cần nêu trong bài viết :
a)Tác giả đoạn trích này là Nguyễn Trãi (1380-1442) , người đã từng sát cánh cùng
Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống qquân Minh , người có công to lớn nhưng
saau này bị chết mộy cách oan uổng .Nguyễn Trãi là người anh hùng dân tộc ,nhà
văn hóa đồng thời là nhà văn ,nhà thơ lớn của dân tộc .
b)Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm : Nước Đại Việt ta được trích từ tác phẩm Bình
Ngô đại cáo. Bài đại cáo này do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo sau khi cuộc
kháng chiến chống quân minh vừa kết thúc (1428) để tuyên bố chién thắng.
c)Về nội dung nhận xét cần làm sáng tỏ ,HS cần nêu được các ý sau:
-Tự hào về dân tộc đã có một nền văn hiến , một truyền thống vă hóa tốt đẹp, lâu
đời.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 134 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
-Tự hào về đất nước có lãnh thổ riêng , phong tục tập quán riêng.
-Tự hào về một dân tộc có truyền thống lịch sử vẻ vang.
-Tự hào về một dân tộc luôn có người tài giỏi, thao lược.
-Tự hào về một đất nước có nhiều chiến công vang lừng đã được lưu danh sử sách.
TUẦN 27
ÔN TẬP VĂN NGHỊ LUẬN
Trong nền Văn học trung đại Việt Nam nổi bật lên những áng văn chính luận xuất
sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công
cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai
đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn
cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”
và “Nước Đại Việt ta”.
“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của
dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả thể hiện
ở khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới
thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một
tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu
tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con
cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị,
tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
Kế tục truyền thống và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm
của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết
phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu
đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi
noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển
dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn
ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…
Đại La là kinh đô cũ của Cao Vương với vẻ đẹp và thuận lợi muôn mặt bởi lẽ là
“trung tâm trời đất”, “đúng ngôi nam bắc đông tây”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, “tiện
hướng nhìn sông dựa núi”, “muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”… Đại La xứng
đáng là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đó là tầm nhìn chiến lược của Lí
Công Uẩn về Đại La, một cái nhìn toàn diện, sắc sảo và sáng suốt, mong muốn về một
đất nước ngày mai tươi đẹp, thái bình giàu mạnh, phát triển vững bền.
Mặc dù vậy, để thống nhất trên dưới chung lòng cùng một ý kiến, Lí Công Uẩn đã
bàn bạc với triều thần chỉ với một câu hỏi tu từ bỏ ngõ ở phần kết: “Các khanh thấy
thế nào?”. Lời lẽ ấy xuất phát từ tình cảm máu mủ ruột thịt dân tộc Đại Việt, từ tinh
thần yêu nước sâu nặng lớn lao, khao khát thoát ra ngoài vỏ bọc yếu kém so với các
cường quốc khác.
Với “Hịch tướng sĩ”, qua thời kì dựng nước của Lí Thái Tổ, tới thời đại giữ
nước này, mặc dù trong loạn lạc chiến tranh nhưng tinh thần yêu nước vẫn luôn được
nung nấu với quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước bấy giờ là
mong muốn đánh đuổi giặc ngoại xâm đang lăm le bờ cõi, là mong muốn nền hòa bình
độc lập tự do.
Để thức tỉnh lòng yêu nước các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nêu gương các trung
thần nghĩa sĩ đã xả thân cứu nước cứu chúa phương Bắc để kích thích tinh thần trung
dũng của các tì tướng nước nhà. Bằng cái nhìn sáng suốt và cảnh giác, Trần Quốc
Tuấn đã vạch trần bộ mặt tham lam, dã tâm tàn bạo của quân xâm lược qua tên sứ giặc
“đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân
dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Cậy thế nước lớn quân đông, chúng ra sức hoành hành, vừa
“bắt nạt” vừa “sỉ mắng” triều đình vua quan nhà Trần. Xúc phạm đến quốc thể và tự
tôn dân tộc Việt Nam là tự đào hố chôn mình bởi những hành động đó là nguyên nhân
để đốt cháy lòng căm thì và khinh bỉ đối với sứ giặc Mông –Nguyên, khơi gợi ý thức
dân tộc đối với tướng sĩ Đại Việt.
Bởi “ ta cùng các ngươi” “sinh phải thời loạn lạc” – “lớn gặp buổi gian nan” đã gắn
kết chủ soái và tướng sĩ trong một sứ mệnh thiêng liêng cao cả: chống giặc Mông –
Nguyên. Bộc lộ tất thảy nỗi lòng căm thù giặc sâu sắc cùng nỗi nhục mất nước, tác giả
đã khẳng định “không thế khoan nhượng”. Với lũ giặc Nguyên – Mông thì quyết
không thể dung tha! Vì “chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máy quân thù” nên “tới
bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa”. Trong cuộc chiến
này, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tinh thần vì tổ
quốc muôn ngàn kính yêu được Trần Quốc Tuấn nhắc nhở và nhấn mạnh ở chỗ quyết
tâm và hành động “ huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi
như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”… Ở bất kì khía cạnh nào, biểu hiện nào,
Bên cạnh đó, Trần Quốc Tuấn còn đưa ra những thú vui khoái lạc của các tướng sĩ
cần phê phán. Vừa chân tình mà nghiêm khăc, răn dạy binh sĩ phải nghe theo. Bởi khi
giặc ồ ạt kéo vào kinh đô, thì “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ
bạc không thể làm mưu lược nhà binh, chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng
hát hay không thể làm giặc điếc tai”… để đến nỗi “ta cùng các ngươi khi ấy sẽ bị bắt,
đau xót biết nhường nào”. Khi ấy, nước mất nhà tan, trăm dân trăm họ sống trong cảnh
lầm than cơ cực; không những thế “thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau,
tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu…”.
“Hịch tướng sĩ” là bài ca yêu nước và niềm tự hào dân tộc, Nó là áng văn chính
luận hùng hồn, sục sôi nhiệt huyết và tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng của
muôn vạn hùng binh.
khác.
Đầu xuân năm 1428, hưởng nền thái bình cực thịnh trị, Nguyễn Trãi đã thay mặt
Lê Lợi tổng kết 10 năm kháng chiến luôn song hành với tinh thần yêu nước và tuyên
bố nước Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của “muôn thuở thái bình
vững chắc”.
Tự hào đất Việt vốn có nền văn hiến đã lâu, có lãnh thổ núi sông bờ cõi, có thuần
phong mĩ tục, có nền độc lập tự chủ riêng và trong mọi thời đại luôn có nhân tài hào
kiệt, Nguyễn Trãi viết bài cáo với niềm vui sướng hân hoan, tự hào vì “Việt Nam là
một dân tộc anh hùng”.Trước tiên, nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân nghĩa mà tác giả đang nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc
để cứu dân cứu nước, vì độc lập dân tộc và vì tự do, hòa bình, hạnh phúc của nhân
dân. Qua đó ta mới biết nhân nghĩa là cái gốc của đạo lí, là nguồn gốc sức mạnh Việt
Nam. Khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền dân tộc Đại Việt, Nguyễn
Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xây dựng độc lập, chủ quyền dân tộc:
Quan niệm của Nguyễn Trãi luôn từng bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc
hơn trong học thuyết quốc gia, dân tộc trung đại. Trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”, ý
thức về quốc gia dân tộc được xác định trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền nhưng
chỉ mới là chủ quyền của triều đình vua quan. Đến với “Nước Đại Việt ta”, Nguyễn
Trãi đã có thêm những yếu tố khác như văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử.
Nguyễn Trãi đã thể hiện một ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc sâu sắc khi nói về
chủ quyền độc lập dân tộc: “Như nước Đại Việt ta từ trước…” Nguyễn Trãi đã khẳng
định một cách rõ ràng: các triều đại của Đại Việt luôn sánh ngang hàng với các triều
đại phương Bắc, mỗi bên xưng đế một phương”.
“Nước Đại Việt ta” như là một bản tuyên ngôn độc lập. Để làm sáng tỏ nguyên lí nhân
nghĩa, Nguyễn Trãi cũng đã đưa ra các dẫn chứng:
Kẻ xâm lược là kẻ đi ngược lại nhân nghĩa. Nói về thất bại của kẻ thù là ca ngợi thắng
lợi hào hùng của dân tộc ta. Lời văn Nguyễn Trãi âm vang niềm tự hào dân tộc, sáng
ngời chính nghĩa bằng lối nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục, cách
viết sóng đôi, đề cao mọi thứ của nước Nam như là của tạo vật hiển nhiên, đời nào
cũng có, có từ trước và lúc nào cũng khác.
Cả ba tác phẩm “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta” đều là những
áng văn chương hào hùng của dân tộc. Mỗi tác phẩm đều được viết ở mỗi thời kì, mỗi
triều đại khác nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chung một lòng, một tinh
thần yêu nước. Trải qua nhiều năm văn hiến lịch sử, cách khám phá và thể hiện lòng
yêu nước ở từng thời kì khác nhau song đều chung một lòng mong muốn xây dựng đất
nước vững mạnh, độc lập tự chủ ỏ cả giai đoạn dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Xây dựng đất nước ở những buổi đầu còn dựa vào “ý trời”, dựa vào người cầm gươm
giáo đánh giặc nhưng ở thời kì thịnh trị, tự hào dân tộc, cái nhân nghĩa là giá trị lâu dài
của lòng yêu nước. Đó chính là cách khám phá và thể hiện của mỗi tác giả, thông qua
tác phẩm về tinh thần “nồng nàn yêu nước” của Đại Việt ta.
Tuy Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ được viết bởi hai tác giả khác nhau, hai thời đại
khác nhau nhưng lại có điểm tương đồng. Đó là sự quan tâm đến hạnh phúc của muôn
dân và đó cũng là nhân tố quan trọng nhất để hai tác phẩm này sống mãi cùng thời
gian. Qua đó ta cũng thấy được tấm lòng cao cả, lớn lao của những nhà lãnh đạo anh
minh như Lí Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn với đất nước và nhân dân.
Câu 2
Đúng kiểu bài nghị luận chứng minh (1đ)
- Nội dung (6đ)
- Mở bài : Giới thiệu được trăng là một đề tài vô tận trong thơ Bác, Bác luôn
dành cho trăng một tình cảm đặc biệt.
Trăng là đề tai vô tận cho thơ ca từ cổ chí kim. Trong thơ Bác ánh trăng luôn tràn đầy.
Bác dành cho trăng một tình cảm đặt biệt, Bác có thể ngắm trăng ở mọi lúc, mọi nơi
và những bài thơ Bác viết về trăng thì rất hay và đặc sắc. Chính vì thế mà nhà phê
bình Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Bác đầy trăng” . Đây là một ý kiến hoàn toàn
chính xác.
- Thân bài : Chứng minh qua hai bài thơ
+ Những bài thơ Bác viết về trăng đều rất hay và đặc sắc. Trong thơ Bác trăng
không phải là một vật vô tri mà là người bạn gần gũi với Bác. Trăng đến với Bác
trong nhiều hoàn cảnh, nhiều tình huống và Bác đón chào trăng trong nhiều trường
hợp. Ta có thể bắt gặp một khung cảnh đầy trăng do Bác tạo ra: Nguyên tiêu
( Phân tích bài thơ )
- Nhật kí trong tù cũng là một tác phẩm đặc sắc của Người. Ngắm trăng cũng là
một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ này.
- Phân tích bài thơ để thấy được tình yêu trăng của Bác.
- Kết bài : khẳng định lại nhận định của Hoài Thanh
- Đúng như Hoài Thanh đã nhận xét : Thơ Bác đầy trăng! Bác luôn dành cho
trăng một vị trí đặc biệt trong trái tim cũng như trong thơ của mình. Đọc thơ
Người ta cảm nhận được một tình yêu trăng tha thiết, mãnh liệt. Người có thể
quên đi tất cả những đau đớn về thể xác, những khó khăn gian khổ của cuộc
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 140 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
sống để giao hoà trọn vẹn với ánh trăng. Đó chính là sự hoà hợp giữa chất thép
và chất tình trong thơ Bác.
Câu 1/
Nêu ý nghĩa tiếng chim tu hú mở đầu và kết thúc bài thơ “Khi con tu hú" của Tố
Hữu.
Câu 2
Cảm nhận của em về phần trích sau:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương...
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Trích Bình Ngô Đại cáo, Nguyễn Trãi)
Câu 3
Trình bày cảm nhận của em về tình yêu cuộc sống, niềm khát khao tự do cháy bỏng
của người chiến sĩ cách mạng qua bài thơ " Khi con tu hú " bằng một bài viết ngắn.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1/ Ý nghĩa của tiếng chim tu hú ở đầu và cuối bài thơ là:
+ Ở đầu:
- Tiếng chim gọi bầy, gọi bạn, âm thanh trong sáng
- Tiếng chim báo hiệu cảnh mùa hè đẹp đẽ, tưng bừng, tràn đầy nhựa sống, khơi thức
khát vọng tự do.
+ Lần cuối:
- Tiếng kêu khắc khoải, giục giã, thiêu đốt.
- Tiếng kêu khiến nhà thơ cảm thấy bực bội, khổ đau, day dứt.
- Thôi thúc người chiến sĩ đạp tan cái xà lim chật chội, trở về với cuộc sống tự do
bên ngoài.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 141 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng.
* Hình thức:
- Đảm bảo hình thức đoạn văn
- Thấy rõ được sự khác biệt giữa 2 lần xuất hiện âm thanh tiếng chim tu hú
2/ Yêu cầu:
- Đảm bảo hình thức bài văn ngắn
- Lập luận tốt, không mắc lỗi chính tả
Luận điểm 1
- Nguyên lí nhân nghĩa : 2 câu đầu
- Theo Nguyễn Trãi: cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa là yên dân, trừ bạo.
+ Yên dân: là làm cho dân được yên ổn, hạnh phúc.
+ Trừ bạo: là làm cho dân được yên ổn, hạnh phúc.
+ Trong hoàn cảnh bấy giờ dân Đại Việt đang bị xâm lược, thế lực tàn bạo chính là
giặc Minh
+ Với Nguyễn Trãi nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất
nước
- Yêu nước không chỉ là quan hệ giữa người với người ( Phạm trù Nho Giáo) mà còn
là quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
-> Nguyễn Trãi đã cho thấy điểm mới trong tư tưởng nhân nghĩa so với Nho Giáo.
Đây là một tư tưởng tiến bộ có trong mọi thời đại.
* Luận điểm 2:
- Chân lí về sự tồn tại độc lập dân tộc: 8 câu sau
- Nguyễn Trãi đưa ra 5 yếu tố cơ bản để xác định độc lập chủ quyền dân tộc:
+ Nền văn hiến lâu đời
+ Lãnh thổ
+ Phong tục tập quán
+ Lịch sử
+ Chế độ chủ quyền riêng
- Dây cũng là sự phát triển của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo so với Lý
Thường Kiệt trong Sông núi nước Nam
- Nguyễn Trãi đã có ý thức sâu sắc rằng: văn hiến, truyền thống lịch sử là yếu tố căn
bản, cốt lõi để xác định dân tộc. Đây chính là lí do tại sao quân phương Bắc đã bao đời
tìm cách muốn đồng hóa, phủ định nền văn hiến nước Nam.
- Nguyên lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một thực tế, luôn tồn tại sức mạnh của
chân lí khách quan. Đại Việt luôn có chủ quyền ngang hàng với phương Bắc
TUẦN 29
ÔN TẬP VĂN BẢN THUẾ MÁU- NGUYỄN ÁI QUỐC
2/ Thái độ của chính quyền thực dân đối với người dân bản xứ thay đổi đột ngột:
- Trước chiến tranh:
+ Gọi người dân bản xứ là An nam mít bẩn thỉu, tên da đen bẩn thỉu (mọi đen ) chỉ
biết kéo xe tay, và biết ăn đòn …
=> Họ bị xem là giống người hạ đẳng, ngu si, bẩn thỉu, chỉ đáng làm tay sai, đầy tớ,
thậm chí không được coi là người mà còn như là súc vật.
=> Cách gọi đó thể hiện sự coi thường, khinh bỉ, lăng nhục của bọn thực dân với
người dân bản xứ. Từ người bản xứ được đặt trong dấu ngoặc kép cũng thể hiện sự
khinh miệt đó, Tác giả dùng lại từ của thực dân nhằm mục đích châm biếm trào
phúng.
- Chiến tranh bùng nổ :
+ Dân bản xứ biến thành những đứa con yêu, người bạn hiền.
+ Phong cho danh hiệu tối cao là: chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do.
- Không phải nhẫu nhiên các nhà cầm quyền thực dân đột ngột quay ngoắt 180 độ,
biến những con lừa, con bò, những tên da đen bẩn thỉu thành những đứa con yêu,
người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí. Thay đổi như vậy để lợi dụng, bóc lột học mà
thôi.
=> Thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi để biến họ thành vật hi sinh cho quyền lợi của chúng, bản
chất tàn bạo, độc ác của chủ nghĩa thực dân
=> Giọng điệu trào phúng, châm biếm mỉa mai nhằm tố cáo bản chất tàn bạo của thực
dân.
3/ Họ phải xa lìa vợ con, rời bỏ ruộng vườn, vượt đại dương, phơi thây trên các bãi
chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu …
- Ở hậu phương: người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng… khạc ra từng
miếng phổi.
- Bảy mươi vạn người đặt chân lên đất Pháp thì có tám vạn người không trông thấy
mặt trời quê hương.
=> Dẫn chứng hùng hồn, chính xác nhằm lật mặt lạ giả nhân giả nghĩa của nhà
cầm quyền, tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, gây lên lòng căm thù, phẫn lộ
trong các dân tộc thuộc địa.
5/ Người dân thuộc địa không được gì mà chỉ chịu nhiều mất mát, đau thương:
- Người An nan mít trở lại giống người bẩn thỉu.
- Ghi nhớ công ơn của người lính An Nam bằng cách: lột hết của cải của họ, giao cho
bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập, cho họ ăn như cho lợn ăn, xếp họ như xếp lợn
dưới hầm tàu ẩm ướt …
- Bỉ ổi hơn là chúng cấp thẻ môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp
và vợ con tử sĩ người pháp.
=> Đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi tham.
=> Người dân bản xứ không được lợi ích gì bởi “chế độ bản xứ không hề biết đến
chính nghĩa và công lí ”.
=> Tố cáo, phơi bày bộ mặt tàn nhẫn, độc ác, giả nhân giả nghĩa của bọn thực dân
xoay quanh việc bóc lột thuế máu . Thấy được số phận thảm thương của người
dân thuộc địa khi bị bóc lột cả xương máu và tính mạng .
6/ Sau khi học xong văn bản Thuế máu chúng ta thấy được thái độ căm phẫn cao độ
của Bác đối với chính quyền thực dân và niềm cảm thương chân thành đối với nhân
dân. Bằng giọng điệu trào phúng đặc sắc, người đã tố cáo tội ác ghê tởm của chính
quyền thực dân trong việc lợi dụng xương máu của người dân nước thuộc địa trong
các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Người đã vạch trần bộ mặt lửa bịp, giả nhân, giả
nghĩa của chúng trong việc đối xử với người dân thuộc địa trước và khi chiến tranh
xảy ra. Trước chiến tranh chúng chỉ coi những người dân bản xứ là những tên da đen
bẩn thỉu, những tên An nam mít bẩn thỉu, chỉ đáng để kéo xe tay và ăn đòn của các
quan cai trị nhà ta. Thế mà khi chiến tranh bùng nổ họ lập tức trở thành những đứa
con yêu, những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ tự do và công lí. Và để trả giả cho cái
danh hiệu cao quý đó họ đã phải xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của những loài
thủy quái, phải đi phơi thây trên những bãi xa mạc, hoặc bỏ xác tại những vùng hoang
vu thơ mộng... Tiếp đến Bác còn nên án, tố cáo chế độ lính tình nguyện của thực dân
Pháp. Chúng đã tiến hành lùng ráp, vây bắt lính trên toàn cõi Đông Dương, chúng lợi
dụng chiến tranh để xoay xở kiếm tiền, sẵn sàng đối xử tàn bạo đối với những người
chống đối. Dã man nhất, tàn bạo nhất là cách đối xử của chúng đối với những dân
thuộc địa khi chiến tranh kết thúc. Chúng lột tất cả của cải của họ và đối xử với họ
như đối với xúc vật. Độc ác ghê tởm hơn là chúng đã cấp thẻ môn bài buôn bán thuốc
phiện cho thương binh và vợ con tử sĩ Pháp để đầu độc cả một dân tộc, vơ vét cho đầy
túi tham.
Yêu cầu: Học sinh cần xác định về thể loại và phương thức làm bài đúng.
- Thể loại chứng minh.
- Nội dung:
a. Làm sỏng tỏ” thuế máu” là thứ thuế dã man, tàn bạo của chính quyền thực
dân.
Dựa vào ba phần của văn bản:
+ Thủ đoạn phỉnh nịnh của bọn thực dân để mộ lính ở các nước thuộc địa
( trước và khi có chiến tranh).
+ Thủ đoạn dùng vũ lực để bắt lính.
+ Sự bạc đói, tráo trở của bọn thực dân sau khi kết thúc chiến tranh.
b. Tấm lòng của tác gỉa Nguyễn Ái Quốc:
+ Vạch trần sự thực với tấm lòng của một người yêu nước.
+ Lời văn có vẻ khách quan nhưng vẫn chứa sự căm hờn, sự thương cảm.
Bằng những hiểu biết về các văn bản truyện đã học ở chương trình Ngữ văn lớp
8, em hãy chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi tình yêu thương giữa
người với người.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1
_ Các từ già, xưa,cũ trong các câu thơ đã cho cùng một trường từ vựng,cùng chỉ một
đối tượng : ông đồ (0,25điểm).
_ Già – cao tuổi , vẫn sống – đang tồn tại.
Xưa- đã khuất - thời quá khứ trái nghĩa với nay.
Cũ - gần nghĩa với xưa, đối lập vối mới- hiện tại. (0,25điểm)
_ Ý nghĩa của các cách biểu đạt đó : Qua những từ này khiến cho người đọc cảm
nhận được sự vô thường, biến đổi, nỗi ngậm ngùi đầy thương cảm trước một lớp
người đang tàn tạ : ông đồ ( 0,5 điểm)
2
a/ - Câu ghép: Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu
như con nít. (0,5 điểm)
- Quan hệ ý nghĩa giữa 2 vế câu: quan hệ bổ sung hoặc đồng thời. (0,5 điểm)
b/ - Từ tượng hình: móm mém (0,25 điểm)
- Từ tượng thanh: hu hu (0,25 điểm)
- Giá trị biểu hiện (tác dụng): Gợi tả hình ảnh, âm thanh cụ thể, sinh động có giá trị
biểu cảm cao. (0,5 điểm)
Câu 3:
Qua những nhân vật người vợ, người mẹ trong các tác phẩm Tôi đi học, Trong lòng
mẹ, Tức nước vỡ bờ chúng ta thấy sáng ngời những phẩm chất cao quý của người mẹ -
người phụ nữ Việt Nam. Đó là tình cảm thắm thiết, sâu nặng đối với chồng con dù
trong những hoàn cảnh đau đớn tủi cực, gay cấn nhất. Họ không chỉ bộc lộ bản chất
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 147 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
dịu hiền, đảm đang mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng, đức hy sinh quên mình chống
lại bọn bạo tàn để bảo vệ gia đình.
4/
Bài thơ Ngắm trăng được Bác viết trong hoàn cảnh đặc biệt: trong ngục tù, mọi thứ
đều thiếu thốn, bị đọa đầy cả về thể xác lẫn tinh thần.
- Cảnh tù ngục khắc nghiệt ấy không làm Bác vướng bận, tâm hồn vẫn tự do, ung
dung, thèm được tận hưởng ánh trăng. Với tư thế “thân thể ở trong lao, tinh thần ở
ngoài lao”, người chiến sĩ cách mạng đã thả tâm hồn vượt ra ngoài cửa sắt nhà tù để
ngắm trăng sáng, để giao hòa với trăng.
- Đó là một cuộc vượt ngục về tinh thần, cho thấy sức mạnh kì diệu của người chiến sĩ
cách mạng. Vượt trên xiềng xích, đói rét... của chế độ nhà tù, người chiến sĩ cách
mạng vẫn để tâm hồn mình bay bổng tìm đến với vầng trăng tri âm.
- Bài thơ Ngắm trăng cho ta thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách
mạng vĩ đại, một biểu hiện của tinh thần thép, là sự tự do nội tại, phong thái ung dung,
vượt hẳn lên sự nặng nề, tàn bạo của nhà tù.
- Đoạn văn có sử dụng câu cảm thán và gạch chân.
5/ Dàn ý tham khảo :
a) Mở bài :
_ Có thể nêu mục đích của văn chương ( văn chương hướng người đọc đến với sự
hiểu biết và tình yêu thương)
_ Giới thiệu vấn đề cần giải quyết.
b)Thân bài : Tình yêu thương giữa người với người thể hiện qua nhiều mối quan
hệ xã hội .
_ Tình cảm xóm giềng :
+ Bà lão láng giềng với vợ chồng chị Dậu ( Tức nước vỡ bờ- Ngô Tất Tố).
+ Ông giáo với lão Hạc( Lão Hạc – Nam Cao).
_ Tình cảm gia đình :
+ Tình cảm vợ chồng : Chị Dậu ân cần chăm sóc chồng chu đáo, quên mình bảo vệ
chồng (Tức nước vỡ bờ - Ngô Tất Tố).
+ Tình cảm cha mẹ và con cái :
• Người mẹ âu yếm đưa con đến trường ( Tôi đi học- Thanh Tịnh) ; Lão Hạc
thương con (Lão Hạc- Nam Cao).
• Con trai lão Hạc thương cha ( Lão Hạc- Nam Cao) ; bé Hồng thông cảm, bênh
vực, bảo vệ mẹ (Trong lòng mẹ- Nguyên Hồng).
c)Kết bài : Nêu tác dụng của văn chương ( khơi dậy tình cảm nhân ái cho con
người để con người sống tốt đẹp hơn).
Câu 1: (1điểm)
a/ “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ
căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài
nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”
(Hịch tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn)
Đoạn hịch trên thể hiện tình cảm, thái độ gì của tác giả?
b/ Chép hai câu thơ miêu tả hình ảnh người dân chài trong bài thơ Quê hương của Tế
Hanh.
Câu 2: (1điểm)
a/ Cho biết câu sau đây thực hiện hành động nói gì?
“ Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư,
con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tuỳ đâu tiện đấy mà đi học.”
( Bàn về phép học)
b/ Việc lựa chọn trật tự từ (in đậm) trong ví dụ sau nhằm mục đích gì?
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 149 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
“Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…”
(Hồ Chí Minh)
Câu 3: (3điểm)
Viết một đoạn văn ngắn (từ 8-10 câu) trình bày cảm nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ
trong hai câu thơ sau:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
(Hồ Chí Minh- Tức cảnh Pác Bó)
Câu 4: (5 điểm)
Nói lời hay, làm việc tốt, ứng xử đẹp,… là những nét đẹp học đường cần có ở học sinh
hiện nay.
Em suy nghĩ gì về vấn đề trên?
HƯỚNG DẪN CHẤM KIỂM TRA HỌC KÌ II NĂM HỌC 2013 – 2014
MÔN NGỮ VĂN LỚP 8
Câu 1: ( 1 điểm)
a/ Đoạn hịch thể hiện tình yêu nước và lòng căm thù giặc của tác giả. (đúng mỗi ý 0,25
điểm)
b/ Chép hai câu thơ miêu tả hình ảnh người dân chài trong bài thơ Quê hương của Tế
Hanh.
- Học sinh chép đúng hai câu thơ (0,5 điểm)
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
+ Sai, thiếu 2 từ trừ 0,25điểm.
+ Sai 2 lỗi chính tả trừ 0,25điểm.
+ Không ghi tên tác giả, tác phẩm trừ 0,25điểm.
+ Sai trật tự dòng thơ trừ 0,25điểm.
Câu 2:
a/ Câu thực hiện hành động nói: đề nghị (0,5 điểm)
b/ Việc lựa chọn trật tự từ nhằm mục đích thể hiện trình tự thời gian của các sự kiện
lịch sử (0,5 điểm).
Câu 3: ( 3 điểm)
- Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu: nêu được cảm nghĩ về hình ảnh người
chiến sĩ cách mạng qua hai câu thơ. (1, 5 điểm)
- Đoạn văn đúng số câu (0,5 điểm). Nhiều hơn 1 câu không trừ điểm. Quá 2 câu trở
lên trừ 0,25 điểm. Thiếu 1 câu trừ 0,25điểm.
- Bố cục rõ ràng. Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc, văn có cảm xúc (1 điểm)
- 2 lỗi chính tả, ngữ pháp (trừ 0,25điểm).
Câu 4: (5 điểm)
a.Yêu cầu về kĩ năng
- Nắm phương pháp làm bài nghị luận xã hội.
- Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.
- Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận (giải thích, chứng minh, bình
luận… ).
-Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Không mắc lỗi diễn đạt; không
sai lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp; trình bày bài rõ ràng.
b. Yêu cầu về kiến thức
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 150 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
- Giải thích: Thế nào là nói lời hay, làm việc tốt, ứng xử đẹp? Nêu biểu hiện
- Nguyên nhân: Tại sao nói lời hay, làm việc tốt, ứng xử đẹp là nét đẹp học đường cần có
ở học sinh hiện nay?
- Phê phán: Những cách xử sự thiếu tế nhị, những việc làm thiếu suy nghĩ...
Lưu ý: học sinh cần có dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ.
- Đó còn là những con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn kiên định ý chí, vượt lên
thử thách lao tù, tràn đầy tinh thần lạc quan:
Nếu như niềm tin ấy ở PCT là :
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắc son
Thì PBC là quyết tâm hành động dứt khoát hơn:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 153 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Quyết tâm của nhà chí sĩ được nói lên thành hành động. Rơi vào hoàn cảnh ngục tù
ông vẫn không quên lí tưởng kinh bang tế thế (trị nước cứu đời) vẫn có thể cười trước
cuộc oán thù (thủ đoạn của kẻ thù ). Các cặp từ đối nhau ( bủa tay - mở miệng, bồ kinh
tế - cuộc oán thù ) theo lối nói khoa trương khiến ta cảm nhận được tầm vóc lớn lao
kì vĩ, khí phách hiên ngang bất khuất của người tù yêu nước.
- Khát vọng tự do, ý chí chiến đấu bền bỉ kiên cường là phẩm chất tiêu biểu của
những nhà lãnh tụ cách mạng. Tuy mỗi nhà thơ có cách thể hiện khác nhau nhưng đều
gặp gỡ ở một tinh thần can đảm. Với PBC là
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nghu hiểm sợ gì đâu
Còn PCT là :
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con
Công việc cách mạng là sự nghiệp bền lâu gắn với trọn đời người, là sự nghiệp vá trời
có quyền năng ngang tạo hóa. Đó là tình yêu nước nhiệt huyết kết thành tâm niệm để
vượt lên mọi hoàn cảnh tù đầy. Không hẹn mà gặp, bởi suy nghĩ, cảm xúc của hai nhà
thơ cũng là tinh thần kiên cường của biến bao chiến sĩ yêu nước cách mạng lúc bấy
giờ.
Cả hai bài thơ đều gắn với quãng đời hoạt động cách mạng hăm hở nhiệt huyết
nhất của hai nhà yêu nước. Tuy rằng sự nghiệp cứu nước của hai cụ đều dang dở
nhưng tình yêu nước và ngọn lửa niềm tin vào tiền đồ dân tộc của hai cụ vẫn lan tỏa
hơi nóng nhiệt huyết sang thế hệ kế tục để hoàn thành tâm nguyện của những con
người đáng kính ấy. Đọc thơ của các cụ ta nhận ra sức mạnh bất khuất của dân tộc
Việt Nam tiềm ẩn trong từng ý từng lời thơ
Phần 2
Cho đoạn văn sau:
" Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù . Dẫu cho trăm
thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng" .( Hịch
tướng sĩ- Trần Quốc Tuấn)
Câu 1( 1đ) Đoạn văn trên gồm mấy câu? Mỗi câu được trình bày theo mục đích nói
nào?
Câu 2: Viết đoạn văn(5-7 câu) trình bày sự cảm nhận của em về đoạn văn trên ?
PHẦN II: (7đ)
Cho câu thơ sau:
Như nước Đại Việt ta từ trước
ĐỀ BÀI 2
Câu 1: (2đ)
a) Em hãy nêu nét chính về tác giả Lí Công Uẩn?
b) Em hãy nêu những nét chính về nghệ thuật của văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn?
Câu 2: Văn bản “ Đi bộ ngao du ” của Ru-xô có ý nghĩa gì? (1đ)
Câu 3:(2đ)
a) Hành động nói là gì?.
b) Cho hai ví dụ về hành động nói được thực hiện theo hai cách trực tiếp và gián tiếp.
Câu 4:(5đ)
“Sự bổ ích của những chuyến tham quan du lịch của học sinh”. Em hãy làm sáng tỏ vấn đề
trên,
ĐÁP ÁN
Câu 1 (2đ)
a) - Lí Công Uẩn(974-1028) tức vua Lí Thái Tổ.
- Quê Bắc Ninh Ông là người thông minh, nhân ái, có chí lớn.
- Ông là người sáng lập ra vương triều nhà Lí,lấy niên hiệu là Thuận Thiên. (1đ)
b) - Gồm có ba phần chặt chẽ.
- Giọng văn trang trọng, thể hiện suy nghĩ, tình cảm sâu sắc của tác giả về một vấn đề hết
sức quan trọng của đất nước.
- Lựa chọn ngôn ngữ có tính chất tâm tình, đối thoại:
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 155 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
+ Là mệnh lệnh nhưng “Chiếu dời đô” không sử dụng hình thức mệnh lệnh.
+ câu hỏi cuối cùng làm cho quyết định của nhà vua được người đọc người nghe tiếp nhận,
suy nghĩ và hành động một cách tự nguyện.
Câu 2: (1đ)
Từ những điều mà “đi bộ ngao du” đem lại như tri thức, sức khỏe, cảm giác thoải mái, nhà
văn thể hiện tinh thần tự do dân chủ- tư tưởng tiến bộ của thời đại.
Câu 3: ( 3 đ)
a) Hành động nói là hành động được thực hiện bằng lời nói nhằm một mục đích nhất định.
(1đ)
b) Ví dụ: Tớ muốn bạn mua cho tớ quyển sách . (HĐ nói gián tiếp) ( 1đ).
Bạn làm bài tập xong chưa? (HĐ nói trực tiếp) ( 1đ).
* Lưu ý: Tùy theo cách viết câu của học sinh xác định đúng yêu cầu câu hỏi là được.
Câu 4 (5đ)
Yêu cầu: Về hình thức:
- Viết đúng kiểu bài nghị luận (có kết hợp yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm)
- Hành văn trôi chảy.
- Bố cục đầy đủ.
- Hạn chế mắc lỗi diễn đạt.
Về nội dung:
* Mở bài( 1đ) Nêu được lợi ích của việc tham quan.
* Thân bài( 3đ) Nêu các lợi ích cụ thể:
- Về thể chất: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta thêm khỏe mạnh.
- Về tình cảm: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta :
+ Tìm thêm được nhiều niềm vui cho bản thân mình;
+có thêm tình yêu đối với thiên nhiên, với quê hương đất nước
+Về kiến thức: những chuyến tham quan du lịch có thể giúp chúng ta:
+ Hiểu cụ thể hơn sau những điều được học trong trường lớp qua những điều mắt thấy tai
nghe;
+ Đưa lại nhiều bài học có thể còn chua có trong sách vở của nhà trường.
* Kết bài: ( 1đ) Khẳng định tác dụng của việc tham quan.
Trong nền Văn học trung đại Việt Nam nổi bật lên những áng văn chính luận xuất
sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công
cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai
đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn
cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô” và “Nước Đại Việt
ta”.
“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của
dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả thể hiện
ở mục đích dời đô là muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế
muôn đời cho con cháu, thể hiện khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập,
thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh
đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh
trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan
nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước
hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị, tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã
quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
Kế tục truyền thống và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm
của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết
phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu
đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi
noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển
dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn
ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…
Đau xót khi nghĩ về “số phận ngắn ngủi” của các triều đại Đinh, Lê trước, Lí Công
Uẩn cảm thấy việc dời đô là một việc hết sức cấp thiết “không thể không chuyển dời”.
Tinh thần yêu nước được thể hiện rõ nhất khi nhà vua nói về thành Đại La. Đại La
là kinh đô cũ của Cao Vương với vẻ đẹp và thuận lợi muôn mặt bởi lẽ là “trung tâm
trời đất”, “đúng ngôi nam bắc đông tây”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, “tiện hướng nhìn
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 158 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
sông dựa núi”, “muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”… Đại La xứng đáng là “kinh
đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đó là tầm nhìn chiến lược của Lí Công Uẩn về
Đại La, một cái nhìn toàn diện, sắc sảo và sáng suốt, mong muốn về một đất nước
ngày mai tươi đẹp, thái bình giàu mạnh, phát triển vững bền.
Mặc dù vậy, để thống nhất trên dưới chung lòng cùng một ý kiến, Lí Công Uẩn đã
bàn bạc với triều thần chỉ với một câu hỏi tu từ bỏ ngõ ở phần kết: “Các khanh thấy
thế nào?”. Lời lẽ ấy xuất phát từ tình cảm máu mủ ruột thịt dân tộc Đại Việt, từ tinh
thần yêu nước sâu nặng lớn lao, khao khát thoát ra ngoài vỏ bọc yếu kém so với các
cường quốc khác.
Tinh thần yêu nước trong văn bản Nước Đại Việt ta trước tiên thể hiện ở tư tưởng
nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hai câu đầu tác giả nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa ấy
là yên dân và trừ bạo. Yên dân là làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh phúc. Đó
là mục đích lớn nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cũng chính là tư tưởng lớn nhất
trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, đánh kẻ có tội. Mà đặt
trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì bạo ở đây chính là giặc Minh xâm lược. Như
vậy tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng yêu nước, chống giặc
ngoại xâm. Đây là nội dung mới trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi: nó được
mở rộng ra, không chỉ còn là quan hệ giữa người với người mà là quan hệ giữa quốc
gia với quốc gia, dân tộc với dân tộc.
Tiếp đến, tinh thần yêu nước và niều tự hào dân tộc còn được khẳng định chân lí về
sự tồn tại độc lập có chủ quyền dân tộc Đại Việt, Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố
căn bản để xây dựng độc lập, chủ quyền dân tộc:
Kẻ xâm lược là kẻ đi ngược lại nhân nghĩa. Nói về thất bại của kẻ thù là ca ngợi thắng
lợi hào hùng của dân tộc ta. Lời văn Nguyễn Trãi âm vang niềm tự hào dân tộc, sáng
ngời chính nghĩa bằng lối nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục, cách
viết sóng đôi, đề cao mọi thứ của nước Nam như là của tạo vật hiển nhiên, đời nào
cũng có, có từ trước và lúc nào cũng khác.
Cả 2 tác phẩm “Chiếu dời đô và “Nước Đại Việt ta” đều là những áng văn chương
hào hùng của dân tộc. Mỗi tác phẩm đều được viết ở mỗi thời kì, mỗi triều đại khác
nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chung một lòng, một tinh thần yêu nước.
Đã bao năm trôi qua nhưng những lời của cha ông vẫn còn in đậm trong trái tim mỗi
người dân đất Việt. Thời gian có thể xóa nhòa đi nhiều thứ nhưng không thể làm mờ
đi những chân lí trong Chiếu dời đô và BNĐC của người dân nước Việt. Em thật tự
hào về truyền thống lịch sử của dân tộc, em hứa sẽ học tập tốt hơn để viết tiếp những
trang sử vàng trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt là hiện nay một số vùng đất của đất
nước đang bị xâm chiếm thì chúng ta càng cần nêu cao tinh thần dân tộc, tinh thần yêu
nước để cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước.
I/ Đề bài:
Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng nhân dịp Tết năm 1946, Bác Hồ viết: Một
năm khởi đầu thừ mùa xuân. Một đời bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội. Em hiểu như thế nào về câu nói trên.
II/Hướng dẫn làm bài
Theo qui luật tuần hoàn của thiên nhiên, ta thấy muà xuân vừa là kết thúc cho
một năm cũ vừa mở đầu cho một năm mới. Mùa xuân mang laị sự ấm áp, cây cối đâm
chồi nảy lộc, xanh tươi đầy sức sống. Và con người thời trai trẻ khi bước vaò muà
xuân cũng cảm thấy mình lớn hơn, cơ thể,trí tuệ, tư duy cũng phát triển hơn và cả ước
mơ khát vọng của tuổi trẻ cũng tràn đầy mãnh liệt hơn. Vì vậy, Trong thư gưỉ thanh
niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết Nguyên Đán năm, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “ Một năm khởi đầu từ muà xuân. Một đơì khởi đâù từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là muà
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 160 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
xuân của xã hội”. Ở đây Bác đã đề cao vai trò của thanh niên trong xã hội, chính họ sẽ
là những người sẽ làm đất nước tươi đẹp như muà xuân.
1. Giải thích, chứng minh câu nói của Bác
+ Một năm khởi đầu từ mùa xuân:
Mùa xuân là mùa chuyển tiếp giữa đông và hè, là mùa đầu tiên của một năm. Mùa
xuân thường gợi lên ý niệm về sức sống, hi vọng, niềm vui và hạnh phúc.
+ Một đời bắt đầu bằng tuổi trẻ.
-Tuổi trẻ là quãng đời đẹp nhất của con người, đánh dấu sự trưởng thành của một đời
người.
-Tuổi trẻ cũng đồng nghĩa với mùa xuân của thiên nhiên tạo hoá, nó gợi lên ý niệm về
sức sống, niềm vui, tương lai và hạnh phúc tràn đầy.
- Tuổi trẻ là tuổi phát triển rực rỡ nhất về thể chất, tài năng, tâm hồn và trí tuệ.
- Tuổi trẻ là tuổi hăng hái sôi nổi, giàu nhiệt tình, giàu chí tiến thủ, có thể vượt qua
mọi khó khăn gian khổ để đạt tới mục đích và ước mơ cao cả, tự tạo cho mình một
tương lai tươi sáng, góp phần xây dựng quê hương.
+ Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội:
Tuổi trẻ của mỗi con người cùng góp lại sẽ tạo thành mùa xuân của xã hội. Vì:
- Thế hệ trẻ luôn là sức sống, niềm hi vọng và tương lai của đất nước.
- Trong quá khứ: biết bao tấm gương các vị anh hùng liệt sĩ đã tạo nên cuộc sống và
những trang sử hào hùng đầy sức xuân cho dân tộc.
- Điều đó được chứng minh trong những trang sử chống ngoại xâm cuả dân tộc ta, biết
bao thanh niên đã hiến dâng tuổi thanh xuân đẹp nhất của mình để đổi lấy độc lập, tự
do cho Tổ quốc. Tại sao họ có thể hoàn thành được sứ mệnh vinh quang đó bằng
xương máu mà không chút e ngại, bơỉ họ có lý tưởng sống đúng đắn và cao đẹp: Tất
cả cho Tổ quốc quyết sinh. Nhưng với hoàn cảnh sống, một môi trường sống khác tốt
hơn, hạnh phúc hơn, yên bình hơn thì lý tưởng của thanh niên ngày nay làgì?
- Ngày nay: tuổi trẻ là lực lượng đi đầu trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh,
xã hội văn minh. Cuộc đời họ là những bài ca mùa xuân đất nước.
Mỗi thanh niên sống có lí tưởng, có hoài bão, ước mơ của riêng mình và cố gắng học
tập, vươn lên để đạt được những hoài bão ước mơ đó. Đặc biệt là những hoài bão ước
mơ đó phù hợp với xu thế chung của thanh niên thì đó chính là lí tưởng. Và lý tưởng
chung đó chính là xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước vững mạnh cũng như tự gắn
mình vào nhiệm vụ chống đói nghèo, lạc hậu, nuôi dưỡng bản than, gia đình, đưa đất
nước phát triển và hội nhập cùng quốc tế.
Nhưng thực tế hiện nay, khi đất nước có nguy cơ tụt hậu vế kinh tế, tệ nạn xã
hội ngày càng gia tăng thì thanh niên chưa chứng tỏ đầy đủ vai trò, trọng trách của
mình trước sứ mệnh của đất nước. Đó là một bộ phận thanh niên sống mờ nhạt. Dưới
tác động của cơ chế thị trường, nhiều thanh niên đã chạy theo lối sống thực dụng của
đồng tiền, lo ăn chơi, hưởng thụ, lao vào các tệ nạn xã hội. như ma túy, mãi dâm. Một
điều không khỏi phải nhắc đến là tội phạm trong con cái những người có chức quyền
có nguy cơ gia tăng, những thanh niên này thường được bố mẹ nuông chiều, thiếu sự
giáo dục, lại cậy quyền thế, giàu có nên sống buông thả.
Cùng với việc gia tăng tội phạm trong thanh niên, thì nạn chảy máu chất xám
trong giới trí thức thanh niên hiện nay cũng đang trở thành một vấn đề bức xúc. Nhiều
thanh niên sau khi được nhà nước cho di du học bằng tiền cuả nhân dân đã định cư
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 161 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
nước ngoài không trở về, hoặc có trở về thì cũng đi làm cho các liên doanh nước ngoài
để thu nhập cao. Có lẽ nguyên nhân do hoàn cảnh kinh tế, do ta chưa biết trọng nhân
tài, thì điều quan trọng phải là do chính họ chạy theo lý tưởng sống thực dụng của
đồng tiền mà quên đi đất nước – chính là nơi minh2 đã được sinh ra và nuôi dưỡng
nên ngươì. Thay vì họ phải chung sức lực, trí tuệ cùng nhân dân xây dựng, phát triển
đất nước thì họ lại chạy theo lối sống cá nhân, hưởng thụ.
Ngày 04/4/2015
TUẦN 32 ÔN TẬP TỔNG HỢP CUỐI HỌC KÌ II
Đề 1
Phần I
1. Bài thơ “ Nhớ rừng” của tác giả nào? Nêu hoàn cảnh sáng tác?
2. Tác giả bài “ Quê hương” là ai? Sáng tác năm bao nhiêu?
3. Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm yếu tố nào trong văn bản “ Nước Đại Việt ta” để
khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc?
4. Câu văn sau mắc lỗi gì? Hãy sửa lại cho đúng:
Trong bóng đá nói riêng và học tập nói chung, An đều đạt được những thành
tích xuất sắc.
Phần II
1. (2đ) Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Câu 2: ( 1 điểm)
Ý nghĩa nhan đề :“ Thuế máu” là thứ thuế tàn nhẫn, phũ phàng nhất, thứ thuế bóc
lột xương máu, mạng sống những người dân thuộc địa của chính quyền thực dân.
( có nhiều cách diễn đạt miễn đúng là chấm điểm)
Câu 3: ( 1 điểm)
Câu Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ
vô cớ đó sao? Thuộc kiểu câu nghi vấn ( 0,5 điểm). Hành động nói là khẳng định ( 0,5
điểm)
Câu 4: (1 điểm)
Chuyển câu văn trên thành một kiểu câu khác có nội dung tương đương. ( tùy HS
chuyển miễn đúng là chấm điểm) ( 0,5 điểm)
Xác định đúng kiểu câu đã sử dụng ( 0,5 điểm)
4./ Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước và căm thù giặc của
mình qua đoạn văn: “Ta thường tới bữa quên ăn....vui lòng”. Đây là đoạn văn đặc biệt
xúc động. Muốn khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ thái độ của chính mình.
- Tác giả đã dùng cách nói khoa trương với những câu văn biền ngẫu, các vế có 4 từ
liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa nhằm
nhấn mạnh nỗi đau đớn, day dứt, trăn trở cao độ ám ảnh trong mọi lúc từ bữa ăn, giấc
ngủ cả ngày lẫn đêm. Nỗi đau xót lớn lao trong lòng được biểu hiện ra thành dòng
nước mắt đầm đìa. Còn lòng căm thù giặc và ý chí tiêu diệt giặc được thể hiện mạnh
mẽ qua các hình ảnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Còn câu văn: “Dẫu
cho trăm ....vui lòng” khẳng định tinh thần xả thân vì nước, sẵn sàng chết trăm lần
miễn là tiêu diệt được quân giặc.
- Đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ trái tim của một vị
tướng coi lợi ích quốc gia là lợi ích tối cao.
Câu 1: Trong những đoạn trích sau, câu nào là câu cầu khiến?
a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
(Tô Hoài, "Dế mèn phiêu lưu kí")
b) Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:
- Các em đừng khóc. Trưa nay các em vẫn được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được
nghỉ cả ngày nữa. (Thanh Tịnh, "Tôi đi học")
Câu 2:
4/ Trình bày đúng đặc điểm hình thức ,chức năng của câu cảm thán 1đ
- cho đúng được ví dụ 0,5đ
5 / chỉ ra được lỗi sai cụ thể 0,5đ
Trong sân trường chỉ còn lại hai người. Một người thì mặc áo màu xanh, còn một
người thì lùn và mập.
- sửa lại đúng lỗi sai đó 0,5đ
Trong sân trường chỉ còn lại hai người.Một người thì mặc áo màu xanh, còn một
người thì mặc áo màu trắng ( tím, vàng…)
6/ Chép chính xác bài thơ
Nêu được hoàn cảnh sáng tác” 8/1942 trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc
Viết bài văn phân tích bài thơ:
Hai câu thơ cuối đã diễn tả được cuộc giao hòa tuyệt đẹp giữa trăng và người.
Không có rượu và hoa nhưng cuộc ngắm trăng vẫn diễn ra lột cách lặng lẽ, say mê:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ…
Đó là cuộc giao hoà tuyệt đẹp giữa trăng và người. Phép đối đã thể hiện được sự quấn
quýt tâm giao giữa trăng và người. Nhà tù trong phút chốc đã biết mất chỉ còn thi
nhân và vầng trăng. Mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết của một đôi bạn tâm giao thu
vào một chữ “khán” – ngắm. Như vậy song sắt nhà tù không ngăn nổi tâm hồn người
tù nghệ sĩ tìm đến với với thế giới của cái đẹp của tự do và ánh sáng. Mở đầu bài thơ
là hình ảnh của nhà tù và người tù nhưng đến cuối bài thơ nhà tù vẫn còn đó nhưng
không thấy bóng dáng người tù. Người tù đã vượt ngục trở thành nhà thơ. Đó là cuộc
vượt ngục bằng tinh thần. Câu thơ cho ta thấy sức mạnh tinh thần kì diệu, tình yêu
thiên nhiên mãnh liệt và phong thái ung dung vượt hẳn lên hiện thực tàn bạo của nhà
tù. Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người chiến sĩ cộng sản đã tạo nên
cuộc vượt ngục kì thú. Sự hòa quện giữa chất thép và chất tình cùng với nghệ thuật đối
ý, nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
ÔN TẬP CUỐI HỌC KÌ II
Câu 1
Chép lại nguyên văn bài thơ “ Đi đường” của Hồ Chí Minh (phần dịch thơ).
Nêu khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Câu 2
Xác định kiểu câu trong đoạn văn sau:
“ Vẻ nghi ngại hiện ra sắc mặt, con bé hóm hỉnh hỏi mẹ một cách thiết tha: (1)
- Sáng ngày người ta đấm u có đau lắm không ? ( 2)
Chị Dậu gạt nước mắt: ( 3)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 170 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
- Không đau con ạ ! ( 4)”
(Ngô Tất Tố- Tắt đèn)
Câu 3: Xác định câu cảm thán và chức năng của câu cảm thán trong những đoạn trích
sau:
a. Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi !
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
b. Than ôi ! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời ! Thế đê không sao
cự lại được với thế nước ! Lo thay ! Nguy thay ! Khúc đê này hỏng
mất.
(Phạm Duy Tốn, Sống chết mặc bay)
Câu 4
Cho câu thơ: “ Khi con tu hú gọi bầy”
1. Chép chính xác 5 câu thơ tiếp theo để hoàn chỉnh khổ thơ?
2. Bằng hiểu biết của mình, em hãy viết một đoạn văn từ (6-8 câu) giới thiệu về
tác giả của đoạn thơ vừa chép
3. Hãy giải thích ý nghĩa nhan đề của văn bản có đoạn thơ trên.
Câu 5
Cho đoạn văn:
“ Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Đạo là
lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điểu ấy. Nước Đại Việt ta, từ khi
lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình
thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường,
thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan, đều do những điều tệ hại ấy”
1. Hãy xác định hành động nói, cách thức thực hiện hành động nói của câu: “Ngọc
không mài, không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. (1đ)
2. Hãy cho biết đoạn văn trên trình bày luận điểm gì? Từ luận điểm này, em hãy
viết một đoạn văn từ 10 đến 12 câu để trình bày ý kiến của mình về mục đích
học tập của học sinh hiện nay. Trong đoạn văn sử dụng một câu cầu khiến và
nêu rõ cách trình bày nội dung đoạn văn. (5đ)
Câu 6
Có nhận xét cho rằng: "Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là áng văn tràn đầy
lòng tự hào dân tộc". Qua văn bản đã học, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
TUẦN 37
ÔN TẬP PHẦN VĂN CUỐI HỌC KÌ
4/ Văn bản Chiếu dời đô được sáng tác năm nào? Nội dung chính của tác phẩm đó?
5/ Chép chính xác đoạn văn thể hiện lòng yêu nước và căm thù giặc của Trần Quốc
Tuấn? Hoàn cảnh sáng tác của văn bản Hịch tướng sĩ?
6/ Phân tích tư tưởng nhân nghĩa Nguyễn Trãi trong hai câu đầu của văn bản:
Nước Đại Việt ta.
II/ TRẢ LỜI CÂU HỎI
1
b) Nhớ rừng rút từ tập “Mấy vần thơ”(1935)
-Bài thơ là lời của con hổ bị nhốt trong vườn bách thú có tâm trạng u uất, chán ghét
cuộc sống thực tại khát khao tự do mãnh liệt.
- Tác giả đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú để thể hiện sâu sắc tâm sự u uất
của thế hệ thanh niên lúc bấy giờ và cũng là tâm sự chung của người dân Việt Nam
trong cảnh nước mất nhà tan khi đó
- Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
- Con hổ từ chỗ là chúa tể của muôn loài, là oai linh nơi rừng thẳm nay nó bị nhốt
trong cũi sắt làm trò lạ mắt thứ đồ chơi nên nó vô cùng cay đắng căm uất.
- Căm hờn là một từ để chỉ tâm trạng nó vô hình vô tướng, không thể nhìn thấy .Như
Tản Đà đã từng viết:
“ Sầu không có mối chém sao cho đứt; Sầu không có khối đập sao cho tan”.
Nhưng nỗi cay đắng căm hờn chứa chất lâu trong lòng con hổ đã trở thành hình thành
khối có nghĩa là rất nhiều.
- Động từ “ gậm ” càng cụ thể hoá tâm trạng của con hổ. Gậm không chỉ là (gặm) mà
còn là ngậm (ngậm đắng nuốt cay)
=> Con hổ đang nghiền ngẫm thấm thía sự đau khổ cay đắng của thân phận tù
hãm và nung nấu hờn căm, uất hận trong tư thế bất lực.
- Lí do: sa cơ, tù hãm, thứ đồ chơi, ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi.
- Khinh lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ, khinh miệt bọn thú dở hơi, bọn báo vô tư lự.
=> Tâm trạng uất hận, căm hờn, ngao ngán như không có cách gì thoát ra được
nên đành buông xuôi bất lực.
3.c) Sáu câu thơ đầu của bài thơ Khi con tu hú là bức tranh mùa hè tươi đẹp tràn
trề nhựa sống. Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức gọi trong lòng người tù khu cảnh
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 174 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
mùa hè tràn ngập âm thanh, rực rỡ sắc màu,và ngọt ngào hương vị. Người chiến sĩ
như nhìn thấy “lúa chiêm đang chín”, nếm được vị ngọt của trái cây, nghe được
“tiếng ve ngân” trong vườn râm mát. Cuộc sống bên ngoài trong tưởng tượng của
người tù luôn ở trạng thái căng tràn nhựa sống: đang chín, ngọt dần, dậy tiếng, đầy
sân, càng rộng, càng cao. Chỉ từ một âm thanh người tù đã hình dung ra cả một bức
tranh mùa hè tràn trề nhựa sống ở mọi tầng bậc: cao thấp, xa gần của không gian: có
màu vàng của lúa chiêm, màu vàng của hạt bắp, màu hồng của nắng đào, màu xanh
của trời cao. Sinh động nhất là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Hình
ảnh đó là biểu hiện cao độ của lòng khát khao tự do đến cháy bỏng của tác giả. Đôi
con diều sáo đang thỏa sức “lộn nhào” giữa bầu trời xanh cao rộng hay chính tác giả
đang vượt qua song sắt nhà tù bay lượn giữa bầu trời tự do? Trong bốn bức tường của
phòng giam chật chội chỉ qua một âm thanh nghe được người tù như nhìn thấy, ngửi
thấy, nếm thấy và cảm thấy được bằng da thịt tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sống
bên ngoài. Đoạn thơ cho ta cảm nhận được tình yêu cuộc, niềm khát khao tự do
cháy bỏng và trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ.
5/ Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã bộc bạch lòng yêu nước và căm thù giặc của
mình qua đoạn văn: “Ta thường tới bữa quên ăn....vui lòng”. Đây là đoạn văn đặc biệt
xúc động. Muốn khơi dậy lòng căm thù giặc và tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ thái độ của chính mình.
- Tác giả đã dùng cách nói khoa trương với những câu văn biền ngẫu, các vế có 4 từ
liên tiếp: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa nhằm
nhấn mạnh nỗi đau đớn, day dứt, trăn trở cao độ ám ảnh trong mọi lúc từ bữa ăn, giấc
ngủ cả ngày lẫn đêm. Nỗi đau xót lớn lao trong lòng được biểu hiện ra thành dòng
nước mắt đầm đìa. Còn lòng căm thù giặc và ý chí tiêu diệt giặc được thể hiện mạnh
mẽ qua các hình ảnh: xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Còn câu văn: “Dẫu
cho trăm ....vui lòng” khẳng định tinh thần xả thân vì nước, sẵn sàng chết trăm lần
miễn là tiêu diệt được quân giặc.
- Đây không phải là những lời nói suông mà là những lời nói từ trái tim của một vị
tướng coi lợi ích quốc gia là lợi ích tối cao.
6/ Trong hai câu đầu tác giả nêu lên tư tưởng nhân nghĩa. Cốt lõi của tư tưởng nhân
nghĩa ấy là yên dân và trừ bạo. Yên dân là làm cho dân được an hưởng thái bình, hạnh
phúc. Đó là mục đích lớn nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cũng chính là tư
tưởng lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Muốn yên dân thì phải trừ bạo, đánh kẻ có
tội. Mà đặt trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì bạo ở đây chính là giặc Minh xâm
lược. Như vậy tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng yêu nước,
chống giặc ngoại xâm. Đây là nội dung mới trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi: nó được mở rộng ra, không chỉ còn là quan hệ giữa người với người mà là quan
hệ giữa quốc gia với quốc gia, dân tộc với dân tộc.
ĐỀ SỐ 2
PHẦN I: (4đ)
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
“ Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm của trời
đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng
nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải
chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp
đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất
nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”
1. Đoạn văn trên viết bằng thể loại nào? Nêu đặc điểm của thể loại đó?
2. Nêu nội dung của đoạn văn trên?
3. Câu: “Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh
đô bậc nhất của đế vương muôn đời” thuộc kiểu câu gì? Thực hiện hành động
nói nào?
4. Viết đoạn văn từ 5-7 câu làm sáng tỏ luận điểm: “ Đại La là thắng địa xứng là
kinh đô của đế vương muôn đời”
PHẦN II (6đ)
Cho câu thơ: “ Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ”
1. Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn chỉnh đoạn thơ?
2. Đoạn thơ vừa chép nằm trong văn bản nào? Tác giả là ai? Nêu hiểu biết của em
về tác giả và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ đó ?
3. Viết một đoạn văn quy nạp ( khoảng 15 câu), trình bày cảm nhận của em về
đoạn thơ trên. Trong đoạn văn có sử dụng một câu cảm thán-gạch chân câu văn
đó.
ĐỀ SỐ 3
Câu 1: (3,0 điểm)
Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 178 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”
(Trích “Nhớ rừng”, Thế Lữ)
Câu 2:(2 điểm): Trong những đoạn trích sau, câu nào là câu cầu khiến?
a) Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
(Tô Hoài, "Dế mèn phiêu lưu kí")
b) Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:
- Các em đừng khóc. Trưa nay các em vẫn được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được
nghỉ cả ngày nữa. (Thanh Tịnh, "Tôi đi học")
Câu 3: Từ bài “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, hãy nêu suy
nghĩ về mối quan hệ giữa “học” và “hành”.
Phần II.
Câu 1.
Chép đầy đủ hoàn thiện đoạn trích ( 1đ)
Đoạn trích “ Nước Đại Việt ta” được trích trong tác phẩm “ Bình Ngô đại cáo”
của tác giả Nguyễn Trãi( 0,5)
Bình Ngô đại cáo được sáng tác năm 1428 sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm
tan rã 15 vạn quân Minh xâm lược ( 0,5đ)
VB được viết theo thể văn nghị luận cổ: cáo( là thể văn nghị luận cổ thường
được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết
quả một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn
biền ngẫu( 1đ)
Câu 2: 4 đ
a. Yêu cầu chung
- Cần vận dụng kiến thức về văn học, tập làm văn để so sánh sự tiếp nối của ý
thức dân tộc từ bài “Sông núi nước Nam” đến “Nước Đại Việt ta”.
b. Yêu cầu cụ thể
- Nêu vấn đề nghị luận ( 0,5đ)
- 2 văn bản đều thể hiện chung một khát vọng, độc lập tự do của đất nước.
Đó là những lời khẳng định đanh thép dõng dạc về chủ quyền dân tộc vì vậy mà
hai văn bản trên mới được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất và thứ hai của
dân tộc.(0,5đ)
- Mặc dù đều có chung một tư tưởng thế nhưng ý thức dân tộc, quan niệm về
quốc gia của mỗi tác giả lại không hoàn toàn giống nhau. (2đ)
+ Văn bản “Nam quốc sơn hà” ra đời ở thế kỷ XI trong cuộc kháng chiến chống
quân Tống. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền qua hai yếu tố là: Chủ quyền và lãnh thổ
+ Văn bản “Nước Đại Việt ta” ngoài hai yếu tố trên còn bổ sung thêm các yếu
tố: Văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử, anh hùng hào kiệt. Đó là một quan niệm đầy
đủ, hoàn chỉnh về quốc gia dân tộc (Chú ý hai yếu tố cốt lõi lịch sử văn hiến).
- Khẳng định tư tưởng về dân tộc đã có sự tiếp nối và phát triển. ( 0,5đ)
- Có sự liên hệ về tiếp nối trong giai đoạn hiện nay( 0,5đ)
ĐỀ SỐ 3
CÂU 1
- Học sinh cảm nhận được hình ảnh con hổ trong đoạn trích hiện lên thật oai phong
lẫm liệt …
Tuần 37
ÔN TẬP BIỆN PHÁP TU TỪ SO SÁNH, NHÂN HÓA
I/ NỘI DUNG
1/ So sánh( khái niệm, phân loại)
- So sánh: là đối chiếu sự vật này với sự vật khác có nét tương đồng làm tăng sức
gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Cấu tạo của phép so sánh: sự vật được so sánh – phương diện so sánh – từ so
sánh – sự vật dùng để so sánh.
- Có 2 kiểu so sánh, so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng
2/ Nhân hóa( khái niệm, phân loại)
Nhân hóa: là gọi tả vật bằng những từ vốn dùng để gọi tả người làm cho thế giới loài
vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được suy nghĩ tình cảm của con người.
- Có 3 kiểu nhân hóa: dùng từ vốn gọi người để gọi vật; dùng từ vốn chỉ hoạt động,
tính chất của người để chỉ hoạt động tính chất của vật; trò chuyện xưng hô với vật như
với con người.
Bài tập 3
Cho đoạn văn sau:
“ Mặt trời nhú lên dần dần rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một
quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Qủa trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt trên
một cái mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả cái chân trời màu ngọc trai nước
biển hửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người dân chài lưới trên muôn thủa biển Đông.”
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 182 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
1. Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào của ai?
2. Đoạn văn trên được viết theo phương pháp biểu đạt chính nào?
3. Câu văn: “Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự
trường thọ của tất cả những người dân chài trên muôn thủa biển đông” thuộc kiểu
câu gì? Tác dụng của kiểu câu đó?
3. Trong đoạn văn trên tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? Nêu tác
dụng của những biện pháp nghệ thuật đó.
4/Tìm các sự vật được nhân hóa và các từ ngữ có tác dụng nhân hóa trong bài thơ sau:
a) Góc sân cây phượng phất cờ
Cây chuối gõ trống reo hò say sưa
Thương sao đọt bí măng tơ
Tay run chới với trong mưa tìm giàn.
( Cao Xuân Sơn)
b) Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được?
( Sóng, Xuân Quỳnh)
5/ Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong các đoạn thơ sau:
a) Tôi đưa tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ.
( Nhớ con sông quê hương – Tế Hanh)
b) Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
c) Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm…
( Tre Việt Nam, Nguyễn Duy)
d) “ Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng
đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để
bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”
g) Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách cười
Cây dừa
Sải tay bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Mưa!
Mưa!
Ù ù như say lúa
( Mưa – Trần Đăng Khoa)
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 187 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
( Lượm – Tố Hữu)
III/ GỢI Ý TRẢ LỜI
1/ Ẩn dụ : là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác dựa trên
một nét tương đồng, làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho lời văn.
- Có 4 kiểu ẩn dụ : ẩn dụ hình thức, cách thức, phẩm chất, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
Ví dụ:
- Về thăm nhà Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.
- Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm.
2/ Hoán dụ: là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác dựa trên
quan hệ gần gũi làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho lời văn.
- Có 4 kiểu hoán dụ thường gặp
- Lấy cái bộ phận để gọi cho cái toàn thể
VD: Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già…
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Con mắt : bộ phận cơ thể biểu thị cái nhìn của một người. Từ Hải khen Kiều thông
minh, sắc sảo, tâm đầu ý hợp.
- Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người HCM
- Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật
VD: Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng
VD: Ờ đã chín năm rồi đấy nhỉ!
Kháng chiến ba nghìn ngày không nghỉ
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân.
( Tố Hữu)
- Chín năm, ba nghìn ngày nói lên tính chất trường kì của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Bắp chân đầu gối vẫn săn gân cía cụ thể để biểu thị tinh thần kháng
chiến vô cùng dẻo dai, kiên cường của quân và dân ta( cái trừu tượng)
3. Điệp ngữ: là cách lặp đi lặp lại một từ, một ngữ, một câu nào đó để làm nổi bật ý
hoặc gây cảm xúc mạnh.
Ví dụ: Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.(Viễn Phương)
- Có ba loại điệp ngữ: điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ vòng tròn.
4. Chơi chữ: là cách vẫn dụng khéo léo những đặc sắc về âm, về nghĩa của từ để tạo ra
sắc thái dí dỏm, hài hước làm cho câu văn hấp dẫn, thú vị
- Các lối chơi chữ thường gặp: dùng từ đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, dùng cách nói
trại âm, điệp âm.
Ví dụ: Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ
Ì ầm sấm dậy đất Xuân Lôi( Câu đối)
GV: Nguyễn Thị Nguyệt 188 Trường THCS Tam Hưng
Ôn tập Ngữ văn 8
Ngày xuân em đi chợ Hạ
Mua cá thu về, chợ hãy còn đông( dùng từ cùng trường từ vựng)
Bài tập 1
Cho đoạn thơ sau:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
(Tiếng gà trưa, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 7, tập 1)
a. Chỉ ra và nêu đặc điểm của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ.
b. Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về hiệu quả nghệ thuật của các phép
tu từ đó trong việc thể hiện nội dung.
Bài tập 2
Tìm và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong đoạn thơ sau:
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ( Xuân Quỳnh)
Bài tập 3
Tìm và phân tích tác dụng của phép điệp ngữ trong đoạn thơ sau:
Bài tập 5
Cho hai đoạn văn sau:
“Tôi yêu Sài Gòn da diết…Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào vào
buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời
tiết trái chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt như thủy tinh. Tôi yêu
cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường nào động, dập dìu xe cộ vào
những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí
mát dịu, thanh sạch trêm một số đường còn nhiều cây xanh che chở…”
a) Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào của ai?
b) Đoạn văn trên viết theo phương thức biểu đạt chính nào?
c) Đoạn văn đã sử dụng biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó
trong việc biểu đạt nội dụng đoạn văn.
Bài tập 6
Trình bầy cảm nhận của em về đoạn văn sau:
“ Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của
mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương
nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai
cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người
mê luyến mùa xuân.”
(Mùa xuân của tôi- Vũ Bằng- Ngữ văn 7, tập 1)
Bài tập 1
a. - Điệp ngữ: vì . Đặc điểm: điệp ngữ cách quãng.
- Liệt kê: Tổ quốc; xóm làng; bà; tiếng gà; Ổ trứng hồng. Đặc điểm: trình bày từ
khái quát đến cụ thể.
b. Viết đoạn văn cảm nhận:
Đoạn thơ trên là những dòng suy nghĩ của người chiến sĩ về mục đích của cuộc
chiến đấu. Điệp từ “vì” kết hợp với phép liệt kê càng nhấn mạnh mục đích của cuộc
chiến đấu hết sức cao cả mà cũng rất đỗi bình thường. Cháu chiến đấu để bảo vệ quê
hương đất nước, bảo vệ xóm làng thân thuộc, bảo vệ người bà thân yêu và để giữ gìn
những kỉ niệm đẹp đẽ của chính bản thân mình. Và như thế tình cảm gia đình đã lớn
dần lên thành tình yêu tổ quốc: “Lòng yêu nhà, yêu làng xón, yêu miền quê trở nên
lòng yêu tổ quốc”. Tiếng gà trưa đã gọi về những kỉ niệm của tuổi thơ thơ mộng và
tình bà cháu đậm đà thắm thiết. Những tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc
thêm tình nước và nhắc nhở chúng ta tinh thần trách nhiệm đối với đất nước.
Bài tập 2
Bài tập 6
Mùa xuân của tôi là phần đầu bài tuỳ bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong
kiệt tác văn chương Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng.
Đoạn văn mở đầu bằng câu khẳng định: “ Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa
xuân.”
Bằng nghệ thuật liệt kê, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu tác giả khẳng
định: Tình cảm yêu mến mùa xuân là tình cảm rất tự nhiên của con người, là quy luật
tất yếu.
- Diễn tả một cách sâu sắc cảm xúc của nhà văn trước một quy luật rất đỗi tự
nhiên trong tình cảm của con người: yêu mùa xuân, yêu tháng giêng…Từ đó tác động
mạnh mẽ đến cảm xúc người nghe, người đọc... Ai cũng chuộng mùa xuân và mê luyến
mùa xuân nên càng trìu mến tháng giêng, tháng đầu của mùa xuân.
- Một cách viết duyên dáng, mượt mà, làm cho lời văn mềm mại, tha thiết theo
dòng cảm xúc, đọc lên ta cứ ngỡ là thơ. Cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ đừng,
đừng thương, ai bảo được…ai cấm được…ai cấm được…ai cấm được…Chữ thương
được nhắc lại tới 4 lần, liên kết với chữ yêu, chữ nhớ đầy ấn tượng và rung động.
- Thể hiện rõ tình cảm, tấm lòng của tác giả Vũ Bằng đối với mùa xuân, với
quê hương, đất nước.