Professional Documents
Culture Documents
hải quan
hải quan
Ví dụ: Ở Chương 31, các chú giải nêu rằng các nhóm nhất định chỉ liên
quan đến những hàng hóa nhất định. Vì vậy, những nhóm hàng đó không
được mở rộng cho những mặt hàng khác bằng việc áp dụng Qui tắc 2 (b).
Quy tắc2:
a) Một mặt hàng được phân loại vào một nhóm hàng thì mặt hàng đó
ở dạng chưa hoàn chỉnh hoặc chưa hoàn thiện cũng thuộc nhóm đó, nếu
đã có đặc tính cơ bản của hàng hóa đó khi đã hoàn chỉnh hoặc hoàn thiện.
Cũng phân loại như vậy đối với hàng hóa ở dạng hoàn chỉnh hay hoàn
thiện hoặc đã có đặc tính cơ bản của hàng hóa ở dạng hoàn chỉnh hay
hoàn thiện (hoặc được phân loại vào dạng hàng hóa đã hoàn chỉnh hay
hoàn thiện theo nội dung Quy tắc này), nhưng chưa lắp ráp hoặc tháo rời.
b) Một nguyên liệu, một chất được phân loại trong một nhóm nào đó
thì hỗn hợp hay hợp chất của nguyên liệu hoặc chất đó với những nguyên
liệu hoặc chất khác cũng thuộc nhóm đó. Hàng hóa làm toàn bộ bằng một
loại nguyên liệu hay một chất, hoặc làm một phần bằng nguyên liệu hay
chất đó được phân loại trong cùng nhóm. Việc phân loại những hàng hóa
làm bằng hai loại nguyên liệu hay hai chất trở lên phải tuân theo Quy tắc
3.
Qui tắc 3:
Khi áp dụng Quy tắc 2(b) hoặc vì bất cứ một lý do nào khác, hàng
hóa thoạt nhìn có thể phân loại vào hai hay nhiều nhóm, thì sẽ phân loại
như sau:
Các ví dụ:
Ví dụ 1: Mặt hàng thảm dệt móc và dệt kim được sử dụng trong xe
ôtô, tấm thảm này có thể được phân loại như phụ tùng của xe ô tô thuộc
Nhóm 87.08, nhưng trong Nhóm 57.03 chúng lại được mô tả một cách
đặc trưng như những tấm thảm. Do vậy, mặt hàng này được phân loại vào
Nhóm 57.03.
Ví dụ 2: Mặt hàng kính an toàn chưa có khung, làm bằng thủy tinh dai
bền và cán mỏng, đã tạo hình và được sử dụng trên máy bay, không được
phân loại vào Nhóm 88.03 như những bộ phận của hàng hóa thuộc Nhóm
88.01 hoặc 88.02 nhưng lại được phân loại trong Nhóm 70.07 – nơi hàng
hóa được mô tả đặc trưng như loại hàng kính an toàn.
(V) Tuy nhiên, khi hai hay nhiều nhóm mà mỗi nhóm chỉ liên quan
đến một phần những nguyên liệu hoặc chất cấu thành sản phẩm hỗn hợp
hoặc hợp chất, hoặc chỉ liên quan đến một phần trong bộ đóng gói để bán
lẻ, thì những nhóm đó được coi là cùng phản ánh tương đương đặc trưng
của những hàng hóa trên, ngay cả khi một trong số các nhóm ấy có mô tả
chính xác hoặc đầy đủ hơn về những hàng hóa đó. Trong trường hợp này,
phân loại hàng hóa áp dụng Quy tắc 3(b) hoặc 3(c).
Ví dụ: Mặt hàng băng tải có một mặt là plastic còn mặt kia là cao su;
có thể xếp vào hai nhóm:
Nhóm 39.26: “Các sản phẩm khác bằng plastic…”
Nhóm 40.10: “Băng chuyền hoặc băng tải…., bằng cao su lưu hóa”
Nếu so sánh hai mô tả này, Nhóm 40.10 thể hiện tính đặc thù hơn
Nhóm 39.26, vì Nhóm 40.10 có từ “băng tải” trong Nhóm 39.26 lại
không ghi rõ từ “băng tải”, và như vậy có thể xem xét phân loại sản phẩm
trên vào Nhóm 40.10 theo Quy tắc 3(a). Nhưng trong trường hợp này,
không thể quyết định phân loại vào Nhóm 40.10 theo Quy tắc 3(a), vì mô
tả của Nhóm 40.10 là sản phẩm bằng cao su, chỉ liên quan đến một phần
sản phẩm băng tải nói trên. Như vậy, theo Quy tắc 3(a) hai Nhóm 39.26
và 40.10 mang tính đặc trưng như nhau, mặc dù Nhóm 40.10 có mô tả
đầy đủ hơn. Do đó, chúng ta không thể quyết định phân loại vào nhóm
nào được, mà chúng ta phải áp dụng Quy tắc 3(b) hoặc 3(c) để phân loại.
Các ví dụ về bộ hàng có thể được phân loại theo Qui tắc 3(b) như sau:
Ví dụ 1:
a) Bộ thực phẩm bao gồm bánh xăng đuých làm bằng thịt bò, có và
không có pho mát (Nhóm 16.02), được đóng gói với khoai tây chiên
(Nhóm 20.04): được phân vào Nhóm 02.
b) Bộ thực phẩm dùng để nấu món Spaghetti (mỳ) gồm một hộp mỳ
sống, một gói Pho mát béo và một gói nhỏ sốt cà chua, đựng trong một
hộp các- tông.
Spaghetti sống thuộc Nhóm 19.02
Pho mát béo thuộc Nhóm 04.06
Nước sốt cà chua thuộc Nhóm 21.03
Trong trường hợp này Spaghetti sống đem lại cho sản phẩm đặc tính
cơ bản. Do đó, sản phẩm được phân loại như thể chỉ bao gồm Spaghetti
sống thuộc Nhóm 19.02.
Tuy nhiên Quy tắc này không bao gồm bộ hàng gồm nhiều sản phẩm
được đóng cùng nhau, ví dụ:
– Một thùng đồ hộp gồm: 01 hộp tôm (Nhóm 16.05), 01 hộp patê gan
(Nhóm 16.02), 01 hộp pho mát (Nhóm 04.06), 01 hộp thịt xông khói
(Nhóm 16.02) và 01 hộp xúc xích cocktail (Nhóm 16.01); hoặc
– Một hộp gồm: 01 chai rượu mạnh (Nhóm 22.08) và 01 chai rượu
vang (Nhóm 22.04).
Trường hợp 2 ví dụ nêu trên và các bộ hàng hóa tương tự, mỗi mặt
hàng sẽ được phân loại riêng biệt vào nhóm phù hợp với chính mặt hàng
đó.
Ví dụ 2: Bộ đồ làm đầu gồm: một tông đơ điện, một cái lược, một cái
kéo, một bàn chải, một khăn mặt, đựng trong một cái túi bằng da.
Tông đơ điện thuộc Nhóm 85.10
Lược thuộc Nhóm 96.15
Kéo thuộc Nhóm 82.13
Bàn chải thuộc Nhóm 96.03
Khăn mặt thuộc Nhóm 63.02
Túi bằng da thuộc Nhóm 42.02
Trong ví dụ này, tông đơ điện đem lại cho sản phẩm đặc tính cơ bản
của bộ đồ làm đầu. Do vậy, sản phẩm được phân loại vào Nhóm 85.10.
Ví dụ 3: Bộ dụng cụ vẽ gồm: một thước, một vòng tính, một compa,
một bút chì và cái vót bút chì, đựng trong túi nhựa.
Thước thuộc Nhóm 90.17
Vòng tính thuộc Nhóm 90.17
Compa thuộc Nhóm 90.17
Bút chì thuộc Nhóm 96.09
Vót bút chì thuộc Nhóm 82.14
Túi nhựa thuộc Nhóm 42.02.
Trong bộ sản phẩm trên, thước, vòng, compa tạo nên đặc tính cơ bản
của bộ dụng cụ vẽ. Do vậy, bộ dụng cụ vẽ được phân loại vào Nhóm
90.17.
Đối với các sản phẩm không thỏa mãn các điều kiện qui định tại Phần
X của chú giải Qui tắc 3(b), không được coi như đóng bộ để bán lẻ thì
mỗi mặt hàng của sản phẩm sẽ được phân loại riêng biệt, vào nhóm phù
hợp nhất với nó.
(XI) Quy tắc này không được áp dụng cho những hàng hóa bao gồm
những thành phẩm được đóng gói riêng biệt và có hoặc không được xếp
cùng với nhau trong một bao chung với một tỷ lệ cố định cho sản xuất
công nghiệp, ví dụ như sản xuất đồ uống.
a) Bao đựng máy ảnh, máy quay phim, hộp đựng nhạc cụ, bao súng, hộp
đựng dụng cụ vẽ, hộp tư trang và các loại bao hộp tương tự, thích hợp
hoặc có hình dạng đặc biệt để chứa hàng hóa hoặc bộ hàng hóa xác định,
có thể dùng trong thời gian dài và đi kèm với sản phẩm khi bán, được
phân loại cùng với những sản phẩm này. Tuy nhiên, nguyên tắc này
không được áp dụng đối với bao bì mang tính chất cơ bản nổi trội hơn so
với hàng hóa mà nó chứa đựng.
b) Ngoài Qui tắc 5(a) nêu trên, bao bì đựng hàng hóa được phân loại cùng
với hàng hóa đó khi bao bì là loại thường được dùng cho loại hàng hóa
đó. Tuy nhiên, nguyên tắc này không áp dụng đối với các loại bao bì mà
rõ ràng là phù hợp để dùng lặp lại.
1. Thích hợp riêng hoặc có hình dạng đặc biệt để đựng một loại hàng
hoặc bộ hàng xác định, tức là bao bì được thiết kế đặc thù để chứa các
hàng hóa đó, một số loại bao bì có thể có hình dáng của hàng hóa mà
nó chứa đựng;
2. Có thể sử dụng lâu dài, tức là chúng được thiết kế để có độ bền dùng
cùng với hàng hóa ở trong. Những bao bì này cũng để bảo quản hàng
hóa khi chưa sử dụng (ví dụ: trong quá trình vận chuyển hoặc lưu
trữ). Đặc tính này cho phép phân biệt chúng với những loại bao bì
đơn giản;
3. Được trình bày với hàng hóa chứa đựng trong chúng, các hàng hóa
này có thể được đóng gói riêng hoặc không để thuận tiện cho việc vận
chuyển. Trường hợp bao bì được trình bày riêng lẻ được phân loại
theo nhóm thích hợp với chúng.
4. Là loại bao bì thường được bán với hàng hóa chứa đựng trong nó; và
5. Không mang tính chất cơ bản của bộ hàng
(II) Những ví dụ về bao bì đi kèm với hàng hóa và áp dụng Qui tắc
này để phân loại:
-Hộp trang sức (Nhóm 71.13);
-Bao đựng máy cạo râu bằng điện (Nhóm 85.10);
-Bao ống nhòm, hộp kính viễn vọng (Nhóm 90.05);
-Hộp, bao và túi đựng nhạc cụ (Nhóm 92.02);
-Bao súng (Nhóm 93.03).
(III) Những ví dụ về bao bì không áp dụng Quy tắc này, có thể kể
như: hộp đựng chè bằng bạc hoặc cốc gốm trang trí đựng đồ ngọt.
Quy tắc 6:
Để đảm bảo tính pháp lý, việc phân loại hàng hóa vào các phân nhóm
của một nhóm phải được xác định phù hợp theo nội dung của từng phân
nhóm, các chú giải phân nhóm có liên quan, và các qui tắc trên với những
sửa đổi về chi tiết cho thích hợp, trong điều kiện là chỉ có những phân
nhóm cùng cấp độ mới so sánh được. Theo Quy tắc này thì các chú giải
phần và chương có liên quan cũng được áp dụng, trừ khi nội dung mô tả
trong phân nhóm có những yêu cầu khác.
1.Các bên ký kết thừa nhận hiệu lực của các nguyên tắc chung về xác
định trị giá tính thuế quan nêu tại các khoản tiếp theo của Điều này và
cam kết thực thi các nguyên tắc đó với mọi sản phẩm phải chịu thuế quan
và phụ thu* hoặc chịu các hạn chế về nhập khẩu và xuất khẩu căn cứ vào
hoặc điều chỉnh theo trị giá bằng bất cứ cách nào. Ngoài ra, ngay khi một
bên ký kết khác có yêu cầu, các bên sẽ xem xét lại việc vận dụng bất cứ
luật hay quy chế nào liên quan tới trị giá tính thuế quan căn cứ vào các
nguyên tắc nêu ở đây. Các Bên Ký Kết có thể yêu cầu (những) bên ký kết
có báo cáo về các bước đi đã được áp dụng theo quy định của điều khoản
này.
2.(a)Trị giá tính thuế quan với hàng nhập phải dựa vào giá trị thực của
hàng nhập khẩu làm cơ sở tính thuế quan, hoặc trị giá thực của hàng
tương tự, không được phép căn cứ vào trị giá của hàng có xuất xứ nội
hay trị giá mang tính áp đặt hoặc được đưa ra một cách vô căn cứ.
(b) "Giá trị thực" sẽ là giá cả hàng hoá đó hay hàng hoá tương tự được
bán hay chào bán vào một thời điểm và tại một địa điểm được xác định
theo luật pháp nước nhập khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ. Trong chừng mực hàng hoá đó
hay hàng tương tự bị chi phối bởi số lượng gắn liền với một dịch vụ nhất
định, giá cả đưa ra xem xét sẽ được căn cứ vào những điều kiện như vậy
với (i) số lượng so sánh được hoặc các số lượng xác định không kém
phần thuận lợi cho nhà nhập khẩu tính theo giá lô hàng nhập khẩu lớn
nhất trong quan hệ thương mại giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
(c)Khi trị giá thực không xác định được theo quy định tại điểm (b) của
khoản này, trị giá dùng để tính thuế quan sẽ là trị giá gần nhất tương
đương với trị giá nói trên.*
3.Trị giá để tính thuế quan của bất cứ sản phẩm nhập khẩu nào sẽ không
bao gồm bất cứ khoản thuế nội địa nào, đã được nước xuất xứ hoặc xuất
khẩu đã cho hoặc sẽ cho hàng đó được miễn thuế hay hoàn thuế.
4.(a) Trừ khi có quy định khác trong khoản này, để một bên ký kết vận
dụng các quy định của khoản 2 của Điều này vào việc quy đổi giá hàng
tính bằng đồng tiền của một nước khác sang nội tệ, tỷ giá quy đổi sẽ dựa
trên trị giá tương ứng tuân thủ quy định tại Các Điều khoản Thoả thuận
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc theo tỷ giá quy đổi được Quỹ công nhận,
hoặc theo trị giá tương ứng xác định phù hợp với một thoả thuận ngoại
hối đặc biệt tuân thủ theo Điều XV của Hiệp định này.
(b) Khi không có chuẩn mực về trị giá tương ứng, hay tỷ giá được thừa
nhận đó, tỷ giá quy đổi sẽ phản ảnh đúng giá trị giao dịch thương mại
của đồng tiền hiện thời.
(c) Các Bên Ký Kết, cùng thoả thuận với Quỹ tiền tệ Quốc tế, sẽ xây
dựng quy tắc điều chỉnh việc các bên ký kết áp dụng cơ chế nhiều tỷ giá
quy đổi tiền tệ cho phù hợp với nội dung Điều khoản Thoả thuận của Quỹ
tiền tệ Quốc tế. Bất cứ bên ký kết nào cũng có quyền áp dụng các quy tắc
này trong quy đổi ngoại tệ nhằm các mục đích đã nêu tại khoản 2 của
điều khoản này thay cho trị giá tương ứng. Trong khi chờ đợi Các Bên
Ký Kết thông qua các quy tắc đó, bất cứ một bên ký kết nào cũng có thể
sử dụng các quy tắc chuyển đổi nhằm mục đích như nêu tại Điều 2 của
điều khoản này đã được xây dựng để phản ảnh đúng giá trị thương mại
của các ngoại tệ đó.
(d) Không một quy định nào trong điều khoản này được lập ra để đòi hỏi
bất kỳ một bên ký kết nào thay đổi các nguyên tắc có hiệu lực trên lãnh
thổ của mình vào ngày ký Hiệp định này, nếu sự thay đổi đó có tác dụng
nâng mức thuế trung bình đánh vào hàng nhập khẩu.
5.Cơ sở và phương pháp xác định trị giá sản phẩm chịu thuế quan hay các
khoản thu khác hoặc chịu các hạn chế dựa vào hay chịu sự điều chỉnh về
trị giá theo bất cứ cách nào sẽ phải ổn định, công bố rộng rãi đủ để
thương nhân có thể ước tính được trị giá để tính thuế với mức độ hợp lý
về tính chắc chắn.
Điều VIII
Phí và các thủ tục liên quan đến Xuất Nhập Khẩu*
1.(a) Mọi khoản phí và khoản thu khác với bất cứ tính chất nào (không
phải là thuế xuất khẩu và nhập khẩu cũng như các khoản thuế quy định
tại điều III) được các bên ký kết áp dụng nhằm vào hay liên quan tới hàng
nhập khẩu hay hàng xuất khẩu sẽ chỉ giới hạn trong chừng mực đủ bù các
chi phí cung cấp dịch vụ và không mang tính chất bảo hộ gián tiếp cho
sản phẩm nội địa hay là thuế đánh vào xuất nhập khẩu với mục đích thu
ngân sách.
(b) Các bên ký kết thừa nhận nhu cầu giảm số lượng và chủng loại các
khoản phí và khoản thu nêu tại tiểu mục (a).
(c)Các bên ký kết cũng thừa nhận nhu cầu hạn chế xuống tối thiểu các tác
động cũng như tính phức tạp của các thủ tục về xuất nhập khẩu và nhu
cầu giảm bớt và đơn giản hoá yêu cầu về chứng từ làm thủ tục xuất nhập
khẩu.*
2.Khi có yêu cầu của một bên ký kết khác hay của Các Bên Ký Kết, một
bên ký kết sẽ xem xét lại thực tế áp dụng luật pháp và quy tắc của mình
theo tinh thần của điều khoản này.
3. Không một bên ký kết nào sẽ áp dụng những khoản phạt đáng kể với
những vi phạm nhỏ về quy tắc hải quan hay các yêu cầu về thủ tục. Đặc
biệt, với các lỗi sơ suất hay lỗi về chứng từ hải quan có thể đính chính dễ
dàng và vi phạm không cố ý gian trá hay không do các sơ suất lớn sẽ
không bị phạt quá mức cần thiết để cảnh cáo.
4. Các quy định của điều khoản này sẽ được áp dụng cả với các khoản
phí, thủ tục và các yêu cầu của cơ quan chính phủ về xuất nhập khẩu, kể
cả các yêu cầu liên quan tới:
(a) dịch vụ của cơ quan lãnh sự như là cấp hoá đơn hay giấy chứng nhận
lãnh sự;
(b) hạn chế định lượng;
(c) cấp phép;
(d) kiểm soát ngoại hối;
(e) dịch vụ thống kê;
(f) lập chứng từ, cung cấp chứng từ và chứng nhận / công chứng;
(g) phân tích và giám định; và
(h) vệ sinh dịch tễ và hun trùng.
60/2019TT-BTC
“Điều 6. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu
1. Trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu được xác định theo phương
pháp này là trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu.
2. Trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế mà người mua
đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán để mua và nhập khẩu
hàng hóa sau khi đã được điều chỉnh theo quy định tại Điều 13, Điều 14
và Điều 15 Thông tư này.
3. Giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hóa nhập
khẩu là tổng số tiền mà người mua đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán,
theo hình thức thanh toán trực tiếp hoặc thanh toán gián tiếp cho người
bán để mua hàng hóa nhập khẩu, bao gồm các khoản sau đây:
a) Giá mua ghi trên hóa đơn thương mại;
b) Các khoản người mua phải thanh toán nhưng chưa tính vào giá mua
ghi trên hóa đơn thương mại, bao gồm:
b.1) Các khoản đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán (ví dụ: tiền trả
trước, tiền ứng trước cho hàng hóa, tiền đặt cọc cho việc sản xuất, mua
bán, vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa);
b.2) Các khoản thanh toán gián tiếp cho người bán.
c) Các khoản điều chỉnh cộng và các khoản điều chỉnh trừ theo quy định
tại Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Thông tư này.
4. Trị giá giao dịch được áp dụng nếu thỏa mãn đủ các điều kiện sau:
a) Người mua không bị hạn chế quyền định đoạt hoặc sử dụng hàng hóa
sau khi nhập khẩu, trừ các hạn chế dưới đây:
a.1) Hạn chế do pháp luật Việt Nam quy định như: Các quy định về việc
hàng hóa nhập khẩu phải dán nhãn mác bằng tiếng Việt, hàng hóa nhập
khẩu có điều kiện, hoặc hàng hóa nhập khẩu phải chịu một hình thức
kiểm tra trước khi được thông quan;
a.2) Hạn chế về nơi tiêu thụ hàng hóa;
a.3) Hạn chế khác không ảnh hưởng đến trị giá của hàng hóa. Những hạn
chế này là một hoặc nhiều yếu tố có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến
hàng hóa nhập khẩu, nhưng không làm tăng hoặc giảm giá thực tế đã
thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hóa đó.
Ví dụ: Người bán ô tô yêu cầu người mua ô tô không được bán hoặc
trưng bày ô tô nhập khẩu trước thời điểm giới thiệu mẫu ô tô này ra thị
trường.
b) Giá cả hoặc việc bán hàng không phụ thuộc vào những điều kiện hay
các khoản thanh toán mà vì chúng không xác định được trị giá của hàng
hóa cần xác định trị giá hải quan.
Ví dụ: Người bán định giá bán hàng hóa nhập khẩu với điều kiện là người
mua cũng sẽ mua một số lượng nhất định các hàng hóa khác nữa; Giá cả
của hàng hóa nhập khẩu phụ thuộc vào giá của hàng hóa khác mua cùng
hàng hóa nhập khẩu.
Trường hợp việc mua bán hàng hóa hay giá cả của hàng hóa phụ thuộc
vào một hay một số điều kiện, nhưng người mua có tài liệu khách quan
để xác định mức độ ảnh hưởng bằng tiền của sự phụ thuộc đó thì vẫn
được xem là đã đáp ứng điều kiện này; khi xác định trị giá hải quan phải
điều chỉnh khoản tiền do ảnh hưởng của sự phụ thuộc đó vào trị giá giao
dịch.
c) Sau khi bán lại, chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng hóa nhập khẩu, trừ
khoản phải cộng quy định tại điểm e khoản 2 Điều 13 Thông tư này,
người mua không phải thanh toán thêm bất kỳ khoản tiền nào từ số tiền
thu được do việc định đoạt hàng hóa nhập khẩu mang lại.
d) Người mua và người bán không có mối quan hệ đặc biệt hoặc nếu có
thì mối quan hệ đặc biệt đó không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch theo
quy định tại Điều 7 Thông tư này.
5. Trường hợp hàng hóa nhập khẩu là máy móc thiết bị có phần mềm điều
khiển, vận hành nhập khẩu kèm theo: trị giá hải quan là trị giá giao dịch
của máy móc thiết bị và phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu.
a) Trường hợp phần mềm điều khiển, vận hành được ghi, lưu trữ trong
phương tiện trung gian để cài đặt vào máy móc thiết bị sau khi nhập
khẩu:
a.1) Trường hợp trị giá của phần mềm điều khiển, vận hành tách riêng với
trị giá của phương tiện trung gian thì trị giá hải quan là trị giá giao dịch
của máy móc thiết bị và phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu,
không bao gồm trị giá của phương tiện trung gian. Cách xác định trị giá
của phương tiện trung gian thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều này;
a.2) Trường hợp trị giá của phần mềm điều khiển, vận hành không tách
riêng với trị giá của phương tiện trung gian thì trị giá hải quan là trị giá
giao dịch của máy móc thiết bị và phần mềm điều khiển, vận hành nhập
khẩu, bao gồm cả trị giá của phương tiện trung gian.
b) Các trường hợp không cộng trị giá phần mềm điều khiển, vận hành
nhập khẩu vào trị giá hải quan của máy móc thiết bị:
b.1) Phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu để nâng cấp, thay thế
phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu lần đầu đã được cộng vào trị
giá của máy móc thiết bị nhập khẩu;
b.2) Phần mềm điều khiển, vận hành sản xuất tại Việt Nam để cài đặt vào
máy móc thiết bị nhập khẩu.
c) Trường hợp người mua phải thanh toán chi phí về quyền sử dụng phần
mềm điều khiển, vận hành để cài đặt và vận hành máy móc thiết bị thì số
tiền thực tế thanh toán cho quyền sử dụng phần mềm điều khiển, vận
hành phải được tính vào trị giá của máy móc thiết bị nhập khẩu.
d) Thủ tục khai báo, kiểm tra:
d.1) Trường hợp phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu cùng máy
móc thiết bị:
d.1.1) Người khai hải quan xác định và khai báo trị giá hải quan của máy
móc thiết bị, bao gồm cả trị giá phần mềm điều khiển, vận hành; xác định
và khai báo trị giá hải quan của phương tiện trung gian (nếu có) trên tờ
khai hải quan nhập khẩu máy móc thiết bị hoặc tờ khai trị giá hải quan
(nếu có);
d.1.2) Cơ quan hải quan kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra theo quy định
tại Thông tư quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra giám sát hải quan;
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu.
d.2) Trường hợp phần mềm điều khiển, vận hành không nhập khẩu cùng
máy móc thiết bị:
d.2.1) Người khai hải quan thực hiện như sau:
d.2.1.1) Trường hợp phần mềm điều khiển, vận hành được nhập khẩu
trước khi nhập khẩu máy móc thiết bị, người khai hải quan khai báo, xác
định trị giá phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu theo quy định tại
điểm a khoản này, trong đó tại ô “Mô tả hàng hóa” phải khai báo phần
mềm điều khiển, vận hành dùng cho máy móc thiết bị dự kiến nhập khẩu;
tại ô “Mã số hàng hóa” phải khai báo mã số hàng hóa của máy móc thiết
bị dự kiến nhập khẩu; xác định và khai báo trị giá hải quan của phương
tiện trung gian (nếu có) trên tờ khai nhập khẩu phần mềm điều khiển, vận
hành. Khi nhập khẩu máy móc thiết bị, tại ô “Chi tiết khai trị giá” của tờ
khai nhập khẩu máy móc thiết bị, người khai hải quan phải ghi rõ số tờ
khai nhập khẩu phần mềm điều khiển, vận hành;
d.2.1.2) Trường hợp phần mềm điều khiển, vận hành được nhập khẩu sau
khi nhập khẩu máy móc thiết bị, người khai hải quan khai báo mã số, trị
giá hải quan của phần mềm điều khiển, vận hành, phương tiện trung gian
(nếu có) như quy định tại điểm d.2.1.1; tại ô “Chi tiết khai trị giá”, người
khai hải quan ghi rõ số tờ khai nhập khẩu máy móc thiết bị.
d.2.2) Cơ quan hải quan kiểm tra các chứng từ, tài liệu có liên quan đến
trị giá phần mềm điều khiển, vận hành nhập khẩu, phương tiện trung gian
(nếu có), khai báo của người khai hải quan và xử lý như sau:
d.2.2.1) Trường hợp người khai hải quan khai báo không đúng theo quy
định tại điểm d.2.1, cơ quan hải quan yêu cầu người khai hải quan khai
báo bổ sung, xử lý vi phạm theo quy định. Nếu người khai hải quan
không khai báo bổ sung trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được yêu cầu khai bổ sung, cơ quan hải quan xác định trị giá hải quan, ấn
định thuế, thu đủ số tiền thuế, tiền chậm nộp, xử lý vi phạm theo quy
định;
d.2.2.2) Trường hợp người khai hải quan khai báo và xác định trị giá theo
đúng quy định tại điểm d.2.1, cơ quan hải quan chấp nhận trị giá hải quan
do người khai hải quan tự xác định, tự kê khai.
6. Trường hợp hàng hóa nhập khẩu là phương tiện trung gian (carrier
media) chứa đựng phần mềm ứng dụng dùng cho các thiết bị xử lý dữ
liệu (software for data processing equipment), trị giá hải quan là giá thực
tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của phương tiện trung gian, không
bao gồm trị giá của phần mềm ứng dụng nếu trên hóa đơn thương mại, trị
giá của phần mềm ứng dụng được tách riêng với trị giá của phương tiện
trung gian.
7. Chứng từ, tài liệu để xác định trị giá hải quan theo phương pháp này
bao gồm (mỗi chứng từ 01 bản chụp):
a) Hợp đồng mua bán hàng hóa, hóa đơn thương mại;
b) Chứng từ, tài liệu thể hiện mối quan hệ đặc biệt không ảnh hưởng đến
trị giá giao dịch theo quy định tại điểm a.2 khoản 4 Điều 7 Thông tư này
khi cơ quan hải quan yêu cầu;
c) Chứng từ, tài liệu liên quan đến các khoản tiền người mua phải trả
nhưng chưa tính vào giá mua ghi trên hóa đơn thương mại (nếu có khoản
tiền này);
d) Chứng từ, tài liệu liên quan đến các khoản điều chỉnh cộng (nếu có
khoản điều chỉnh cộng);
đ) Chứng từ, tài liệu liên quan đến các khoản điều chỉnh trừ (nếu có
khoản điều chỉnh trừ);
e) Chứng từ, tài liệu khác liên quan đến trị giá hải quan do người khai hải
quan tự kê khai, tự xác định.”